Tố Hữu, những vần thơ khó quên

Phối cảnh toàn bộ dự án phục hồi, tôn tạo khu lưu niệm nhà thơ Tố Hữu. (Ảnh: baoxaydung.com.vn)  Phạm Minh Hoàng   Nhân vụ xây mả Tố Hữu, xin đăng lại một bài đã cũ, nhưng vẫn thời sự.   TỐ HỮU, NHỮNG VẦN THƠ KHÓ QUÊN NGÀY 9/12/2002, nhà thơ Tố Hữu qua đời. Trong vòng 2 ngày ngắn ngủi, các cơ quan thông tấn đều đăng tải tin này đồng thời có trích đăng vài tác phẩm tiêu biểu. Tuy nhiên trong "70 năm lao động thơ" với trên dưới 300 bài thơ lớn nhỏ, có nhiều bài mà rất ít người biết. Rất ít vì không được phổ biến, nhưng phải nói đúng hơn là nhà nước cũng không muốn nhắc tới và muốn cho nó đi vào quên lãng. * * * Trong ngày Tố Hữu mất, báo, đài đều cho đăng bài thơ Từ Ấy sáng tác năm 1938 như một tác phẩm tiêu biểu. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim (...) Lời thơ nhẹ nhàng, êm ái nhưng sâu sắc. Nhưng trong số trên dưới 300 bài thì thể loại và nội dung này rất hiếm. Nói về nội dung, thì chúng ta có thể chia các tác phẩm của Tố Hữu ra bốn loại : Tình cảm (hiểu là tình cảm lãng mạn), chống Pháp chống Mỹ, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, ca ngợi các lãnh tụ cộng sản mà đặc biệt là Hồ Chí Minh ; và dĩ nhiên không phải bài thơ nào cũng êm ái như Từ Ấy, và đây chính là con người Tố Hữu mà nhà nước không muốn người dân biết đến : (...) Những quân cướp ruộng cướp nhà Những quân đè cổ lột da giống nòi Bọn địa chủ cắm vòi hút máu Phải vùng lên mà đấu thẳng tay ! Thực dân địa chủ một bầy Chúng là thú vật ta đây là người. (...) (Quang vinh Tổ quốc chúng ta, 8/1955) Ðấu tố, trù dập văn nghệ sĩ đặc biệt là Nhân Văn Giai Phẩm là những cơn ác mộng của đất nước trong thập niên 50. Hơn nửa thế kỷ sau - dù bất thành văn - nhưng chế độ cộng sản cũng ngầm xác nhận đó là những sai lầm của họ. Nhưng từ "ngầm hiểu" đến xin lỗi và phục hồi danh dự cho các nạn nhân còn xa, còn nhiều chuyện phải làm, và chuyện trước tiên là giấu kỹ hoặc "quên đi" những vần thơ sắt máu trên hoặc những lời lẽ thô tục : (...) Bọn cướp Mỹ với phường đĩ Diệm Phải ngừng ta gian hiểm sát nhân Bắc - Nam ruột thịt tay chân Nước non không thể phân chia một ngày (...) (Chị là người mẹ, 9/1956) Một trong những cái gai của CS là tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo cũng được Tố Hữu liệt vào các đối tượng công kích như một loại "thuốc phiện của dân tộc". Tất cả những căm thù này được gói ghém trong bài Rôm, hoàng hôn mà hầu như không có một cuốn sách nào trích đăng vì nó có nội dung đi ngược lại đường lối "dỗ ngọt" của nhà nước đối với các tôn giáo ngày hôm nay : (...) Ðức giáo hoàng, trên khung vàng cửa sổ Sáng chúa nhật, ban phước lành cho con chiên dưới phố Ngài biết có bao nhiêu nước mắt chúng sinh Ðã đông thành những lầu cao lóng lánh thủy tinh ? Tất cả đồi nho không làm nên một cốc rượu vui Máu đổ nghìn năm, chưa được tự do một buổi Lẽ nào nhạc cầu kinh mang phép lạ cho đời ? Và lũ vua thép, vua hơi không phải một lần rửa tội ? (Rôm, hoàng hôn, 3/1972) Tuy nhiên khối lượng thơ quan trọng nhất của Tố Hữu được dành để ca tụng ông Hồ Chí Minh (HCM). Ðối với ông ta và của cả Ðảng CSVN, HCM là vĩ nhân hàng đầu của dân tộc, vượt lên trên cả các bậc tiền bối như Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung... Ta cứ xem cung cách đặt tên thành phố, tên đường hoặc so sánh ngân quỹ để duy tu các lăng tẩm, hình tượng của ông HCM với các di tích lịch sử hoặc cung cách xác định các ngày lễ thì thấy ngay. Ðối với Tố Hữu và Ðảng CSVN, giòng sử đấu tranh của người Việt chỉ bắt đầu từ khi có Bác, cũng như thế giới chỉ được khai hóa từ khi có Mác : Thuở Anh chưa ra đời Trái đất còn nức nở Nhân loại chửa thành người Ðêm ngàn năm man rợ Từ khi Anh đứng dậy Trái đất bắt đầu cười Và loài người từ đấy Ca bài ca tháng mười. (...) (Bài Ca Tháng Mười, 1950) (...) Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại Bốn ngàn năm ta lại là ta. (Xưa... Nay, 1954) (...) Còn non còn nước còn người Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui (...) (Việt Bắc, 1954) Chính vì thế, đối với Tố Hữu, chỉ có chừng 3, 4 nhân vật trên thế giới mới có đủ "cân lượng" ngang với HCM trong đó phải kể đến Stalin. Và trong "quá trình" ca tụng ông Hồ, Tố Hữu đã nhiều lần liên kết tên ông ta với các nhân vật này. Ðây chính là một trong những chi tiết mà ngày nay nhà nước Việt Nam cố tình tảng lờ không nhắc đến vì bây giờ thế giới đã biết đến Stalin như một bạo chúa ngang tầm với Hitler, Tần Thủy Hoàng. Ngày Stalin mất, Tố Hữu đã nức nở khóc và đã để lại một bài thơ "để đời". Nguyên văn bài Ðời Ðời Nhớ Ông - trong Tố Hữu tác phẩm do Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1979 như sau : Bữa trước mẹ cho con xem ảnh Ông Xta-lin bên cạnh nhi đồng Áo ông trắng giữa mây hồng Mắt ông hiền hậu miệng ông mỉm cười Trên đồng xanh mênh mông Ông đứng với em nhỏ Cổ em quàng khăn đỏ Một niềm tin Hướng tương lai hai ông cháu cùng nhìn Xta-lin ! Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng con thơ con gọi Xta-lin ! Mồm con thơm sữa xinh xinh Như con chim của hòa bình trắng trong Ðêm qua loa gọi ngoài đồng Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao ! Làng trên xóm dưới xôn xao Ngôi sao sáng nhất trời cao băng rồi ! Xta-lin ơi ! Hỡi ơi Ông mất, đất trời biết không ? Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương Ông thương mười Yêu con yêu nước yêu đời Yêu bao nghiêu lại yêu Người bấy nhiêu... Ngày xưa khô héo quạnh hiu Bây giờ mới có ít nhiều vui tươi Ngày xưa đói rách tơi bời Bây giờ mới có được nồi cơm no Ngày xưa cùm kẹp giày vò Bây giờ mới có tự do tháng ngày. Ngày mai dân có ruộng cày Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai ? Ơn này, nhớ để hai vai Một vai ơn Bác, một vai ơn Người Con còn bé dại con ơi Mai sau con nhé, trọn đời nhớ Ông ! Thương Ông, mẹ nguyện trong lòng Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con Ông dù đã khuất không còn Chân Ông còn mãi dấu son trên đường... Trên đường quê sáng tinh sương Sáng nay nghi ngút khói hương xóm làng Ngàn tay trắng những băng tang Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời. (Ðời Ðời Nhớ Ông, 5/1953) Bài thơ đã nói hết. Thiết tường không còn gì để bình luận về nội dung và tấm lòng của Tố Hữu. Có lẽ cả thế giới mới thấy chỉ có mình Tố Hữu nức nở như vậy. Tuy nhiên ở đây có hai chi tiết cần đề cập : Trước tiên, câu : "tiếng con thơ con gọi Xta-lin" ở một vài bản có chép "tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin". Có lẽ lúc làm thơ tình cảm đã lấn hết lý trí, sau này đọc lại thấy "chướng", thấy "gia nô" quá nên sửa lại thành "tiếng con thơ". Nhưng cho dù "tiếng đầu lòng" hay "tiếng con thơ" thì cũng xuất phát từ cái "miệng thơm sữa xinh xinh", cũng không thể là điều bình thường. Chi tiết thứ hai : CS miền Bắc năm 1953 đã bắt cả nước phải để tang Stalin, cũng như năm 1994 để tang Kim Nhật Thành. Ðây cũng là một biến cố độc nhất trong lịch sử 5000 năm của dân tộc : bắt cả nước để tang một người ngoại quốc và đều là những tay đồ tể thượng thặng. Ðiều này đã được Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ vạch trần trong một lá thư gởi cho Ðảng CSVN vào khoảng thời gian đó. Tôn sùng Stalin và HCM hết mực như thế nên chuyện liên kết hai nhân vật này là chuyện bình thường : (...) Bác bảo đi, là đi Bác bảo thắng, là thắng. Việt Nam có Bác Hồ Thế giới có Xta-lin Việt Nam phải tự do Thế giới phải hòa bình (...) (Sáng Tháng Năm, 5/1951) (...) Ơi người Anh dũng cảm Lũy thép sáng ngời ngời Ðây Việt Nam Tháng Tám Em Liên Xô Tháng Mười Hoan hô Xta-lin Ðời đời cây đại thọ Rợp bóng mát hòa bình Ðứng đầu sóng ngọn gió Hoan hô Hồ Chí Minh Cây hải đăng mặt biển Bão táp chẳng rung rinh Lửa trường kỳ kháng chiến ! (...) (Bài Ca Tháng Mười, 1950) Nhưng điều mà Tố Hữu cũng như cả Ðảng CSVN không ngờ tới là chỉ sau khi Stalin mất 5 năm, Khrouthchev đã bắt đầu đưa ra ánh sáng những tội ác ghê tởm kinh hồn của Stalin. Người mà Tố Hữu tung hô là "cây đại thọ, là bóng mát hòa bình", người mà Tố Hữu thương hơn cha mẹ, phải "trọn đời nhớ ơn" đã là tên sát nhân của hai triệu người Liên Xô vào các năm 1934-1938 trong các goulag, các trại tập trung, các nhà thương tâm thần, trong đó có cả các đồng chí, các "khai quốc công thần" của Liên Xô như Trostky, Zinoviev, Kamenev. Năm 1961 Khrouthchev lẳng lặng đưa thi hài Stalin ra khỏi lăng Lenin. Ðến lúc này Hà Nội mới chưng hửng và từ đó mới hết tung hô. Cũng may trong thập niên 60, chiến tranh ở VN leo thang cường độ cộng thêm tình hình căng thẳng với "bọn xét lại Mốts-cô-va" nên không ai để tâm đến đến cái sự liên kết Stalin-HCM ấy. Ðến ngày hôm nay, càng đọc càng thấy thái độ tung hô này quá lố bịch và còn có vẻ "tô đen" cho thanh danh HCM nên Hà Nội một mặt chỉ đưa các bài thơ tình cảm kiểu Từ Ấy hoặc đấu tranh, hoặc tôn vinh HCM của Tố Hữu vào các sách giáo khoa, còn "Ðời Ðời Nhớ Ông" thì càng...quên càng tốt. Chính vì lý do ấy mà các sách viết về Tố Hữu hầu như không bao giờ nhắc đến "tiếng đầu lòng Xta-lin" và lại càng tránh cho "cây đại thọ" và "cây hải đăng" mọc cạnh nhau. Trong cuốn Thơ Tố Hữu - Những Lời Bình (Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin Hà Nội - 2002) dày 320 trang, trên dưới 40 nhà văn, nhà thơ nói về thơ Tố Hữu, không ai nhắc gì tới các vần thơ "bất hủ" trên, làm như chúng không có. Trong "Nhớ Lại Một Thời" (cùng nhà xuất bản) do chính Tố Hữu viết lời tựa cũng thế. Tuy nhiên, tệ hại hơn, có sách đã đăng những bài thơ này nhưng lại vụng về cắt đi những đoạn "tế nhị" như trong bài Bài Ca Tháng Mười, người ta đã cắt đoạn nói về Xtalin ; rồi đến bài Sáng Tháng Năm, người bình thơ lại cắt hai câu "Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Xta-lin" (Thơ Tố Hữu, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 2001). Vào thời điểm ấy chắc chắn Tố Hữu phải biết nhưng không hiểu sao lại không có phản ứng gì, và cuốn sách trên vẫn được bán tại khắp các hiệu sách trong nước. Ðây quả là một cung cách ứng xử ấu trĩ, vì chỉ cần chịu khó tìm một tí là người ta thấy ngay nguyên văn của các bài này. Cuốn sách của Hội Nhà Văn kể trên cũng chỉ có một phạm vi phổ biến giới hạn (chỉ phát hành 800 cuốn mà hai năm bán không hết !) nên có vụng về thì cũng chẳng sao. Nhưng ngay cả trên trang web của báo Nhân Dân - là tiếng nói trung ương của Ðảng, là những gì chính thống nhất - cũng làm cái việc che đậy ấu trĩ này : cắt mất hai câu "Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Xta-lin" trong bài Sáng Tháng Năm (www.nhandan.org.vn, mục Các số báo đã ra, ngày 11/12/02, Các tác phẩm tiêu biểu). * * * Tuy nhiên, Stalin là chuyện của quá khứ, còn biết bao "vấn đề" trong thơ Tố Hữu còn phải giải quyết. Một trong những vấn đề đó là vụ Ải Nam Quan và hiệp định biên giới mà dư luận gần đây đang xôn xao. Vào năm 1957, Tố Hữu sáng tác bài Mục Nam Quan với tiếng thơ bi thương, nhưng cũng rất... xã hội chủ nghĩa : Ai lên ải Bắc ngày xưa ấy Khóc tiễn cha đi mấy dặm đường Hôm nay biên giới mùa xuân dậy Núi trắng hoa mơ cờ đỏ đường Bài này đã chỉ rành rành hai sự thật hiển nhiên : Ải Nam Quan (mà sau này HCM sửa thành Mục Nam Quan rồi Mục Hữu Nghị), và suối Phi Khanh đánh dấu hình ảnh chia tay bi hùng của cha con Nguyễn Trãi là những di tích lịch sử nằm trên đất nước Việt Nam. Vậy mà sau khi hiệp định biên giới Việt Trung được ký ngày 30/12/1999 với hậu quả là hàng trăm cây số vuông bị mất trong đó có hai di tích lịch sử ngàn đời là Ải Nam Quan (Lạng Sơn) và thác Bản Giốc (Cao Bằng), nhà thơ Tố Hữu, người từng chiêm ngưỡng Ải Nam Quan, người đã vào tù ra khám, từng giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy Ðảng và Nhà Nước và đặc biệt là tác giả của những vần thơ với ngôn từ vô cùng oai dũng, bất khuất như dưới đây mà lại câm miệng cúi đầu trước việc bán nước rành rành như thế ! (...) Ta đi tới không thể gì chia cắt Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau Trời ta chỉ một trên đầu Bắc Nam liền một biển (...) (Ta đi tới, 8/1954) (...) Dù ai chia núi ngăn sông Cũng không thể cắt được lòng Việt Nam Chúng ta đã quyết thì làm Ðã đi phải đến hoàn toàn thành công. (Quang vinh Tổ quốc chúng ta, 8/1955) Thật là oai phong lẫm liệt. Thật là bừng bừng chính khí. Vào thời điểm ấy Tố Hữu đã 35 tuổi, đã biết vào tù ra khám. Những vần thơ trên chắc hẳn đi từ con tim, ý chí của ông. Chẳng lẽ đến năm 1999 ông lại lú lẫn đến nỗi không còn biết phải trái, không còn nhớ những điều chém đinh chặt sắt ngày xưa ? Hay là lại "mũ ni che tai" như đa số các trí thức Việt Nam ? Tố Hữu ơi. Vong hồn ông ở nơi đâu ? Bây giờ làm sao ông trả lời với Nguyễn Trãi ? ! Cái tội này không chỉ riêng Tố Hữu phải gánh, nhưng đây chính là trách nhiệm chung của giới trí thức Việt Nam ngày nay: chúng ta sẽ trả lời như thế nào cho các thế hệ mai sau ? Bộ Giáo Dục có toàn quyền không đưa bài thơ Mục Nam Quan này vào sách giáo khoa y như đã che dấu kỹ những "Ðời đời nhớ ông, Ta đi tới" nhưng cho đến muôn đời sau Ải Nam Quan và suối Phi Khanh vẫn còn mãi trong tâm tư của chúng ta, các con cháu Nguyễn Trãi, còn mãi như cái tội bán nước của Ðảng CSVN. * * * Ngày 13/12/2002, tang lễ Tố Hữu được cử hành trọng thể tại Hà Nội. Ðông đủ các lãnh đạo đến dự. Nghiêm trang và long trọng lắm. Tuy nhiên mờ mờ qua những hình thức ấy người ta thấy có một cái gì là lạ. Ngày Tố Hữu mất, không một tờ báo nào đăng hình trên trang bìa, kể cả báo Nhân Dân - trong chế độ cộng sản, đây là một trong những cái tiêu chuẩn, cái "thước đo" sự thăng hoa hay thất sủng của một nhân vật. Các báo chỉ tóm tắt vài hàng tiểu sử, một vài bài viết về kỷ niệm xưa của các bè bạn trong chiến tranh và chỉ đăng ở trang trong - mà đôi khi lại đăng sai. Chôn xong, mọi chuyện đều chấm dứt. Người ta có cảm tưởng như nhà nước không chỉ chôn cái xác Tố Hữu mà còn vĩnh viễn chôn cả "70 năm lao động thơ" vào hố sâu quên lãng. Trăm năm bia đá thì mòn Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. (Sài Gòn, 30/12/2002,Phạm Minh Hoàng) http://dangcongsan.vn/…/hue-dau-tu-25-ty-dong-ton-tao-khu-l…  
......

Ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ là tổng bí thư khóa 13

Ông Trần Quốc Vượng và ông Nguyễn Xuân Phúc Trung Điền| Tại Hội nghị 9 diễn ra từ ngày 25 đến 27 tháng Mười Hai, 2018, lần đầu tiên, Trung ương đảng CSVN khóa 12 bàn về việc quy hoạch thành phần tân trung ương đảng khóa 13 (2021-2026) cũng như bỏ phiếu tín nhiệm Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư. Nhưng nội dung then chốt nhất của kỳ họp này là ông Nguyễn Phú Trọng muốn giới thiệu ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư làm ứng viên tổng bí thư cho đại hội 13. Vì thế mà suốt gần 2 năm qua, ông Trần Quốc Vượng đã được ông Trọng chuẩn bị như là người thay thế, đảm trách nhiều công tác đặc biệt liên quan đến sự chọn lọc, hướng dẫn thành phần tân trung ương khóa 13, vì đây chính là những nhân sự sẽ bỏ phiếu tín nhiệm ông Vượng trong trách vụ tân tổng bí thư tại đại hội 13 dự trù diễn ra vào tháng Giêng năm 2021. Mới đây nhất trong lúc đại dịch Covid-19 đang còn đe dọa khắp xã hội, ông Trần Quốc Vượng đã thay mặt Bộ Chính Trị ký ba văn kiện mang tính chất điều hành. Đó là chỉ thị tiếp tục đẩy mạnh kinh tế tập thể, chỉ thị tăng cường nghiên cứu lý luận và chỉ thị đảng viên phải đọc và phổ biến sách báo của đảng. Cả ba chỉ thị này là quá thường đối với những người ngoài đảng, nhưng trong nội bộ thì đây là chỉ thị mang tính chất củng cố cho vai trò “cầm chịch” đảng của ông Trần Quốc Vượng, và cũng để cho phe ông Trọng an tâm là nếu ông Vượng có lên thay thì cũng sẽ tiếp tục củng cố và duy trì quyền lực của phe đảng. Đại dịch Covid-19 đã ập đến bất ngờ cùng với những ứng xử của đàn anh Trung Cộng ở biển Đông, nhất là những xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng trong hai tháng qua, đã và đang làm thay đổi tư duy của lãnh đạo và cán bộ cao cấp trong đảng CSVN. Một số trong thành phần cán bộ cao cấp của đảng CSVN thấy rằng đây là cơ hội để  tìm cách thoát dần ảnh hưởng của Bắc Kinh mà nhiều người hay gọi là “thoát Trung”; đồng thời có chính sách mạnh mẽ hơn trong việc mở cửa đón tiếp làn sóng doanh nghiệp ngoại quốc đang chuẩn bị di dời nhà máy khỏi Trung Quốc sau dịch Covid-19. Để đón bắt thời cơ này, một số quan điểm cho rằng vị trí lãnh đạo đảng trong thời gian tới phải là người có tầm quốc tế và nhất là có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành bộ máy hành chánh. Xu hướng này tuy mới nảy sinh sau vụ dịch Covid-19, nhưng đang được tác động mạnh mẽ trong nội bộ đảng và trở thành nội dung trao đổi giữa nhiều ủy viên trung ương đảng về dự Hội nghị lần thứ 12 đang diễn ra tại Hà Nội từ ngày 11 đến 15 tháng Năm, 2020. Trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất hiện nay gồm ông Nguyễn Phú Trọng (76 tuổi), Nguyễn Xuân Phúc (66 tuổi), Nguyễn Thị Kim Ngân (66 tuổi) và Trần Quốc Vượng (67 tuổi) là những nhân vật có nhiều cơ hội nhất được chọn để giữ ghế tổng bí thư đảng. Tuy nhiên trong 4 người này, ông Trọng sẽ nghỉ hưu vì sức khoẻ, bà Ngân cũng sẽ nghỉ hưu vì khả năng lãnh đạo đã đụng trần. Chỉ còn lại ông Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc. Ông Trần Quốc Vượng chỉ là cán bộ điều hành trong nội bộ đảng, không có kinh nghiệm điều hành bộ máy hành chánh và hoàn toàn không có khả năng về kinh tế đối ngoại. Trong khi đó ông Nguyễn Xuân Phúc xuất thân là cán bộ hành chánh cấp tỉnh, giữ chức phó thủ tướng 5 năm  (2011-2016) và hiện là thủ tướng chính phủ từ năm 2016 đến nay. Đặc biệt là trong thời gian ông Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ khi đến thăm Kiên Giang vào tháng Tư, 2019, ông Nguyễn Xuân Phúc được coi là nhân vật cao nhất trong chính phủ và trong đảng để đón tiếp các khách nước ngoài cũng như tham dự nhiều cuộc họp quan trọng của Khối G20, ASEAN, APEC. Do đó mà tư thế quốc tế của ông Phúc đã nổi bật hơn ông Trần Quốc Vượng để trở thành một ứng viên đầy tiềm năng cho ghế tổng bí thử đảng trong 5 năm tới (2021-2026), khi mà CSVN muốn thoát Trung và đẩy mạnh quan hệ kinh tế với thế giới bên ngoài. Nếu ông Nguyễn Xuân Phúc được chọn làm tổng bí thư thay ông Nguyễn Phú Trọng, thì nhiều phần ông Phạm Bình Minh sẽ được chọn làm chủ tịch nước vì khả năng đối ngoại mà ông Minh đã xây dựng trong 10 năm qua khi ở vị trí lãnh đạo Bộ Ngoại Giao. Còn trách vụ thủ tướng thì ông Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị từ đầu năm 2020 khi đưa ông Vương Đình Huệ về làm bí thư thành ủy Hà Nội, nhằm đáp ứng tiêu chí đòi hỏi của một thủ tướng là từng kinh qua việc điều hành đảng ủy cấp địa phương. Sở dĩ ông Trọng chuẩn bị ông Vương Đình Huệ làm ứng viên cho ghế thủ tướng là vì nghĩ rằng sẽ giúp cho ông Trần Quốc Vượng nếu được chọn làm tổng bí thư, vì ông Vương Đình Huệ từng là trưởng ban kinh tế trung ương, bộ trưởng Bộ Tài Chánh và phó thủ tướng đặc trách kinh tế trước khi đưa sang làm bí thư Hà Nội vào đầu tháng Tư vừa qua. Tóm lại, nếu hậu Covid-19 đang làm cho nhiều quốc gia phải thay đổi thế trận trong các chính sách đối nội lẫn đối ngoại, thì Việt Nam không thể nằm ngoại lệ. Việt Nam dù không bị thiệt hại nặng về y tế khi số người lây nhiễm thấp và không có số tử vong (theo báo cáo của CSVN), nên sinh hoạt xã hội đã phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên, nền kinh tế của Việt Nam phần lớn dựa vào đầu tư ngoại quốc và gia công xuất khẩu sang các thị trường Hoa Kỳ và Âu Châu, mà những thị trường này vẫn đang bị đình đọng vì dịch bệnh Covid-19 chưa qua và đang có chủ trương khuyến khích các công ty của nước mình rút ra khỏi thị trường Trung Quốc, đã đặt cho lãnh đạo CSVN những cơ hội và thách đố trong 5 năm tới trong sự chuyển đổi tại Việt Nam. Chính trong bối cảnh đó, Hội nghị 12 của trung ương đảng CSVN hiện nay đang đặt cho ông Trọng một bài toán nhức đầu: chọn ông Vượng hay ông Phúc làm tổng bí thư cho 5 năm tới! Liệu hai phe Phúc, Vượng có đấu đá kịch liệt để tranh giành quyền lực như các phe Trọng, Dũng thời đại hội 12 (năm 2016) hay không? Câu trả lời có lẽ sẽ sáng tỏ hơn khi dịch COVID tạm lui để nhường chỗ cho dịch nội chiến quyền lực phát tán, bùng nổ trong những ngày tháng trước mặt.  
......

Luật pháp kiểu giẻ rách!

Ngô Trường An| Ngày 31.7.2018 Trịnh Xuân Thanh lên tivi nhận mình từ Đức trở về đầu thú, để được hưởng khoan hồng của chính phủ VN. Người xem tivi thấy rõ, đúng là hình ảnh ông Trịnh Xuân Thanh và những lời đầu thú cũng chính từ miệng ông nói ra. Vậy, thì đúng ông ta tự nguyện về đầu thú rồi, hoài nghi gì nữa? Dù chính từ miệng TXT nhận mình trở về đầu thú. Nhưng cảnh sát Đức họ vẫn tổ chức điều tra để tìm ra sự thật. Và, họ đã chứng minh cho thế giới biết rằng, Trịnh Xuân Thanh đã bị nhà cầm quyền csVn bắt cóc đưa về nước ép cung, chứ không phải tự nguyện về đầu thú như hắn đã nói. Họ (cảnh sát Đức) đưa ra hàng loạt bằng chứng TXT bị bắt ngày giờ nào, bắt ở đâu, đưa lên xe hiệu gì, màu gì, đưa qua quá cảnh nước nào, thuê máy bay hãng nào đưa về VN, tình trạng sức khỏe TXT lúc lên máy bay như thế nào, và đáp xuống sân bay Nội Bài lúc mấy giờ.... Tất cả các người và tổ chức liên quan đã bị tóm để điều tra, như: chủ cho thuê xe, chủ khách sạn... cảnh sát Đức còn trưng ra hóa đơn mà VN đã thuê máy bay chở Trịnh Xuân Thanh sang Nga để về VN. Đến đây thì nhà cầm quyền csVn hết đường chối cãi! Đấy, vấn đề là chỗ đó. Không ai đi căn cứ lời phạm nhân khai nhận, mà buộc cơ quan điều tra phải chứng minh rằng, người đó vô tội hoặc có tội. Trong 1 thể chế phi dân chủ như ở VN. Người bị thẩm cung không có quyền được im lặng khi cơ quan điều tra hỏi cung, mà buộc phải trả lời. Cũng không được quyền thuê luật sư trong lúc hỏi cung. Thời gian hỏi cung của cơ quan điều tra không nhất thiết trong giờ hành chính, mà liên tục thay đổi. Có khi nửa đêm họ lôi phạm nhân ra tra hỏi, có khi tờ mờ sáng hoặc lúc vừa thiu thiu ngủ họ lại lôi lên lấy cung, có khi vừa ăn cơm xong họ bắt lên tra khảo.... Phạm nhân thì đơn độc, trong lúc đó điều tra viên có đến hàng chục người với cả dây nhợ, còng tay, cùm chân, roi điện, dùi cui....các loại dùng để tra tấn. Thử hỏi, có mấy ai dám nói khác những lời mà họ mớm cho? Tại sao mẹ của Hồ Duy Hải phải ròng rã đi kêu oan cho con suốt 12 năm trời? Tại vì công an không đưa ra được bằng chứng Hải phạm tội, không chứng minh được Hải phạm tội mà chỉ dựa vào lời khai nhận tội của Hải. Mà sự nhận tội thì đất nước này có quá nhiều người nhận tội, như: Hàn Đức Long, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn...cũng nhận tội giết người đó sao? Ông Nguyễn Hòa Bình - chánh án TAND tối cao nói rằng: "Nếu không có đủ căn cứ chứng minh tội nặng thì phải quyết có tội, nhưng tội nhẹ. Nếu không xử được ở khung cao thì phải xử ở khoản thấp". Nghĩa là, theo ông, những người nào mà bị công an bắt dù là bắt nhầm thì cũng có tội. Không chứng minh được người đó có tội "to" thì xử họ có tội "nhỏ"?! Đù má! Luật pháp mà ông xem như giẻ rách vậy ông? Không lấy được miếng to thì lấy đại miếng nhỏ gỡ gạc chớ bỏ thì phí? Khốn nạn chưa!!!  
......

Bộ mặt mới của đảng CS sẽ thế nào?

Đỗ Ngà - Van Nga Do| Năm 2020 là năm bản lề, những ủy viên Trung Ương đảng CS đang chạy đua để được cơ cấu vào ghế quyền lực mới. Hiện nay trên các tờ báo lớn của ĐCS thường hay có những bài viết nói về tiêu chuẩn chọn người. Nào là có tài, nào là có đức, nào không được có tham tham vọng chính trị bla bla bla… Họ rao giảng đủ thứ phẩm chất cả thế nhưng thực tế thì ngược lại. Từ đầu năm 2020, nhân dân đã chứng kiến rất nhiều tội ác và những chiêu trò khốn nạn của nhà cầm quyền ở mức độ táo tợn hơn. Mở đầu năm 2020 là “chiến công” của bộ công an. Họ mở chiến dịch lớn do một trung tướng thứ trưởng bộ Công an cầm đầu. Họ điều động cả trung đoàn cảnh sát cơ động thiện chiến nhất với xe bọc thép, vũ khí điện tử tiến vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội. Vào lúc 4 giờ sáng họ phá cửa, xông vào nhà dân, bắn chết cụ Kình 84 tuổi ngay trên giường ngủ. Sau đó họ mang xác cụ về phanh thây rồi mới trả về cho gia đình an táng. Tội ác như vậy thì không ai tưởng tượng nổi đó lại là hành động của một nhà nước. Tiếp theo là vụ án Hồ Duy Hải, một hội đồng thẩm phán phiên tòa giám đốc thẩm đã bất chấp sai phạm của cơ quan tố tụng, tuyên án tủ với người vô tội. Vụ cô Huệ Như chống BOT bẩn bản chất chỉ là vụ án dân sự, nhưng chính quyền CS đã hình sự hóa bằng bản án bất công 42 tháng tù giam. Đây là minh chứng cho hành vi bẻ cong công lý. Với một nhà nước mà ngang nhiên xông vào nhà dân giết người rồi sau đó kéo xác đi phanh thây thì việc chà đạp luật pháp, bẻ cong công lý chỉ là chuyện nhỏ. Để quỵt 62 ngàn tỷ tiền hỗ trợ, chính quyền CS cho soạn sẵn bản “Đơn Xin Tự Nguyện Không Nhận Hỗ Trợ” rồi buộc mỗi hộ phải ký vào. Đây là minh chứng cho hành động lừa gạt của bộ máy chính quyền CS. Trên truyền thông, chính quyền cho quy kết cụ kình là tội phạm, họ cho báo chí kết tội người mẹ kêu oan cho con ròng rã 12 năm là “yêu con mù quáng”, rồi họ trơ trẽn nói rằng “dân tự nguyện không nhận tiền hỗ trợ” bla, bla, bla… Nói chung cả bộ máy hỗ trợ nhau rất thống nhất. Nếu ví ĐCS như là một cơ thể thì rõ ràng những cơ quan như Tòa án, Công an, viện kiểm sát, chính phủ là các chi, còn báo chí truyền thông là cái mồm, và Bộ Chính Trị là bộ não của cơ thể ấy. Ở đây ta thấy tứ chi làm ác, mồm nói điều gian xảo thì làm sao có chuyện não nghĩ điều thiện lành? Như vậy chúng ta cũng đã định hình rõ Trung Ương Đảng với nòng cốt là Bộ Chính Trị là thành phần như thế nào rồi?! Đạo đức hay trong sạch chắc chắn không có chỗ đứng trong đó. Hiện nay đã là năm cuối cùng của nhiệm kỳ Trung ương khóa 12. Mỗi nhiệm kỳ như vậy kéo dài 5 năm có 13 kỳ hội nghị Trung ương. Hiện nay đang là hội nghị Trung ương thứ 12. Đây là kỳ họp rất quan trọng vì nó là kỳ phân chia miếng bánh quyền lực. Theo lý mà nói thì năm nay những người nắm quyền trong ĐCS họ phải tranh thủ làm điều đúng, là điều tốt để lấy điểm chứ? Nhưng không! Hiện nay ai cũng nhận ra là CS ác hơn, trắng trợn hơn, và gian manh hơn. Câu hỏi là tại sao lại như vậy? Câu trả lời, vì đó sẽ là xu hướng của lớp lãnh đạo kế tiếp trong ĐCS. Với tội ác đến tột cùng như thế, với việc đạp luật pháp trắng trợn như thế, với việc bẻ cong công lý rõ ràng như thế, và với trò lừa dân trơ tráo đến như thế, nhưng ở đây chúng ta không thấy sự chấn chỉnh nào từ thượng tầng chính trị mà ngược lại, chúng ta lại thấy sự đồng lòng đến rợn người trong bộ máy đảng cũng như bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Mà để có sự đồng lòng với nhau ngay cả khi làm điều ác đến tận cùng thì điều kiện phải có là, thế lực thủ ác trong ĐCS phải chiếm tỷ lệ áp đảo. Mà như ta biết, sau 5 năm ông Nguyễn Phú Trọng thanh trừng phe cánh để đưa người mới vào thì hiện nay ai cũng nhận ra là ĐCS ác hơn, gian xảo hơn, trắng trợn hơn, bất chấp hơn và cũng đồng lòng hơn. Vậy thì ông Nguyễn Phú Trọng bỏ 5 năm ra “chống tham nhũng” để làm gì thì nay cũng rõ rồi chứ đừng ai ảo tưởng rằng CS sẽ “sạch hơn”. Sau 5 năm thanh trừng và thiết lập vây cánh thì hiện nay ĐCS mạnh dạn đánh bài ngửa rằng: “Tao ác thế, tao gian xảo thế, tao xem thường pháp luật thế để xem chúng mầy chịu đựng tới đâu?”. Tuy mồm của CS thì vẫn mở hết công suất cứ rêu rao nào là phải chọn người tài, nào là phải chọn người có đức, nào là người trong sạch bla, bla, bla.. nhưng thực tế thì ngược lại hoàn toàn. Nhiệm kỳ mới hứa hẹn một lứa lãnh đạo táo tợn hơn và gian ác hơn nắm quyền. Dân hãy chuẩn bị đi, tiếp chịu đựng hay phải hành động?! -Đỗ Ngà-  
......

Tư bản Úc bán “xiềng” cho Trung cộng “xích” nước Úc.

Illustration: Jim Pavlidis Nguyễn Quang Duy “Tư bản sẽ bán cho chúng ta sợi dây thòng lọng để treo cổ chúng”, Chủ bút Peter Hartcher của tờ The Sydney Morning Herald hôm 1/5/2020 trích câu nói của Lenin mở đầu bài bình luận “Tiền hay chủ quyền của chúng ta: Trung cộng không cho chúng ta sự chọn lựa.” Ông Hartcher áp dụng lời nói của Lenin vào trường hợp của nhà tư bản hầm mỏ Úc Andrew Forrest, đang nối giáo cho Trung cộng bán đứng chủ quyền nước Úc: “Tư bản bán cho chúng ta quặng sắt để chúng ta rèn xiềng xích chúng lại”. Điều tra nguồn gốc virus corona Virus corona giết chết hằng trăm người Úc và hơn 280 ngàn người trên thế giới, vì thế Chính phủ Úc mới kêu gọi mở cuộc điều tra độc lập để hiểu rõ nguồn gốc của virus corona và nguyên nhân căn bệnh này bùng phát trên toàn thế giới. Cuộc điều tra sẽ giúp nhân loại rút ra bài học, giúp tránh được những thảm họa có thể xảy ra trong tương lai, nhưng lại bị Trung cộng phản đối, và hăm dọa trừng phạt kinh tế Úc. Đại sứ Trung cộng tại Úc ông Cheng Jingye đe dọa nếu Úc tiếp tục muốn điều tra, thì “nhân dân” Trung cộng sẽ không xem Úc là bạn hàng tốt, sẽ không uống rượu vang Úc, sẽ không ăn thịt bò Úc, sẽ không du lịch nước Úc và sẽ không cho con cái đến Úc du học. Nói trắng ra, nếu Úc tiếp tục muốn điều tra thì nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh sẽ cấm dân uống rượu vang Úc, cấm dân ăn thịt bò Úc, cấm dân đi du lịch Úc và cấm dân cho con cái sang Úc du học. Đáp lại, Bộ trưởng Ngoại giao Úc bà Marise Payne tuyên bố việc Trung cộng đe dọa kinh tế sẽ không ngăn cản được cộng đồng quốc tế điều tra về nguồn gốc và sự lan tỏa của virus corona: “…đây là nguy cơ toàn cầu mà trước đây chưa từng có, nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế, và xã hội”. Vì tiền bán chủ quyền đất nước… Ngày 29/4/2020, Tổng trưởng Y tế Greg Hunt và tỉ phú hầm mỏ Andrew Forrest cùng tổ chức một cuộc họp báo công bố việc ông Forrest làm trung gian mua giúp Chính phủ Úc 10 triệu bộ xét nghiệm Virus Corona do Trung cộng sản xuất với giá 320 triệu Úc kim. Ông Andrew Forrest lợi dụng cơ hội, đưa Tổng lãnh sự Trung cộng tại Melbourne ông Long Zhou lên diễn đàn ca ngợi Trung cộng đã thành công trong cuộc chiến chống lại bệnh dịch, kể công bán 10 triệu bộ xét nghiệm cho Úc, và công kích nỗ lực vận động điều tra dịch bệnh của Chính phủ Úc. Chủ bút Peter Hartcher nhận xét việc ông Forrest “phục kích” Bộ trưởng Y tế Greg Hunt, để Tổng lãnh sự Trung cộng lên diễn đàn đối chọi với ông Hunt và với chính sách của Chính phủ Úc, ông Forrest đặt lợi ích cá nhân bên trên quyền lợi nước Úc. Ông Forrest cũng đã làm thế tại Tây Úc, ngày 31/3/2020, ông cho tổ chức họp báo để công bố việc mua giúp cho tiểu bang Tây Úc thiết bị y tế, rồi âm thầm mời Tổng Lãnh sự Trung cộng tại Perth, bà Dong Zhihua đến họp báo với Bộ trưởng y tế Tây Úc ông Roger Cook, mà không hề thông báo cho chính quyền Tây Úc. Corona xuất xứ từ Úc… Tỉ phú Andrew Forrest luôn theo quan điểm của Trung cộng, ông chống lại lời kêu gọi của Chính phủ Úc điều tra về nguồn gốc của virus corona, thậm chí ông còn cho rằng siêu vi khuẩn này có thể xuất phát từ Úc: “Cho đến giờ này không ai biết được siêu vi khuẩn này xuất phát từ đâu, bởi vì nó có thể từ Úc, hoặc Anh Quốc, hoặc Trung cộng.” Thủ tướng Úc Scott Morrison phải lên tiếng phản đối ông Forrest ăn nói bậy bạ vì: “ai cũng biết nguồn gốc vi khuẩn corona xuất phát từ Trung cộng”. Ông Morrison kêu gọi tỉ phú Andrew Forrest ngưng xen vào việc đối ngoại của Chính phủ Úc và ngưng đưa những tin giả, nhằm tuyên truyền cho Trung cộng. Nước Úc trên hết… Bị chính giới và dư luận công kích, trên Đài truyền hình số 9 tỉ phú Andrew Forrest chụp mũ cho những người không đồng ý với ông là theo Mỹ, ông nói: “Bất cứ ai muốn đặt nước Mỹ lên trên, thì họ đang đặt nước Úc vào hàng số hai, còn tôi thì đặt nước Úc lên trên hết.” Theo tỉ phú Andrew Forrest nên hoãn cuộc điều tra cho đến sau cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ vào tháng 11 năm nay, còn quan điểm của Chủ bút Peter Hartcher là Bắc Kinh đã không đồng ý với cuộc điều tra độc lập thì việc trì hoãn nghĩa là cuộc điều tra sẽ không bao giờ xảy ra. Ở Úc ông Andrew Forrest có quyền tự do phát biểu, chuyện không hề có tại Trung cộng, nhưng điều cần nói là ông Forrest đã sử dụng quyền tự do ngôn luận tạo ra một chiến dịch giúp cho Trung cộng buộc nước Úc phải đầu hàng. Ông Forrest ngụ ý nói điều tra là làm theo lệnh của Tòa Bạch Ốc, như thế là ông đã tiếp tay với Trung cộng hạ thấp uy tín Chính phủ Morrison, xem Chính phủ Úc làm bù nhìn cho Mỹ, và toàn bộ ý tưởng điều tra là làm theo lệnh của Mỹ. Trong thực tế, đề xuất điều tra virus corona đến từ Canberra, từ chính Thủ tướng Morrison cùng với Ủy ban An ninh Quốc gia. Ông Forrest cho rằng cuộc điều tra do Úc khởi xướng có động cơ chính trị, trong khi Trung cộng thì không, điều đó hết sức vô lý, vì mục đích cuối cùng của Trung cộng là củng cố quyền lực chính trị của đảng Cộng sản Trung Hoa. Không chỉ riêng Andrew Forrest, tuần rồi tỉ phú Kerry Stokes chủ nhân công ty truyền thông Seven West Media, chủ đài truyền hình số 7 và tờ The West Australian phát hành tại Tây Úc, và Luật sư David Olsson, chủ tịch quốc gia của Hội đồng Doanh nghiệp Úc-Trung cộng cũng lên tiếng phản đối cuộc điều tra do Chính phủ Úc đề nghị. Cựu Thủ tướng Malcolm Turnbull cho biết nếu có cuộc tranh luận giữa Úc và Trung cộng, thì đừng bao giờ trông mong vào sự hỗ trợ của những nhà tư bản Úc, vì quyền lợi kinh tế họ sẽ luôn đứng về phía Trung cộng. Chính sách lưỡng đảng Lãnh tụ đối lập Anthony Albanese đã đứng về phía Chính phủ ủng hộ cuộc điều tra, nên cuộc điều tra không chỉ đơn thuần là của chính phủ, nó đã trở thành chính sách quốc gia, đồng thuận lưỡng đảng là sức mạnh quốc gia. Chủ bút Peter Hartcher cho rằng nước Úc thật may mắn có được những người lãnh đạo sáng suốt như Thủ tướng Scott Morrison, cựu Thủ tướng Malcolm Turnbull hay Lãnh tụ đối lập Anthony Albanese, những người sẵn sàng đặt chủ quyền quốc gia bên trên đồng tiền và không để những tư bản Úc nối giáo cho Trung cộng xâm phạm quyền lợi quốc gia. Nước Úc cần được bảo vệ… Chủ bút Peter Hartcher tin rằng nước Úc phải bảo vệ quyền lợi của mình trong việc giao dịch với Trung cộng, điều tiên quyết là phải bảo vệ chủ quyền của mình. Thứ nhất, nếu Úc lùi bước, Bắc kinh sẽ tiếp tục sử dụng kinh tế làm áp lực, cứ thế họ tiếp tục lấn tới cho đến khi nước Úc trở thành một chư hầu cho Trung cộng. Thứ hai, sự hài hòa xã hội, Úc có cộng đồng gốc Hoa lên đến 1.2 triệu người, đây là một vốn quý của quốc gia chứ không phải gánh nợ, cộng đồng này phải được bảo vệ khỏi ảnh hưởng của đảng Cộng sản Trung Hoa bằng chính những giá trị dân chủ cuả Úc. Thứ ba là nền kinh tế Úc chỉ được bảo vệ tốt nhất khi chủ quyền quốc gia còn được bảo tòan, mất chủ quyền quốc gia thì quyền điều khiển kinh tế, quyền đưa ra các quyết định thương mại sớm muộn gì cũng mất theo. Chủ quyền, hòa hợp xã hội và kinh tế là ba lợi ích cốt lõi, là các lợi ích gắn bó với nhau, chủ quyền quốc gia là trên hết, là chìa khóa để giữ cả ba, cùng vì lợi ích của Úc. Chừng nào điều này còn tồn tại, các nhà tư bản Úc sẽ không được phép bán lợi ích quốc gia để theo đuổi lợi ích tư nhân. Kinh tế và chính trị… Từ giữa thập niên 1980, giới khoa bảng, giới báo chí, giới chính trị, giới doanh nhân có chung một ảo tưởng là thay đổi kinh tế các quốc gia cộng sản sẽ dẫn đến thay đổi chính trị. Giờ đây khi kinh tế mạnh lên, chính trị Trung cộng đã không thay đổi, nhưng quân sự đã thực sự mạnh hơn đe dọa an ninh trong vùng, về ngoại giao Trung cộng xem Úc như một quốc gia lệ thuộc vào kinh tế Trung cộng, nên họ mới dám đe dọa tẩy chay thương mãi với Úc. Đại dịch 2020 trong cái rủi biết đâu có điều may, thế giới đã nhận ra điều cần thiết là phải biến đổi thể chế cộng sản thành thể thể chế tự do dân chủ, mới trách được những đại họa cho nhân loại và cuộc sống nhân loại mới được bình yên. Nguyễn Quang Duy - duyact@yahoo.com.au Melbourne, Úc Đại Lợi The money or our sovereignty: China leaves us no choice  
......

Con dao và câu hỏi đâu là sự thật vụ án Hồ Duy Hải?

Thủ phạm là Nguyễn Văn Nghị, cháu ruột bà Trương Mỹ Hoa. Bà Trương Mỹ Hoa là lá chắn bao che, đứng trong bộ chính trị cao chót vót ở chức vụ Phó chủ tịch nước trong lúc đó. Hiện giờ Nghị đang giường êm nệm ấm hạ cánh an toàn ở Canada. Vậy Hồ Duy Hải có tắm nước thánh cũng sẽ không bao giờ được xoá tội. Chuyện thường ở xứ độc tài mà. Quyền lực che trời. Đòi công lý tự do cho Hải có nghĩa sẽ giam Nghị vào tù. Sẽ trưng bày rành mạch nghành luật pháp của Việt Nam dã thú độc ác hay sao. Lưu Trọng Văn| 13 tháng 1 năm 2008 tại Bưu điện Cầu Voi, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, hai nữ nhân viên bưu điện Nguyễn Thị Ánh Hồng và Nguyễn Thị Thu Vân bị giết. Tại sao một vụ án hình sự, người bị giết chỉ là nhân viên bưu điện bình thường và kẻ giết người nếu theo danh sách các nghi phạm đều là người lao động bình dân diễn ra ở ấp lẻ, tỉnh lẻ lại trở thành một vụ án gây chấn động công luận và và lôi kéo thành trận chiến các quyền lực pháp đình đến như vậy? Vụ án rất đơn giản, mọi chứng cứ sờ sờ vì kẻ giết người chả cao tay gì, nên các nhà điều tra nhanh chóng chộp được thủ phạm. Điều này thể hiện rất rõ trên bài viết của báo Công an Nhân dân cơ quan ngôn luận của Bộ CA ngay sau vụ án dựa theo báo cáo chính thức nội bộ công an huyện Thủ Thừa và công an tỉnh Long An cung cấp. Như vậy vụ án đã điều tra xong. Thủ phạm đã quá rõ. Chứng cứ cũng đã quá rõ. Nhưng... Một kịch bản khác đã được dựng lên. Theo đúng trình tự khớp với hiện trường đã được nghi phạm giết người khai ra, để rồi bất ngờ vì một lý do nào đó,một nghi can khác đã phải khai ra... chính mình là thủ phạm -khớp với sự thật. Để bịt sự thật này toàn bộ lời khai và hồ sơ của nghi can Nghị đã bị bàn tay nào đó ra lệnh rút khỏi hồ sơ vụ án. Đó là lý do 17/17 thẩm phán tối cao biểu quyết cho rằng chỉ có kẻ gây án là Hải mới biết các chi tiết xác thực của vụ án và đi đến kết luận các sai sót tố tụng không làm thay đổi bản chất vụ án của các quan ngài trên. Làm sao không khớp cho được khi toàn bộ lời khai trong hồ sơ của nghi can đầu tiên bị bắt giam đã mớm ra để nghi can sau nói dập theo? 17/17 vị thẩm phán tối cao trong đó có ngài chánh án Nguyễn Hoà Bình chỉ cần buộc các nhà điều tra trình lại hồ sơ của nghi can mà chính báo CA của bộ CA đã công bố ngay sau vụ án là rõ kịch bản tráo người thế nào. Một vụ án mà hồ sơ của nghi can số một bị rút đi cùng các chứng cứ gây ác bị tiêu huỷ thì cái phán quyết sai phạm tố tụng không thay đổi được bản chất vụ án chẳng qua chỉ vì bản chất coi thường pháp luật và chà đạp công lý của chính các ngài không thay đổi mà thôi. Đây là vụ án không khó để phá án. Nhưng sau 12 năm thì rất khó để phá án. Buồn cười? Chua xót thì đúng hơn! Căm giận thì đúng hơn. Chúng ta cùng lướt qua vụ án xảy ra ở Cầu Voi. A.Những người liên quan vụ án: 1. Nguyễn Văn Thu, nam, nhân chứng tham gia dọn dẹp hiện trường vụ án, hành nghề lái xe ôm. 2. Võ Văn Hùng, nhân chứng tham gia dọn dẹp hiện trường vụ án. 3. Nguyễn Văn Vàng, nhân chứng tham gia dọn dẹp hiện trường vụ án. 4. Nguyễn Tuấn Ngọc, nhân chứng tham gia dọn dẹp hiện trường vụ án. 5.Điều tra viên: Lê Thành Trung, người khám nghiệm hiện trường vụ án và khám nghiệm tử thi vào ngày 14 tháng 1 năm 2008. Tháng 5 năm 2020, ông Trung là Trưởng Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 6. Thượng tá Phạm Văn Tiến, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An, người kí lệnh bắt khẩn cấp Hồ Duy Hải vào chiều ngày 21 tháng 3 năm 2008. Phạm Văn Tiến đã qua đời. 7. Nguyễn Thanh Hải (trong bản án sơ thẩm 2008 ghi Nguyễn Văn Hải,công an viên xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, đã qua đời. Trong trang 5 bản án sơ thẩm 2008 có đoạn ghi rằng Hồ Duy Hải biết về tình tiết vụ án là do Nguyễn Văn Hải kể lại cái chết của Ánh Hồng và Thu Vân. Chú ý! Vì sao công an viên xã không có mặt tại vụ án lại biết về cái chết của hai cô gái thế nào? Giản đơn vì nghi can số một khả năng là kẻ giết người đã khai ra sự thật. Lời khai đó có trong hồ sơ đã bị rút ra. 8. Huỳnh Văn Minh, công an viên xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, đã qua đời. 9. Nguyễn Thanh Phong, cán bộ điều tra vụ án, lập biên bản và ra quyết định tạm giam đối với Hồ Duy Hải (tháng 5 năm 2020 là Phó trưởng Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). 10. Nguyễn Văn Linh, điều tra viên tham gia điều tra vụ án. Tháng 5 năm 2020 ông Linh là Phó trưởng phòng Quản lý hành chính về Trật tự xã hội (PC06), Công an tỉnh Long An). B. Tiến trình thật lúc đầu của vụ án: • Khoảng 7 giờ sáng ngày 14 tháng 1 năm 2008, anh Phùng Phụng Hiếu, nhân viên Bưu điện Thủ Thừa, đến Bưu điện Cầu Voi để giao báo. Anh Hiếu thấy cổng trước và sau không mở, gọi cửa nhiều lần không nghe thấy ai trả lời nên đã ra phía sau trèo qua hàng rào vào thì thấy cửa khép hờ và phát hiện thi thể cổ đầy máu của hai nữ nhân viên Hồng và Vân trên nền gạch. • 8 giờ 30 phút sáng, điều tra viên Lê Thành Trung bắt đầu khám nghiệm hiện trường vụ án. • 11 giờ 40 phút trưa, điều tra viên Lê Thành Trung bắt đầu thực hiện khám nghiệm tử thi nạn nhân Vân. • 12 giờ 10 phút trưa, điều tra viên Lê Thành Trung bắt đầu thực hiện khám nghiệm tử thi nạn nhân Hồng. • 13 giờ 10 phút, điều tra viên Lê Thành Trung kết thúc khám nghiệm hiện trường vụ án. Chú ý! • Theo lời khai của bốn người dọn dẹp hiện trường vụ án (Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng và Nguyễn Tuấn Ngọc) thì trong ngày 14 tháng 1 năm 2008, lúc họ dọn dẹp hiện trường thì phát hiện một con dao mới và sạch nhét sau tấm bảng treo trên tường gần chỗ nằm của hai nạn nhân Hồng và Vân. Họ đã báo cho công an xã và huyện nhưng được lệnh đốt bỏ. Họ đã dùng con dao này để cạo vết máu trên nền gạch rồi đốt bỏ nó. Rất chú ý! Tại sao điều tra viên Lê Thành Trung lại kết thúc điều tra mà không ra lệnh bảo vệ hiện trường và thu giữ ngay các chứng cứ cũng như lấy các dấu vân tay? Chả lẽ điều tra viên Lê Thành Trung chỉ khám nghiệm tử thi là xong việc điều tra ư? Tại sao lãnh đạo công an xã, huyện lại ra lệnh tiêu huỷ chứng cứ giết ngươi nếu các chứng cứ đó không được điều tra viên cẩt giữ? Hai khả năng xảy ra: ⁃ nghiệp vụ của điều tra viên Lê Thành Trung quá kém hoặc phẩm chất quá vô trách nhiệm. ⁃ Điều tra viên có ra lệnh thu giữ vật chứng nhưng sau đó đã thông đồng để cho kịch bản vụ án chuyển qua trang khác. Ở đây phải xem xét lời khai của bốn nhân viên dọn dẹp hiện trường về sự phát hiện con dao. Con dao này có thể là mấu chốt loại trừ kẻ tình nghi và tìm ra thủ phạm của vụ án. Lời khai của bốn người dọn dẹp là họ phát hiện con dao sau tấm bảng treo trên tường gần chỗ ngủ của hai nạn nhân, dao còn mới và sạch. Nếu con dao này là công cụ mà kẻ giết người đâm chết nạn nhân Hồng sau đó được rửa sạch rồi để lại chỗ cũ thì Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Nghị ai là người có thể biết chỗ để dao của chị em Hồng, Vân? Chắc chắn không thể là Hải vì Hải không quen thân Hồng, Vân, tức là Hải không lên phòng ngủ của Hồng , Vân. Nghị là người yêu của Hồng thường xuyên ngủ với Hồng mới có thể biết con dao Hồng dùng cắt trái cây dắt ở đâu. Nếu Nghị dùng con dao này để giết Hồng thì có nghĩa Nghị khi đến với Hồng không hề có ý giết Hồng vì không thủ theo công cụ giết Hồng. Thước fim quay chậm lại rất có thể là: Đêm đó sau giờ đóng cửa bưu điện 20.30 phút Nghị đến bưu điện Cầu Voi. Nghị có dụng ý đến riêng với Hồng nên phải đến lúc bưu điện đóng cửa. Vì thường xuyên ngủ đêm với Hồng Nghị biết rõ giờ đóng cửa là 8 g 30. Đó là lý do Nghị được chứng nhận 8 g20 còn có mặt ở quán cafe như một chứng cứ ngoại phạm nếu thời gian vụ án xảy ra trong thời gian Nghị uống cafe có người xác nhận. Nghị do ghen tức Hồng vẫn đi lại với Mi Sol và vài người khác nhưng chưa bộc lộ ngay sự ghen tức này.Lúc đầu Nghị muốn quan hệ tình dục với Hồng nên đưa tiền cho Vân đi mua trái cây. (Nhân chứng bán trái cây cho Vân, khai: Vân nói, thằng bồ người Tiền Giang cho tiền. Tại sao Vân nói vậy? Có thể Vân biết Hồng không còn tình cảm với Nghị nữa và bản thân Vân không ưa gì Nghi, một con nghiện,quê Tiền Giang nên giọng riễu cợt.) Nghị muốn làm tình với Hồng nhưng có khả năng Hồng không còn tình cảm với Nghị nữa bằng chứng Hồng vẫn đi lại với Sol, người yêu cũ và đang tìm hiểu một kĩ sư trẻ có học vấn và không là con nghiện như Nghị. Hồng chống cự. Nghị cưỡng ép. Và cưỡng ép thành công. Đó là lý do khám nghiệm tử thi chỗ kín của Hồng có dịch nhầy. (Ở một vụ án giết người chỉ cần bằng chứng dịch nhầy này của ai là tìm ra thủ phạm ngay chứ chẳng cần cả đống lời khai nào hết.) Do bị Hồng chống lại cuộc làm tình, sau khi xuất tinh, hai người nẩy ra cãi vã ghen tức. Nghị đã tức giận bóp cổ Hồng. Do Hồng chống lại thậm chí Hồng lấy con dao chỗ mình dấu đe doạ Nghị, Nghị đã cướp lấy dao, Hồng bỏ chạy xuống dưới nhà như để kêu cứu, Nghị đuổi theo và đâm chết Hồng trong cơn bị kích động không kìm chế được. Hoặc chính Nghị biết chỗ để dao, rút dao doạ Hồng bị Hồng chống cự, rồi Hồng bỏ chạy xuống sảnh bưu điện, Nghị đuổi theo lấy dao đâm Hồng. Khi Vân về, Nghị sợ Vân phát giác nên rình Vân bước vào, lấy thớt ở bếp nấu ăn của hai chị em đập đầu Vân. Vân chưa chết ngay, Nghị lấy dao đâm Vân chết hẳn. Xong, Nghị rửa sạch dao để chỗ cũ. Rửa sạch dao phải có nước. Đó là lý do các điều tra viên ban đầu đã lấy lời khai của một nhân chứng quen biết chị em Hồng, Vân và thường xuyên đến bưu điện chứng thực bưu điện thời điểm vụ án xảy ra có nước chảy đều. Đây có thể là một kịch bản của vụ án liên quan đến con dao bị những người dọn dẹp phát hiện. Một vụ án đơn giản để rồi nảy sinh những câu hỏi không đơn giản là do đâu? Chúng ta có quyền nghi ngờ sự thật về con dao này liên quan đến Hồ Duy Hải trong hồ sơ trình cho Hội đồng Thẩm phán Tối cao. Chỉ cần làm rõ thời gian nào nhân viên dọn dẹp báo lãnh đạo công an xã, huyện và thời gian nào lãnh đạo công an xã huyện ra lệnh đốt bỏ chứng cứ, thời gian nào các chứng cứ bị đốt bỏ, và cụ thể cá nhân nào lãnh đạo công an xã, huyện nào ra lệnh đốt bỏ chứng cứ là con dao và cái thớt rồi điều tra các cá nhân đó sẽ ra ngay những kẻ nào hoặc vì kém nghiệp vụ, vì vô trách nhiệm hoặc tham gia làm thay đổi nghi can giết người. Chú ý! Người được bốn người dọn dẹp ở ấp Cầu Voi báo cho việc thấy con dao chắc chắn phải là công an viên của xã mà họ ở cùng xã quen biết. Có hai công an viên xã liên quan đến vụ án đó là: -Nguyễn Văn Hải, người có thể đã tham gia hỏi cung Nghị nên biết rõ sự thật việc giết Hồng, Vân theo trình tự thế nào nói cho Hải biết để khai theo cho trùng hợp lời khai liên quan tới các chứng cứ. Rất tiếc không hiểu vì lý do gì đã chết. -Huỳnh Văn Minh, công an viên xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Rất tiếc không hiểu vì lý do gì cũng đã chết. ( Cái chết của Minh và Hải vẫn đang là câu hỏi chưa rõ câu trả lời.) Không khó để điều tra bốn người dọn dẹp là họ đã báo thông tin về con dao cho ai biết. Nếu là Minh và Hải thì Minh và Hải không đủ thẩm quyền ra lệnh cho bốn người dọn dẹp đổt bỏ con dao và cái thớt. Minh hoặc Hải phải báo cho cấp trên. Và rất có thể Minh và Hải biết lệnh thủ tiêu chứng cứ là từ ai và cùng biết rõ ai đã khai ra là thủ phạm. Việc xảy ra tiêu huỷ chứng cứ trong thời gian rất nhanh chỉ sau vụ án chưa đến một ngày. Như vậy có một đường dây nào đó lúc đầu chưa liên quan đến điều tra viên Lê Thành Trung và các điều tra viên của công an Long An đã bí mật can dự vào vụ án. Bằng chứng : Ngày 15 tháng 1 năm 2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An tìm kiếm con dao bị nhóm bốn người dọn dẹp hiện trường (Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng và Nguyễn Tuấn Ngọc) tìm thấy và đốt bỏ nhưng không tìm được, kể cả phần lưỡi dao bằng kim loại. Bằng chứng: Chiều cùng ngày, Nguyễn Văn Nghị, 28 tuổi, cư trú tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang bị triệu tập khẩn cấp tới Cơ quan điều tra tỉnh Long An để điều tra. Các trinh sát đặt nghi vấn vì sau khi xuất hiện tại Bưu điện Cầu Voi trong đêm 13 tháng 1, Nguyễn Văn Nghị đi đâu không rõ tới chiều 14 tháng 1 mới về nhà. Bằng chứng: Ngày 16 tháng 1 năm 2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An ra quyết định khởi tố vụ án giết người, cướp tài sản. Ngày 17 tháng 1 năm 2008, Biên bản giám định pháp y số 21/PY.08 ghi "có ít dịch nhầy trong âm đạo" của nạn nhân Hồng. và "dạ dày có chứa thức ăn đã nhuyễn, lượng ít".( chứng tỏ vụ án phải xảy ra sau khi ăn tối khá lâu chứ không phải lúc 8 g đến 8 g 30 tối, để sau này Nghị có chứng cứ ngoại phạm là 8 g 20 còn ở quán cafe ). Bằng chứng: người bán trái cây khai lời của Vân về thằng bồ người Tiền Giang của Hồng đưa tiền mua trái cây. Các bằng chứng lúc đầu trên chứng tỏ các điều tra viên tuy có một số sai sót về bảo vệ hiện trường nhưng các kết quả điều tra đều không hướng tới Hải mà đều chĩa tới Nghị. Nhưng chỉ hai tháng sau cái đường dây bí ẩn ngay sau xảy ra vụ án đã chi phối họ. Đường dây ấy là ai? Chắc chắn liên quan đến người cao cấp nhất ra lệnh đốt bỏ con dao và cái thởt. Một câu hỏi nữa. Vì sao lệnh là đốt bỏ chứ không phải vứt rác? Vì sao đốt bỏ mà con dao bằng thép lại cháy thành tro? Lưỡi dao không thể thành tro! Vậy lưỡi dao ai lấy? Vì sao lại lấy? Chả qua kẻ tham gia vụ án lo sợ bị lộ nên đã lén lấy đi lưỡi dao đã bị đốt. Vụ án Hồ Duy Hải thực chất rất đơn giản và công an Long An lập tức phá án, tìm ra ngay thủ phạm, như báo Công an đã vạch ra ngay sau khi công an Long An tìm ra kẻ có nhiều chứng cứ nhất giết người. Vụ án chỉ trở nên phức tạp khi sự thật bị thế lực nào đó đánh tráo để rồi từng nấc bị đẩy lên cao lôi kéo cả chuỗi vào việc bảo vệ cho việc chà đạp pháp luật và công lý. 17/17 vị thẩm phán tối cao trong đó có ngài chánh án Nguyễn Hoà Bình chỉ cần phát lệnh truy nã Nguyễn Văn Nghị để 17/17 vị đồng loạt trực tiếp xét hỏi cùng các chứng cứ và hồ sơ có sẵn lúc đầu của các điều tra viên Long An là lòi ra ngay. Đồng thời chỉ cần điều tra nhân thân của Nghị sẽ biết kẻ nào dúng tay vào vụ án này. Đây là lối thoát duy nhất cho uy tín của các vị. Cứ làm hết nhẽ đi. Nếu Nghị thật sự vô can thì cũng giải án oan cho Nghị và gia đình Nghị. Nếu Hải không thể chối cãi tội giết người thì nghiêm khắc trừng trị Hải và làm cho mẹ của Hải cùng dư luận tâm phục khẩu phục.  
......

Vạch trần bản chất phản động của tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền

nguyenvandai’s blog – RFA Đảng CSVN chuẩn bị kỷ niệm 130 năm ngày sinh Hồ Chí Minh, trên báo Quân Đội Nhân dân có mở chuyên mục “đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Các bài viết ở chuyên mục này tập chung vào việc ca ngợi câu nói của Hồ Chí Minh trong bản di chúc “đảng ta là một đảng cầm quyền”. Vậy Hồ Chí Minh nói đảng CSVN là một đảng cầm quyền có đúng hay không? Tại sao phải nói như vậy? Trước tiên chúng ta tìm hiểu định nghĩa thế nào là đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền trong tiếng Anh là “ruling party hoặc governing party”, chữ Hán – Việt : chấp chính đảng), lại gọi tắt đảng cầm quyền, là chỉ chính đảng được đa số Nhân dân lựa chọn và quyết định thông qua cuộc bầu cử tự do và công bằng có sự cạnh tranh của các đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau. Đảng thắng cử trở thành đảng cầm quyền và thành lập chính phủ. Như vậy, nguyên tắc bắt buộc là đã có đảng cầm quyền thì phải có đảng đối lập. Tức là chỉ trong chế độ chính trị dân chủ đa đảng và có bầu cử tự do thì một chính đảng được gọi là đảng cầm quyền khi chính đảng này thắng cử. Còn trong chế độ chính trị độc đảng thì gọi là đảng cai trị, hay chế độ đó gọi là chế độ độc đảng toàn trị. Chúng ta có kết luận đầu tiên là đảng CSVN không phải là đảng cầm quyền! Vậy tại sao Hồ Chí Minh phải để lại di chúc để nhắc nhở các lãnh đạo đảng CSVN sau này rằng: “đảng ta là một đảng cầm quyền”? Điều này có nghĩa là Hồ Chí Minh muốn rằng đảng CSVN phải nắm quyền lực một cách tuyệt đối, không được phép chia quyền lực với bất kỳ một đảng phái, tổ chức chính trị nào. Tức là Hồ Chí Minh yêu cầu các thế hệ lãnh đạo đảng CSVN tiếp theo phải giữ cho được quyền lực chính trị tuyệt đối. Đây là tư tưởng phản dân chủ và cực kỳ phản động của Hồ Chí Minh! Tại sao nói đây là tư tưởng phản dân chủ của Hồ Chí Minh? Tất cả chúng ta đều biết quyền lực chính trị, quyền làm chủ đất đều thuộc về Nhân dân ở mỗi quốc gia. Nhân dân nắm quyền lực chính trị tuyệt đối bằng lá phiếu của mình thông qua các cuộc bầu cử hay trưng cầu dân ý. Đảng nào muốn trở thành đảng cầm quyền thì phải giành được đa số phiếu bầu của Nhân dân thông qua bầu cử. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là cướp đoạt quyền lực chính trị vĩnh viễn của Nhân dân, cướp đoạt quyền làm chủ đất nước của Nhân dân. Đó là tư tưởng phản dân chủ của Hồ Chí Minh. Tại sao nói đây là tư tưởng cực kỳ phản động của Hồ Chí Minh? “Quyền lực làm tha hóa. Quyền lực tuyệt đối làm tha hóa tuyệt đối.” Triết gia Lord Acton đã nói. Hồ Chí Minh có hiểu điều này không? Xin khẳng định ngay rằng Hồ Chí Minh rất hiểu điều này. Ông ta biết rõ ràng là quyền lực tuyệt đối nằm trong tay đảng CS thì chắc chắn đảng CS sẽ nhanh chóng bị tha hóa và hủ bại. Và thực tiễn đã chứng minh một cách hùng hồn là sau 30 tháng 4 năm 1975, khi đảng CSVN nắm quyền lực tuyệt đối trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Các đảng phái chính trị bị tiêu diệt hoàn, đảng CS không còn đối thủ chính trị. Và đảng CSVN nhanh chóng tha hóa, hủ bại trở thành đảng tham nhũng, trở thành quốc nạn, đảng CSVN trở thành giặc nội xâm của đất nước và dân tộc Việt Nam. Tại sao Hồ Chí Minh biết mà vẫn dặn dò thế hệ đảng viên sau phải giữ cho được quyền lực tuyệt đối? Bộ máy tuyên truyền của đảng CSVN đã thổi phồng Hồ Chí Minh từ một người lãnh đạo tầm thường của một đảng trở thành anh hùng dân tộc, lãnh tụ của dân tộc, bắt Nhân dân phải tôn thờ,…. Và Hồ Chí Minh hiểu rõ, nếu đảng CSVN mất quyền lực thì mọi thứ xấu xa của Hồ Chí Minh sẽ bị vạch trần, đưa ông ta trở thành tội đồ của dân tộc. Đó là bản chất cực kỳ phản động của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai, đảng cộng sản Việt Nam không phải là đảng cầm quyền thì gọi là đảng gì? Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính và hất Pháp ra khỏi Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Đế Quốc Việt Nam được thành lập dưới sự trị vì của Hoàng Đế Bảo Đại và chính phủ của Thủ tướng Trần Trọng Kim. Ngày 14 tháng 8, Nhật tuyên bố đầu hàng. Quyền lực chính trị của đất nước Việt Nam lúc này nằm trong tay Hoàng Đế Bảo Đại và chính phủ của Thủ tướng Trần Trọng Kim. Ngày 19 tháng 8, Hồ Chí Minh cầm đầu đảng CSVN cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim. Ngày 23 tháng 8, đảng CSVN ép Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị, giao quyền lực cho Hồ Chí Minh và đảng CS. Chúng ta có kết luận thứ hai: đảng CSVN là đảng cướp. Tức là Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã dùng bạo lực để cướp chính quyền từ chinh phủ Trần Trọng Kim và Hoàng Đế Bảo Đại. Và từ năm 1945 cho tới nay, đảng CSVN vẫn sử dụng bạo lực và trấn áp để cướp quyền lực chính trị, quyền làm chủ đất nước của Nhân dân. nguyenvandai’s blog  
......

Thế giới đang mất niềm tin vào Trung Quốc qua đại dịch Covid-19

Trí Hưng - Việt Tân Hôm 4 Tháng Ba, 2020, Tân Hoa Xã đăng bài “Mỹ nợ Trung Quốc một lời xin lỗi, thế giới nợ Trung Quốc một lời cảm ơn”. Đó là thái độ trịch thượng cho rằng Trung Quốc vì chống lại dịch viêm phổi COVID-19 mới đã hy sinh. Nhưng trên thực tế, việc bùng phát dịch bệnh này là bắt đầu từ Vũ Hán, và cách Trung Quốc lên án, đe dọa các nước điều tra dịch bệnh. Ngoài ra những thiết bị y tế kém chất lượng và sự bành trướng ở Biển Đông, khiến hình ảnh Bắc Kinh sa sút. Thứ nhất, Trung Quốc không chấp nhận các yêu cầu điều tra nguồn gốc COVID-19 Cuối Tháng Tư, 2020, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump tuyên bố có bằng chứng nCoV lọt ra từ phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trước đó cáo buộc Trung Quốc không cho phép các nhà khoa học Mỹ tới nước này để điều tra về nguồn gốc của nCoV. Trung Quốc cũng thẳng thừng từ chối các nước Australia, Thụy Điển, Anh, Đức và Liên minh châu u (EU) đề nghị cần có cuộc điều tra về Covid-19 và cách Trung Quốc xử lý đại dịch. Và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng muốn tham gia làm rõ các vấn đề. Và tất cả đều bị từ chối. Theo Glaser cho rằng một số nước sẽ "làm căng" đến mức khiến quan hệ với Trung Quốc xấu đi. Trong đó có Trump, vì nếu nguồn gốc Virus này xuất phát từ Trung Quốc, thì việc "theo đuổi" này sẽ trừng phạt Trung Quốc và đây là điềm tốt với chiến dịch tái tranh cử của Trump vào Tháng Mười Một, 2020. Thứ hai, Trung Quốc cung cấp vật liệu, trang thiết bị y tế kém chất lượng cho thế giới Hôm 28 Tháng Tư, 2020, Ấn Độ thông báo muốn trả kit xét nghiệm nCoV mua từ Trung Quốc do không đảm bảo chất lượng. Trước đó, ngày 08 Tháng Tư, Phần Lan đã cáo buộc và đã thừa nhận hơn 2 triệu khẩu trang phẫu thuật và bảo vệ được họ mua từ Trung Quốc không phù hợp để sử dụng trong các bệnh viện. Các quan chức Phần Lan đã phát hiện những chiếc khẩu trang này không đáp ứng được các tiêu chuẩn sử dụng để phòng ngừa virus Corona mới trong điều kiện điều trị y tế. Bà Kirsi Varhila, Thư ký thường trực của Bộ Y tế Phần Lan, nói trong buổi họp báo: “Tất nhiên điều đó đã khiến chúng tôi thất vọng”. Mới đây nhất, theo Thủ tướng Igor Matovic, gần 1,2 triệu bộ kit xét nghiệm nhanh của Trung Quốc mà chính phủ Slovakia đã mua từ những người trung gian địa phương với giá 15 triệu euro (16 triệu USD) có kết quả xét nghiệm không chính xác và không thể phát hiện được COVID-19 trong giai đoạn đầu. Trong những tuần trước không chỉ Phần Lan ngay cả Anh, Tây Ban Nha, Canada, Hà Lan, Philippines, Croatia, Thổ Nhĩ Kỳ cũng có phàn nàn tương tự với khẩu trang và các sản phẩm y tế nhập từ Trung Quốc. Và đã cáo buộc khẩu trang mua từ Trung Quốc không đạt tiêu chuẩn và có vấn đề về chất lượng. Thứ ba, Trung Quốc tự đề cao sự giúp đỡ của nước này với các nước Thực chất việc giúp đỡ các nước về vật tư y tế, các trang thiết bị là biện pháp làm màu, tạo nét trước các nước đang chịu ảnh hưởng lớn từ dịch bệnh. Theo New York Times, chính phủ Đức phàn nàn rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc thúc giục các quan chức chính phủ và người đứng đầu công ty lớn của Đức viết thư bày tỏ lòng biết ơn và sự ủng hộ với sự hỗ trợ và nỗ lực chống COVID-19 của Bắc Kinh. Trung Quốc cũng hối thúc Tổng thống Ba Lan Andrzej Duda gọi điện cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình để cảm ơn về hàng viện trợ. Cuộc gọi này sau đó được truyền thông Trung Quốc đưa tin rộng rãi. Thứ tư, lợi dụng dịch bệnh, bành trướng Biển Đông Việc Trung Quốc với tham vọng thâu tóm Biển Đông là điều không ai lạ gì. Nhưng, lợi dụng dịch bệnh COVID-19 để biến tham vọng nhân đôi đó là hành động đê hèn của Bắc Kinh. Theo Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink vừa cho biết rằng Mỹ kịch liệt phản đối việc Trung Quốc lợi dụng đại dịch virus corona để tiến hành các hoạt động khiêu khích trên Biển Đông đồng thời khẳng định mối quan hệ đối tác giữa Mỹ và Việt Nam sẽ ngày càng vững mạnh hơn. Không dừng lại ở việc khiêu khích mà Trung Quốc đang hành động phi pháp trên luật pháp quốc tế như, trong ngày 24, Tháng Ba, 2020, Trung Quốc công bố khánh thành hai "trạm nghiên cứu khoa học", mà báo chí quốc tế gọi chính xác là các cơ sở quân sự mới, trên Đá Chữ Thập và Đá Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đến ngày 2 Tháng Tư, Trung Quốc dấn thêm một bước leo thang bằng sự kiện cho tàu hải cảnh đâm chìm 1 tàu cá và rượt đuổi, đánh phá 2 tàu cá Việt Nam khi đang đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Giữa lúc cả cộng đồng quốc tế đang tập trung vào việc ngăn chặn sự lây lan của virus corona khởi nguồn từ Trung Quốc. Trung Quốc đã công bố “tên tiêu chuẩn” cho hàng chục đảo đá và thực thể địa lý trên Biển Đông sau khi tuyên bố thành lập “quận Tây Sa” và “quận đảo Nam Sa” để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nơi Việt Nam có tuyên bố chủ quyền. Tiếp đến, Không quân Trung Quốc cũng bắt đầu các cuộc tập trận tại biển Hoa Đông, trong đó máy bay Shaanxi Y-8 thực hiện các hoạt động chống tàu ngầm trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển Đài Loan (Trung Quốc)… Đó là 4 vấn đề dẫn Trung Quốc đến sự mất niềm tin vào Thế Giới. Cách riêng, Xung đột Mỹ - Trung nghiêm trọng, căng thẳng leo thang trong bối cảnh Covid-19, cho nên việc tiếp tục gây xung đột với các nước khác đó là hậu quả gián tiếp Trung Quốc phải nhận. Trí Hưng  
......

Đại hội XIII, đốm lửa từ những hung thần Quảng Ngãi

Thu Hà – baotiengdan| Cội nguồn tội ác… Lê Viết Chữ sinh 20/1/1963 tại Nghĩa Hành, Quảng Ngãi. Ông Chữ xuất thân từ kỹ sư hàng hải, công tác tại Sở Giao thông vận tải (GTVT). Để tiến thân, ông Chữ ráng “phấn đấu” và vào ĐCSVN ngày 28/5/1994. Từ đây, Lê Viết Chữ leo nhanh lên những nấc thang quyền lực. Lần lượt nắm giữ chức giám đốc Sở GTVT, Phó chủ tịch, Chủ tịch UBND tỉnh. Hiện tại là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi. Lê Viết Chữ kết hôn với Cao Thị Hồng, sinh năm 1966, quê Phổ Ninh, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Cao Thị Hồng phụ trách tài vụ của Trung tâm đăng kiểm, đơn vị phụ trực thuộc nơi chồng bà làm giám đốc Sở. Hai vợ chồng họ giàu “nứt đố đổ vách”. Dư luận Quảng Ngãi cho rằng, vợ chồng ông Chữ “đầu cơ chính trị” khi bơm tiền để “chạy” cho Hồ Nghĩa Dũng, Ủy viên Trung ương, Bí thư Quảng Ngãi tái trúng cử BCH Trung ương khoá X, nắm chức Bộ trưởng Bộ GTVT, nhiệm kỳ 2006-2011. Đổi lại, ông Hồ Nghĩa Dũng kéo Lê Viết Chữ lên làm Bí thư Thành ủy TP Quảng Ngãi (tỉnh Quảng Ngãi) và “bảo kê”, can thiệp để Cao Thị Hồng thoát hiểm hình sự trong một vụ án tham nhũng chấn động đầu năm 2007. Rồi sau đó, dưới thời hai cựu Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, Nguyễn Hoà Bình (2010-2011) và Võ Văn Thưởng (2011-2014) tiếp tục giúp Lê Viết Chữ lần lượt leo lên Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi, đại biểu HĐND tỉnh khóa XI. Tháng 4/2014, Trung ương điều Bí thư Quảng Ngãi, Võ Văn Thưởng về giữ chức Phó Bí thư thành ủy TP HCM. Vị trí Bí thư Quảng Ngãi giao lại cho Phó bí thư tỉnh ủy Nguyễn Khôi phụ trách. Trước khi đi, ông Thưởng kịp giúp Lê Viết Chữ thay ông Cao Khoa làm Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi. Chiều 22/7/2014, HĐND Quảng Ngãi khóa XI họp kỳ 13, làm “thủ tục” 100% phiếu thuận, để Lê Viết Chữ nắm chức Chủ tịch UBND tỉnh, nhiệm kỳ 2011-2016. Với tiền bạc “đông như quân Nguyên”, chưa đầy một năm sau, tháng 5/2015 ông Chữ “rinh” luôn chức Bí thư Tỉnh ủy khoá XVIII của ông Nguyễn Khôi. Tháng 10/2015, Lê Viết Chữ, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi khóa XVIII (nhiệm kỳ 2010-2015) tiếp tục tái đắc cử Bí thư Tỉnh ủy, nhiệm kỳ 2015-2020. Dư luận Quảng Ngãi đồn đoán, ông Võ Văn Thưởng và Nguyễn Hoà Bình là hai nhân vật đã giới thiệu và “bảo kê” cho Lê Viết Chữ trúng cử Ủy viên Trung ương Đảng khoá XII. Thậm chí còn đưa ông Chữ vào Đại biểu Quốc hội khoá 14. “Bánh ít ném đi, bánh quy ném lại”. Thông tin về quan trường tỉnh Quảng Ngãi râm ran, ông Chữ đã tham gia “dốc hầu bao” cho cuộc đua vào Bộ Chính trị của Võ Văn Thưởng và vào Ban Bí thư của Nguyễn Hoà Bình tại Đại hội XII. *** Ngoài ra, ông Lê Viết Chữ còn liên quan đến trách nhiệm nâng đỡ bà Bùi Thị Quỳnh Vân, sinh 1974. Vân từ một cử nhân Ngữ văn đã được Lê Viết Chữ đưa lên làm Bí thư Đoàn TNCS tỉnh, rồi lần lượt nắm giữ Bí thư Huyện ủy Tư Nghĩa, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy; Bí thư Huyện ủy Lý Sơn. Dưới sự đạo diễn của các “đại ca”, tại Đại hội XII, Quỳnh Vân được vào Ủy viên dự khuyết Trung ương, để rồi ngay sau đó, leo lên chức Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ngãi. Tháng 4/2019, bà Vân kiêm luôn Phó Bí thư Tỉnh ủy, nhiệm kỳ 2016 – 2021. Giang hồ thầm thì, Bùi Thị Quỳnh Vân chính là “người tình” của Võ Văn Thưởng trong hơn 3 năm ông làm bí thư ở Quảng Ngãi. Dưới thời của “lãnh chúa” Lê Viết Chữ, rất nhiều thủ thuật và thủ đoạn chính trị được sử dụng. Bí thư Lê Viết Chữ chỉ đạo chính quyền Quảng Ngãi ăn cướp tất tật của dân. Quan chức dưới quyền răm rắp tuân lệnh, trung thành, để được chia chác bổng lộc. Từ cướp đất dân lành, mua quan, bán ghế, thu tóm quyền lực, cho đến lộng quyền sinh sát, tàn bạo và khát máu, Chữ không chừa bất kỳ chiêu thức gì. Ai đã bảo kê? Quảng Ngãi trở thành “sân sau”, hậu phương cả về kinh tài, lẫn chính trị của Nguyễn Hòa Bình và Võ Văn Thưởng. Mắc xích chính trị,  nợ ân tình của những đồng chí Cộng sản thật…”cao đẹp”.  Họ “dìu” nhau vẹn cả đôi bề. Võ Văn Thưởng và Nguyễn Hòa Bình Các vụ khiếu kiện, tố cáo của đảng viên, nhân dân Quảng Ngãi liên quan tới Bí thư Chữ, đều được Viện trưởng VKSND tối cao trước kia, nay là Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình và ngài cựu Bí thư Quảng Ngãi, nay là Bí thư trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Võ Văn Thưởng trực tiếp “bảo kê”, ém nhẹm, giải quyết êm thắm. Người dân thì bị cướp đất đai, tự thiêu, còn Lê Viết Chữ ung dung phía sau giao thầu cho doanh nghiệp sân sau, để xã hội đen lộng hành,… người dân biết, nhà báo biết, nhưng không báo “quốc doanh” nào dám đăng. Báo nào lỡ đăng, phải gỡ ngay sau đó, nếu không muốn bị “đóng cửa toà soạn” và tác giả cũng thân tàn ma dại. Để đưa con cái quan chức ra nước ngoài du học bằng “tiền chùa”, họ đẻ ra cái gọi là “đề án đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ, thu hút nhân tài”. Hàng trăm  tỷ chi ra từ ngân sách, để rồi du học sinh một số về làm quan, khỏi phải qua sát hạch, thi tuyển công chức; một số trốn ở lại nước ngoài, mua nhà, định cư, không về. Để có thể lộng hành trong nhiều năm, Lê Viết Chữ có trong tay áo quân bài Trần Ngọc Căng. Trần Ngọc Căng sinh năm 1960, quê Mộ Đức, Quảng Ngãi. Căng từng giữ các chức vụ: Trưởng ban tổ chức chính quyền (nay là Sở Nội Vụ), Bí thư huyện ủy Mộ Đức, Chánh Văn phòng tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận, Phó bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016. Nếu thành Hồ có cặp Lê Thanh Hải – Lê Hoàng Quân, Đà thành có Nguyễn Bá Thanh – Trần Văn Minh, Khánh Hoà có Lê Thanh Quang – Lê Đức Vinh, thì ở Quảng Ngãi có Lê Viết Chữ – Trần Ngọc Căng. Đây là những cặp đôi Bí thư – Chủ tịch UBND, trong số nhiều cặp đôi “ăn tàn phá hại” đất nước này. Bản chất của các “lãnh chúa” thành Hồ, “sứ quân” Nha Trang, “lưu manh chính trị” Đà Nẵng và “hung thần” Quảng Ngãi đều đặc trưng từ một “khuôn” đúc ra. Đó là hô biến hàng chục ngàn hecta đất đai mà chúng cướp từ công sản, vét vào túi hàng tỷ đô la. Bán cả đất sân bay quân sự, trường Đảng, phá rừng, san lấp đảo, “bóp cổ” cả dòng sông để phân lô bán nền. Kinh khủng hơn, bọn chúng bán cả đất phòng thủ ven biển cho Trung Cộng, “xẻ thịt” các đảo, bán đảo tiền tiêu trên biển. Để có đất giao cho Trịnh Văn Quyết và tập đoàn FLC, Lê Viết Chữ và Trần Ngọc Căng “uống thuốc liều”, yêu cầu Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ngãi không được xây dụng Đồn Biên phòng Bình Hải (huyện Bình Sơn). Họ phát công văn xin gặp Quân khu 5 và Bộ Quốc phòng xin đất quốc phòng, để giao cho Dự án quần thể du lịch và đô thị FLC Bình Châu, Lý Sơn, có tổng quy mô thực hiện giai đoạn 1 là 1.243 ha thuộc địa giới hành chính các xã ở huyện Bình Sơn và các xã ở đảo Lý Sơn. Dự án FLC “vẽ” ra gồm sân golf 18 lỗ, khách sạn 5 sao và các khu trung tâm thương mại, các khu Shophouse; khu biệt thực sinh thái, biệt thự nghỉ dưỡng, các khu ở tầng thấp, các khu vui chơi, giải trí… Về đại gia Trịnh Văn Quyết, Quyết FLC sinh ngày 27/1/1975, quê Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Quyết FLC nổi đình nổi đám với những dự án trải dài từ Bắc vô Nam. Quyết và FLC đi đến đâu, ruộng vườn, làng mạc, biển hồ, rừng núi tiêu tan đến đó. Mỗi nơi chúng đi qua, dân biểu tình, khóc cạn nước mắt, oan khiên ngút trời. Nhiều thông tin “rò rỉ”, phía sau Quyết là một số chính trị gia chống lưng, cũng như vốn vay huy động có “bóng dáng” của Hoa Nam tình báo cục. Điều phi lý là, tập đoàn FLC có vốn điều lệ 7.000 tỷ đồng. Tính đến hết quý I/2018, vốn chủ sở hữu của Tập đoàn này mới tăng lên là 8.620 tỷ đồng. Trong khi đó, nợ phải trả của FLC, hết quý I/2018 lên đến 14.947 tỷ đồng. Vậy mà, Lê Thế Chữ và Trần Ngọc Căng lại lệnh cho ban ngành Quảng Ngãi ứng 500 tỷ đồng để đền bù, giải phóng mặt bằng cho dự án của Tập đoàn FLC; huy động “toàn bộ hệ thống chính trị” phục vụ cho dự án. *** Năm 2015, xảy ra vụ án chấn động cả nước. Để chìu phu nhân Cao Thị Hồng, Lê Viết Chữ đã “bật đèn xanh” cho họ hàng bên vợ cướp của bà Phạm Thị Lê gần 1000 mét vuông đất ở Đức Phổ, Quảng Ngãi. Trước khi nhảy lên ghế Bí thư, ông Chữ với vai trò Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, đã ban hành Quyết định số 436/QĐ-UBND ngày 02/04/2015. Quyết định này công nhận QĐ của UBND huyện Đức Phổ đúng, chấp nhận cho ông Thạch Cảnh Phổ thắng, lấy được 975 m2 đất của bà Phạm Thị Lê. Sáng ngày 12/8/2015, chính quyền địa phương huy động hơn 20 công an, cán bộ kéo đến cưỡng chế, để bảo vệ cho ông Phổ xây dựng. Khóc cạn nước mắt, kêu oan không thấu trời, quá uất ức bà Phạm Thị Lê đã đổ xăng, tự thiêu ngay tại nền đất bị cướp. Bà Phạm Thị Lê trước và sau khi tự thiêu phản đối chính quyền cướp đất của bà Tội nghiệp bà Lê. Bà không chết, nhưng phỏng biến dạng. Một phụ nữ xinh đẹp, giờ hoá tật nguyền. Niềm tin cuối cùng của bà Phạm Thị Lê là công lý của Tòa án. Nhưng qua hai phiên tòa sơ thẩm ngày 27/5/2016 và phúc thẩm ngày 16/9/2016, Tòa án vẫn bác đơn khiếu kiện của bà Lê, công nhận Quyết định số 436/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi do Chủ tịch Lê Viết Chữ ký ngày 02/04/2015. Người phụ nữ tàn tật, chân lấm tay bùn, Phạm Thị Lê “đáo tụng đình” mà đâu biết rằng, trong thể chế này, công lý chỉ thuộc về kẻ có tiền và có quyền. Bà cũng không biết rằng, ngồi chễm chệ trên ghế Chánh toà Tối cao lại là “đại ca” của Lê Thế Chữ, ông Nguyễn Hoà Bình. Thế thì, quan toà cấp nào dám xử cho bà thắng kiện? *** Về công tác cán bộ, “Hung thần” Lê Viết Chữ bóp nghẹt dân chủ trong Đảng, tạo phe cánh chính trị ngay trong thành ủy. Người ngoài phe luôn bị trù dập, thuyên chuyển, phế bỏ hoặc “đánh” cho thân bại danh liệt. Cùng cánh hẩu, được quy hoạch “đúng quy trình”, bất chấp hướng dẫn khắt khe của Điều lệ Đảng và các văn bản quy phạm. Võ Đình Trà, Chủ tịch UBND huyện Bình Sơn “một rừng” sai phạm, nhưng vẫn được điều động về tỉnh làm Giám đốc Sở Công thương, gây nhiều bất bình. Nguyễn Viết Vy, Thư ký của Lê Viết Chữ, được điều làm Bí thư Huyện ủy Lý Sơn, “quy hoạch” vào Ủy viên dự khuyết Trung ương khoá XIII. Nguyễn Văn Huy, Thư ký của ông Trần Ngọc Căng, được bổ nhiệm làm Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh, cũng gây ra nhiều hoài nghi trong nội bộ. Đệ tử của Lê Viết Chữ là Nguyễn Minh Hùng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Dịch vụ GTVT Quảng Ngãi, cùng con gái là Nguyễn Thị Thanh Thanh chuyên xài bằng giả. Hùng và con gái sử dụng bằng PTTH giả, bằng đại học Kinh tế, lẫn đại học Sư phạm đều là bằng giả, để tiến thân, ăn trên ngồi trốc… *** Nhiều chuyện như thế, kể sao cho hết. Rồi đây, Trung ương có thể sẽ “cách tất cả các chức vụ trong Đảng” của Lê Viết Chữ và Trần Ngọc Căng. Nhưng tiền mà các hung thần cướp được hàng trăm tỷ trong nhiều năm “chăn dân” ở Quảng Ngãi, ai sẽ thu hồi? Nỗi đau chất chồng trong dân chúng Quảng Ngãi, ai có thể làm vơi đi? Tội ác mà những tay du côn, khoác áo chính trị gia, nhân danh những người cộng sản gây ra cho dân, không bút mực nào lột tả hết. Ngàn năm bia miệng, có thể lúc này, nhân dân không thể đưa bọn chúng ra pháp trường, nhưng cho dù khi họ nhắm mắt, chui vào quan tài và trốn dưới địa ngục, nhưng ngàn năm bia miệng, chúng không thể thoát được. Ở thế giới bên kia, chắc chắn những linh hồn oan khuất cũng sẽ liên kết, truy bắt những hồn ma nghiệt súc đã gây ra oan trái, tang thương ở chốn trần gian này./.  
......

Tôi đi tìm một điều trong phán quyết Hồ Duy Hải. Nhưng không thấy.

Nguyễn Quốc Tấn Trung - luatkhoa.org| Mùa hè giữa những năm 2000, tôi còn nhớ như in lúc mình lựa chọn giữa việc theo đuổi ngành giám sát không lưu và ngành luật. Tôi không phải là một học trò khá giỏi khối A: điểm Toán chỉ ở tầm trung và năng lực Hóa vừa qua khỏi mức “liệt”. May mắn thay, với mức điểm Lý “kịch trần”, tôi giành được một suất vừa vặn trong ngành giám sát không lưu không quá nóng hổi tại thời điểm đó, nhưng có vẻ rất hứa hẹn và ổn định. Kinh tế có phát triển hay không thì hàng hóa, con người vẫn cứ phải bay, tôi tự nghĩ. Riêng ngành hàng không tại Việt Nam chỉ có phát triển hơn nữa mà thôi.  Cũng trong kỳ thi đại học năm đó, tôi may mắn đậu thêm vào một trường đại học luật ở phía Nam bằng khối D. Vấn đề là gia đình tôi không có ai theo ngành luật. Vì vậy, như đại đa số học sinh phổ thông vừa ra trường chọn thi trường này, tôi không được định hướng rằng mình sẽ có thể làm gì với ngành luật, đặc biệt trong môi trường Việt Nam. Tôi từng rất quan tâm đến đời sống chính trị Việt Nam, nhưng khi nói đến tiền và việc duy trì đời sống thường nhật của mình bằng luật, cá nhân tôi quả thực thấy rất mơ hồ.  Về lý tính, đi theo con đường hàng không là giải pháp an toàn nhất cho tôi. *** Tháng 10, tôi đang hoàn tất tháng thứ hai học tập tại Học viện Hàng không. Cùng lúc đó, thư mời nhập học và thông báo về việc bắt đầu tuần lễ định hướng của trường đại học luật đến tay. Lựa chọn thế nào đây? Ở thời điểm này, trời xui đất khiến thế nào tôi tò mò bấm vào đường link một bản lậu của tập phim tài liệu vừa phát hành có tên gọi “The Most Dangerous Man in America”, mà theo tôi nhớ là chỉ vừa phát hành tại liên hoan phim Toronto vài tháng trước. Bộ phim kể về nhà phân tích có tên Daniel Ellsberg của Lầu Năm Góc (tức Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ), người tuồn những thông tin mật về chiến tranh Việt Nam cho tờ New York Times, và sau cùng là cho công chúng Mỹ. Vụ việc thường được biết đến với tên gọi “Vụ bê bối Hồ sơ Lầu Năm Góc” (The Pentagon Papers scandal). Đây không phải là những thông tin mới lạ với người có tìm hiểu sơ lược về chiến tranh Việt Nam. Chính phủ Mỹ quyết định kiện tờ New York Times vì đã công bố những tài liệu mật này, mà sau này trở thành án lệ New York Times Co. v. United States nổi tiếng trong lịch sử Mỹ. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tuyên chính phủ thua kiện để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của tờ New York Times và của công dân Mỹ. Đánh đổi lại là những thông tin tuyệt mật về chiến tranh – thứ mà tôi luôn nghĩ phải được bảo vệ bằng mọi giá – bị phơi trên mặt báo. Khó có thể miêu tả cho bạn đọc biết cảm giác của tôi lúc đó ra sao, nhưng nói ngắn gọn, bản án như mở ra cho tôi một thế giới khác. Nó nhắc nhở tôi biết rằng xã hội loài người luôn còn đầy ắp những lý tưởng khác, con đường khác và lựa chọn khác. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều lý thú tôi muốn nói đến với bài viết dài dòng này. Tìm đọc bản án, tôi nhận ra rằng trong các phán quyết của mình, các thẩm phán của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ không chỉ trích dẫn những điều luật khô khan để tuyên án. Họ còn bình luận về vai trò của luật pháp, về công lý, về lẽ phải, về cái gọi là sự thật trong một bản án, về ngôn luận, về nhà nước và về vai trò của tòa đối với xã hội. Tôi cũng biết thêm rằng họ không chỉ ghi nhận lại những quan điểm của các thẩm phán bỏ phiếu thuận với phán quyết cuối cùng (judgment và concurring opinion), mà còn ghi lại quan điểm của các thẩm phán phản đối (dissenting opinion). Và đây chính là thứ tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết này. Tôi đã gật gù, khi đọc phần ý kiến đồng thuận của Thẩm phán William O. Douglas: “Mục tiêu quan trọng của Tu Chính Án thứ Nhất là nhằm ngăn chặn việc phổ biến kiểu hành xử đàn áp thông tin của chính quyền. Xét về lịch sử, chúng ta biết rằng Tu Chính Án được thông qua nhằm vô hiệu hóa các án lệ thông luật liên quan đến tội phỉ báng (seditious libel – ND) luôn rình rập đe dọa những người dám chống lại các thế lực quyền uy. Vụ việc này sẽ đi vào lịch sử như là một ví dụ kinh điển của nguyên tắc mà Tu Chính Án muốn bảo vệ. … Bí mật trong hoạt động của Chính phủ luôn có bản chất phi dân chủ, và sẽ chỉ làm trầm trọng hơn những sai sót hành chính quan liêu. Trong khi đó, những tranh luận và thảo luận mở về các vấn đề công cộng lại cực kỳ quan trọng cho sức đề kháng của quốc gia.”  Nghe có vẻ rất hợp lý. Nhưng rồi cũng chính bản thân tôi sau đó lại phải tự vấn những gì mình vừa đồng tình khi đọc phần quan điểm phản đối của Chánh thẩm Warren E. Burger: “…mệnh lệnh vì một nền báo chí tự do, không ràng buộc đã phải đối mặt với một mệnh lệnh quan trọng không kém – quá trình quản trị hiệu quả một nhà nước dân chủ hiện đại phức tạp. Cụ thể hơn, đó là năng lực thực hiện trơn tru những quyền năng mà Hiến pháp trao cho chính phủ. Chỉ có những người cho rằng Tu Chính Án thứ Nhất là một quyền tự do tuyệt đối, một cách nhìn tôi tôn trọng nhưng cực lực phản đối, mới có thể nói rằng giải quyết sự mâu thuẫn giữa hai mệnh lệnh là một công việc dễ dàng. … New York Times viện dẫn ‘quyền được biết’ của công dân Hoa Kỳ để tung ra các bài viết về bộ Hồ sơ Lầu Năm Góc, cho rằng họ là người được công chúng ‘ủy thác’ chỉ vì chức năng báo chí của họ. Nhưng chẳng phải cũng chính họ đã nắm giữ nguồn tin mật này một cách phi pháp nhiều tháng liền trước khi tung ra chúng hay sao? Tôi tin là có lý do tốt đẹp cho việc đó. Họ cần phải đọc đến 7.000 trang tài liệu, tìm hiểu và nhận biết vấn đề của chúng, chưa nói đến việc viết ra một bài báo hay. Tốt thôi. Nhưng nếu ngay cả một người nắm giữ phi pháp những thông tin này được phép lựa chọn thời điểm công bố thông tin, tại sao Chính phủ Hoa Kỳ lại bị đặt vào áp lực công bố ngay, công bố toàn bộ những tài liệu mà họ – người sở hữu hợp pháp của lượng thông tin khổng lồ nói trên – còn chưa đủ thời gian để đánh giá vai trò và tác động của chúng đối với cuộc chiến và công luận?”  *** Từ đó, quyết định pháp lý đối với tôi quan trọng không phải là kết quả của nó ra sao. Đến cuối cùng, bản án không phải nơi chứng minh “sự thật khách quan”. Trong nhiều trường hợp, kể cả kẻ thủ ác cũng không thể xác định “sự thật khách quan” là gì và đã diễn ra như thế nào. Vì vậy, đóng góp của một bản án cho “sự thật khách quan” không quan trọng bằng đóng góp của nó cho triết học, lập luận và nhân sinh quan đằng sau kết quả cuối cùng.  Bản án là nơi những con người bằng xương bằng thịt theo đuổi niềm tin về công lý của chính bản thân mình. Bản án là nơi các quan điểm, cách tiếp cận, cách diễn đạt và các học thuyết chính trị – pháp lý được đưa vào thực tiễn; với động lực lý giải những hành vi được “giả định” là đã diễn ra thông qua hệ thống bằng chứng được thu thập một cách quy chuẩn, hợp pháp.  Các ý kiến bình luận của thẩm phán về những vấn đề nói trên có thể đại diện của lương tri, có thể là động lực của sự phát triển triết học pháp lý tại một quốc gia, có thể là nguồn của những thảo luận mới trong cộng đồng luật học, có thể là cây cầu dẫn công chúng đến tương lai. Và đôi khi chúng cũng là cảm hứng cho các câu chuyện nghề nghiệp mới cho người trẻ. Đó là những điều mà các văn bản quy phạm pháp luật vô tri không bao giờ làm được. Không có những ý kiến bình luận, những phản biện đi kèm, các phán quyết như cái cây không chịu mọc rễ. Chúng muốn tồn tại trong đất nhưng lại từ chối ăn sâu vào đời sống bằng những diễn giải hợp lý hay bằng cạnh tranh trí tuệ sòng phẳng. *** Nói đến đây, có lẽ bạn đọc biết được tôi đã quyết định chọn ngành học gì và bỏ ngành học gì. Và cũng may là, nhờ vào việc được đào tạo bài bản hơn, tôi biết rằng có những khác biệt cơ bản giữa tòa thông luật (kiểu Anh – Mỹ) và tòa dân luật (kiểu châu Âu lục địa). Tôi biết vì sao các thẩm phán dân luật sẽ luôn ở một vị thế thụ động hơn, yếu ớt hơn trong quá trình lập luận và giải thích quy định pháp luật. Tôi từng lắc đầu ngao ngán khi đọc và bình luận nhiều bản án hình sự dài chưa tới 20 trang của các Tòa Cấp cao Việt Nam, với 15 trang nội dung chép thẳng lại từ biên bản điều tra (được xem như “sự thật khách quan”) và đúng hai trang ý kiến của thẩm phán với khuynh hướng kết luận “đúng người, đúng tội”. Tôi thường tự trấn an mình rằng đây chỉ là bản chất của các tòa cấp thấp trong hệ thống dân luật mà thôi. Nhưng Tòa Tối cao thì sao? Cour de Cassation (Tòa phá án) hay Conseil d’État (Hội đồng Nhà nước) của Cộng hòa Pháp, quốc gia dân luật điển hình, có thể cho thấy sự phóng khoáng của những tòa tối cao thật sự trong các thảo luận và phản biện pháp lý liên quan đến các vụ án cụ thể, từ đó định hình nền tư pháp. Vậy nên ở một mức độ nào đó, Tòa Tối cao của một quốc gia cần tận dụng những thời khắc nhất định để khẳng định vai trò của mình đối với đời sống pháp luật quốc dân. *** Chiều ngày 8 tháng 5 năm 2020, phiên giám đốc thẩm của vụ án làm chấn động giới luật học và thu hút sự chú ý của hàng triệu độc giả Việt Nam đưa ra quyết định gần như cuối cùng. Tôi không phải một “đại luật sư” của ngành pháp luật hình sự, và cũng chẳng phải một chuyên gia đầu ngành triết học pháp lý. Tôi lại càng không có “hồ sơ án” trong tay, như nhiều người đòi hỏi. Vậy nên, tôi đã sẵn sàng chấp nhận mọi kết quả mà tòa có thể đưa ra. Tuy nhiên, tôi khao khát kết quả đó sẽ đi kèm với những bình luận (opinions) sắc sảo, đanh thép của các thẩm phán, mở ra những con đường mới, những thảo luận mới cho khoa học pháp lý Việt Nam. Điều đó đã không xảy ra. Quyết định cuối cùng được đi đến bằng cách bỏ phiếu. Toàn văn quyết định giám đốc thẩm không có gì khác ngoài viện dẫn các điều luật “chay” và những lập luận cũn cỡn. Quan điểm phản biện bên trong nội bộ Tòa Tối cao lại càng không thể tồn tại với tỷ lệ 17/17 thẩm phán đồng ý bác kháng nghị. Nói cách khác, các thẩm phán chỉ phán xét mà không cho công chúng và giới luật học biết lý do tại sao họ lại phán xét như vậy. Chỉ nhìn vào một vài “kết luận” của các thẩm phán thôi cũng có thể thấy hàng loạt những thảo luận pháp lý đang bị bỏ mặc. Thế nào là “…có sai sót nghiêm trọng tố tụng nhưng không làm thay đổi bản chất của vụ án”? Và thế nào là “bản chất vụ án”? Bản chất của vụ án rõ ràng không thể ám chỉ “sự thật khách quan”, bởi làm sao các cơ quan điều tra, các tòa biết được “sự thật khách quan”. Bản chất vụ án lại càng không thể được dựng nên dựa vào lời khai của bị can, bị cáo. Nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung đã tồn tại trong pháp luật hình sự Việt Nam được vài thập kỷ. Và việc xây dựng “bản chất vụ án” dựa theo lời khai tạo quá nhiều kẽ hở cho lạm quyền, mớm cung và bạo lực. Cái gọi là “bản chất vụ án” mà quyết định giám đốc thẩm nhắc đến chỉ có thể được xây dựng trên quá trình tố tụng và thu thập chứng cứ hợp pháp. Nếu những quá trình này xuất hiện các hiện tượng sai phạm và thiếu sót nghiêm trọng, như những gì Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao mô tả (và Hội đồng Thẩm phán thừa nhận), vậy “bản chất vụ án” mà quyết định giám đốc thẩm nói đến có còn là bản chất thật sự của vụ án? Viện Kiểm sát Tối cao đặt vấn đề rằng, chiếc ghế gây án, tấm thớt gây án và con dao gây án đều bị… tiêu hủy. Vậy cơ sở nào cho rằng chúng là hung khí? Không phải chỉ từ lời khai của bị can, bị cáo hay sao? Và cũng chính Viện Kiểm sát chỉ ra những thiếu sót từ việc xác định thời điểm chết của nạn nhân, vết máu, cơ sở ADN, dấu vân tay, địa điểm bán các vật dụng mà bị cáo cướp đoạt… Ở đây, tôi cũng xin nhắc lại là mình không minh oan hay làm thay việc của Viện Kiểm sát, của cơ quan điều tra, hay của Tòa. Thứ tôi khao khát là những lập luận, những diễn giải khiến tôi gật gù tâm đắc như tôi hơn 10 năm trước đã từng. Những thảo luận chuyên sâu hơn cho câu khẳng định giản đơn “…có sai sót nghiêm trọng tố tụng nhưng không làm thay đổi bản chất của vụ án” hoàn toàn có thể làm khuynh đảo các nguyên tắc hình sự nền tảng của nền tư pháp hình sự Việt Nam. Và Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao lại từ bỏ cơ hội có một không hai này để cho quốc dân thấy năng lực thật sự của mình. Thiếu diễn giải, 17 lá phiếu bác kháng nghị trở nên vô hồn, như những thuật toán tự động được lập trình trước. Thiếu phản biện, 17 lá phiếu bác kháng nghị trở nên cưỡng ép, hời hợt. *** Câu khẩu hiệu “đúng người, đúng tội” mà các thẩm phán nói đi nói lại vẫn còn văng vẳng trong tai tôi. Nhưng vì sao họ cho rằng bản án tử hình của Hồ Duy Hải là “đúng người, đúng tội” thì họ không nói. Trong khi, đáng lẽ ra, đó mới là công việc chính của họ. Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.  
......

Ngoại giao “chiến binh sói” khiến Trung Quốc bị gậy ông đập lưng ông

Thụy My - RFI Ngày 10/04/1974, Đặng Tiểu Bình, lúc đó là phó thủ tướng Trung Quốc, phát biểu trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc một bài diễn văn nổi tiếng, khẳng định: “Trung Quốc không phải là siêu cường và sẽ không bao giờ tìm cách trở thành siêu cường.” Ngày 10/04/2020, các nhà Trung Quốc học không thể không nhắc lại trên mạng xã hội câu nói trên, trong bối cảnh thực tế 46 năm sau hoàn toàn đi ngược lại. Bắc Kinh tung ra chiến dịch “ngoại giao khẩu trang” được dàn dựng kỹ lưỡng trên toàn thế giới. Điều này lại càng ấn tượng hơn khi chỉ mới vài tuần trước đó, Trung Quốc đòi hỏi các nước phương Tây giữ im lặng về viện trợ y tế cho tâm dịch Vũ Hán. Le Monde nhận xét, khi đến lượt châu Âu và Hoa Kỳ trở thành nạn nhân của con virus xuất phát từ Vũ Hán, Bắc Kinh cùng với sự tiếp tay của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) bèn cao giọng tuyên truyền việc xử lý khủng hoảng của Trung Quốc là hình mẫu cho toàn cầu. Thiếu chuẩn bị trước đại dịch, Mỹ trở thành quốc gia có nhiều người chết vì virus corona chủng mới nhất thế giới, còn châu Âu chiếm hai phần ba số trường hợp tử vong. Trung Quốc coi đây là cơ hội bằng vàng! Tập Cận Bình và các thủ túc như “quốc sư” Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) tin rằng không nên bỏ qua dịp may lịch sử. Một nhà ngoại giao châu Âu ở Bắc Kinh nhận định: “Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng để triển khai một chiến dịch truyền thông vô cùng hung hăng.” Ngày 16/04, Tập Cận Bình gọi ít nhất 36 cuộc điện thoại cho các nhà lãnh đạo khác trên thế giới. Thông điệp rất rõ: nếu có một người chỉ huy toàn cầu trong đại dịch, thì đó chính là chủ tịch Trung Quốc. Mỗi ngày, chương trình thời sự của đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV-1 luôn dành thời lượng cho hình ảnh những kiện hàng in dòng chữ “Viện trợ Trung Quốc cho một tương lai cùng chia sẻ” được đưa đến nhiều nước trên thế giới, khiến khán giả rất tự hào. Trên CCTV-2, có hẳn một chương trình mang tên “Cuộc chiến toàn cầu chống dịch bệnh,” trong đó phần lớn nói về viện trợ y tế của Trung Quốc. Hung hăng khác thường với phương Tây Một chỉ dấu khác về tâm lý siêu cường: các nhà ngoại giao Trung Quốc tỏ ra vô cùng hung hăng với phương Tây, và đặc biệt với tất cả những ai dám chỉ trích Bắc Kinh. Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian), phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc vào giữa tháng Ba ngang nhiên khẳng định con virus độc hại do quân đội Mỹ mang vào Hồ Bắc. Tại Brazil, đại sứ Trung Quốc cáo buộc con trai của tổng thống Jair Bolsonaro đã bị nhiễm “virus tâm thần ,” do ông này chỉ trích sự nhập nhằng của Trung Quốc về đại dịch. Tại Paris, đại sứ Trung Quốc Lô Sa Dã (Lu Shaye) không ngần ngại đăng bài viết vu cáo các viện dưỡng lão Pháp bỏ mặc người già chết đói và chết bệnh, khiến Bộ Ngoại Giao Pháp phải triệu tập ông này để phản đối. Tại Bắc Kinh, các nước phương Tây bị cáo buộc là chểnh mảng trong việc áp dụng các biện pháp chống lây nhiễm. Khu phố sang trọng Triều Dương (Chaoyang), nơi có nhiều đại sứ quán phương Tây vừa bị xếp là “khu vực nguy cơ cao nhất Trung Quốc.” Bắc Kinh đòi hỏi hàng ngày phải báo cáo thân nhiệt của từng nhân viên, nhưng nhiều sứ quán như Mỹ và châu Âu từ chối, nêu ra luật lao động. Càng tỏ ra hiếu chiến, thì các nhà ngoại giao Trung Quốc càng được coi là “chiến lang” tức “chiến binh sói” – theo bộ phim dân tộc chủ nghĩa ăn khách “Wolf Warriors” năm 2015, tung hô một kiểu Rambo Trung Quốc đi cứu thế giới. Hoàn Cầu Thời Báo hôm 16/4 vênh vang: “Thời kỳ Trung Quốc phải phục tùng đã qua rồi (…). Với vị trí đang lên trên thế giới, phía sau những gì mà các ‘chiến lang’ thể hiện, là tương quan lực lượng đang thay đổi giữa Trung Quốc và phương Tây.” Nhà nghiên cứu độc lập Trần Đạo Ngân (Chen Daoyin) nhận định: “Chủ thuyết ngoại giao của Tập Cận Bình buộc phải chiến đấu, bất chấp việc này có ảnh hưởng đến hình ảnh Trung Quốc hay không. Ông Tập muốn lập ra một trật tự quốc tế dựa trên các giá trị Trung Hoa. Dù các nhà ngoại giao có tinh thần dân tộc chủ nghĩa hay ôn hòa, họ đều phải tuân phục Tập Cận Bình. Nếu có khác biệt, chỉ là sự phân vai mà thôi.” Tuy vậy sự hiếu chiến này không được thống nhất ủng hộ ở Hoa lục. Dân Trung Quốc là những người đầu tiên nghi ngờ con virus thoát ra từ phòng thí nghiệm do sai sót. Và cái chết của bác sĩ Lý Văn Lượng (Li Wenliang), một trong những người đầu tiên cảnh báo về virus bị công an đàn áp, đã tác động sâu sắc đến tâm trí người dân dù người bác sĩ trẻ đã được phục hồi danh dự. Ngoại giao “chiến lang” khiến Trung Quốc bị cô lập Một số nhà ngoại giao kinh nghiệm như Thôi Thiên Khải (Cui Tiankai), đại sứ Trung Quốc tại Hoa Kỳ giữ một khoảng cách, cho rằng việc phát ngôn viên Triệu Lập Kiên nói rằng con virus do quân đội Mỹ mang vào Hoa lục là “có hại,” “không giúp ích cho ai cả.” Thi Trầm (Shi Zhan), giám đốc Trung tâm Chính trị Thế giới thuộc trường đại học Ngoại Giao Bắc Kinh cảnh báo trong một cuộc hội thảo hồi tháng Tư: “Ngoại giao ‘chiến lang’ không thể kéo dài, và có nguy cơ khiến Trung Quốc bị cô lập.” Theo ông, “Phương Tây có thể đưa những kỹ nghệ thiết yếu cho an ninh quốc gia trở về nước, thiết lập một hệ thống sản xuất độc lập với Trung Quốc;” trong khi đó Trung Quốc không thể sánh được về khía cạnh sáng tạo. Nếu Covid-19 đã làm lộ rõ việc Trung Quốc khống chế WHO, giờ đây Bắc Kinh phải tìm cách chối cãi việc đã làm áp lực để tổ chức quốc tế này không tuyên bố đại dịch sớm. Một chủ đề nhức nhối khác là Đài Loan: tuy không được Trung Quốc công nhận sự độc lập và gạt bỏ tư cách quan sát viên ở WHO từ năm 2016, Đài Loan đã thành công trong việc trở thành mô hình dân chủ chống dịch. Dù ở sát Trung Quốc, hòn đảo 23 triệu dân chỉ có 6 trường hợp tử vong vì virus corona mà không cần phải phong tỏa. Chưa hết, đến lượt Đài Loan tung ra “ngoại giao khẩu trang” khiến chính quyền Bắc Kinh cay cú. Tranh luận về xuất xứ con virus và con số người chết thực sự ở Trung Quốc đã đặt Bắc Kinh vào tình thế khó khăn. Phương Tây muốn buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về thảm kịch. Tại Úc, thủ tướng Scott Morrison tuyên bố hôm 22/04 đã liên lạc với các nhà lãnh đạo Mỹ, Pháp, Đức để đề nghị mở “điều tra quốc tế về đại dịch.” Tại Hoa Kỳ, các dân biểu chuẩn bị một dự luật đòi Trung Quốc phải bồi thường, một khi đã hết dịch; một số thượng nghị sĩ còn đòi trừng phạt. Nữ thượng nghị sĩ Cộng Hòa Marsha Blackburn của Tennessee đòi hỏi Bắc Kinh xóa một phần nợ của Mỹ. Tiểu bang Missouri hôm 22/04 đưa đơn kiện chính quyền, Đảng Cộng Sản và các định chế Trung Quốc trước tòa án liên bang vì đã “che giấu những thông tin quan trọng” vào đầu nạn dịch, bắt những người cảnh báo và giảm nhẹ tính chất lây nhiễm cao độ của virus corona. Tức giận trước tuyên bố của Triệu Lập Kiên, tổng thống Donald Trump gọi virus corona chủng mới là “virus Trung Quốc,” còn ngoại trưởng Mike Pompeo tố cáo “chiến dịch bóp méo thông tin” của Bắc Kinh. Gieo gió gặt bão! Từ khi Tập Cận Bình lên cầm quyền năm 2012, Bắc Kinh làm ngơ trước các vấn đề tự do ngôn luận và nhân quyền; thẳng tay đàn áp các luật sư, nhà tranh đấu, dân tộc thiểu số, gặm nhấm quyền tự trị của Hong Kong. Phương Tây bỗng nhận ra một Trung Quốc đang giấu diếm nhiều thứ, muốn viết lại lịch sử. Kết quả là 66% người dân Mỹ không ưa Trung Quốc, tăng 20% so với năm 2017 khi ông Trump vừa nhậm chức – theo thăm dò của Pew công bố ngày 21/04. Chưa bao giờ người Mỹ có cái nhìn tiêu cực đến thế về Tập Cận Bình: 71% không tin ông ta có hành động đúng đắn (“do the right thing“) trong đối ngoại. “Tiên hạ thủ vi cường” để tránh né sự thật Vấn đề trách nhiệm của Bắc Kinh là đặc biệt nhạy cảm. Ngay cả Iran, đất nước bạn bè và lệ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc về thương mại, phát ngôn viên Bộ Y Tế nước này cho rằng con số nạn nhân mà Bắc Kinh loan báo là một “trò đùa cay đắng .” Thủ tướng Đức Angela Merkel tuy không theo chân Mỹ, Anh đòi Trung Quốc phải trả giá, nhưng vẫn nhấn mạnh là Bắc Kinh cần minh bạch về nguồn gốc của con virus độc hại. Bild, nhật báo có số phát hành lớn nhất nước Đức, tố cáo Tập Cận Bình “quá dân tộc chủ nghĩa để có thể nói ra sự thật.” Julian Reichelt, tổng biên tập tờ báo lâu nay vẫn có thiện cảm với Trung Quốc, trong thư ngỏ đã giáng cho ông Tập những câu: “Ông đóng cửa tất cả các tờ báo và trang web chỉ trích những quy định mà ông áp đặt, nhưng lại không đóng những hàng quán bán súp dơi. Ông không chỉ giám sát dân mình, ông còn đặt họ và cả thế giới vào vòng nguy hiểm.” Ngay cả châu Phi, vùng đất ưu tiên của các nhà đầu tư Trung Quốc dưới khẩu hiệu “hợp tác Nam-Nam*,” cũng tỏ ra ít ngoan ngoãn hơn. Từ Lagos (Nigeria) cho đến Addis-Abeba (Ethiopia), giới trẻ phẫn nộ trước những hành động kỳ thị, đuổi người da đen ra đường ở Quảng Châu; khiến nhiều nước ở châu lục này và Liên minh Châu Phi phải lập tức phản đối Bắc Kinh. Đây là sự kiện chưa từng thấy trong quan hệ đôi bên. Tất cả những trò tuyên truyền của Trung Quốc giờ đây lập tức bị gậy ông đập lưng ông. Hôm 02/04 trên The Diplomat, 100 giảng viên đại học Trung Quốc đăng bài diễn đàn kêu gọi “nhân dân Mỹ” hợp tác với Trung Quốc chống dịch thay vì chỉ trích. Sau đó 112 nhà nghiên cứu, trí thức và chính khách phương Tây đáp lễ bằng một lá thư ngỏ mang tựa đề “Sự thống trị bằng sợ hãi của đảng Cộng Sản [Trung Quốc] gây nguy hiểm cho công dân Trung Quốc và thế giới.” Theo nhà Trung Quốc học Jean-Pierre Cabestan, Bắc Kinh tung ra “chiến tranh dư luận” nhằm “chiến thắng các thế lực thù địch,” nhưng do tuyên truyền quá trớn một cách thô bạo nên đã gây phản tác dụng. Tuy vậy Trung Quốc vẫn tiếp tục tả xung hữu đột: liên tục đe dọa Đài Loan, công khai đàn áp dân chủ Hong Kong trước cuộc bầu cử tháng Chín tới. Biển Đông lại trở nên căng thẳng: hôm 19/04 Bắc Kinh loan báo lập hai quận “Tây Sa và Nam Sa” để “quản lý” quần đảo Hoàng Sa (cưỡng chiếm của Việt Nam Cộng Hòa) và Trường Sa. Tất nhiên hành động này khiến Việt Nam – nước láng giềng “bất tuân thượng lệnh” đang thân thiện hơn với Mỹ làm Bắc Kinh bực tức –  phải lên tiếng phản đối. Đối với ông François Godement, chuyên gia châu Á thuộc Viện Montaigne: “Nếu các nhà ngoại giao Trung Quốc ‘tiên hạ thủ vi cường,’ đấy là vì họ có điều gì đó muốn giấu. Họ muốn tránh trả lời một số vấn đề, nhất là liên quan đến con virus từ Vũ Hán. Cách tự vệ tốt nhất là tấn công.” Le Monde kết luận, chưa bao giờ, kể từ thời Mao Trạch Đông rồi Đặng Tiểu Bình đến nay, chưa bao giờ giữa Trung Quốc và phương Tây lại có khoảng cách xa vời vợi đến thế. Thụy My — * Hợp tác Nam-Nam (South–South cooperation) về mặt lịch sử đó là một thuật ngữ được dùng bởi các học giả và các nhà hoạch định chính sách để mô tả việc trao đổi tài nguyên, kỹ thuật và tri thức giữa các nước đang phát triển, được biết đến là các nước ở nam bán cầu. (theo wikipedia)  
......

Virus hay hạt nhân, vũ khí nào mạnh hơn?

Đỗ Ngà| Ngày 26 tháng 4 năm 1986 lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Ukraina phát nổ. Lượng phóng xạ giải phóng vào không khí gấp 400 lần vụ nổ ở Hiroshima và Nagasaki cộng lại. Gió và mây đưa phóng xạ bay tứ tán. Trong vòng 24 giờ, Liên Xô cho huy động xe bus và nhiều phương tiện di chuyển khác để di tản tất cả 45 ngàn dân thành phố Pripyat đi nơi khác, và sau đó Liên Xô và Belarus di tản thêm gần 300 ngàn người trong vùng bị ảnh hưởng mạnh của chất phóng xạ. Thế nhưng người dân bị đi di tản thì vẫn không biết lí do. Mây và gió mang thần chết vi vu từ Liên Xô đến Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, Litva, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Áo, Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia, Slovenia, Thụy Sĩ, Đức, Italia, Pháp và Anh. Thế nhưng chẳng ai biết thần chết theo mây theo gió và hòa lẫn vào mưa đang trút xuống đầu họ cả?! Chính quyền Liên Xô đã vô trách nhiệm với thế giới như thế đó. Nhưng may thay, ngày 27 tháng 4 tại Nhà máy điện nguyên tử Forsmark -Thụy Điển cách Chernobyl 1.100 km, những nhân viên nhà máy đi qua một trong những máy theo dõi bức xạ thì máy đã báo động vì lượng phóng xạ trên người các công nhân cao bất thường. Đầu tiên các chuyên gia hạt nhân Thụy Điển nghĩ nhà máy của họ bị rò rỉ và kiểm tra, nhưng không phát hiện gì cả. Và tiếp tục phân tích, các chuyên gia này đã xác định các hạt phóng xạ mà họ tìm thấy trong cỏ là đặc trưng cho các nhà máy điện hạt nhân của Liên Xô. Ngoài ra, lúc đó, tại nơi này đang đón nhận gió từ phía đông nam và trời mưa ở phía đông bắc Thụy Điển làm lắng đọng phóng xạ rơi xuống đất ở khu vực đó. Tất cả các bằng chứng đều hướng về phía Liên Xô. Và Thụy Điển đã công khai chỉ đích danh Liên Xô là thủ phạm. Thấy hết đường chối cãi, cuối cùng, Liên Xô đã phải công bố rằng tổ máy số 4 tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở PriPyat-Ukraine đã phát nổ. Còn nhớ năm 2017, Kim Jong Un cho thử hạt nhân ở Punggye-ri dưới núi Mantap ở phía đông bắc nước này. Khi đó Mỹ cho vệ tinh và các phương tiện đo đạt khác theo dõi và phát hiện ra Triều Tiên đã tiến hành 5 trong số 6 vụ thử hạt nhân tại đây. Trong ngày 3 tháng 9 năm 2017 người ta phát hiện ra trận động đất 6,3 độ Richter. Và lúc đó phía Bình Nhưỡng thừa nhận rằng, họ đã thử bom nhiệt hạch. Nói tóm lại, người ta có thể dùng hạt nhân vào việc có ích lẫn cả việc chế tạo vũ khí, tùy theo mục đích của con người. Nhưng dù dùng vào mục đích gì đi nữa thì khi thảm họa xảy ra thì không ai có thể giấu diếm nó trước thế giới. Như vậy là với hạt nhân, người ta không thể che giấu được, nhưng về virus gây bệnh thì sao? Người ta có dễ dàng phát hiện ra nó như hạt nhân không? Không! Nếu nói khi để phát tán hạt nhân, chỉ sau vài ngày là thế giới phát hiện, nhưng thực tế cho thấy từ bệnh dịch SARS đến COVID-19 thì Trung Cộng vẫn có thể ém nó hàng tháng, thậm chí vài tháng. Nếu nói khi phát tán phóng xạ thì người ta không thể chối cãi được nhưng để phát tán virus thì nay đã hơn 5 tháng, Trung Quốc vẫn cứ chối bai bải ấy thôi? Và thậm chí họ còn tố ngược Mỹ đã sản xuất và mang con coronavirus ấy và mang sang “gieo“ ở Đại Lục kia mà?! Và đến nay, thế giới vẫn đang tranh cãi con coronavirus ấy là từ tự nhiên hay từ phòng thí nghiệm?! Năm 2005 một báo cáo về Chernobyl do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế-IAEA và Tổ chức Y tế Thế giới–WHO đưa ra con số thống kê là có 56 người chết ngay lập tức, 47 công nhân, có 9 trẻ em ung thư tuyến giáp và ước tính có khoảng 9.000 người đã chết vì một loại bệnh ung thư nào đó. Thế nhưng con số này còn rất khiêm tốn so với con số hơn 3,6 triệu người nhiễm và hơn 250 ngàn người tử vong do con coronavirus gây ra nếu tính đến hôm nay ngày 5 tháng 5. Vậy thì tại sao Trung Quốc lại không nghĩ đến việc phát triển vũ khí sinh học? Có thể nói virus là một vũ khí lợi hại hơn cả hạt nhân ở nhiều điểm, đặc biệt là những virus chủng mới. Cái lợi thứ nhất, là người ta có thể dùng nó để ném đá giấu tay rất hiệu quả trong khi hạt nhân thì không thể che giấu. Cái lợi thứ hai là nếu dùng nó, thì sức tàn phá còn kinh khủng hơn vì nó phát tán vùng rộng lớn hơn và lây lan khó kiểm soát hơn. Vậy thì lẽ nào Tàu Cộng không dùng nó để làm vũ khí? Không phải ngẫu nhiên mà trước khi bung con coronavirus, Tàu Cộng đã mua chuộc hoàn toàn dàn lãnh đạo WHO. Không phải ngẫu nhiên mà cách lãnh đạo Âu Châu và Hoa Kỳ chỉ đích danh phòng thí nghiệm Vũ Hán chứ không chấp nhận nguồn gốc từ thiên nhiên như Trung Quốc và WHO đã công bố. Với một bài test có mức độ gây hại của virus như thế, thì liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc có bỏ qua lợi thế của vũ khí sinh học không? Chính quyền nào tử tế thì chúng ta có thể tin rằng họ không phát triển thứ vũ khí này, chứ còn với chính quyền Trung Cộng thì chắc chắn họ không thể không bổ sung thêm vũ khí mới này vào kho. Tôi tin như vậy! -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://www.europarl.europa.eu/…/forsmark-how-sweden-alerte…  
......

“Vạn lý trường thành” trên Biển Đông?

Hiếu Linh - (VNTB) “Bộ Quốc phòng Đài Loan vào sáng thứ Hai (4/5) xác nhận rằng Trung Quốc đang lên kế hoạch thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.” Taiwan News gần đây đăng tải tin tức về Biển Đông nhưng ít người Việt chú ý đến. “Bộ Quốc phòng Đài Loan vào sáng thứ Hai (4/5) xác nhận rằng Trung Quốc đang lên kế hoạch thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.” ADIZ là không phận của một quốc gia, trong khu vực đó tất cả các máy bay được yêu cầu cung cấp nhận dạng, vị trí và chịu kiểm soát nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. “Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một ADIZ ở Biển Đông, nhưng họ vẫn chưa chính thức công bố.” Tính pháp lý của ADIZ là “đơn phương đặt ra dựa trên nhu cầu quốc phòng của quốc gia đó và nó không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.” Tại sao lại là ADIZ? Vào tháng 5 năm 2013, quân đội Trung Quốc đã đệ trình một đề xuất chính thức cho một ADIZ ở biển Hoa Đông. Kế hoạch này đã được phê duyệt vào tháng 8 bởi các cơ quan đảng, nhà nước và quân đội hàng đầu của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền cốt lõi tại vực này. Kế hoạch này sẽ giúp Bắc Kinh bảo vệ tốt hơn trước các mối đe dọa trên không. Các hành động ngăn chặn, giám sát, cảnh báo mở rộng với các máy bay chiến đấu trong vùng Biển Đông sẽ được Bắc Kinh tiến hành thường xuyên hơn trong tương lai. Có thể hình dung “tương lai Biển Đông” qua bài viết đăng tải trên Brookings (1), đó là “Vạn lý trường thành trên không” của Trung Quốc. Ý tưởng ban đầu về “Vạn lý trường thành trên không” có thể bắt nguồn vào ngày 1 tháng 11 năm 2009, nhân kỷ niệm 60 năm Không quân Trung Quốc. Thời điểm đó, Nhân dân Nhật báo đã xuất bản một bài báo có tựa đề “Xây dựng Vạn lý trường thành trong Vạn lý trường thành”, Tân Hoa Xã cũng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với Hứa Kỳ Lượng, Tư lệnh Không quân Trung Quốc, với tựa đề “Xây dựng Vạn lý trường thành trên bầu trời xanh.” Kết quả Bắc Kinh tuyên bố vào ngày 23 tháng 11 về ADIZ biển Hoa Đông mà không cần tham vấn bất kỳ quốc gia liên quan nào. Thực hiện ADIZ giúp Bắc Kinh thực hiện “vùng đệm” trên bờ biển, gia tăng các hoạt động quân sự của Bắc Kinh, làm thay đổi hiện trạng tranh chấp trong khu vực tương tự như lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và bồi lấp đảo nhân tạo, thúc đầu nhiều quốc gia lớn trong khu vực tăng cường quân sự, làm tăng căng thẳng và khả năng xảy ra va chạm trong vùng Biển Đông. ADIZ là cơ sở củng cố quan điểm “các lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ thực hiện các biện pháp phòng thủ khẩn cấp để đối phó với các máy bay không hợp tác trong nhận dạng.” Biện pháp phòng thủ khẩn cấp bao gồm: thẩm vấn, ngăn chặn, buộc hạ cánh hoặc thậm chí bắn hạ. Như vậy kế hoạch này sẽ hỗ trợ đắc lực cho Bắc Kinh trong tham vọng “đường chín đoạn” trên Biển Đông. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện giờ đang chứng tỏ mình đủ khả năng và sự quyết đoán trong duy trì lập trường cứng rắn về lợi ích chủ quyền tại Biển Đông. Sẽ phải làm gì? Dù thiếu các quy tắc ADIZ quốc tế nhưng với tham vọng của Trung Quốc, ADIZ sẽ hoàn tất tham vọng quân sự hoá tại Biển Đông của Bắc Kinh. Hãy tưởng tượng người Việt nhìn ra Biển Đông sẽ thấy vùng nhận dạng phòng không, lệnh cấm đánh bắt cá, chuỗi đảo nhân tạo với đầy đủ khí tài quân sự và cơ quan hành chính của Trung Quốc. (2) Liệu các phiên bản máy bay chiến đấu “Su” từ đất liền phóng ra các đảo tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam sẽ dễ dàng như trước hay sẽ gặp khó như tàu cá Việt Nam bị cảnh cáo, húc, đâm chìm khi đang khai thác hải sản tại ngư trường Việt Nam. Biển Đông không còn “dịu êm” như thời kỳ 2014 – khi Bắc Kinh đã quyết liệt hơn trên các cơ sở Biển Đông mà quốc gia này cưỡng chiếm có được. Chính quyền Việt Nam có thể làm gì? Điều cần thiết là sớm có động thái phản ứng, cùng các quốc gia có yêu sách trong ASEAN ra tuyên bố phản đối Bắc Kinh, tăng cường sức sẵn sàng chiến đấu của giới quân nhân, dung dưỡng lòng yêu nước của nhân dân cũng là điều cần thiết trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Hiếu Linh Nguồn: https://vietnamthoibao.org/vntb-van-ly-truong-thanh-tren-bien-dong Chú thích: (1) https://www.brookings.edu/opinions/chinas-adiz-over-the-east-china-sea-a-great-wall-in-the-sky/ (2) https://tuoitre.vn/bien-dong-adiz-va-nhung-he-luy-1141501.htm  
......

Covid-19 : Sức kháng cự kỳ diệu châu Phi hay bài học cho các nước giàu ?

Khách hàng tuân thủ "giãn cách xã hội" trước một tiệm bánh ở Nam Phi, ngày 05/05/2020. REUTERS - Siphiwe Sibeko Anh Vũ - RFI| Gần đến ngày được giải tỏa 11/05, người dân Pháp vừa mong chờ vừa lo lắng. Còn chính phủ, chính quyền địa phương thì căng thẳng với các giải pháp sau ngày dỡ bỏ lệnh phong tỏa đang gây không ít hoài nghi, tranh cãi và các vấn đề nảy sinh. Đó là những thông tin chiếm phần chính các trang báo Pháp ra ngày 07/05/2020. Trong khi nước Pháp cũng như các nước ở khắp châu Âu đang dò dẫm từng bước để thoát ra khỏi vòng phong tỏa của đại dịch virus corona, thì nhật báo Libération chú ý đến châu Phi. Dường như lục địa nghèo và lạc hậu này đã thoát được nạn dịch của thế giới một cách ngoạn mục. Đây là sự kiện chính của Libération với câu hỏi lớn trên trang nhất : « Covid-19 : Vì sao châu Phi thành công? ». Khi trận dịch Covid-19 xuất phát từ Trung Quốc và hoành hành khắp thế giới, giới chuyên môn đã cảnh báo liên tục lục địa đen sẽ rơi vào thảm họa y tế. Thế nhưng  « thảm họa đã không diễn ra ở châu Phi », ít ra là cho đến thời điểm này, như ghi nhận của Libération. Đây cũng là thắc mắc của các chuyên gia dịch tễ. Phải chăng câu trả lời nằm ở các điều kiện dân số, khí hậu, cách sống… tất cả chỉ có thể là những giả thuyết cố gắng lý giải thực tế châu Phi được trận đại dịch này chừa ra. Libération nhận thấy châu Phi từ trước đến giờ vẫn gắn với những bất hạnh, nghèo khổ, dịch bệnh, hạ tầng cơ sở y tế thấp kém nhất thế giới và nhất là đang có trao đổi làm ăn rất tấp nập với Trung Quốc, nước xuất khẩu dịch Covid-19, thế mà giờ đây lục địa này lại ít bị dính dịch nhất, bất chấp các dự báo thảm họa của các chuyên gia ở Tổ Chức Y Tế Thế Giới cũng như tình trạng nghèo nàn lạc hậu của châu lục. Theo tờ báo, trên số dân hơn 1 tỷ người của lục địa đen đến giờ có hơn 48 nghìn ca nhiễm, số tử vong là hơn 1.900 người và hơn 16 nghìn người khỏi bệnh. « Chiếm 17% dân số địa cầu, châu Phi chỉ có 1% bệnh nhân và dưới 1% số tử vong của thế giới. Một tỷ lệ mà các nước phát triển nhất thế giới lúc này đều phải ghen tỵ ». Giả thuyết đánh giá thấp số liệu thống kê cũng bị loại trừ vì giới y tế quốc tế đã theo dõi khá sát tình hình dịch bệnh ở các bệnh viện nhiều nước trọng điểm của châu lục, hầu hết không có gì là căng thẳng hay quá tải. Tuy nhiên, những lo lắng cho châu Phi là có cơ sở. Tờ báo dẫn ra số liệu : Tại khu vực Bắc Phi bình quân 10 nghìn dân mới có 2,2 bác sĩ. Trong khi châu Âu con số này là 35. Chi phí cho y tế tính theo đầu người ở những nước khá giả của châu Phi như Mozambique, Cameroun cũng không vượt quá 25 đô la. Nếu dịch lan tràn thì các nước châu Phi làm sao có khả năng chống chịu nổi. Bất ngờ của châu Phi hay chỉ là phản ứng nhanh ? Bên cạnh những giả thuyết về độ tuổi dân số châu Phi chủ yếu là trẻ (2/3 dân số dưới 35 tuổi), một số nhà quan sát ghi nhận, châu Phi là nơi có tần số cao nhiễm các dịch bệnh khác, từ HIV, lao hay sốt rét và sốt xuất huyết Ebola, từng làm hàng trăm nghìn người châu Phi thiệt mạng… có thể vì được trải qua các thử thách lớn đó mà dân cư châu Phi đã phát triển một số kháng thể đặc biệt nào đó ? Một lý do khác có lẽ thực tế và thuyết phục hơn. Theo ghi nhận của đó là các nước châu Phi nhìn chung đã phản ứng nhanh. « Ngay từ khi phát hiện những ca nhiễm đầu tiên các nước châu Phi đã áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt và hành động nhanh hơn các nước châu Âu rất nhiều ».  Thí dụ như Maroc, khi mới ghi nhận 7 ca nhiễm ngày 13/03, nước này đã đóng cửa ngay với bên ngoài. Ngay sau đó, Maroc chuyển đổi các nhà máy dệt may sang sản xuất khẩu trang với công suất 5 triệu chiếc mỗi ngày. Nhiều nước khác ở châu lục này cũng đã hành động tương tự và nhanh chóng ra lệnh phong tỏa cả nước dưới sự giám sát chặt chẽ nếu không muốn nói là hà khắc, nhưng hiệu quả. Giờ đây một loạt nước châu Phi đã bắt đầu tiến hành dỡ bỏ phong tỏa. Tất nhiên là vẫn phải thận trọng vì mối đe dọa virus corona vẫn còn đó. Nhiều tổ chức phi chính phủ lo ngại niềm tự hào đã khống chế trước mắt được dịch có thể khiến châu Phi tin là đã được miễn dịch với virus. Dù chưa thể có lý giải nào thích đáng cho hiện tượng « kỳ diệu châu Phi » kháng cự khá tốt với đại dịch, Liberation vẫn nhìn nhận đó là « bài học » đáng phải suy ngẫm cho phần còn lại của thế giới. Rõ ràng châu Phi lại tỏ ra có kinh nghiệm và hiệu quả chống dịch bệnh nhiều hơn cả các nước Âu – Mỹ. Căn nguyên của dịch bệnh Vẫn trong chủ đề về dịch bệnh, Libération có bài : « Y tế và khí hậu: Căn bệnh gốc », phác họa một vài nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh trên thế giới. Theo tờ báo, chính việc làm đảo lộn môi trường tự nhiên, phá hủy đa dạng sinh học, làm rối loạn bầu khí hậu là những yếu tố thuận lợi cho bệnh tật tràn lan và xuất hiện các đại dịch. Libération nhận xét: « Trong vòng một thế kỷ, các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã giúp giảm số người mắc bệnh, nhưng số lượng bệnh dịch cùng với sự biến hóa tiếp tục gia tăng. Thế giới đã biết đến nhiều trận dịch xuất hiện, lây lan cùng với quá trình nóng lên toàn cầu, chất lượng không khí giảm sút, hệ sinh thái bị đảo lộn, hủy hoại… » Tờ báo dẫn cảnh báo của Marion Borderon, nhà nghiên cứu địa lý thuộc Đại học Vienna, Áo : « Nếu dưới tác động từ cách thức sản xuất của chúng ta, môi trường tiếp tục bị hủy hoại, có thể lại sẽ có một trận dịch khác giống như Covid-19 xuất hiện ».  Như thế không phải loài người không có cách tránh. Tôn trọng không gian sinh tồn của các sinh vật sống, động cũng như thực vật, đó là giữ gìn lá chắn thiên nhiên bảo vệ xã hội. Tổng giám đốc Tổ chức Bảo vệ Thiên nhiên Hoang dã (WWF) của Pháp, bà Véronique Andrieux khẳng định : « Chúng ta phải hiểu là cội rễ của trận đại dịch này nằm ở trong sự lựa chọn tiêu thụ của chúng ta, như trong thực phẩm của chúng ta. Đòn bẩy có hiệu quả để thay đổi là ngừng phá rừng, giảm tiêu thụ thịt, khoanh vùng lại sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở mô hình nông nghiệp sinh thái. Chúng ta phải thay đổi cơ bản trong quan hệ với thiên nhiên ». Trách nhiệm hình sự trong xử lý dịch bệnh ? Liên quan đến khủng hoảng dịch tễ hiện nay, nhật báo Công Giáo La Croix quan tâm đến thời sự ở nước Pháp : Cuộc tranh luận tại Quốc Hội Pháp về trách nhiệm hình sự trong việc xử lý dịch. Xã luận tờ báo ghi nhận : « Như trong những lĩnh vực khác, cuộc khủng hoảng dịch tễ hiện nay đang làm nổi lên một thách thức pháp lý và tư pháp ». Tờ báo nhắc lại những sự kiện thời sự liên quan : Tòa Bảo Hiến Đức, hôm thứ Ba 05/5, đòi Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu phải giải thích trước tòa về hành động đối phó với khủng hoảng kinh tế. Donald Trump muốn Trung Quốc phải bồi thường hàng tỷ đô la thiệt hại vì gây ra vụ dịch này. Tại Pháp thì là cuộc tranh luận gay gắt về trách nhiệm hình sự của các thị trưởng, lãnh đạo làng xã hoặc người chủ thuê lao động trước nguy cơ để dịch lây lan.  La Croix kết luận : « Hiện tượng  gia tăng "tư pháp hóa" đời sống xã hội này đáng lo ngại. Xu hướng này sẽ dẫn đến tình trạng đổ xô kiện cáo và làm chậm lại các ứng phó với khủng hoảng… Trách nhiệm cần phải làm sáng tỏ. Nhưng không nhất thiết phải qua vô số các phiên tòa. » Pháp : Huấn luyện chó đánh hơi tìm bệnh nhân Covid-19 Phần cuối của mục điểm báo hôm nay là thông tin về một thử nghiệm khá hấp dẫn liên quan đến Covid-19 trên Le Figaro với tiêu đề : « Covid-19 có mùi không ? » Theo tờ báo từ hôm 30/04, hơn chục chú chó berger chuyên đánh hơi tìm ma túy, hàng lậu hay chất nổ, tại Pháp và Liban được tập trung tham gia vào dự án Nosais, của Dominique Grandjean, giáo sư Trường Thú Y Quốc Gia Alfort. Mục đích là thử dùng tài đánh hơi của các chú chó để xác định người nhiễm Covid-19, kể cả trường hợp không phát triệu chứng bệnh. Các chú chó được cho làm quen với mùi mồ hôi của một số bệnh nhân để sau đó có thể phát hiện những điểm chung ở các mẫu liên quan đến người bị dương tính với Covid-19. Sau thành công thử nghiệm cho chó đánh hơi phát hiện người mắc bệnh ung thư và dựa trên cơ sở mỗi nhân tố truyền nhiễm đều sinh ra các chất chuyển hóa, được bài tiết ra ngoài, giáo sư Grandjean nhận thấy bệnh nhân Covid-19 dường như cũng tiết ra những thành phần có mùi khác thường và với khả năng đánh hơi đặc biệt, chó có thể tìm ra sự khác biệt này. Thử nghiệm đang được tiến hành và cho kết quả bước đầu khá khả quan, các chú chó đường như phân biệt được mùi của người âm tính và dương tính, nhưng những người thực hiện khóa huấn luyện này còn phải tiếp tục tập hợp các số liệu và kiểm chứng khoa học tin cậy hơn. Nếu dự án Nosais thành công thì sẽ là công cụ bổ trợ có thể làm trên diện rộng, để sau đó người có khả năng nhiễm bệnh được làm các xét nghiệm khác kỹ hơn. Kết quả của « khóa huấn luyện » đặc biệt này sẽ có vào giữa tháng 5 này. Biết đâu những chú chó tinh khôn này lại chẳng hiệu quả không kém gì các phần mềm thông minh truy tìm ca nhiễm virus mà các nhà khoa học đang đau đầu tìm kiếm?  
......

Chân rết ở Canada của Mặt trận Thống nhất giúp Bắc Kinh thu gom thiết bị bảo hộ chống coronavirus

(Ảnh: GFX) Sam Cooper, Global News - Phạm Vũ Lửa Hạ dịch Vào giữa tháng 1/2020, các lãnh sự quán Trung Quốc tại Canada và khắp thế giới đã thực hiện một cuộc gọi khẩn cấp. Trung Quốc lo ngại rằng coronavirus chủng mới đang hoành hành ở Vũ Hán nguy hiểm và lây nhiễm nhanh tới nỗi y tá và bác sĩ ở đó sẽ cạn kiệt thiết bị an toàn. Trung Quốc cần thiết bị bảo hộ cá nhân. Chỉ trong sáu tuần, Trung Quốc nhập khẩu 2.5 tỷ thiết bị bảo hộ chống dịch bệnh, trong đó có hơn hai tỷ khẩu trang an toàn, theo số liệu của chính phủ Trung Quốc. Và điều này làm dấy lên nhiều quan ngại lớn về nhiều khía cạnh, theo giới chỉ trích, trong đó có dân biểu Erin O’Toole [ứng cử viên thủ lãnh Đảng Bảo thủ, đảng đối lập chính thức tại Hạ viện Canada].  Trung Quốc rõ ràng che giấu mức độ của một đại dịch gây nguy hiểm cho thế giới trong khi bí mật thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân với giá thấp. Chiến dịch “lén lút” này khiến “thế giới hết sạch thiết bị bảo hộ cá nhân”, theo phát biểu của Jorge Guajardo, cựu đại sứ Mexico tại Bắc Kinh, với đài Global News.  Kết quả: bắt đầu từ tháng 3, sau khi COVID-19 đã lan khắp toàn cầu, các quốc gia từng cung cấp khẩu trang cho Trung Quốc hồi tháng 1 và tháng 2 đã buộc phải cạnh tranh để mua hàng của Trung Quốc.  Vào cuối tháng 1, các nguồn tin trong giới sản xuất chế tạo và và quân sự đã cảnh báo các chính phủ phương Tây rằng Trung Quốc dường như đang bí mật chiếm giữ nguồn cung thiết bị bảo hộ cá nhân toàn cầu, theo dân biểu O’Toole và cựu đại sứ Guajardo. Nhưng giới lãnh đạo ở Canada đã không hành động, theo dân biểu O’Toole. “Một nguồn tin nói với tôi hồi tháng 1 rằng các cơ quan quân sự và cơ quan ứng cứu khẩn cấp biết rõ là Trung Quốc đang tích trữ khẩu trang và nhìn chung thu gom tất tần tật những gì họ có thể mua,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn với đài Global News. “Và chúng tôi biết … rằng giới chức cấp cao tại Bộ Công chánh Canada, vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2, cũng đã biết chuyện [Trung Quốc] thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân.” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Đài Global News đã điều tra về những phương pháp rối rắm và những tay chân bí mật được Bắc Kinh dùng để âm thầm gom hết thiết bị bảo hộ cá nhân khắp thế giới trong một chiến dịch cấp nhà nước. Trung Quốc đã sử dụng các kênh ngoại giao, các công ty quốc doanh và các hiệp hội cộng đồng Hoa kiều được cho là ngày càng chịu ảnh hưởng của Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất, thường gọi tắt là Mặt trận Thống nhất, đầy uy quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình. Và thông qua các mạng lưới Mặt trận Thống nhất đóng tại các lãnh sự quán Trung Quốc tại các thành phố từ Vancouver, Toronto, tới New York, Melbourne và Tokyo, Trung Cộng đã kêu gọi hàng triệu “Hoa kiều” mua khẩu trang N95 với số lượng lớn để “gởi về tổ quốc những lô hàng khan hiếm”. Dẫu các phương pháp của Trung Quốc rất đáng lo ngại, chiến dịch này thậm chí còn trông kinh khủng hơn khi được soi rọi kỹ lưỡng vì một số tổ chức dường như có dính líu trong các nỗ lực của Mặt trận Thống nhất ở Canada bao gồm các thành viên trước đây từng bị Cảnh sát hoàng gia liên bang Canada (RCMP) và Cơ quan Tình báo An ninh Canada (CSIS) theo dõi hoặc điều tra, theo các nguồn tin RCMP và CSIS. Ngấm ngầm Một số thành viên Mặt trận Thống nhất ở Vancouver đã bị các cơ quan thực thi pháp luật Canada để ý. (Ảnh: GFX) Chiến dịch nhập khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân của Trung Quốc đã được báo chí nhà nước Trung Cộng mô tả như một nỗ lực thời chiến. Và chiến dịch đó thành công mỹ mãn. Theo một báo cáo của Quốc hội Mỹ được công bố hồi tháng 4, từ ngày 24 tháng 1 tới ngày 29 tháng 2, Trung Quốc đã đẩy mạnh sản xuất khẩu trang và áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu đối với các công ty nước ngoài đóng tại Trung Quốc như hãng sản xuất khẩu trang Medicom của Canada và hãng sản xuất khẩu trang 3M của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc đã nhập khẩu 2.02 tỷ khẩu trang an toàn, theo hồ sơ hải quan tháng 3 năm 2020 của Bắc Kinh. Trung Quốc nhập khẩu 2.02 tỷ khẩu trang trong sáu tuần, theo số liệu của chính phủ Trung Quốc. (http://www.gov.cn) “Để bảo đảm đủ nguồn cung nội địa để chống COVID-19, (Bắc Kinh chỉ đạo) các văn phòng khu vực ở Trung Quốc và ở nước ngoài làm việc với các hiệp hội ngành nghề ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc để ưu tiên thu gom vật tư từ các nguồn toàn cầu,” báo cáo này viết. Lời hiệu triệu toàn cầu về khẩu trang đã được đăng lên các trang mạng của Mặt trận Thống nhất và được gởi tới các lãnh sự quán Trung Quốc nơi các cán bộ của Mặt trận Thống nhất được cài vào. Những lời kêu gọi được đưa ra vào khoảng ngày 14 và 15 tháng 1, khi giới chức Trung Quốc nhận được chỉ thị bí mật từ Tập Cận Bình, và tất cả các vùng đã được khuyến cáo “chuẩn bị và ứng phó với đại dịch”, theo các tài liệu bị rò rỉ được trích dẫn trong một phóng sự điều tra của Associated Press. Nhân viên bệnh viện được lệnh mặc đồ bảo hộ.  Guajardo, cựu đại sứ của Mexico tại Bắc Kinh, nói với đài Global News rằng vào ngày 23 tháng 1, khi Trung Quốc phong tỏa Vũ Hán, ông đã nhận ra Bắc Kinh nhập khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân với số lượng lớn.  Guajardo, hiện đang làm việc tại một công ty tư vấn ở Washington, DC, cho biết vào giữa tháng 1, ông được một nguồn tin trong ngành logistics chuỗi cung ứng của Mexico liên lạc.  “Họ nói, ông biết không, buồn cười là tôi đang ngập đầu với các đơn đặt hàng yêu cầu tôi tìm được bao nhiêu khẩu trang N95 thì gởi hết sang Trung Quốc.” Ông nói rằng ông đã thử kiểm tra một số nơi tại Mỹ và ước đoán rằng lượng thiết bị bảo hộ cá nhân đang biến mất dần từ ​​những nơi bán lẻ thông qua các phương pháp “ngấm ngầm”. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Tôi nghĩ, ‘Trời đất ơi, họ đang thu gom hết nguồn cung N95 trên thế giới,’” Guajardo nói với đài Global News. Ông tin tới nỗi ông đã viết trên Twitter vào ngày 27 tháng 1 dự báo điềm gở sắp khan hiếm thiết bị bảo hộ cá nhân ở Bắc Mỹ. Vào tháng 3, những khẩu trang từng bán cho Trung Quốc vào tháng 1 và tháng 2 đã được bán lại cho Mexico với giá gấp 20 tới 30 lần, theo Guajardo. Và báo Washington Post và đài CNN tường thuật hồi tháng 4 rằng thiết bị bảo hộ cá nhân đôi khi có giá hơn 1000% so với giá vào đầu tháng 1.  “Đại dịch này đã trở nên phức tạp vì Trung Quốc giấu giếm lúc ban đầu,” Guajardo nói. “Và nay nó càng phức tạp hơn nữa do Trung Quốc khiến thế giới hết sạch thiết bị bảo hộ cá nhân.” “Họ khởi xướng đại dịch và nay họ đang trục lợi từ nó.” Guajardo cũng nói rằng theo kinh nghiệm của ông về Trung Quốc, khẩu trang nay được bán ngược lại sẽ không những có giá cắt cổ và có thể kém chất lượng mà còn có yêu sách chính trị về dài hạn. Trung Quốc tăng cường sản xuất thiết bị bảo hộ cá nhân trong khi cấm xuất khẩu và tăng nhập khẩu, theo báo cáo quốc hội Mỹ. (Congressional Research Service) Báo cáo quốc hội Mỹ được công bố hồi tháng 4 cũng có kết luận tương tự: “Chính phủ Trung Quốc có thể cung cấp một cách có chọn lọc một số vật tư y tế ra nước ngoài, với những quốc gia được chỉ định, theo các tính toán chính trị.” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Trong một cuộc phỏng vấn, dân biểu Đảng Bảo thủ O’Toole, nói rằng ở Canada, ông đã nghe những cảnh báo tương tự về thiết bị bảo hộ cá nhân từ các nguồn tin của ông vào tháng 1 rằng Guajardo đang nhận được từ các nguồn tin ở Mexico và Mỹ. Dân biểu O’Toole nói ông biết “chắc chắn” rằng một số quan chức cấp cao của Canada hồi tháng 1 đã được cảnh báo rằng Trung Quốc đang tích trữ thiết bị bảo hộ cá nhân. Nhưng thay vì ứng phó với nguy cơ đó, chính phủ Canada đã gởi 16 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân sang Trung Quốc. Dân biểu O’Toole nói rằng ông tin rằng các phương pháp mà Bắc Kinh sử dụng để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân và phản ứng của Canada cần phải được điều tra trong một cuộc điều tra tổng quát quốc gia khi các nguy cơ về y tế của coronavirus cuối cùng đã lắng xuống. “Trung Cộng cố tình giấu kín thông tin về một ổ dịch trong ít nhất vài tuần, nếu không nói là vài tháng,” O’Toole nói. “Điều đó không chỉ khiến thế giới có ít thời gian hơn để ứng phó, mà còn giảm nhẹ mức độ trầm trọng tiềm ẩn của nguy cơ này. Các quốc gia đã không ra các quyết định về cấm chuyến bay và (bảo vệ) các cửa hàng bán thiết bị bảo hộ cá nhân.” Khi được đài Global News yêu cầu phản hồi phát biểu khẳng định của O’Toole, phát ngôn viên của Bộ Y tế Canada cho biết vào tháng 1, giới chức trách bắt đầu theo dõi coronavirus ở Trung Quốc và “bắt đầu làm việc với Bộ Dịch vụ Công cộng và Mua sắm Canada để mua vật tư cần thiết để ứng phó với dịch bệnh có thể xảy ra ở Canada.” Các email nội bộ của Bộ Y tế Canada cho thấy vào ngày 31/1, Bộ trưởng Patty Hajdu đã phê duyệt tặng thiết bị bảo hộ cá nhân cho Trung Quốc từ kho dự trữ khẩn cấp của Canada, bao gồm “những thứ mà (sẽ) hết hạn vào tháng Hai và tháng Ba.” Bộ Y tế tin rằng đợt quyên tặng này sẽ không ảnh hưởng tới nguồn cung thiết bị bảo hộ cá nhân của Canada, theo các email đó. Tuần trước, Thủ tướng Justin Trudeau thừa nhận rằng hai máy bay từ Canada được gửi để mua thiết bị bảo hộ cá nhân ở Trung Quốc nay đã quay về trống rỗng. Trudeau nêu các lý do tình trạng tắc nghẽn tại các phi trường Trung Quốc và các lệnh hạn chế chỉ cho phép máy bay chờ hàng hóa trong thời gian ngắn. Nhưng Trung Quốc nói các phát biểu của Trudeau là “không chính xác”. Sau khi bài này được đăng, đài Global News đã hỏi Trudeau rằng hồi tháng 1 ông có biết là Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch toàn cầu để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân hay không, và nếu chính phủ của ông biết, tại sao không thực hiện hành động nào để bảo vệ nguồn cung của Canada. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Vào ngày 2 tháng 1, giám đốc y tế công cộng của chúng tôi đã triệu tập một nhóm giám đốc y tế công cộng tỉnh bang để thông báo rằng có những tường thuật về một loại virus mới hiện diện ở Trung Quốc,” thủ tướng Treau nói hôm 30/4. “Các cơ quan tình báo của chúng tôi đã theo dõi và biết được các vấn đề và chúng tôi đã nhận được các cập nhật thường xuyên hồi tháng 1. Ngoài chuyện đó ra, tôi không có gì để nói thêm.” Các lãnh sự quán Trung Quốc và các hiệp hội cộng đồng được nêu tên trong bài này vẫn chưa phúc đáp các câu hỏi từ đài Global News. ‘Mỗi Hoa kiều là một chiến sĩ’ Mặt trận Thống nhất lợi dụng các tổ chức Hoa kiều để phục vụ cho các chính sách chiến lược của Bắc Kinh, theo CSIS. (Ảnh: GFX) Qua các tường thuật chính thức từ báo chí nhà nước Trung Cộng như Tân Hoa Xã cũng như các trang mạng của Mặt trận Thống nhất ở Trung Quốc và báo cáo từ các tổ chức cộng đồng người Canada gốc Hoa có liên quan, có thể thấy rằng số lượng thiết bị bảo hộ cá nhân khổng lồ ít nhất 100 tấn đã được gởi từ Canada tới Trung Quốc vào tháng 1 và tháng 2. Những nỗ lực đó được tổ chức thông qua các lãnh sự quán ở Vancouver, Toronto và Montreal. Ở Vancouver và Toronto, các hiệp hội kinh doanh có liên hệ chính thức với Mặt trận Thống nhất dường như đã đi đầu trong chiến dịch toàn cầu thu gom khẩu trang N95, đồng thời thu gom và gởi thiết bị bảo hộ cá nhân từ các quốc gia khác tới Trung Quốc.  Một bản tin ngày 2 tháng 3 của Tân Hoa Xã ghi lại một khía cạnh của chiến dịch toàn cầu bao gồm đến hàng triệu di dân từ tỉnh Phúc Kiến ở miền nam Trung Quốc. Bản tin này — với tít phụ ‘Mỗi Hoa kiều là một chiến sĩ’ — đầy những từ ngữ quân sự đao to búa lớn sặc mùi tuyên truyền. “Đại dịch đáng sợ này xuất hiện bất ngờ. Nhưng sức mạnh vô biên xuất phát từ các nhân viên y tế tuyến đầu, đảng viên và cán bộ, từ nhân dân, và từ người Hoa ở Phúc Kiến và Hoa kiều,” bản tin của Tân Hoa Xã viết. “Người Phúc kiến từ hàng chục quốc gia trên năm châu lục đã tham gia trận chiến vô hình này … họ hành quân cả ngày lẫn đêm và chạy đua với thời gian để gởi về những lô hàng khan hiếm cho quê hương.” Bản tin này tập trung vào Phòng Thương mại Toronto Phúc Thanh. Đây là một trong những tổ chức tham dự một cuộc tuần hành có liên hệ với Mặt trận Thống nhất để chống các biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong, tại Markham, Ontario, vào mùa hè năm 2019.  © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Theo bản tin của Tân Hoa Xã, chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh đã bay tới Trung Quốc vào tháng 1 trước Tết Nguyên đán của Trung Quốc. Nhưng sau khi “thấy rằng vật tư đang trở nên khan hiếm, ông đã bay về Toronto để giúp mua (khẩu trang),” theo bản tin đó. Bản tin đó không đề cập tới các nguy cơ COVID-19 tiềm tàng đi theo khi chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh bay từ Trung Quốc tới Toronto vào dịp Tết Nguyên đán, khi chính phủ Trung Quốc đưa ra các cảnh báo nội bộ rằng nguy cơ lây lan đại dịch là rất cao. Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào cho thấy chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh biết về các nguy cơ đại dịch do đi nước ngoài vào thời điểm đó, bởi vì Canada và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không khuyến cáo không nên đi từ Trung Quốc sang Canada. Theo bản tin của Tân Hoa Xã — điều mà đài Global News không thể xác minh một cách độc lập — sau khi chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh hạ cánh ở Toronto trong thời tiết -25 độ C, ông ta lập tức lên xe và lái tới trụ sở chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh và ra lệnh: “Mua (thiết bị bảo hộ cá nhân) theo từng phần nhỏ. Hành động ngay bây giờ!” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Ngay lập tức, gần một trăm Hoa kiều lái xe đến phòng thương mại,” bản tin của Tân Hoa Xã viết. Các hội viên Phòng Thương mại Toronto Phúc Thanh gởi thiết bị bảo hộ cá nhân về Trung Quốc thông qua Mặt trận Thống nhất, theo Tân Hoa Xã. (Ảnh: Tân Hoa Xã) Trong những ngày tiếp theo, 200 thành viên phòng thương mại Phúc Thanh đi khắp Ontario gom mua vật tư y tế, theo bản tin đó, trong khi ở Trung Quốc, một quan chức “làm việc với Sở Công tác Mặt trận Thống nhất của Phúc Kiến và hải quan ở Phúc Kiến” và nhiều hãng hàng không Trung Quốc khác để nhận “vật tư y tế từ Canada”. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh để xin bình luận.  Các bản tin tường thuật về những chuyến hàng lớn thiết bị bảo hộ cá nhân từ Toronto được chứng thực bằng các báo cáo từ văn phòng Toronto của hãng Hàng không Hải Nam (HNA). Các báo cáo đó cho biết vào ngày 25 tháng 1, HNA “đã đáp ứng lời hiệu triệu của nhà nước” và chuyển tới Trung Quốc các lô hàng thiết bị bảo hộ cá nhân “do các cơ quan chính phủ, tổ chức từ thiện, tổ chức xã hội  nước ngoài và Hoa kiều quyên tặng”. Đến giữa tháng 2, HNA đã giao 56 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân từ Toronto sang Trung Quốc, theo các báo cáo đó. Trong khi đó, vào ngày 26 tháng 1, Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Montreal đã thành lập một đội ứng cứu khẩn cấp dịch bệnh để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân cho Trung Quốc và “đã liên lạc với hơn 10 quan chức nhà nước Canada ở ba cấp chính quyền”. Thông qua các doanh nghiệp và “các tổ chức Hoa kiều và sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài”, lãnh sự quán ở Montreal đã giúp hàng chục tổ chức chuyển bằng máy bay hơn 30 tấn khẩu trang và quần áo bảo hộ tới các thành phố khác nhau ở Trung Quốc. Và vào ngày 23 tháng 1 tại Vancouver, Yongtao Chen, một nhà kinh doanh bất động sản và là chủ tịch Liên minh các Hiệp hội Người Hoa ở Canada (CACA), đã được lãnh sự quán Trung Quốc thông báo về nhu cầu cấp thiết cần thiết bị bảo hộ cá nhân tại Vũ Hán, theo các bản tin của báo chí nhà nước Trung Cộng.  CACA là một tổ chức Mặt trận Thống nhất “ở cấp độ có quyền chỉ đạo” ở Canada, theo Chen Yonglin, một cựu viên chức ngoại giao Trung Quốc đã trốn sang Úc. Và nó là một thành viên của Ban Hoa kiều Vụ của Mặt trận Thống nhất, một cơ quan được Bắc Kinh dùng để gây ảnh hưởng với cộng đồng Hoa kiều, theo Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung năm 2018. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Ban lãnh đạo CACA đã làm việc với lãnh sự quán Vancouver thông qua một nhóm WeChat ứng phó dịch bệnh để gây quỹ và tổ chức mua thiết bị bảo hộ cá nhân ở Canada và những nơi khác, theo một bản tin ngày 31 tháng 1 của một trang mạng có liên hệ với CACA. “Thông qua các kênh khác nhau, cuộc họp chung đã gom được quần áo bảo hộ, chất khử trùng, khẩu trang và các vật liệu bảo hộ khác, và đang đẩy mạnh sắp xếp để chuyển tới Vũ Hán,” bản tin đó cho biết. Các cuộc điều tra của CSIS và RCMP Ít nhất một trong những tổ chức do Vancouver đứng đầu dường như có liên quan với CACA trong chiến dịch thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân của Bắc Kinh – Liên đoàn Hoa Kiều Quảng Đông – bao gồm các thành viên bị các cuộc điều tra về an ninh và thực thi pháp luật của Canada chú ý, theo các nguồn tin hiểu rõ về các vụ việc này của RCMP và CSIS. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với ban lãnh đạo của liên đoàn này để xin bình luận.  Một báo cáo ngày 23 tháng 3 từ Liên đoàn Hoa Kiều Hồi hương Toàn Trung Quốc đã trình bày các nỗ lực vận chuyển thiết bị bảo hộ cá nhân của liên đoàn Quảng Đông, tổ chức có hội viên ở 131 quốc gia. Báo cáo đó dẫn lời lãnh đạo liên đoàn Quảng Đông Ruji Feng, chủ tịch Hiệp hội Chao Shan Canada tại Vancouver, nói rằng “các cộng đồng địa phương tích cực hợp tác với các đại sứ quán và lãnh sự quán để khuyến khích và liên lạc với tất cả các nhóm cộng đồng Hoa kiều để chuẩn bị các vật tư y tế khác nhau.” Liên đoàn của Feng cũng hỗ trợ CACA trong việc vận chuyển bằng máy bay 60 thùng thiết bị bảo hộ cá nhân từ Manila, Philippines tới Trung Quốc, theo báo cáo đó.  Một người đàn ông trả lời điện thoại theo số được niêm yết của Hiệp hội Canada Chao Shan tại Vancouver nói với đài Global News rằng ông không có liên hệ với hiệp hội và không thể tìm được ban quản trị để bình luận về bài viết này. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Qua xem xét các hồ sơ ngân hàng hải ngoại và hồ sơ tòa án hình sự và dân sự ở British Columbia, đài Global News phát hiện rằng một số hội viên Canada Chao Shan — hầu hết ở Vancouver nhưng cũng ở miền nam Trung Quốc — có liên quan đến các hoạt động tài chính được cho là bí mật.  Năm 2003, một trong những hội viên ở Vancouver, Xun Chuang, đã bị kết án tù 18 tháng có điều kiện do các tội sản xuất ma túy và bị cấm sử dụng vũ khí trong 10 năm, theo hồ sơ hình sự của BC. Và theo các hồ sơ án dân sự của Tối cao Pháp viện British Columbia và các nguồn tin, Xun Chuang và địa chỉ viên chức Chao Shan Canada của ông ta có liên hệ với các nghi phạm trong cuộc điều tra E-Pirate của RCMP, cuộc điều tra về rửa tiền sòng bạc và hoạt động ngân hàng ngầm lớn nhất từ ​​trước đến nay của Canada. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với Xun Chuang, thông qua hãng luật đại diện trong một trong những vụ cho vay bất động sản của ông ta, để xin bình luận. Ông ta không được nêu tên như một nghi phạm hoặc bị buộc tội trong cuộc điều tra E-Pirate. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Các nghi phạm có liên hệ với Xun Chuang bị cáo buộc dính líu đến hoạt động cho vay bất động sản và hoạt động cho vay nặng lãi để đánh bạc có liên tới buôn bán ma túy và hoạt động ngân hàng ngầm ở Richmond, BC và Trung Quốc đại lục.  Tuy nhiên, tội rửa tiền và trốn thuế trong cuộc điều tra E-Pirate đã được hủy trước khi các nghi phạm được đưa ra xét xử do các sai sót của các công tố viên liên bang về công bố bằng chứng. Những cáo buộc chưa được chứng minh tại tòa. Hiệp hội Canada Chao Shan và một số người có liên hệ với tổ chức này đã được các đặc vụ CSIS biết đến, theo xác nhận của một nguồn tin giấu tên.  Các mối liên kết của Mặt trận Thống nhất giữa Úc, Canada và miền nam Trung Quốc (Ảnh: GFX) Các mạng lưới mờ ám tương tự của Mặt trận Thống nhất đã được điều tra tại Úc, nơi chính phủ Úc thực hiện lệnh cấm xuất khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân vào ngày 29 tháng 3 sau khi một số nhà kinh doanh bất động sản người Hoa gởi hơn 82 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân sang Trung Quốc, theo một báo cáo của quốc hội Mỹ. Một trong những tổ chức Mặt trận Thống nhất ở miền Nam Trung Quốc có liên quan đã được phát hiện có dính líu tới các cáo buộc về tội phạm có tổ chức và hoạt động “tổ chức đánh bạc lớn ở sòng bạc” khả nghi, theo tường thuật của báo Sydney Morning Herald.  © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Và các tổ chức Mặt trận Thống nhất Quảng Đông và Chao Shan hoạt động tại Úc cũng được phát hiện có liên hệ với ban lãnh đạo tổ chức ở Canada, theo hồ sơ họp hành của Mặt trận Thống nhất ở Trung Quốc. Một lãnh đạo có tiếng của Mặt trận Thống nhất Quảng Đông tên là Xiangmo Huang, một tỷ phú kinh doanh bất động sản và người đánh bạc cao cấp, đã bị cấm nhập cảnh Úc vào năm 2018 vì lý do an ninh quốc gia.  Alex Joske, một chuyên gia và nhà nghiên cứu về Mặt trận Thống nhất ở Viện Chính sách Chiến lược Úc, nói rằng Liên đoàn Hoa Kiều Hồi hương Toàn Trung Quốc — mà các liên đoàn Quảng Đông ở Canada và Úc là thành viên — là một phần ngày càng quan trọng trong chiến lược kiểm soát Hoa kiều thuộc Mặt trận Thống nhất của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.  Manthorpe nói rằng tuy tay chân của Mặt trận Thống nhất đã được CSIS theo dõi từ năm 1998, các mạng lưới đang phát triển nhanh chóng ở Canada dưới thời Tập Cận Bình. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Và mức độ nguy cơ hiện tại đã được thể hiện trong một báo cáo của CSIS năm 2018, viết rằng: “Các hoạt động của Mặt trận Thống nhất của Trung Cộng bao gồm chiêu dụ giới chóp bu, quản lý thông tin, thuyết phục, cũng như truy cập thông tin và tài nguyên chiến lược. Nó cũng thường xuyên là một phương tiện để tạo điều kiện cho hoạt động gián điệp.” Trung Quốc không thừa nhận rằng Mặt trận Thống nhất của họ được sử dụng cho hoạt động gián điệp và các lãnh sự quán Trung Quốc tại Canada đã phúc đáp các câu hỏi cho bài viết này. John Townsend, trưởng ban quan hệ truyền thông của CSIS, không chịu trả lời trực tiếp về câu hỏi cơ quan an ninh quốc gia có đang điều tra các hoạt động xuất khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân liên quan tới các tổ chức Mặt trận Thống nhất ở Canada, như Canada Chao Shan, hay không. “Theo luật của chúng tôi, CSIS rõ ràng có nhiệm vụ điều tra gián điệp và phá hoại, khủng bố, sự can thiệp của nước ngoài, và lật đổ chính quyền và chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng các quyền hạn pháp lý của mình để bảo đảm nhà nước Canada có được thông tin tình báo về những vấn đề hệ trọng này,” ông nói. Sam Cooper Nguồn: Global News, 30/4/2020. https://globalnews.ca/news/6858818/coronavirus-china-united-front-canada-protective-equipment-shortage/ Phạm Vũ Lửa Hạ dịch Nguồn: https://canadainfo.net/16596/    
......

Cạn lời nhưng vẫn phải viết

Chau Doan| Về vụ án Hồ Duy Hải, tôi đã viết quá nhiều, đến mức thấy mình cạn kiệt ngôn ngữ, cạn kiệt ý nhưng tôi vẫn thấy mình phải viết. Với tôi, vụ án này với nỗi đau khổ của Hồ Duy Hải, chị Loan mẹ của Hải và em gái của Hải chỉ là nỗi đau của vài cá nhân. Tất nhiên là tôi chia sẻ nỗi đau khổ của họ, tôi khâm phục sự kiên cường của tấm lòng người mẹ đã ròng rã suốt 12 năm đi kêu oan khắp nơi để cứu con, nhưng một nỗi buồn lớn hơn nhiều, âm u ghê rợn hơn nhiều là bởi vụ án này đã thể hiện một nền tư pháp rừng rú không thể tưởng tượng nổi với những con người quen suy nghĩ một cách văn minh. Người dân sẽ còn rất khổ. Sự oan ức, sự thiệt thòi, nước mắt sẽ còn chảy dài, chảy rất lâu trên những đôi má của người dân Việt. Khi mà hầu như 100% cư dân mạng đều lên án những người thực thi pháp luật của vụ án, của những phiên toà về những sai trái ngạo ngược thì họ vẫn ngang nhiên tiếp tục chà đạp lên công lý, không nể nang gì công luận và để một lần nữa giầy vò hàng triệu con tim những người có lương tri, khiến nỗi phẫn uất dâng tràn, sự khinh bỉ căm hận đã bị đẩy lên đến tột độ. Ở đây, để khẳng định là Hồ Duy Hải có vô tội không, tôi không có quyền khẳng định nhưng tôi có quyền có niềm tin rằng cậu ấy vô tội. Lý do thì đã nói nhiều rồi, bởi chứng cứ nguỵ tạo, vật chứng mua ngoài chợ, hồ sơ vụ án bị thao túng, lời khai nhân chứng không có gía trị, sự che dấu mập mờ với một nghi can khác…. Chính vì những lý do ấy mà việc huỷ bản án để điều tra lại là một việc rất nên làm, ít ra là để vớt vát chút lòng tin của công luận nhưng bọn họ vẫn mặc kệ, vẫn ngang nhiên chà đạp lên công lý, ngang nhiên sỉ nhục lương tri, ngang nhiên vò xé con tim thương cảm của công luận. Nhưng việc gì cũng vậy, một phần công luận chúng ta cũng có lỗi trong việc này. Có lỗi bởi trước kia chúng ta đã thờ ơ với những bất công, với những sự vô lý ngạo ngược trong xã hội. Ai cũng tự bảo nói để làm gì, việc gì đến mình thì một ngày nào đấy khi sự lưu manh, dối trá dưới lốt luật pháp đổ xuống đầu chúng ta thì ai sẽ đứng ra bênh vực? Còn bây giờ tôi muốn nói với 17 vị đã đồng loạt giơ tay biểu quyết. Các vị đã vĩnh viễn ghi tên mình vào lòng hận của dân chúng. Tên tuổi các vị đã mãi mãi gắn liền với sự ô nhục của nền tư pháp của Việt Nam. Trong đội ngũ 17 người kia, sẽ chỉ có thể rơi vào những dạng người sau: ác độc, vô lương tâm còn nếu không ác độc, vô lương tâm mà giơ tay đồng thuận thì chỉ có thể là hèn nhát. Các vị đã có một sự đồng thuận, các vị đã có “nhau” nhưng nhân dân mãi mãi coi các vị là tội đồ và chỉ có sự khinh bỉ, nỗi tức giận mỗi khi họ nhìn thấy mặt các vị. Sự có nhau ấy của các vị chỉ là một sự a dua thấp hèn, bè cánh và chẳng có ý nghĩa gì nhiều ngoài mấy miếng cơm manh áo hèn mọn. Các vị sẽ mãi mãi là những đứa con ghẻ của dân tộc này. Ai đấy sẽ bảo tôi nhân danh nhân dân mà nói điều đao to búa lớn, nhưng hãy thử đưa cho tôi một cư dân mạng nào ủng hộ cách làm của các cơ quan liên quan trong vụ án này. Một kẻ ngu nhất, bỉ ổi nhất, lưu manh nhất, thích thú việc ôm đít quyền lực nhất cũng vẫn thấy toàn bộ vụ án này là một trò đùa quái gở, bất nhân và vô pháp. Tôi thật sự đã cạn lời rồi! Đoàn Bảo Châu - Fb Chau Doan ***** Oan Khiên Hồ Duy Hải, Trời Đã Nổi Cơn Thịnh Nộ? Phạm Thành Tối qua 8.5.2020 lúc 20h30 trời bỗng bất ngờ nổi gió giật. Gió giật từng cơn, từng cơn, giống như ông Trời giận dữ ai đó, cầm từng nắm gió ném xuống trời đất Hà Nội. Vợ tôi đang xem mạng ở trong phòng riêng, giật mình, gào lên: Gió mạnh quá anh ơi. Trời không có tín hiệu báo mưa mà sao Trời lại bất ngờ nổi gió giật lạ lùng như vậy? Đi theo gió là mưa rơi. Mưa lưa thưa, nhưng những hạt mưa thì to. Tôi có cảm giác như ông Trời bỗng nổi cơn giận dữ, bốc nước đá từ kho mưa của nhà Trời ném xuống bầu trời Hà Nội vậy. Mưa, gió man rợ như vậy, nhưng tuyệt nhiên không có tiếng sét nào, và trận mưa cũng đến rồi đi như một cơn mưa rào thoảng qua vậy. "Sao bỗng nhiên ông Trời lại nổi cơn giận dữ, ném gió, ném nước đá xuống bầu trời Hà Nội như vậy? - Vợ tôi than thở hỏi và rồi vợ tôi tự trả lời: "Chắc có oan khiên nào đó vừa xảy ra ở Hà Nội ta, anh ạ". Tôi nói: "Còn oan khiên nào vào đây nữa? 17 thằng và con thẩm phán vừa giơ tay lên Trời, quyết giết oan cháu Hồ Duy Hải thêm một lần nữa. Oan khiên đó, chứ còn oan khiên nào nữa? Ông Trời đang nhậu bữa tối, nhìn thấy thế, không ghìm được bức tức, bèn nổi trận lôi đình, lập tức bốc gió và nước đá ném vào mặt 17 thằng cùng con thẩm phán này. Vợ tôi nói:" Ấy là ông Trời đang bận nhậu, chứ vào lúc ông Trời đang làm việc thì hẳn là quăng sấm sét vào bọn chúng rồi, phải không anh?" Đúng quá rồi còn gì? Chúng có thể thoát chết lần này, nhưng lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, chúng nó có trốn dưới Âm phủ cũng không thoát tội bị Trời hành đâu. Em hãy cứ chờ mà xem.  
......

Hồ Duy Hải đã không được xem như một con người

Trân Văn| Phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao khi giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải “giết người”, “cướp tài sản” làm nhiều người ngỡ ngàng, thất vọng. Những tâm trạng ấy là tất nhiên nhưng lại chưa… đúng đắn vì ngộ nhận cả về bản chất chế độ cộng sản lẫn đặc điểm tư pháp xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của hệ thống tư pháp trong điều tra, truy cứu trách nhiệm và xử lý hình sự dựa trên Luật Tố tụng hình sự và Luật Hình sự. Luật Tố tụng hình sự qui định về thủ tục, cách thức tiến hành điều tra, truy tố, xét xử còn Luật Hình sự qui định về tội danh và hình phạt tương ứng với tội danh và mức độ phạm tội. Sở dĩ phải có Luật Tố tụng hình sự và phải đặt bộ luật này bên cạnh Luật Hình sự vì đó là cách duy nhất để ngăn chặn các cơ quan tiến hành tố tụng (công an, Viện Kiểm sát, Tòa án) khám xét, thu thập bằng chứng, bắt giữ, hỏi cung, truy tố và xét xử bất kỳ ai một cách tùy tiện, xâm hại các quyền căn bản của con người. Về nguyên tắc, tất cả những vi phạm qui định của Luật Tố tụng Hình sự đều có thể dẫn đến hai hậu quả: Thứ nhất, khiến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trở thành vô hiệu. Thứ hai, tùy tính chất, mức độ vi phạm mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ bị xử lý vì “vi phạm tố tụng”, kể cả phải vào tù. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Hồ Duy Hải là một trong những ví dụ điển hình về “vi phạm tố tụng”. Những “vi phạm tố tụng” này trầm trọng đến mức tháng 11 năm ngoái, Viện Kiểm sát Tối cao quyết định kháng nghị. Ở phiên giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát Tối cao đã trình bày sáu vấn đề liên quan đến “vi phạm tố tụng” (1). Phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao thừa nhận các “vi phạm tố tụng” nhưng nhận định những “vi phạm tố tụng” ấy không làm thay đổi bản chất vụ án, không hủy các bản án đã tuyên đối với Hồ Duy Hải (2) chính là bằng chứng rất rõ ràng cho thấy, 17 Thẩm phán của Tòa án Tối cao xem Luật Tố tụng hình sự là rác. Khi Luật Tố tụng hình sự là rác thì chỉ ngậm ngùi cho số phận của Hồ Duy Hải sẽ là thiếu sót lớn, thậm chí là thiển cận vì ai cũng có thể bị như thế. Đó là thân phận chung của cả trăm triệu công dân Việt Nam. Trên thực tế, Hồ Duy Hải không phải là nạn nhân đầu tiên của việc khinh rẻ các “vi phạm tố tụng”. Nếu Luật Tố tụng hình sự được tôn trọng như phải thế, sẽ không có những cá nhân không phạm tội nhưng vẫn cúi đầu nhận tội vì bị tra tấn, không bị bắt oan, không bị truy tố oan, không bị phạt đủ loại hình phạt từ tù có thời hạn đến chung thân, tử hình, không có những gia đình tan nát. Oan sai không trở thành vấn nạn nghiêm trọng như đã thấy. Chuyện 17 thẩm phán của Tòa án Tối cao đồng thanh nhận định những “vi phạm tố tụng” không làm thay đổi bản chất vụ án khi xét lại vụ án Hồ Duy Hải theo trình tự giám đốc thẩm chính là một kiểu tái khẳng định, sẽ còn vô số những Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long,… Đã từng có nhiều Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán của hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa thăng tiến nhờ “vi phạm tố tụng” mà đạt được vô số “thành tích” khi tham gia xử lý hình sự nhiều cá nhân. Đồng bào không phải là công dân với các quyền hiến định, đồng bào, thậm chí đồng chí chỉ là công cụ phục vụ… sự nghiệp cá nhân và đảng! Phán quyết từ phiên giám đốc thẩm về hai bản án dành cho Hồ Duy Hải của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao chính là cam kết tập thể, nó giống như chứng thư, bảo đảm kiểu thăng tiến vừa kể vẫn còn giá trị. Phán quyết ấy có thể làm nhiều triệu người chưng hửng nhưng giúp hàng triệu đồng chí, đồng đội bớt hoang mang, thêm hứng thú. Nói cách khác, cho dù được chọn tham gia Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Tối cao để tiến hành giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, 17 cá nhân đại diện cao nhất cho tư pháp xã hội chủ nghĩa vẫn chỉ xem Hồ Duy Hải như một loại công cụ và không hề ngán ngại khi cùng nhổ toẹt vào hy vọng của nhiều triệu người: Được nhìn thấy Luật Tố tụng hình sự còn thoi thóp chứ không phải đã mệnh một và sẽ khiến các viên chức trong hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa chùn tay, bớt làm càn. *** Thật đáng buồn khi phải mường tượng, dường như Hồ Duy Hải chỉ là công cụ của nhiều cá nhân trong hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa nhưng khó có thể nghĩ khác. Tại sao chín năm trước (2011), hết Tòa án Tối cao đến Viện Kiểm sát Tối cao cùng bác bỏ đề nghị kháng nghị hai bản án mà Tòa án Long An (sơ thẩm), rồi Tòa án Tối cao tại TP.HCM (phúc thẩm) đã dành cho Hồ Duy Hải và ngậm tăm suốt từ khi Chủ tịch Nhà nước đề nghị hoãn thi hành án tử hình, xem lại vụ án (2014) đến nay? Những lời đồn đoán về việc sắp đặt nhân sự lãnh đạo đảng CSVN nhiệm kỳ 13 cũng như các dấu hiệu cho thấy nhiều nhóm trong đảng đang triệt hạ lẫn nhau để giành ưu thế nhằm thâu tóm quyền lực, có liên quan gì đến sự kiện Viện Kiểm sát Tối cao đột nhiên đổi ý, kháng nghị các bản án đã tuyên với Hải vào tháng 11 năm ngoái? Nếu Hội đồng Thẩm phán phiên giám đốc thẩm vụ án này tuyên hủy hai bản án ấy, phán quyết đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến uy tín, sự nghiệp chính trị của ông Trần Quốc Vượng, nhân vật từng là Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao giai đoạn 2007 – 2011 và giờ là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư? Nếu Hội đồng Thẩm phán phiên giám đốc thẩm vụ án này tuyên hủy hai bản án ấy, phán quyết đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến uy tín, sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Hòa Bình, nhân vật từng là Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao giai đoạn 2011 – 2016 và từ 2016 đến nay là Chánh án Tòa án Tối cao? Phải thắc mắc như thế vì với bối cảnh chính trị, xã hội, nhân tâm như hiện nay và đặc biệt là với những bằng chứng hết sức rõ ràng đã được Viện Kiểm sát Tối cao liệt kê, sau đó được cả 17 thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao thừa nhận là “vi phạm tố tụng”, tại sao cả hội đồng nhất trí… y án, bất kể Luật Tố tụng hình sự vẫn còn hiệu lực! Đó cũng là lý do tại sao ngỡ ngàng, thất vọng về phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao sau phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải là chưa đúng đắn. Tâm trạng đúng phải là phẫn nộ. Chỉ phẫn nộ vì một đồng loại bị biến thành công cụ, trở thành nạn nhân của hàng loạt “vi phạm tố tụng” song án tử hình vẫn lơ lửng trên đầu suốt 12 năm qua chưa đủ mà còn phải phẫn nộ về thân phận cũng như tương lai của chính mình, của thân nhân, của bạn bè mình! Con người không thể và không nên để bị dùng như công cụ! Chú thích (1) https://tuoitre.vn/vien-kiem-sat-de-nghi-dieu-tra-lai-6-van-de-vu-an-ho-duy-hai-20200508152512439.htm (2) https://tuoitre.vn/hoi-dong-tham-phan-bac-khang-nghi-vu-an-ho-duy-hai-20200508144802024.htm  
......

Phúc – Vượng đấu đá để giành chức Tổng Bí Thư

Tác giả: Sông Quê Thời gian vừa qua, trong khi Việt Nam đang vật lộn với nạn dịch cúm Vũ Hán thì truyền thông trong nước đã khuấy động nên một vụ việc khá bất thường, đó là đại gia Đường Nhuệ bị dính vào vòng lao lý. Gọi là bất thường là vì vụ việc này xảy ra tại một địa phương rất nhạy cảm, đó là Thái Bình. Đây cũng chính là bản quán của đương kim ứng cử viên Tổng Bí thư kỳ tới Trần Quốc Vượng. Ai cũng biết bất cứ lãnh đạo nào muốn leo cao thì đều phải dựa vào sự ủng hộ của vây cánh và thường là những người cùng quê hương bản quán vì họ có mối quan hệ máu mủ ruột già. Đổi lại khi lãnh đạo leo càng cao thì càng tạo ra cái ô dù lớn để che chở và nâng đỡ cho vây cánh của ông ta. Do vậy, chạm vào Thái Bình ngay trước thềm đại hội 13 có thể được coi là một cú tát của một đối thủ chính trị nào đó nhằm hạ uy tín của ông Trần Quốc Vượng. Vụ việc việc này chắc chắn sẽ đến tai các ủy viên bộ chính trị, đặc biệt là TBT CTN Nguyễn Phú Trọng và nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các lá phiếu dành cho ông Vượng nên khả năng ông ta trúng ghế TBT kỳ tới có thể sẽ hẹp lại. Ngay sau vụ việc Đường Nhuệ, dư luận lại xôn xao về chuyện nâng khống giá mua máy xét nghiệm Covid-19 ở Quảng Nam. Cụ thể, là Giám đốc sở y tế tỉnh này Nguyễn Văn Hai đã duyệt mua chiếc máy với giá hơn 7 tỷ đồng, trong khi giá sau khi được thanh tra chỉ vào khoảng chưa đến 5 tỷ đồng. Ông này sau đó được truyền thông đưa tin đậm nét vì đã phải bật khóc khi trình bày với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam vào chiều ngày 29 tháng 4. Đáng chú ý hơn nữa là vụ việc tương tự cũng xảy ra ở Hà Nội, Quảng Ninh và các địa phương khác nhưng truyền thông trong nước lại đặc biệt chú ý tới Quảng Nam – đây là quê hương của đương kim thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Ông Phúc cũng được cho là có tham vọng đối với chức vụ Tổng Bí Thư kỳ tới. Vụ việc Đường Nhuệ ở Thái Bình và mua gian máy thử Covid 19 ở Quảng Nam đã gây đồn đoán về cuộc đấu đá chính trị ngầm giữa ông Vượng và ông Phúc. Mặc dù Nguyễn Xuân Phúc đã gần như có được chức chủ tịch nước trong nhiệm kỳ tới nhưng rõ ràng đây chỉ là chức danh mang tính hình thức mà không có thực quyền. Trong khi dưới tay Phúc hiện nay là các nhà tài phiệt cỡ bự trong nước. Việc Phúc chỉ có được chức chủ tịch nước được coi như là thất bại vì mất hết thực quyền. Vậy là Nguyễn Xuân Phúc là vỏ quýt dày thì Trần Quốc Vượng là móng tay nhọn, hoặc ngược lại. Quãng thời gian từ nay đến đại hội 13 không còn nhiều. Đây là thời điểm mang tính quyết định nên các ứng viên cho ngôi vị cao nhất sẽ tung ra những quân bài cuối cùng. Kịch hay đang vào hồi gay cấn. Hãy chờ xem…  
......

Trò đùa tài sản ngoạn mục

Phạm Trần| Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CSVN Nguyễn Phú Trọng là người thích nói dai và nói dài chuyện “chuẩn bị nhân sự Đại hội đảng XIII”, diễn ra vào thượng tuầng tháng 01 năm 2021, nhưng ông lại không dám thanh toán những kẻ khai gian tài sản. Và một lần nữa, vẫn húc đầu vào chủ nghĩa lỗi thời Mác-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh để cai trị độc tài, độc đảng. Trong bài viết, phổ biến ngày 26/04/2020, có nhan đề “Một số vấn đề cần đặc biệt quan tâm về chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII”, ông Trọng lập lại 6 tiêu chuẩn “không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những người có một trong các khuyết điểm sau : (1) Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; (2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; (3) Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị; (4) Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút; (5) Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; (6) Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay. (Chú thích điểm 6: Nhằm vào  lý lịch của người thân trong gia đình bao gồm lập trường và quan điểm chính trị trong qúa khứ và hiện tại, song song với việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.) Phải kiên trì Mác-Lênin Vấn đế “bản lĩnh chính trị không vững vàng” quy định ở điểm 1 có nghĩa  là phải bị loại nếu không  “tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước…” Điều này cũng cho thấy ông Trọng đã loại bỏ mọi khả năng đổi mới chính trị, trong đó có đề nghị của  127  trí thức và nhiều cựu lãnh đạo đảng cao cấp, đưa ra từ năm 2015. Những người này  muốn đảng hãy can đảm vượt qua chính mình, gỡ bỏ những ràng buộc lỗi thời để thoát khỏi gông cùm ý thức hệ Cộng sản với nước láng giềng nham hiểm Trung Cộng. Hồi đó, trong Thư đề ngày 09/12/2015, trong số những người ký tên nổi tiếng, nay đã qua đời, có Thiếu tướng Nguyễn trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ tại Bắc Kinh và Giáo sư Hoàng Tụy. Nhưng những điều họ viết 5 năm trước, nay đọc lại vẫn còn giá trị so với tình hình hiện nay (năm 2020), đó là: “Thực trạng kinh tế đang có nhiều bất ổn (nổi lên là ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nặng kéo dài, nợ công tăng quá nhanh); nhiều tài nguyên bị khai thác cạn kiệt; môi trường bị tàn phá và ô nhiễm nghiêm trọng; văn hóa xuống cấp; đạo đức xã hội bị băng hoại; nhân dân ngày càng mất lòng tin vào thể chế chính trị. Mặt khác, Trung Quốc ngày càng ngang nhiên thực hiện mưu đồ bành trướng, hòng biến nước ta thành một chư hầu kiểu mới, liên tục xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của nước ta cả trên biên giới đất liền và biển đảo, tăng sự uy hiếp và chi phối đối với nước ta trên nhiều mặt. Thời gian gần đây, trong khi vẫn dùng những lời hoa mỹ về hòa bình, hữu nghị, nhà cầm quyền Trung Quốc đã có những bước leo thang thực hiện mưu đồ bành trướng trên Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế, không chỉ trắng trợn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn gây bất ổn cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Cả hai nhận xét này trùng hợp với những điều do chính ông Nguyễn Phú Trọng  viết ngày 26/04/2020, cũng như hành động của Trung Cộng ở Biển Đông. Theo ông Trọng thì: “Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hòa bình") mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng,...” Trong khi đó, Trung Cộng đã lợi dụng tình hình nạn dịch Vũ Hán (Trung Quốc), Covid 19, đang gây chết người và suy thoái kinh tế trên  toàn thế giới để gia tăng áp lực quân sự ở Biển Đông nhằm vào Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương và Mã Lai Á. Từ hành động đâm chìm tầu cá Việt Nam ngày 2/4 (2020) đến việc xây dựng thêm hai "trạm nghiên cứu" mới tại đá Chữ Thập và đá Subi, trước khi đặt tên cho 80 vị trí chìm và nổi trong phạm vi hình Lưỡi bò để dành chủ quyền. Ngoài ra, Trung Cộng cũng đã thành lập 2 Huyện Hoàng Sa và Trường Sa và gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm năm 1958 của nguyên Thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng, với ngụ ý xác nhận Việt Nam đã thừa nhận quyền chủ quyển của Trung Cộng trên Hoàng  Sa và Trướng Sa. Phía Hà Nội bác bỏ lập luận của Bắc Kinh với quan điểm Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ công nhận quyền lãnh hải 12 hải lý mà không nói gì đến Hoàng Sa và Trường Sa, vì khi ấy (năm 1958), hai quần đảo này thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa. Tư tưởng gì? Cũng nên biết hồi năm 2015, các Trí thức đã viết rằng: “Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong nhiều năm qua về thực chất đã từ bỏ những nguyên lý cơ bản về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Vậy mà các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhấn mạnh lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa, đặt độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường phải gắn với chủ nghĩa xã hội”. Điều này cũng đã phản ảnh đúng quan điểm của ông Trọng và Bộ Chính trị trong nội dung dự thảo Văn kiện đảng XIII, đang lưu truyền trong nội bộ đảng, với điều cốt lõi hàng đầu là phải “kiện định và trung thành tuyệt đối với Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì vậy, Hội đồng lý luận Trung ương, tổ chức chủ trì soạn thảo Văn kiện đảng XIII, Ban Tuyên giáo đảng và Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng đã không ngừng hô hào phải bảo vệ tư tưởng đảng, bao gồm Chủ nghĩa Mác-Lênin-Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh đảng (bổ sung, phát triển 2011), Điều lệ đảng và chủ trương, đướng lối đảng. Nhưng nhiều cán bộ và đảng viên, kể cả một số không nhỏ cấp lãnh đạo từ Trung ương xuống cơ sở đã phạt  nhạt lý tường và đang “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” khỏi Chủ nghĩa giáo điều Cộng sản. Bằng chứng như ông Trọng đã bộc lộ trong bài viềt:”Tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ của toàn Đảng sắp tới là rất nặng nề.” Người đứng đầu đảng và nhà nước còn thừa nhận:”Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa." Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc và quy chế làm việc, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.” Tài sản của ai? Bên cạnh những lo âu suy thoái tư tưởng, ông Nguyễn Phú Trọng còn muốn loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những ai: “Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất…” Nhưng chuyện này đã xưa như trái đất vì cho đến bây giờ, kể từ khi có Luật Phòng, chống Tham nhũng năm 2005, sau đó thay bằng Luật năm 2018, có hiệu lực ngày 01/07/2019, chưa bao giờ đảng cho dân xem và kiểm soát các bản khai tài sản của cán bộ, đảng viên. Từ xưa đến nay, người  có bổn phận phải khai thì cứ khai rồi giao cho Thủ trưởng cất vào tủ cho mọt ăn dần hay niêm yết nơi làm việc để cho nắng mưa ăn nát chứ có ai được dòm đến đâu. Đăc biệt, các bản khai này lại không được công khai nơi cư trú của người phải khai nên dân mờ mịt như thầy bói sờ voi. Hãy đọc những lời nói thật của Tiến sĩ Đinh Văn Minh, hiện giữ chức Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ. Ông nói (khi  còn là Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra): ”Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn luôn là một giải pháp quan trọng trong tổng thể các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Giải pháp này, dù đã được thực hiện nhiều năm nay nhưng được đánh giá là “mang nặng tính hình thức”. Nghĩa là, hiệu quả của nó trong việc góp phần vào ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng còn khá thấp. “ Theo bài viết đăng trong báo điện tử Xây dựng Đảng thì: “Cho đến hiện nay, chúng ta mới quan tâm nhiều đến việc kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức mà chưa thực sự quan tâm đến việc kiểm soát tài sản của những người này. Điều đó có nghĩa rằng, pháp luật mới chỉ quan tâm nhiều đến việc kê khai tài sản đi vào nề nếp, đúng pháp luật mà chưa có biện pháp để bảo đảm việc kê khai đó giúp cho Nhà nước và xã hội kiểm soát được tài sản cũng như sự biến động về tài sản của cán bộ, công chức. Qua đó phát hiện những dấu hiệu bất minh và có biện pháp ngăn chặn sự tẩu tán và cuối cùng là có thể thu hồi tài sản đó khi chứng minh được mối quan hệ của nó với hành vi tham nhũng.  Chưa hề có việc tài sản của những người bị coi là kê khai không trung thực được đụng đến. Những khối tài sản “sừng sững” mà dường như pháp luật đang bất lực đứng nhìn”. (Theo xaydungdang.org.vn, ngày 27/11/2018) Những “khối tài sản kếch xù này”, như có lần nhìn nhận của nguyên Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu (Khóa VIII), thì chúng đã bị giao cho người khác đứng tên thì làm sao mà moi ra được. Như vậy thì liệu ông Nguyễn Phú Trọng có thành công trong đề xướng không cho vào Trung ương XIII những kẻ “Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc”, hay ông sẽ đứng trơ ra mà nhìn cho mỏi mắt? 06/05/2020 Phạm Trần  
......

Nguồn gốc của oan sai

Đỗ Ngà - Van Nga Do| "Anh có quyền im lặng, những gì anh nói sẽ là bằng chứng chống lại anh trước Toà" là câu cửa miệng của nhân viên điều tra khi họ bắt giữ tội phạm ở các nước dân chủ. Đây là nghĩa vụ của nhân viên điều tra, luật pháp trao cho bị can quyền im lặng và cũng “khuyến mãi” luôn quyền được biết cho họ. Luật người ta nhân bản thế đấy. Chưa hết, ngoài quyền im lặng và quyền được biết, nghi phạm còn được luật pháp trao cho họ quyền được có luật sư ngay từ đầu. Như ta biết, khi mới bị bắt, vì hoảng loạn hoặc vì mất bình tĩnh mà nghi phạm có thể nói bừa hay nói ngang kiểu thách thức lực lượng bắt giữ. Thực tế rất nhiều người hay phạm vào khuyết điểm này. Mà hầu hết người dân thì lại không hiểu hết luật pháp, họ cũng không thấu hiểu hết quy trình tố tụng nên lúc mới bị bắt, họ rất dễ bị sa vào bẫy của chính lời nói chính mình. Chính vì lẽ đó mà quyền im lặng được ra đời. Để trám vào sự thiếu hiểu biết về pháp luật của của các phạm nhân, thì luật pháp cũng đã trao cho họ quyền được có luật sư ngay từ đầu. Chỉ có luật sư mới biết thân chủ của họ nên nói những gì và nên im lặng những gì. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì tất nhiên nghi phạm, bị can, hay bị cáo đều được xem chưa phải là tội phạm nếu tòa chưa tuyên án. Biết đâu người mà bị lực lượng chấp pháp bắt ấy là vô tội thì sao? Nên luật pháp đã trao cho mọi bị can đều có quyền có luật sư ngay từ đầu là vậy. Thế mới thấy cách làm luật của những nước dân chủ họ không những chặt chẽ mà còn rất nhân bản. Thực tế, quyền giữ im lặng và quyền có luật sư ngay từ đầu nó là 2 chiếc đũa trong một đôi đũa, nếu thiếu một trong hai thì tất có những kẻ hở pháp lý, và chính kẽ hở này mà dẫn đến buộc tội oan. Nếu thiếu quyền im lặng, thì nhân viên điều tra có thể dễ dàng khai thác lời khai của nghi phạm trong lúc hoảng loạn, nếu thiếu quyền có luật sư từ đầu thì sẽ tạo ra khoảng trống để nhân viên điều tra ép cung, thậm chí nhục hình để vu oan giáng họa cho bị can. Đó là lý do vì sao quyền im lặng và quyền có luật sư ngay từ đầu phải được quy định song hành. Những luật pháp có tính bảo vệ bị can như vậy tất nhiên nó không thể có được trong một nền chính trị độc tài toàn trị CS được, bởi vì với 96% là đảng viên ĐCS trong Quốc hội, thì rõ ràng không ai là đại diện cho dân thực sự cả. Mà tệ hại hơn, những người trong ngành công an, như các giám đốc sở công an các tỉnh thành hay những qua chức công an cấp bộ lại làm đại biểu quốc hội. Họ vừa muốn điều tra nhanh, họ muốn nhục hình ép cung để khoe “thành tích phá án giỏi” để mị dân thì làm sao họ có thể viết ra thứ luật vì người dân được? Họ không đứng về phía người dân thì làm sao họ có thể đứng trên quan điểm “suy đoán vô tội” mà làm luật được? Vậy nên trong luật pháp Việt Nam không đầy đủ 2 luật quy định quyền im lặng và quyền có luật sư từ đầu là vậy. May thay vì có mạng internet, nên những điều luật văn minh ở xứ tự do cũng được các nhà chuyên môn đem lên mạng xã hội thảo luận để soi rõ bộ mặt man rợ của luật pháp Cộng sản. Đứng trước sức ép như vậy, Quốc hội bù nhìn CS cũng được bộ chính trị bật đèn xanh cho thông qua “quyền im lặng”. Và ngày 1 tháng 1 năm 2018 luật này đã trở thành một tu chính án bổ sung vào bộ Luật Tố Tụng Hình Sự năm 2015. Nói chung, sự bổ sung luật đơn điệu này là cách làm miễn cưỡng để cho có chứ thực sự trong quá trình tố tụng, nó không được phát huy. Như đã nói, quyền im lặng nó phải đi kèm quyền có luật sư từ đầu, như vậy CS chỉ thông qua luật về Quyền im lặng, thì xem như luật này được làm ra là chỉ để làm cảnh thôi, không hơn không kém. Trên thực tế, khi công an CS khi bắt người họ không bao giờ thông báo cho bị can biết là bị can có quyền giữ im lặng cho đến khi có luật sư đại diện. Thêm vào nữa là năm 2011, Bộ Công an cũng đã ra một văn bản dưới luật để tước đoạt quyền có luật sư từ đầu của bị can, đó chính là thông tư Thông tư 70/2011/TT-BCA. Trong điều 5 của Thông tư này có quy định, chỉ khi nào được cơ quan tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì luật sư mới được quyền đại diện cho bị can. Cái bệnh hoạn của luật pháp CS là văn bản dưới luật lại loại bỏ những điều khoản trong luật pháp, những điều khoản trong luật pháp có thể loại bỏ những điều khoản trong hiến pháp. Cho nên nếu có luật mới quy định quyền có luật sư ngay từ đầu thì cũng bị thông tư này hoá giải. Không nhắc nghi phạm quyền giữ im lặng và ra thông tư hạn chế quyền mời luật sư của phạm nhân phải nói là một chiêu trò gian xảo. Chính nó cho thấy Công an CS cố tình tạo khoảng trống do thiếu vắng luật sư để ép cung nhục hình phạm nhân, và từ đó họ mới dễ dàng nặn ra những bản án “hoàn hảo” và nhanh chóng để kết thúc điều tra sớm. Vậy nên mới nói, việc ép cung nhục hình nó được xây dựng bài bản từ ý đồ làm luật và từ quy định quái đản về quá trình tố tụng, cho nên mọi người đừng nghĩ nhục hình bức cung chỉ là “sai sót”, mà phải hiểu nó là ý đồ mang tính hệ thống của ĐCS. Để dọn đường cho quá trình ép cung, Cộng Sản đã làm như thế đó. Bản chất CS là muốn tất cả mọi người phải thừa nhận những gì đảng muốn, nên tất họ phải tạo ra những thứ luật pháp rừng rú như vậy. Việc Hồ Duy Hải bị oan chỉ là một trong vô số vụ án oan như vậy mà thôi. Cũng bởi có mạng xã hội, cũng bởi Hải có một bà mẹ vĩ đại và những người thân tuyệt vời, cũng bởi còn đó những luật sư có tâm luôn sát cánh cùng gia đình Hải nên mới có phiên tòa giám đốc thẩm. Chỉ có vụ án nào có lực khui quá mạnh như thế thì dân mới biết, còn vô số những vụ án không có lực khui đủ mạnh thì rõ ràng những nạn nhân ấy phải chấp nhận xanh cỏ cùng với nỗi oan không bao giờ giải do thứ “pháp quyền” khốn nạn này mang đến. Đào sâu để chúng ta thấy, việc vu cáo giáng họa bằng cách ép cung nhục hình nó là thủ đoạn mang tính hệ thống chứ không phải là sai sót. Mục đích của nó là để trám đi lỗ hổng nghiệp vụ kém cỏi của ngành công an CS, và cũng đồng thời nhằm mục đích gieo rắc sự kinh hãi với nhân dân để đạt mục đích cai trị. CS muốn dân hiểu rằng “Dù vô tội, dù sống theo hiến pháp và pháp luật thì cũng chẳng thể an toàn nếu tao muốn chúng mầy có tội. Đừng có dại mà làm phật ý đảng!”. Bản chất là như vậy, nên sẽ không bao giờ có luật công minh và một nền tư pháp vì công lý được. Không bao giờ! -Đỗ Ngà-  
......

Chỉ Cộng Sản Mới Lật Đổ Được Cộng Sản?

Trần Trung Đạo| Hai thái độ bi quan rất quen thuộc trong nhiều người Việt dù rất quan tâm cho đất nước là (1) chỉ khi nào Trung Cộng sụp thì CSVN mới sụp theo, và (2) chỉ có CS mới thay đổi được chế độ CS. Người viết đã bàn thái độ thứ nhất trong loạt bài về “hiểm họa Trung Cộng”. Thái độ thứ hai, người viết có phân tích trong bài “PHẢI CHĂNG CHỈ CS MỚI LẬT ĐỔ ĐƯỢC CS?” Quan điểm chỉ có CS mới lật đổ được CS không chỉ sai trong lý luận mà sai cả trong thực tế lịch sử. Một nhân vật được nêu lên nhiều nhất và cũng được hiểu sai nhiều nhất là Mikhail Gorbachev khi cho rằng ông ta chính là người đã mang dân chủ đến cho Nga nói riêng và 14 nước khác trong khối Liên Sô nói chung. Không ai phủ nhận các chính sách cấp tiến, những quyết định can đảm của Gorbachev trong hai năm cuối của chế độ CS Liên Sô. Tuy nhiên, Mikhail Gorbachev chỉ thổi tắt ngọn đèn khi bình dầu đã gần như khô cạn.Sự chuyển hóa tri thức là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào và chính nhận thức sẽ là vũ khí quyết định làm thay đổi vận mệnh của mỗi con người cũng như vận mệnh của cả dân tộc. ***** Thời gian vừa qua, các phong trào xã hội, phong trào dân chủ tại Việt Nam chịu đựng sự đàn áp khốc liệt của giới cầm quyền Cộng Sản. Không gian bị thu hẹp. Phần lớn các lãnh đạo phong trào đều bị bắt. Một số bị xét xử với những bản án dài hạn bất nhân, một số đông còn bị giam chờ ngày lãnh án và những người chưa bị bắt sống trong tâm trạng sắp bị bắt. Điều này làm không ít người trở nên bi quan khi nhìn viễn cảnh quá xa xôi của một đất nước Việt Nam thật sự tự do, và tự hỏi phải chăng “chỉ có Cộng Sản mới lật đổ được Cộng Sản”? Quan điểm “chỉ có Cộng Sản mới lật đổ được Cộng Sản” là một quan điểm không đúng. Không đúng cả về lý luận, lịch sử lẫn thực tế. Nhân vật được viện dẫn nhiều nhất cho quan điểm này là Mikhail Gorbachev, người tuyên bố cáo chung chế độ Cộng Sản tại Liên Sô. Không ai phủ nhận các chính sách cấp tiến, những quyết định can đảm của Gorbachev trong hai năm cuối của chế độ Cộng Sản Liên Sô. Tuy nhiên, Mikhail Gorbachev chỉ thổi tắt ngọn đèn khi bình dầu đã gần như khô cạn. Lúc bảy giờ chiều ngày 25 tháng 12, 1991, Mikhail Gorbachev từ chức chủ tịch Liên Sô giữa sự thờ ơ của đại đa số dân Nga. Không một quốc gia nào trong số 15 nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” trước đó thuộc Liên Bang Sô Viết quan tâm. Không một tiếng vỗ tay ngoài điện Kremlin. Không có một tiếng hoan hô trên “Quảng Trường Đỏ”. Nhiều người dân Nga đi xe điện về nhà sau ngày dài làm việc không biết mình đang sống trong thời điểm lịch sử. Cả đất nước không biết mình đang choàng tỉnh sau 74 năm dài trong cơn mê kinh hoàng Cộng Sản. Lý do như Mikhail Gorbachev phát biểu “người dân đã từ chối chế độ từ trước đó rồi”. Tại các quốc gia Baltics, những lãnh đạo của phong trào dân chủ là những trí thức, những giáo sư, nhạc sĩ và phần đông chưa hề làm chính trị. Chẳng hạn tại Estonia, khi các nhạc sĩ cất lên tiếng hát cả nước hát theo. Bài hùng ca tự do của dân tộc Estonia cũng chính là bài ai điếu đưa một chế độ phi nhân ra nghĩa trang lịch sử. Tại các nước Đông Âu như Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan, các phong trào dân chủ đã hình thành, bị vùi dập dưới xích sắt của xe tăng nhưng không chết. Tinh thần cuộc Nổi Dậy Hungary Gia Lợi. Họ là ai? Là những giáo sư đại học, văn nghệ sĩ, những công nhân và nông dân có quá khứ bình thường và khiêm nhượng. Tại Romania, vợ chồng Nicolae Ceaușescus bị bắn chiều ngày 25 tháng 12, 1989, nhưng chế độ đã sụp đổ từ bốn ngày trước trong buổi mít-tinh tại thủ đô Budapest do chính đảng Cộng Sản tổ chức. Ai đã buộc Ceaușescus, một lãnh tụ Cộng Sản sắt máu phải rút lui vào phòng trong, bỏ dở diễn văn đang đọc? Người dân Romania. Chính những người đầu tiên trong số hàng trăm ngàn người bình thường có mặt hôm đó đã lớn tiếng phản đối Ceaușescus. Tiếng hét của người dân là kết quả của nỗi hờn căm tích chứa suốt 44 năm. Tiếng thét của họ không còn lẻ loi, vô vọng nữa. Những ngọn sóng nhỏ trở thành ngọn triều dâng cao và đánh sụp chế độ chỉ trong bốn ngày sau. Nicolae Ceaușescus không tiên đoán được ngày tàn của mình. Căn bịnh ung thư di căn mà các lãnh tụ độc tài Cộng Sản đều có trong người là ung thư quyền lực. Bịnh ung thư quyền lực ăn sâu vào trong não bộ làm mù lương tâm và lý trí của các lãnh tụ Cộng Sản độc tài. Một bằng chứng rất hài nhưng có thật. Báo New York Time, phát hành ngày 26 tháng 5, 2000, kể lại những ngày Erich Mielke, hung thần đứng đầu tổ chức an ninh Đông Đức Stasi, còn ở trong tù sau khi nước Đức thống nhất. Erich Mielke chỉ bị kết án 6 năm vì y giả bịnh một cách khéo léo nhưng khi vào nhà tù Moabit, Erich Mielke lại bịnh thật. Một căn bịnh tinh thần khó tìm ra nguyên nhân. Ban quản đốc nhà giam bèn nghĩ ra một sáng kiến. Họ đặt trong phòng tù của Erich Mielke một chiếc điện thoại màu đỏ giống hệt như điện thoại mà ông ta dùng để ra lệnh khi còn là tổng giám đốc cơ quan an ninh Stasi. Dĩ nhiên đường dây của điện thoại chẳng nối vào đâu cả nhưng mỗi ngày Erich Mielke đều quay số và ra lịnh bỏ tù người này, hạ sát người kia như đang thật sự là tổng giám đốc của Stasi. Tại Mông Cổ ở Á Châu, Ethiopia ở Phi Châu cũng tương tự, cách mạng bùng lên từ nạn đói, nỗi đau nhức, sự chịu đựng của người dân thường chứ chẳng từ một lãnh tụ CS nào thương xót hay thức tỉnh. Người viết đã có lần trình bày, tác giả Archie Brown, giáo sư chính trị học đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) phát hành lần đầu 2009 đã nêu ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là kinh tế hay quân sự mà là sự thay đổi xã hội (social change). Theo đà phát triển văn minh, người dân dần dần không những có khuynh hướng muốn tìm hiểu những gì khác hơn mà còn nghi ngờ và từ chối các kiến thức họ bị chế độ đầu độc. Sự chuyển hóa tri thức là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và chủ quyền của dân tộc Việt Nam cho tới nay vẫn là còn là một đấu tranh không cân sức. Tuy nhiên, chính nghĩa cuối cùng sẽ thắng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Đảng CS còn mạnh nhờ bộ máy tuyên truyền, nhờ thành phần phên dậu, nhờ nhà tù dựng khắp ba miền nhưng chính họ cũng phải biết chế độ CS tại Việt Nam chỉ có tính cách tạm thời và khi sụp đổ sẽ sụp đổ rất nhanh. Trần Trung Đạo Mời nghe PHẢI CHĂNG CHỈ CS MỚI LẬT ĐỔ ĐƯỢC CS?” do Anh Chi Anh Chi đọc dưới đây. https://www.youtube.com/watch?v=bF4IdbqtCAM&fbclid=IwAR1c387PS2pFXcI5D-JvusE0Xffqt7z_0d4RRstM2IGY7YYx6n0TQDGP3cE   http://www.tvvn.org/chi-cong-san-moi-lat-do-duoc-cong-san-tran-trung-dao/      
......

Chiếc áo choàng cũ của “tân vương”

Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí Thư đảng CSVN. phát biểu trong hội nghị về công tác tổ chức xây dựng đảng hôm 25/12/2019. Ảnh: VTC News Tân Phong – Web Việt Tân Nếu không có gì thay đổi, thì tới đây, sau đại hội đảng lần thứ 13, ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư, là người mà ông Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, giới thiệu là ứng viên duy nhất cho vị trí tổng bí thư, đương nhiên sẽ trở thành “tân tổng bí.” Ở vị trí tối cao của một đảng cầm quyền, ông Vượng sẽ tiếp tục kiên định đi theo đường lối Marx Lenin? Liệu ông Vượng có những tiến bộ, cải cách nào khác ngõ hầu đưa “con thuyền không bến” Việt Nam rách nát tơi tả đang trôi dạt ở biển Đông trong sóng gió vùi dập của anh “bạn vàng 4 tốt”, thoát khỏi cái nạn vong quốc, đắm tàu? Liệu ông có thể giúp cho 97 triệu con dân nước Việt thoát khỏi viễn cảnh hãi hùng trở thành “thuyền nhân” vô tổ quốc, ngay trên chính mảnh đất cha ông ngàn năm văn hiến mà lịch sử từng ghi dấu những “Đinh, Lý, Trần, Lê cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương?” Ông Trần Quốc Vượng, sinh ngày 5, tháng Hai, năm 1953. Nếu không có khai man, khai gian tuổi giống như các đồng chí của ông, thì năm nay ông 67 tuổi. Nhưng nhìn ông thì thấy ông hom hem, già nua hơn con số 67 mặc dù chế độ chăm sóc sức khỏe dành cho cán bộ thuộc Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản thì vua chúa ngày xưa cũng chẳng là cái đinh gì. Nhìn ông đứng cạnh ông Trọng, từ điệu bộ ăn mặc, đi đứng, ngoại hình già cỗi, chậm chạp, cái kiểu cười “ngây ngô, hiền, hiền” như giáo làng … giống nhau đến kỳ lạ. Có lẽ cũng bởi vì thế, nên ông Trọng ưng ông Vượng lắm. Ông bà mình có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã; mướp đắng, mạt cưa… mới vừa mắt nhau.” Quả cấm có sai. Cứ thấy ông Trọng dắt tay ông Vượng, hai người thắm thiết cười nói với nhau thì thấy cái tình đồng chí cộng sản nó ghê gớm thế nào. Ông Vượng nghe nói là học luật, sau ngồi tới viện trưởng viện kiểm sát tối cao từ 2007 – 2011, trước khi trở thành thường trực ban bí thư bây giờ. Ông Vượng là người kín tiếng, không thấy có scandal gì. Kẻ thì bảo ông thanh liêm, người thì bảo ông trốn trong đống rơm kỹ quá. Thôi thì cứ tin là ông thanh liêm, chính trực, đạo đức sáng ngời theo tiêu chuẩn cộng sản, nhưng còn việc sắp tới ông nói và làm ra sao trên vị trí “tân vương” của đảng cầm quyền, thì là chuyện khác. Vì ông là tân vương, nên ai cũng mong ngóng có một tân vương sáng suốt chứ không lú. Đấy là hy vọng thế, chứ vẫn biết rằng “đời chẳng như mơ.” Không khéo, ông còn lú hơn cả Lú. Cứ nhìn vào phát ngôn, việc làm của ông thì nghĩ nó nản. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu Mới đây, ông Vượng thay mặt Bộ Chính Trị CSVN, ký ban hành Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 khóa IX về việc “…tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Theo đó, ông yêu cầu tiếp tục tăng cường tuyên truyền, quán triệt về bản chất của kinh tế tập thể, hợp tác xã; khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đồng thời đưa nội dung phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vào giảng dạy trong hệ thống các trường chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.” Có lẽ, đối với những người lớn tuổi ở Việt Nam, những ký ức kinh hoàng về giai đoạn nhà cầm quyền CSVN duy trì chế độ kinh tế tập thể, vẫn còn chưa phai dấu. XEM THÊM: Hợp tác xã đội mồ sống lại? Thành phần vô sản “lý lịch ba đời bần cố nông” được lựa chọn là giai cấp lãnh đạo, “vừa cầm súng, vừa điều hành nền kinh tế” theo khẩu hiệu và những mô hình cóp nhặt từ Trung Quốc, Liên Xô đã biến xã hội Việt Nam những năm 70 – 80s trở thành địa ngục trần gian. Chính sách kinh tế tập thể, công tư hợp doanh, đánh tư sản mại bản… sau năm 1975 đã tiêu hủy nền kinh tế thịnh vượng nhất Đông Nam Á mà Việt Nam Cộng Hòa để lại gần như nguyên vẹn. Quốc gia nông nghiệp với rất nhiều tài nguyên và lợi thế môi trường phải nhập bobo về ăn. Các bà, các cô miền Bắc nhắc về thời kỳ hợp tác xã, kinh tế tập thể, có câu vè cay nghiệt “Suốt ngày hợp tác, hợp te. Chẳng có mảnh vải mà che cái …” Nhưng đó là sự thực, vì từng mét vải, cái kim, sợi chỉ cũng phải phân phối theo chế độ tem phiếu mậu dịch mà chẳng mấy khi có đủ cho nhu cầu tối thiểu che thân. XEM THÊM: Hợp tác xã – nỗi ám ảnh của thế kỷ 20 45 năm sau cuộc chiến, giờ người Việt Nam có một cuộc sống đỡ thiếu thốn vật chất hơn, đầy đủ hơn chẳng phải là nhờ vào tài năng của người cộng sản, mà đó là nhờ sau khi chẳng có nổi bobo mà ăn thì những chóp bu của đảng mới mở trói bớt phần nào gông cùm cho người dân và cho phép kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư. Tới nay, khu vực kinh tế tư nhân đang lớn mạnh từng ngày. Đến năm 2018, lực lượng này đóng góp tới 42,1% GDP (10% là chính thức, còn lại là 30% phi chính thức) của nền kinh tế. Đây cũng là khu vực tạo nhiều việc làm mới, đặc biệt là số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Năm 2019, số lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm 83,3% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của cả nước, tương đương gần 45,2 triệu người. Trong hai năm 2017-2018, kinh tế tư nhân chiếm tỉ trọng 25,3-26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và chiếm tỷ trọng 34,7-34,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa, lớn gấp hơn 10 lần về xuất khẩu và gần 7 lần về nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (không kể dầu thô). Như vậy là xuất phát từ con số 0 vào năm 1986, lực lượng kinh tế tư nhân đã trở thành trụ cột quan trọng nhất đảm bảo an sinh và việc làm cho quốc gia bên cạnh khối doanh nghiệp vốn FDI đóng vai trò trụ cột cho việc xuất cảng các sản phẩm gia công. Riêng một công ty Samsung Hàn Quốc cũng chiếm tới 25% GDP của Việt Nam. Trong khi đó, chỉ vài chục tổng công ty, bộ ngành, tập đoàn nhà nước chiếm tới 80% đất đai tài nguyên quốc gia, ngốn tới hơn 45% qui mô vốn của nền kinh tế nhưng chỉ góp khoảng 20% GDP chính thức. Tuy vậy thì hầu hết tất cả các tổng công ty, tập đoàn nhà nước đều là những con nợ khủng. Càng nhiều những doanh nghiệp trong lĩnh vực độc quyền thì nợ càng lớn. Doanh nghiệp nhà nước là lãnh địa riêng của các quan chức chóp bu chia nhau lợi quyền và đục khoét công quĩ. Những “quả đấm thép” của đảng vẫn đang đấm vỡ mặt nhân dân và khiến cho đống nợ quốc gia ngày càng chồng chất cao, cao mãi. Thế mà, ông Vượng vẫn xác định “phát triển kinh tế tập thể, HTX là xu hướng tất yếu” thì nhất định ông “không thần kinh, thì cũng khốn nạn” mới phát ngôn như thế. Khuyến khích đảng viên đọc sách “ní nuận”, sách chính trị Mác, Lê, Mao, Hồ Hôm 16 tháng Tư, 2020 vừa qua, ông Vượng ký Chỉ thị 44 của Ban Bí Thư về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị. Ông Vượng đánh giá: “…chất lượng chính trị, khoa học, tính thực tiễn, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hấp dẫn của sách lý luận, chính trị còn hạn chế, chưa có nhiều đầu sách hay, có giá trị cao về lý luận và thực tiễn; phương thức xuất bản còn nhiều bất cập, việc xuất bản điện tử chưa được quan tâm đúng mức. …Những hạn chế, yếu kém này là do hoạt động xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị chưa nhận được sự quan tâm đúng mức và đầu tư tương xứng; việc mua, đọc, nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị của không ít cơ sở, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa được chú trọng. Các cấp uỷ, tổ chức Đảng cần xác định nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, là một trong những hoạt động chính trong sinh hoạt định kỳ của tổ chức cơ sở Đảng.” Vốn dĩ, thì những người cộng sản Việt Nam đã tụng niệm những cuốn sách đó suốt 90 năm qua. Dù cả thế giới đã ném triết thuyết vô thần nhưng cuồng tín đó vào sọt rác của lịch sử từ lâu thì ở quốc gia này, nó vẫn là thứ bấu víu lay lắt cho một thể chế đã lạc điệu với thế giới, phi nhân và phản động. Các cấp uỷ, tổ chức Đảng cần xác định nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, là một trong những hoạt động chính trong sinh hoạt định kỳ của tổ chức cơ sở Đảng.” Vốn dĩ, thì những người cộng sản Việt Nam đã tụng niệm những cuốn sách đó suốt 90 năm qua. Dù cả thế giới đã ném triết thuyết vô thần nhưng cuồng tín đó vào sọt rác của lịch sử từ lâu thì ở quốc gia này, nó vẫn là thứ bấu víu lay lắt cho một thể chế đã lạc điệu với thế giới, phi nhân và phản động. Chỉ thị mang số 44 của Ban Bí Thư đảng CSVN hôm 16/4/2020 về việc nâng cao chất lượng và nghiên cứu, học tập sách lý luận, sách chính trị. Ảnh chụp màn hình Bộ Nội Vụ. Những nhà ní nuận của đảng không biết từ khi nào, đã không còn chỗ đứng trước công luận và xã hội, họ chỉ còn biết “tự sướng” trong những diễn đàn nội bộ của một đám lưu manh chính trị tung hô, vỗ ngực “đảng ta đạo đức, đảng ta là văn minh, chủ nghĩa xã hội bất diệt…” Những chóp bu tin vào “tính tất yếu lịch sử” của chủ nghĩa xã hội cũng giống như ông vua tin vào chiếc áo choàng bằng không khí qua lời xu nịnh của những kẻ lừa đảo, đã tự lột truồng mình trước bàn dân thiên hạ mà tự nhủ rằng đây mới là bộ cánh đẹp nhất thế gian. Ông ta tin rằng “những kẻ nào ngu ngốc mới không nhìn thấy tấm áo choàng này đẹp nhường nào!” Nhưng, càng ngày thì càng nhiều tiếng nói cất lên “tên vua đang cởi truồng!” Ông Vượng, phải chăng đang cố gắng tìm lại trong mớ “ní nuận” cũ kỹ những câu bùa chú để cứu vãn tình trạng tuyệt vọng đó? Nhưng ngay cả ông, chắc chắn cũng chẳng có lời giải đáp. Và rồi, đến một ngày nào đó, ông ta sẽ lại tự lột truồng tấm thân già nua, nhăn nhúm của mình, giả đò như thể đang khoác lên mình bộ áo choàng hoang tưởng, cũ kỹ để diễu hành với đám tùy tùng hô vang “chủ nghĩa xã hội vô địch, chủ nghĩa xã hội muôn năm…” 6/5/2020 Tân Phong  
......

Ông Vượng lại chỉ thị tiếp

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Là thường trực Ban Bí Thư, ông Trần Quốc Vượng thay thế ông Nguyễn Phú Trọng giải quyết những công việc hàng ngày; trong trách vụ như vậy, ông Vượng đã ký khá nhiều chỉ thị mang nội dung “giật lùi” của những chính sách cách nay 20 năm. Người ta còn nhớ cách đây không bao lâu, ông Vượng đã ký chỉ thị đẩy mạnh kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã làm dư luận quá ngạc nhiên, vì tính cách phản tiến hoá của nó trong đời sống kinh tế. Khoảng một tuần sau, ông Vượng ký tiếp chỉ thị thúc đẩy cán bộ và người dân tích cực mua báo đảng và đọc báo đảng, một điều mà ngay chính những tờ báo đảng mang theo cái đuôi “nhân dân” như báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân cũng không dám tin. Không dừng lại ở đó, ngày 16 tháng Tư, 2020 vừa qua ông Vượng lại cho ra đời chỉ thị mang số 44, chỉ đạo các cấp uỷ đảng, bộ máy chính quyền, các cơ quan Mặt Trận Tổ Quốc về việc phải đổi mới, nâng cao chất lượng và nghiên cứu, học tập sách lý luận, sách chính trị. Ông cũng phê phán loại sách lý luận, chính trị còn ít, không có giá trị cao về lý luận và thực tiễn đời sống. Mặt khác đội ngũ nghiên cứu lý luận còn thiếu chuyên gia có trình độ cao về chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh để có thể biên soạn sách chính trị thật nhiều. Ý của ông Vượng là các loại sách báo về lý luận, chính trị hiện nay còn quá nghèo nàn, thiếu lý luận sắc bén, viết nhảm nhí. Đó là lý do khiến đảng viên và quần chúng không mua, không đọc và sách bị ế hàng. Có thật như thế không? Nói một cách tổng quát, ở Việt Nam tất cả các loại sách báo hay những bài viết lôi cuốn được nhiều người đọc, không do có lý luận chính trị Mác-Lê hay không. Độc giả chỉ chú trọng đến phần nội dung của quyển sách hay bài viết phục vụ gì, có đáp ứng được gì cho nguyện vọng quần chúng hay không thì người ta mới ham thích tìm đọc. Huống chi với loại sách lý luận, chính trị của đảng vừa khô khan vừa vô bổ thì còn ai muốn đọc? Vả chăng hàng ngày những chiếc loa phường vẫn ra rả bên tai “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm” thì đọc sách chính trị cũng hoá nhàm và nhảm. Ai cũng biết, chủ nghĩa cộng sản ra đời ở Âu Châu vào giữa thế kỷ 19 để giải thích và đáp ứng sự thất vọng của giai cấp công nhân chưa thích ứng được với những thay đổi trong quan hệ sản xuất mới, khi nền công nghiệp Tây phương đang trên đà phát triển. Chủ thuyết ấy được Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Âu lấy làm nền tảng tư tưởng cho phong trào cộng sản, tạo sự liên kết để tìm con đường phát triển đất nước một cách nhanh chóng, hầu đuổi kịp khối Tự Do. Nhưng sau một thời gian dài được khai thác triệt để, lý thuyết cộng sản đã bộc lộ nhiều nhược điểm của một công trình chỉ có sức hấp dẫn quần chúng lúc đầu với những giá trị giả tạo, phi thực tế của con đường tiến lên xã hội phồn vinh, mệnh danh xã hội chủ nghĩa. Đó là lý do cắt nghĩa sự thoái trào và tan vỡ của chủ nghĩa cộng sản, đã giúp các quốc gia nêu trên nhìn lại kịp thời, tìm con đường phát triển cho riêng cho mình. Việt Nam trước đây cũng như các quốc gia thuộc địa khác, trước hoàn cảnh khắc nghiệt của dân tộc, một số lãnh đạo chống Pháp đã nhập cảng chủ thuyết cộng sản, khoác lên chiếc áo chủ nghĩa yêu nước và lôi kéo được quần chúng về phía mình. Sau khi nắm được quyền lực, do nhu cầu tồn tại độc quyền và lâu dài, họ tiếp tục coi giáo điều cộng sản là chân lý, bất chấp sự kiện chủ nghĩa xã hội đã chết và giờ đây chỉ còn là một mớ lý thuyết bầy nhầy, hoang tưởng. Sự tô vẽ cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như đảng CSVN rao giảng hiện nay là chuyện hài hước, vì chính ông Hồ Chí Minh đã tự nhận không có tư tưởng gì khác, ngoài tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng chuyện hài hước ấy vẫn được đảng đề cao, nhằm giúp các đảng viên như một thứ bùa ngải để bám víu vào đó, tiếp tục biện minh cho sự độc tôn quyền lực chính trị lẫn kinh tế, bóp chết các quyền tự do của người dân. Thật ra, sách báo lý thuyết, chính trị của đảng sản xuất từ trước đến nay cũng không phải là ít. Ngoài những cây bút ăn lương tháng của các cơ quan như Tạp Chí Cộng Sản, Hội Đồng Lý Luận Trung Ương, Ban Tuyên Giáo Trung Ương, ngày đêm nặn óc viết những cuốn sách theo ý đảng, người ta còn thấy những công trình đồ sộ về lý luận Mác-Lênin khác. Điển hình như Lê Duẩn Tuyển Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập hay sách dịch Lênin Toàn Tập của nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. Ngay cả một tổng bí thư xuất thân ngành lâm nghiệp cũng đóng góp vào sự nghiệp lý luận của đảng bằng “Nông Đức Mạnh Tuyển Tập” gồm 4 cuốn dầy cộm. Tác giả của chúng là những nhân vật một thời là lãnh đạo cao cấp trong đảng, nên khả năng viện dẫn kinh điển Mác-Lê rất hùng hồn, vẽ ra con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa đầy vinh quang để ru ngủ quần chúng. Cần nhìn nhận một sự thật là đại đa số các đảng viên cộng sản chẳng mấy ai “dám đọc” qua những tuyển tập và toàn tập này, ngoại trừ bị nhồi nhét trong những lớp học gọi là “bồi dưỡng chính trị.” Lẽ dĩ nhiên người dân thì đâu ai thèm đọc những mớ lý luận hoang tưởng hoàn toàn vô bổ đó, vì nó quá xa rời thực tiễn đời sống xã hội và nhất là đã lỗi thời. Cái mà người dân cần đọc là những trào lưu tư tưởng mới mẻ, phong phú, những bài viết, sách báo phát huy dân chủ trong đời sống công dân, phát huy tính nhân bản trong giáo dục và quyền làm người, quyền được sống trong một môi trường xã hội công bằng, lành mạnh. Đó là nhu cầu thiết yếu của một đất nước tiến bộ mà bất cứ nhà cầm quyền nào cũng phải hiểu thấu hầu cai trị một cách thành công. Nhưng những điều này ở Việt Nam chẳng những không có mà còn bị cấm đoán, thậm chí nếu có người truyền đạt hay phổ biến lập tức bị chế độ bắt và cầm tù. Chính vì thế mặc dù nắm độc quyền viết, xuất bản, phổ biến nhưng những sách báo tuyên truyền của chế độ cũng chỉ in ra để làm cây kiểng trên giá sách. Với những lý luận một chiều nhằm mục tiêu tô vẽ hình ảnh đảng Cộng Sản được lập đi lập lại càng làm lộ rõ sự lỗi thời, bế tắc nên người đọc và ngay cả đảng viên cũng chẳng ai quan tâm. Do đó Chỉ Thị 44 của Thường Trực Ban Bí Thư Trần Quốc Vượng ngoài việc giúp thêm công ăn việc làm cho đám văn nô của đảng sống còn trong thời buổi kinh tế thị trường, nhưng quan trọng hơn là ông Vượng muốn làm an lòng nội bộ đảng là sẽ tiếp tục đi theo con đường “hồng hơn chuyên” sau khi thay thế Nguyễn Phú Trọng. Phạm Nhật Bình  
......

Nối vòng tay lớn.

Dang Xuong Hung|  Đợi xong ngày 30/4, mới viết đôi dòng về nó, vì muốn xem có điều gì mới mẻ hay không? Năm nay là năm chẵn nên « bên này » tưởng nhớ cũng cao hơn, « bên kia » do nhu cầu công hàm Phạm Văn Đồng, dường như nhẹ tông đôi chút. Thời gian càng trôi xa lại càng củng cố thêm khẳng định: vĩ tuyến 17 chỉ chia đôi đất nước Việt Nam, nhưng 30/4/1975 đã chia đôi dân tộc Việt Nam. Đã 45 năm, bản luận tội cộng sản của phía « bên này » ngày càng dài ra. Niềm tiếc thương Việt Nam Cộng Hòa, nên dân chủ non trẻ, ngày càng sâu nặng hơn. Đã 45 năm, thời gian quá thừa để phơi bày bản chất chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do đảng cộng sản độc quyền. Vòng tay Việt Nam chưa bao giờ được khép kín. Nhưng 45 năm qua, đã có rất nhiều người từ phía « bên kía » dần chuyển sang phía « bên này ». Ban đầu là từ suy nghĩ, tư tưởng, sau chuyển thành hành động. Người Việt Nam trong nước đã thay đổi trong suy nghĩ rất nhiều. Họ đã nghĩ về ngày 30/4 kèm theo suy luận giá như cực kỳ đơn giản từ ví dụ Nam và Bắc Triều Tiên. Bài viết này, tiếp tục hướng về phía « bên kia », để mong một ngày nào đó « rừng núi sẽ dang tay, nối lại biển xa ». Người dân đã thay đổi, người dân cũng mong muốn đổi mới chế độ. Cộng sản không bao giờ thay đổi, nhưng muốn thay đổi cộng sản, cần có những người cộng sản thay đổi. Cộng sản sẽ phải sụp đổ, người cộng sản Việt Nam thức tỉnh càng sớm càng có lợi cho họ. Người dân đang lên tiếng mọi nơi, cần lắm những người cộng sản có thể nghe được tiếng nói của dân. Mọi thứ cần phải thực tâm, thực lòng. Con bài mị dân, lừa dân, thành công trong nhiều năm qua, nay đã hết hiệu nghiệm rồi. Đấu tranh bất bạo động của người dân như gián tiếp truyền đi thông điệp: để hận thù không nối tiếp hận thù, người dân đứng lên chỉ là để đòi trả lại cho dân quyền phán quyết của họ. Họ muốn « tiêu diệt cộng sản » qua một cuộc bầu cử tự do. Con đường phía trước của dân tộc Việt Nam còn rất chông gai. Đó là hàn gắn được nhịp cầu đã gẫy do ngày 30/4/1975 gây ra. Chông gai là vì kể cả khi tác giả của hận thù sụp đổ, thì mối hận thù sau 30/4 không hẳn một sớm một chiều hàn gắn được. Để dựng tình người trong ngày mới, để từ Bắc vô Nam, từ trong ra ngoài, nối liền một vòng Việt Nam, thì mỗi con người Việt Nam, cả trong và ngoài nước, cả người chống cộng và người còn là cộng sản đều nên đặt lợi ích của dân tộc Việt Nam lên trên lợi ích của đảng phái của mình. Đây là thời điểm rất đặc biệt để kiểm nghiệm thái độ của người cộng sản Việt nam giữa lợi ích của đất nước, dân tộc Việt Nam với lợi ích của đảng cộng sản Việt Nam mà họ đang hưởng quyền lợi. Hậu đại dịch sẽ là thời điểm họ không thể chần chừ được nữa. Vòng tay lớn của Việt Nam sẽ có mặt cả những người cộng sản Việt nam đã biết thay đổi. Đặng Xương Hùng
......

Thoang thoảng mùi thuốc súng?

Nguyen Khan| Dường như TC (Trung Cộng) không còn giữ được sự “lạnh lùng” cần có của một nước lớn đang nuôi tham vọng xưng bá dưới tấm bình phong rất lãng mạn: Trung Hoa Mộng. Mạng xã hội đang rộ tin nhà cầm quyền TC đã đe nẹt các nước (nhỏ ) sẽ chuốc lấy cơn thịnh nộ của TC như TC đã từng làm thế ở Triều Tiên đầu thập niên 50 thế kỷ trước nếu các nước dám to gan “a dua” chống lại TC. TC cũng không giấu được sự tức giận khi các chiến hạm Mỹ vào Biển Đông, không chỉ phá đám ý đồ độc chiếm Biển Đông của TC qua các hoạt động ngang ngược của bầu đoàn thê tử tàu thăm dò địa chất HD-08 và cụm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh, mà còn liên tục cho chiến hạm áp sát khu vực 12 hải lý quanh các đảo trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa TC cướp của VN, đe dọa có thể đáp trả chiến hạm Mỹ bằng hành động quân sự để bảo vệ điều mà TC cho là Mỹ đã vi phạm chủ quyền biển đảo hợp pháp của TC trong Biển Đông. Có vẻ như Mỹ đã đánh hơi ý đồ TC lợi dụng dịch cúm Vũ Hán làm tê liệt Mỹ và thế giới để xưng bá khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Các điểm nóng khả nghi là mục tiêu TC xâm chiếm, có thể là quần đảo Senkaku của Nhật, Đài Loan, quần đảo Trường Sa, và cũng có thể TC sẽ chiếm đóng Hongkong phá bỏ hiệp ước Trung – Anh một quốc gia hai chế độ… Nên Mỹ, ngoài việc tăng cường chiến hạm tuần tra trong Biển Đông và Biển Hoa Đông, còn điều hai siêu phi cơ chiến lược B-1B Lancer và 1 phi cơ tiếp dầu cất cánh từ Mỹ bay qua Biển Đông áp sát…để răng đe TC. Tin mới nhất, Mỹ đã bố trí 4 phi cơ chiến lược B-1B lancers tại đảo Guam, cùng với một phi đội pháo đài bay chiến lược tàng hình B2 đang đồn trú ở đó, sẵn sàng xuất kích khi có lệnh. Sự xuất hiện các loại phi cơ thứ dữ này cho thấy bóng ma đại chiến đang ẩn hiện… Ngoài ra, Nhật cũng vừa thành lập đơn vị phòng không hiện đại bố trí ở phía Tây Nam để sẵn sàng đối phó trước bất kỳ cuộc tấn công nào của TC. Tư lệnh phòng không và không gian Mỹ cũng tuyên bố lực lượng này đang trong tình trạng sẵn sàng tốt nhất, đáp trả mọi mối đe dọa khi có lệnh. Tổng thống Mỹ Donal Trump cũng vừa đe dọa trừng phạt hàng ngàn tỷ USD thuế hàng hóa TC. Mỹ cũng đang phối hợp với nhiều nước điều tra nguồn gốc virus Vũ Hán và điều tra việc TC cố tình giấu dịch gây tổn thất nặng nề về mạng người và kinh tế cho Mỹ và cộng đồng quốc tế, nghiên cứu khởi kiện đòi TC bồi thường hàng vạn tỷ USD thiệt hại. Mỹ cũng cấm sình viên và các nhà khoa học TC đến Mỹ học tập và nghiên cứu, đang điều tra bắt giữ gián điệp TC, trục xuất những người Hoa hợp tác hoặc thân tình với Bắc Kinh…. Xem ra Mỹ đang tìm cách trả đũa Bắc kinh, cho rằng Mỹ bị virus Vũ Hán gây tổn thương nặng nề là do TC cố ý hãm hại Mỹ và nhiều nước. Cho nên đây không còn là lúc đặt câu hỏi Mỹ có kiếm chuyện trả đũa TC bằng vũ lực hay không, mà nên hỏi Mỹ và TC sẽ có hành động quân sự giới hạn đến mức nào. Bởi một khi Đại Bàng bị tổn thương thì rất khó có thể ngăn cản nó phô trương sức mạnh. Dẫu bộ ngoại giao TC cũng đã hạ hỏa kêu gọi Mỹ đừng can thiệp vào điều mà TC cho là chuyện nội bộ của TC và các nước trong Biển Đông, nhưng phát ngôn đó chưa đủ thiện chí để Mỹ quan tâm. Về phía TC, một nước lớn đang ôm ấp giấc mộng Trung Hoa, đang có thừa thủ đoạn, gian trá, ngang ngược,ngạo mạn và tàn bạo, sẵn sàng đạp lên mọi luật lệ và thông lệ quốc tế để đạt cho bằng được tham vọng bá quyền, thì đây là lúc không gì thuận lợi hơn để dùng sức mạnh quân sự đánh chiếm các mục tiêu, kiểm soát các khu vực địa chính trị và các vùng biển chiến lược như Biển Đông và Biển Hoa Đông, loại bỏ vai trò siêu cường số 1 của Mỹ theo cái bẩy Thucydich. Đó là lý do các giới chức TC liên tục có những phát ngôn mang tính kẻ cả khó nghe, những chính sách ngoại giao pháo hạm, những hoạt động quân sự đầy thách thức… trong khi các nước đang chạy sấp chạy ngửa đối phó với dịch cúm Tàu, không còn hơi sức mưu cầu chuyện khác, thì có vẻ như TC đang sung sức để “múa gậy vườn hoang” ? Có vẻ như TC vừa đấm vừa run… đang dao động, lưỡng lự trước những động thái diễu võ dương oai của Mỹ, chưa biết Mỹ thực sự bị virus Vũ Hán làm suy yếu đến mức nào, chưa rõ sự chia rẽ trong chính trường Mỹ trong năm bầu cử sẽ làm tổng thống Trump chập chờn thiếu quyết đoán đến đâu, chưa hiểu Mỹ đang phô trương sức mạnh quân sự để răng đe TC, để trả đũa TC hay chỉ là hành động rung cây nhát khỉ để che đậy sự suy yếu của quân đội Mỹ do virus Vũ Hán gây ra? Dù gì đi nữa, cũng không còn cơ hội nào tốt hơn cho TC thực hiện giấc mơ Trung Hoa. Nếu không là thời điểm này thì chẳng còn thời điểm nào. Bởi không chỉ đây là lúc tốt nhất và duy nhất để thực hiện giấc mơ Trung Hoa, mà còn là thời điểm ra tay để ngăn chặn hậu họa của dịch cúm Tàu. Vì nếu TC chần chừ chậm ra tay, để Mỹ và các nước ngăn chặn được dịch bệnh, phục hồi hoạt động kinh tế, sẽ liên minh với nhau cô lập và hạch tội TC, thì lúc ấy không những giấc mơ Trung Hoa sẽ vĩnh viễn nằm trong cõi mộng, mà ngay cả sự tồn tại của thể chế độc tài dã man TC hiện nay cũng khó có thể duy trì. Đó là những lý do khiến mùi thuốc súng đang thoang thoảng phảng phất…?  
......

Ước mơ Việt Nam

Lý Thái Hùng - Web Việt Tân| Mùa Hè năm ngoái (2019), người viết có cơ hội gặp mặt và trò chuyện với một số anh chị em du sinh và công nhân đang học hay làm việc tại một số quốc gia ở khu vực Đông Á. Họ ở nhiều lứa tuổi nhưng đa số là dưới 30 tuổi và họ đến từ nhiều địa phương khác nhau ở Việt Nam. Hỏi thăm về sự quan tâm hiện nay, đối với các bạn du sinh thì đa số muốn sớm ra trường để tìm một công việc nào đó có đồng lương cao hầu giúp gia đình, còn chuyện trở về Việt Nam làm việc thì tính sau. Những anh chị em công nhân thì cố căng sức kiếm tiền thật nhanh, thật nhiều để quay lại Việt Nam sau 3 năm lao động, nhằm trả hết nợ (khoảng từ 7 đến 10 ngàn Mỹ Kim) và sau đó làm lại một cuộc đời mới. Hỏi về ước mơ gì cho tương lai, các bạn đã chia sẻ những điều rất đơn giản, tựu trung là: Có một cuộc sống không còn những mệnh lệnh chính trị lạc hậu; muốn được trở thành một nhà giáo đúng với lương tâm của người Thầy; muốn được ngẩng đầu hãnh diện mình là người Việt; muốn có một cuộc sống an bình cùng với gia đình ngay trên đất nước để không phải tha phương cầu thực… Những mong ước nghe qua thì thật là bình dị và không có gì là to lớn mang tính chất đội đá vá trời, nhưng nhìn vào hoàn cảnh của mỗi anh chị em và tình hình Việt Nam dưới sự cai trị độc tài, tham ô nhũng lạm của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thì phải nói rằng đó đúng là ước mơ. Thật ra mơ ước này không chỉ riêng gì của những anh chị em đang nỗ lực kiếm sống tại Nhật Bản hay Hàn Quốc, mà có thể nói đó là nỗi niềm chung của hàng triệu người Việt đang sống trên chính quê hương mình. Câu hỏi đặt ra là tại sao những điều bình dị trong cuộc sống đó đã không đến với người dân Việt Nam sau 45 năm đất nước không còn chiến tranh, Việt Nam đã thu nhận hơn 200 tỷ Mỹ Kim đầu tư ngoại quốc và viện trợ nhân đạo trong nhiều năm qua, nên không còn là nước nghèo nàn, lạc hậu như ba thập niên trước? Từ năm 1987 đến nay, với chính sách mở cửa, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương. Năm ngoái, Việt Nam lần đầu tiên vượt ngưỡng 500 tỷ Mỹ Kim của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Kinh tế phát triển, đầu tư ngoại quốc gia tăng, nhưng lại có non 2 triệu thanh niên phải đi làm công tại nhiều quốc gia trên thế giới! Điều này cho thấy là đất nước và xã hội Việt Nam đã không phát triển lành mạnh như các quốc gia bình thường, vì chính bộ máy độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến Việt Nam thành một xứ tư bản hoang dã, cạnh tranh theo quy luật “mạnh được yếu thua,” và cơ hội thăng tiến quyền, lợi cá nhân được thu tóm vào một thiểu số có sẵn quyền lực hoặc biết móc ngoặc. Sở dĩ Việt Nam rơi vào tình trạng phát triển bất công và lạc hậu như ngày nay là vì hoàn toàn thiếu vắng ba nền tảng căn bản của phát triển bền vững, bao gồm: 1/Xã hội bình đẳng; 2/Luật pháp công minh; 3/Môi trường trong sạch. Xã hội bình đẳng Đó là một xã hội mà mọi người dân đều được tôn trọng như nhau trên cương vị con người, có tư cách pháp lý, cơ hội và nghĩa vụ ngang bằng nhau. Nền tảng chính yếu của xã hội bình đẳng quy định rằng mọi người đều phải có cơ hội như nhau để thăng tiến. Trên tinh thần này, đấu tranh giai cấp, nguồn gốc của sự chia rẽ, hận thù giữa những người trong một nước cũng như mọi hình thức kỳ thị phải được chấm dứt và bị nghiêm cấm. Mặc dù hiện nay, nhà cầm quyền CSVN không còn đề cập đến đấu tranh giai cấp như quá khứ, nhưng trong thực tế, với hệ thống đảng, đoàn, mặt trận tổ quốc được tổ chức chằng chịt trong xã hội, đã phát sinh ra một đám cường hào ác bá không khác gì thời phong kiến, vừa bóc lột người dân, vừa cấu kết chiếm đoạt tài sản đất nước làm của riêng. Từ đó bất bình đẳng xã hội càng ngày càng lớn dần, theo đà giàu có của những nhóm tư bản đỏ. Vào năm 2017, Ngân Hàng Thế Giới đã công bố hồ sơ điều tra về thu nhập của người Việt Nam từ ngày đổi mới kinh tế vào năm 1987, cho thấy là bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam tăng trong hai mươi năm qua và đáng chú ý hơn là số người giàu đang chiếm phần thu nhập quá lớn. Khoảng cách về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và các nhóm khác đang gia tăng từ năm 2004, và số người siêu giàu cũng tăng. Theo tính toán của tổ chức Oxfam (liên minh quốc tế gồm 17 tổ chức tìm giải pháp cho vấn đề nghèo đói và bất công toàn cầu) cho thấy mức độ thay đổi khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt Nam như sau: Người giàu nhất Việt Nam có thu nhập trong một ngày cao hơn thu nhập của người Việt Nam nghèo nhất trong 10 năm, và tài sản của người giàu nhất này lớn tới mức có thể tiêu một triệu Mỹ Kim mỗi ngày trong sáu năm mới hết. Trong một giờ, người giàu nhất Việt Nam có mức thu nhập cao hơn gần 5.000 lần số tiền mà nhóm 10% nghèo nhất Việt Nam chi hàng ngày cho các nhu cầu thiết yếu. Luật pháp công minh Đó là nền luật pháp dựa trên hai nền tảng công lý và minh bạch. Công lý biểu hiện lẽ phải, sự thật, đạo đức, công bằng để giải quyết những tranh chấp, xung đột trong xã hội. Minh bạch biểu hiện cho sự rõ ràng, không che dấu. Nói cách khác, luật pháp công minh là nền luật pháp dễ hiểu, công khai, dựa trên sự thật, lẽ phải để xét xử hay giải quyết các tranh tụng một cách công bằng. Tình trạng luật pháp tại Việt Nam được người dân ví von rằng: “Việt Nam có cả một rừng luật, nhưng khi tòa án xét xử thì dựa theo luật rừng.” Thật vậy, luật pháp tại Việt Nam không nhằm bảo vệ công lý cho người dân mà là để phục vụ cho quyền lợi của đảng và những kẻ liên hệ. Vì thế mà các bản án thường được quyết định trước khi phiên tòa bắt đầu, và phiên tòa chỉ là màn kịch với một số cán bộ đóng vai chánh án, công tố để diễn trò công lý mà thôi. Quan trọng hơn, luật pháp dưới chế độ CSVN còn được sử dụng cho thủ đoạn trấn áp tất cả những ai có hành động thách thức lại sự cầm quyền hay lãnh đạo của đảng và nhà nước. Họ dùng luật để qua đó gán ghép những hành động hay phát biểu của những người mà họ cho là nguy hiểm đối với chế độ bằng những bản án khắc nghiệt trong các phiên tòa kangaroo. Trong một báo cáo vào năm 2018 của Ban Dân Nguyện trực thuộc Quốc Hội CSVN cho biết là qua kiểm tra văn bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành trong năm 2017, có tới 5.639 văn bản trái pháp luật. Trung bình một ngày có hơn 15 văn bản trái pháp luật được ban hành. Theo thống kê trong giai đoạn 10 năm từ năm 1995 đến 2015, Cục kiểm tra của Bộ Tư Pháp kiểm tra 3,6 triệu văn bản phát hiện hơn 90.000 văn bản trái pháp luật được ban hành. Sở dĩ xảy ra tình trạng này là vì các cơ quan tùy tiện viện dẫn luật theo quyền lợi chủ quan của mỗi cơ quan, và quan trọng hơn là do sự cấu kết với những lợi ích nhóm ở trong bộ máy đảng và nhà nước. Môi trường trong sạch Đó chính là môi trường sống của con người bao gồm nước, đất và  không khí phải luôn luôn được bảo vệ để tránh sự ô nhiễm. Sau hơn 2 thập niên đẩy mạnh công nghiệp hóa, môi trường sống tại Việt Nam đang bị đe dọa trầm trọng. Hàng năm, cả nước xử dụng hơn 100.000 tấn hóa chất; phát sinh ra hơn 23 triệu tấn rác thải, hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp và hơn 600.000 tấn chất thải nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước thải còn rất hạn chế.  Trong khi đó các công ty đầu tư ngoại quốc (FDI) tuy đóng góp một phần rất lớn kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam (70% hàng năm); nhưng đa số các công ty FDI sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân sự trong các ngành như luyện kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu khoáng sản, sản xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất bột giầy… gây ra nhiều hậu quả về môi trường. Một số dự án FDI gây ô nhiễm nổi tiếng như công ty Vedan, Midwon, Formosa, khói bụi ô nhiễm của nhà máy Nhiệt Điện Vĩnh Tân 2, Công ty Lee&Men, v.v. Nhưng trong tất cả những loại ô nhiễm môi trường hiện nay ở Việt Nam, đối với thực phẩm và nước, người ta có thể lựa chọn và làm sạch; còn đối với không khí thì đây là mối đe dọa sinh tử, đặc biệt là bụi mịn, trong đó siêu bụi mịn PM2.5 có thể đi sâu vào phế nang gây viêm nhiễm đường hô hấp và làm tăng nguy cơ tử vong ở những người bị bệnh phổi và tim mà hai chứng bệnh này phổ thông tại Việt Nam. Hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội bị siêu bụi mịn nặng nề nhất phát sinh từ khí thải của các xe chạy bằng dầu, ở các nhà máy nhiệt điện, các công trình xây dựng, các nhà máy công nghiệp. * Những vấn nạn nói trên là hệ quả tất nhiên của đường lối phát triển kinh tế – xã hội dựa vào mô hình mở cửa thị trường, thu hút đầu tư ngoại quốc để gia tăng tổng sản lượng nội địa (GDP) nhằm tuyên truyền về thành tích đổi mới, hầu tiếp tục biện minh cho chủ trương “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Nếu lãnh đạo CSVN coi việc nâng cao phúc lợi toàn dân là mục tiêu theo đuổi, thì Việt Nam đã có một tương lai hoàn toàn khác từ năm 1975 khi kết thúc cuộc chiến cách nay 45 năm, hoặc từ năm 1986 khi áp dụng chính sách đổi mới lúc khối Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Thật vậy, nước Nhật chỉ mất 30 năm (1945 – 1975) để trở thành một cường quốc kinh tế Á Châu, Nam Hàn mất 26 năm (1961-1987) và Đài Loan mất 25 năm (1970-1995) để trở thành những con Hổ tại Á Châu, trong khi Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới vẫn còn loay hoay ở mức quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Sự khác biệt này, đến từ một điểm cơ bản là chính quyền phải coi ước mơ bình dị của từng người dân là chính, và có bổn phận tạo điều kiện cũng như cơ hội để cho người dân được quyền tham gia vào việc thực hiện ước mơ này một cách tự do, bình đẳng bằng chính sức lực và nhu cầu của mỗi người. Đã đến lúc câu khẩu hiệu “đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý” cần phải được dẹp bỏ vì “đảng” (CSVN) không những không hề được các chủ nhân là nhân dân cho phép lãnh đạo, mà còn chứng minh quá kém cỏi trong vai trò tự phong này sau 45 năm quản lý đất nước theo đà giật lùi so với nhân loại, qua chính cái “nhà nước” mà đảng nặn ra. Đã đến lúc dân tộc Việt Nam cần lấy lại quyền làm chủ, để chung tay xây dựng ước mơ Việt Nam cho toàn thể mọi người, chứ không chỉ riêng một đảng hay một nhóm đặc quyền nào. Có như vậy, tiềm năng to lớn của đất nước mới được khai dụng đúng mức và hiệu quả; người Việt Nam mới được sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Lý Thái Hùng  
......

Thoát Trung

Quốc Ấn Mai| Sài Gòn những ngày phong thành, đầu óc người viết chỉ quanh quẩn một chủ đề: thoát Trung. Dịch đến, nước ta đóng biên với Trung Quốc, nền sản xuất gần như tê liệt trừ một số doanh nghiệp lớn đã trữ hàng hay các doanh nghiệp có nguồn hàng khác. Không nói đâu xa, có những người tôi biết đã mang nỗi ám ảnh phụ thuộc Trung Quốc rất lớn. Không có nguyên liệu Trung Quốc thì đắp chiếu máy để đó, không tìm nguồn khác hoặc giới thiệu nguồn khác cũng không làm. Đơn giản là nguyên liệu Trung Quốc rẻ hay ngay cả nó được làm giá để không rẻ thì cũng dễ đang kiếm hơn là dứt ra khỏi sợi dây ràng buộc ấy. Và muốn những người muốn thoát Trung phải đồng ý cảnh phụ thuộc. Nhưng có bao nhiêu người biết lớp vi lọc meltblown của Trung Quốc giá 1,5 tỉ/tấn có loại sau kiểm định chỉ ngang với lớp SMS Ấn Độ với giá chỉ 0,9 tỉ/tấn? Màng pp mà độn polyme còn rẻ hơn nữa. Những chiếc khẩu trang đang hoành hành trên thị trường theo cách rẻ và dỏm như vậy đấy! Có những người quăng tiền nhiều tỉ vào máy 2D nhập Tàu và nguyên liệu cũng nhập Tàu nốt đã nói về khả năng thu hồi vốn nhanh với thứ khẩu trang dùng nguyên liệu dỏm. Ai sẽ “thu hồi” sức khoẻ và nguy cơ lây lan dịch cho khách hàng với cách làm đó? Phụ thuộc “con quái vật” Trung Quốc đất nước này có nhiều! Từ những phát biểu của quan chức trên báo chí đến các quyết định chính trị can thiệp vào các công trình do nhà thầu Tàu, thiết bị Tàu, công nghệ Tàu, nguyên liệu Tàu, nhân công Tàu. Cả “hoa hồng” nhân dân tệ Trung Hoa để tệ với nhân dân trong nước nữa! Nhưng có bao nhiêu người tự hỏi bản thân rằng những đồ vật trong nhà có bao nhiêu thứ made in Vietnam? Thoát Trung bắt đầu từ mỗi gia đình, mỗi cá nhân mang ý thức ấy và lan toả. Thoát Trung bắt đầu từ hành động cụ thể hoá ý thức thoát Trung. Là sẵn sàng học cách người Trung Quốc đoàn kết một giá, một phong cách bán hàng; nhưng cũng sẵn sàng từ chối ngay cách làm việc phụ thuộc điểm đầu chuỗi sản xuất luôn phụ thuộc vào “quốc gia có đường biên giới với Quảng Ninh”. Chỉ viết về thoát Trung, đã có kẻ dè bỉu, mỉa mai. Chỉ quyết vài chuyện để thoát Trung trong mối quan hệ cá nhân đã có thể rạn nứt một số quan hệ lâu năm, thậm chí mất bạn. Và cả chuyện “quan trên trông xuống” bởi cũng có nhiều quan một lòng hướng về phương Bắc. Nhưng nếu không thoát Trung thì cơn lịm dần mà “bẫy nợ” Tàu giăng như chiếc thòng lọng sẽ siết lại tiếp. Nếu không tự lực thì nền kinh tế sẽ què quặt và lại lần nữa phơi bày sự đứt gãy chuỗi sản xuất như ChinaVirus đã chứng minh. Càng không tự cường thì bẫy thu nhập trung bình sẽ là nỗi ám ảnh dài hạn của quốc gia chuyên xuất khẩu lao động, kể cả xuất khẩu qua Tàu. Thoát Trung! Không chỉ là miệng nói mà cần cả tay làm. Thoát Trung! Không chỉ là tư duy mà cần cả hành động. Thoát Trung! Không chỉ là dám bày ra những hạn chế của bản thân mà lắng nghe cả những góp ý trái chiều về “sự vĩ đại Trung Hoa” mà lực lượng Hoa Nam vẫn hàng ngày ra rả. Thoát Trung! Trước hết là nhận diện lại “con người bên trong” của mình có đủ một tâm thế Việt Nam không cần ngạo nghễ; mà từng bước tự nhiên nói không với lần lượt những gì bất hợp lý made in China hay không!  
......

Hậu Covid-19: Cơ hội không để mất cơ hội

Chu Hảo - vandoanviet.blogspot.com|   Đây là thời điểm thoát Trung thuận lợi nhất, chỉ cần thoát khỏi nỗi sợ hãi thôi.“Một dân tộc tìm cách né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì dân tộc đó sẽ lãnh đủ cả hai thứ: cả chiến tranh và sự nhục nhã.” Cho đến hôm nay chúng ta có cơ sở để hy vọng đại dịch Covid-19 ở Việt Nam sẽ được khống chế một cách cơ bản vào khoảng giữa tháng 5, khi còn dưới 20 người vẫn đang phải điều trị và khoảng 30 ngày liên tục không xuất hiện ca nhiễm nào trong cộng đồng. Đó là một thành tích kỳ diệu, xứng đáng được cả thế giới ngưỡng mộ. Cũng vì vậy mà Chính phủ và các học giả đã bắt đầu bàn đến các cơ hội to lớn đang mở ra và đề xuất các giải pháp tận dụng để phát triển đất nước, như bạn đọc có thể thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng mấy ngày qua (xem các bài của Phạm Chi Lan, Trần Văn Thọ, Nguyễn Trung, Nguyễn Quang Dy, Vũ Minh Khương, Nguyễn Ngọc Chu, v.v.). Tôi tán thành hầu hết các ý kiến ấy, sau đây chỉ xin được chia sẻ với bạn đọc ý kiến riêng của mình về một vài khía cạnh khác. 1. Theo tôi cơ hội lớn nhất đối với chúng ta lần này là Cơ hội không để tuột mất cơ hội. Chắc các bạn còn nhớ những lời nhận xét đau lòng đại thể như “Việt Nam là đất nước không muốn phát triển (?!)”, luôn đi liền với “Việt Nam là chuyên gia bỏ lỡ cơ hội”. Trong bài viết gần đây, GS Trần Văn Thọ chỉ nhắc đến hai cơ hội vào năm 1975 và 1990; nhưng cựu Đại sứ Nguyễn Trung thì thấy nhiều hơn, bắt đầu từ khi xuất bản cuốn “Thời cơ vàng” (NXB Trẻ, 2010) cho đến tận gần đây, cứ mỗi lần xuất hiện một thách thức mới là Nguyễn Trung lại đau đáu một “cơ hội vàng” cho đất nước, nhưng rồi cứ mỗi lần hy vọng lại là một lần thất vọng… “Cái dớp bỏ lỡ cơ hội” này sẽ mãi mãi ám ảnh chúng ta chừng nào cái thói “kiêu ngạo cộng sản” của các nhà lãnh đạo (như Lê-nin đã nhận ra trong nội bộ đảng của mình từ ngay từ những năm đầu của Cách mạng tháng Mười, và Lý Quang Diệu viết về các nhà lãnh đạo Việt Nam sau 1975 trong hồi ký của mình); và chừng nào dân chúng vẫn còn “tự sướng” coi Việt Nam là “lương tâm của thời đại”, là “rốn của Vũ trụ” như sau các chiến thắng năm 1954 và năm 1975. May thay lần này Covid -19 đã làm cho dân ta, nhất là tầng lớp tinh hoa, thấm thía rằng chẳng có gì là vĩ đại tuyệt đối cả, chẳng có gì là chắc chắn tuyệt đối cả; nhưng sinh mạng và quyền được sống của mỗi con người, cũng như chủ quyền và lợi ích của mỗi quốc gia là tuyệt đối, là vĩnh cửu. Có lẽ vì vậy mà thói kiêu ngạo và ngông nghênh vỗ ngực tự hào hình như giảm hẳn. Đó là cơ sở để chúng ta tin rằng cái “dớp bỏ lỡ cơ hội” lần này sẽ được hóa giải. Mong lắm sao! 2. Cơ hội thứ hai mà Covid-19 mang lại cho chúng ta có thể là cơ hội ngàn năm có một: Cơ hội thoát Trung. Ở đây thoát Trung có ý nghĩa cụ thể là: Thoát khỏi âm mưu thâm độc và nhất quán của bè lũ cầm quyền Trung Hoa đại lục từ xưa đến nay nhằm thôn tính đất nước ta; liên tục xâm phạm không gian sinh tồn gồm lãnh thổ và lãnh hải của dân tộc ta; luôn tìm cách bóp nghẹt nền kinh tế và lũng đoạn hệ thống chính trị của đất nước ta; đầu độc tinh thần và phá hoại nền văn hóa văn hóa - đạo đức của nhân dân ta. Có một bộ phận không nhỏ đồng bào ta, cả trong tầng lớp lãnh đạo và giới tinh hoa, vẫn còn mơ hồ, hoặc bị khống chế vì đã bị mua chuộc, nên không nhận ra hoặc không dám nói công khai ra sự thật kinh hoàng này; không thoát ra khỏi cái vòng kim cô “đồng ý thức hệ”, với “16 chữ vàng” và “bốn tốt” lừa mị thâm hiểm, của bọn cướp toàn cầu ngồi ở Trung Nam Hải. May thay Covid-19 làm cả thế giới bừng tỉnh, nhất là nước Mỹ, trước tham vọng của bè lũ bá quyền Bắc kinh đang vội vàng vươn lên thành bá chủ thiên hạ bằng những thủ đoạn hèn hạ nhất, độc ác nhất. Toàn thế giới giờ mới có dịp làm cho chiếc mo ô nhục che mặt bè lũ ấy rơi xuống đất, và đồng lòng lên án, tẩy chay và trừng phạt chúng. Có lẽ nào nhân dân ta lại không có cách gì tận dụng “cơ hội vàng” này để thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ không bao giờ muốn Việt Nam trở thành một nước Độc lập, Tự cường? Hình như có một nỗi sợ vô hình khi đối mặt bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn bao trùm đâu đó. Nỗi sợ ấy hoàn toàn phi lý. Thời chống quân Nguyên, thế và lực của nước ta yếu hơn nhiều so với kẻ xâm lược, mà ông cha ta đâu có sợ? Lúc ấy chỉ có lòng dân là cứu được nước, cũng như bây giờ chỉ có trên dưới một lòng nước ta mới vượt qua Covid-19 một cách đáng ghi nhận. Nỗi sợ sẽ làm ta dễ cam chịu. Hãy nhớ lời nhắn nhủ của Winston Churchill (Thủ tướng Anh thời chiến tranh Thế giới thứ hai): “Một dân tộc tìm cách né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì dân tộc đó sẽ lãnh đủ cả hai thứ: cả chiến tranh và sự nhục nhã.” Mọi tín hiệu từ nhiều phía cho thấy đây là thời điểm thoát Trung thuận lợi nhất, chỉ cần thoát khỏi nỗi sợ hãi thôi. 3. Cơ hội thứ ba mà Covid-19 đem lại, mà chúng ta phải quyết không để tuột khỏi tầm tay, cũng rất quan trọng. Đó là, cũng như đối với các nước khác, nó làm bộc lộ một cách bất ngờ nhất những điểm yếu và mạnh trong hệ thống quản trị đất nước để tìm được “đột phát khẩu” cho phát triển. Tôi tán thành với ý kiến của GS Trần Văn Thọ cho rằng, điểm yếu nhất của nước ta hiện nay là nguy cơ tụt hậu và ông đề xuất giải pháp “Chống tụt hậu như chống giặc” để khắc phục “cái yếu nội lực Việt Nam là cơ cấu hành chánh, tinh thần trách nhiệm của quan chức, và sự tương tác không mấy thuận lợi của doanh nghiệp và dân chúng đối với các chính sách của nhà nước”. Là người am hiểu và tinh tế ông chỉ nói đến thế, nhưng có lẽ ta nên hiểu rằng ông đang đề cập đến vấn đề cải cách thể chế chính trị mà bản thân đảng cầm quyền cũng từng nói, nhưng chưa làm được nhiều. Ông cũng nhắc đến ý kiến của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn mạnh trong thư gửi cho Bộ Chính trị năm 1995 rằng trong bốn nguy cơ đang phải đối mặt thì nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa là nguy cơ quan trọng nhất. 25 năm trôi qua mà nguy cơ ấy vẫn còn nguyên đó. Coi là tụt hậu là giặc thì các biện pháp thời chiến dễ được toàn dân đồng lòng và tuân thủ, thế thì biết đâu ta lại thắng to!? Tuy vậy cũng nên nhớ lời nói chân thành của Cố Phó Thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch với GS Lê Xuân Khoa tại Mỹ năm 1990: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi, nhưng quản trị [đất nước] thì tồi lắm! Không phát triển đất nước được”. Nếu còn sống đến tận hôm nay, liệu Ông vẫn bảo lưu ý của mình?  
......

Tham vọng quá tầm của Tàu cộng

Đỗ Ngà| Một vành đai một con đường là dự án mà Trung Cộng muốn xây dựng một chuỗi những quốc gia Á- Âu phụ thuộc vào Trung Quốc bằng thứ bẫy nợ nguy hiểm. Và đó cũng là cách mà Trung Quốc muốn gây ra sức ảnh hưởng của mình lên các nước trên thế giới. Bẫy nợ nó khó phát tác với những nước trong sạch, nhưng là công cụ rất hữu hiệu cho những quốc gia tham nhũng. Chính vì vậy, Trung Cộng muốn vét những nước tham nhũng trói vào sợi dây “vành đai” của nó là một dự án khả thi. Đây là sáng kiến của Tập Cận Bình, quả thật cái đầu ông này rất cao thâm chứ không phải vừa. Với dân số gấp 2 lần dân số nước Mỹ và EU cộng lại, thế nhưng GDP của Trung Cộng thấp hơn 2 nền kinh tế kia khá xa. Dân số đông là một lợi thế, nếu nâng tầm mức sống lên 2 lần hiện nay thì Trung Cộng có thể đe dọa vị trí thống trị của 2 nền kinh tế lớn kia. Như ta biết, để tiệm cận GDP của Mỹ và EU thì Trung Cộng phải vượt qua bẫy thu nhập trung bình trước đã. Tuy nhiên, với tham vọng to lớn của mình, Trung Cộng quyết bằng mọi giá phải đánh bại sự thống trị của Mỹ trên mọi phương diện chứ không riêng gì kinh tế. Được biết mới đây người đứng đầu Sàn giao dịch vàng Thượng Hải, ông Wang Zhenying, không giấu diếm tham vọng của Bắc Kinh khi phát biểu rằng “Sự phát triển của thương mại quốc tế đòi hỏi một loại tiền tệ mới, không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào”. Tham vọng này đã được chính phía Trung Cộng trước đó cũng đã nhiều lần nhắc đến, chẳng qua nay ông này chỉ nhắc lại. Được biết ngay năm 2014, Tập Cận Bình đã lôi kéo được 4 nước lớn khác gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Nam Phi thành lập Ngân hàng Phát triển Mới New Development Bank (NDB) và một quỹ dự trữ 100 tỷ đô la. Trung Quốc đóng góp hơn 40% vào quỹ đó như muốn lập nên một cuộc chơi mới. “Quân tử trả thù, 10 năm chưa muộn” là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc, và tất nhiên Trung Cộng cũng muốn đồng Yuan của mình sẽ lật đổ đồng đô la Mỹ. Đây quả là tham vọng rất lớn, trước mắt 20 năm thì không thể nhưng xa hơn thì khó nói. Vậy nên, Mỹ cần phải làm gì để Trung Cộng không thể lật đổ mình chứ nếu nuông chiều nó thì có ngày phải ôm hận. Chính vì lẽ đó nước Mỹ mới cần tổng thống Trump. Thực tế kích thước GDP của Trung Quốc lớn thật, nhưng làm chủ cuộc chơi trên thị trường giao dịch ngoại hối và thanh toán quốc tế từ xưa đến nay vẫn là đồng đô la Mỹ. Hiện nay đồng Đô la Mỹ chiếm 88% lượng giao dịch trên thị trường ngoại hối trên toàn cầu nhưng đồng Yuan Tàu thì chỉ chiếm 2,12%. Rất khiêm tốn. Trước khi đồng nhân dân tệ có thể trở thành một loại tiền tệ toàn cầu, thì nó phải thành công như một loại tiền tệ dự trữ trước đã. Trung Cộng biết thế nên họ đã nỗ lực và ngày 30 tháng 11 năm 2015, IMF đã công nhận đồng Yuan là đồng tiền thứ 5 trong rổ tiền tệ quốc tế sau đồng đô la Mỹ, đồng EURO của EU, đồng Bản của Anh Quốc, và đồng Yen của Nhật. Được biết cho đến nay trong kho dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng Trung ương trên toàn cầu tương đương 6.700 tỷ đô nhưng trong đó có đến 62,25% là đô la Mỹ, 20,26% là đồng EURO, và đồng Yuan Tàu chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn với 1,84%, thua cả đồng Yen Nhật với 4,97%. Như vậy, để đồng Yuan tàu lật đổ đồng đô la Mỹ thì có thể nói khó vô cùng, nếu không muốn nói là không thể. Thế nhưng Trung Quốc vẫn muốn lật, chứng tỏ nước Tàu có tham vọng rất lớn và chắc chắn họ sẽ vạch ra lộ trình lâu dài để đạt được mục đích này. Khi mỗi người muốn chuyển tiền liên ngân hàng từ nước này đến nước khác, thì thông thường ngân hàng chuyển sẽ hỏi mã SWIFT code của ngân hàng nhận. Ai gởi tiền cho con ăn học ở nước ngoài, hay ở nước ngoài gởi tiền về Việt Nam cũng vậy, cũng đều phải biết mã SWIFT code này. Vậy SWIFT là gì? Đó là Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications – SWIFT). Nó là sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước ở Âu Châu. Được thành lập vào năm 1973. SWIFT sử dụng một nền tảng truyền thông độc quyền được tiêu chuẩn hóa để tạo điều kiện cho việc truyền thông tin về các giao dịch tài chính. Hiện nay SWIFT kiểm soát đến 40% giao dịch toàn cầu và có khoảng 16 triệu lượt yêu cầu thanh toán quốc tế mỗi ngày, trong đó hết 90% là lệnh giao dịch bằng đồng đô la. Như vậy trong 3 nền kinh tế lớn là Mỹ, EU và Trung Quốc thì hiện Mỹ và EU đang chơi chung. Đang nắm phần lớn dòng chảy tiền tệ trong thanh toán quốc tế trên thê giới, nếu muốn lật đổ kết cấu này phải nói khó vô cùng đối với Trung Quốc. Công cụ SWIFT rất lợi hại, Mỹ có thể dùng nó để chặn ngay việc mua bán của các chính quyền độc tài một cách dễ dàng. Ví dụ như Iran muốn mua lương thực, thế nhưng Mỹ lại cấm SWIFT nhận lệnh giao dịch bằng đô la của quốc gia này thì xem như Iran có đô cũng khó mà mua được gì. Đó là một trong những công cụ giúp Mỹ cấm vận nhiều nước độc tài thù địch. Còn Trung Cộng thì họ không thể nào có công cụ này để làm chủ cuộc chơi. Hiện nay có đến 50% lượng đô la đã phát hành được sử dụng bên ngoài nước Mỹ, và có gần 40% nợ của thế giới được phát hành bằng đô la. Vì thế nên các ngân hàng nước ngoài cần rất nhiều đô la để tiến hành kinh doanh. Được biết trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Các ngân hàng ngoài nước Mỹ có khoản nợ tương đương 27 nghìn tỷ đô la phải thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ thì đã có đến 18 nghìn tỷ đô la là bằng đô la Mỹ. Như vậy cuộc khủng hoảng tài chính thế giới không những không khiến đồng đô la ít sử dụng mà ngược lại, nó còn khiến cho đồng tiền này được sử dụng rộng rãi hơn. Năm 2018, các ngân hàng của Đức, Pháp và Anh nắm giữ nhiều khoản nợ bằng đô la hơn so với tiền tệ của chính họ. Điều này đồng Yuan Tàu không thể nào có được. Đứng trước khủng hoảng kinh tế vì COVID-19, lo sợ thế giới lại một lần nữa phụ thuộc đồng đô la hơn nên chính quyền Trung Quốc muốn kêu gọi thế giới từ bỏ đô la tham gia vào cuộc chơi mới với Yuan Tàu của họ chăng? Khó lắm, đó chỉ là hoang tưởng. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://vn.sputniknews.com/…/202005018994890-sang-giao-dic…/ https://www.thebalance.com/world-currency-3305931 https://www.scmp.com/…/chinas-yuan-more-popular-reserve-cur…  
......

Trách nhiệm nào của lãnh đạo Bộ Y Tế trong làn sóng nâng giá máy xét nghiệm PCR?

Nguyen Ngoc Chu|   I. SỰ BẤT LƯƠNG XÉ BỎ GIỚI HẠN 1. Ngày 22/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Bộ CA đã khởi tố vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) TP Hà Nội, bắt tạm giam Giám đốc Trung tâm CDC Nguyễn Nhật Cảm và 6 đối tượng liên quan. Tội của ông Nguyễn Nhật Cảm là đã thông đồng nâng giá máy xét nghiệm (Realtime PCR) từ 2,3 tỷ lên 7 tỷ đồng (http://cadn.com.vn/…/75_223766_bat-tam-giam-giam-doc-cdc-ha…).   Việc chiếm đoạt 4,7 tỷ đồng tiền ngân sách trong lúc cả nước căng mình chống đại dịch vius Vũ Hán đã làm rung động cả xã hội. Đó là một số tiền quá lớn trong cảnh cùng khó của người dân - phản ánh sự bất lương đã không còn giới hạn. Giám đốc Trung tâm Nguyễn Nhật Cảm và cộng sự gian lận bị bắt giử. 2. Nhưng sự bàng hoàng không dừng lại. Tại 15 địa điểm đã mua máy ở một loạt các địa phương khác cũng đã xảy ra hành động chiếm đoạt tương tự. Các máy xét nghiệm được nâng giá từ 1,5 tỷ đồng lên 5-8,4 tỷ đồng (https://tuoitre.vn/loan-gia-mua-may-xet-nghiem-covid-19-nhi…). Sau khi ông Nguyễn Nhật Cảm bị bắt, tức thì nổi lên cơn sóng hoảng loạn chạy tội. Một số thì đàm phán lại giá, giảm đến cả 2-3 tỷ đồng. Một số thì chuyển sang “mượn máy”. Cả xã hội mới sực tỉnh, rằng mình đã bị cướp đoạt ở mức độ không ngờ - đạt độ táng tận lương lâm. Giọt nước mắt nấc lên xin chịu trách nhiệm và xin trả lại máy cho người bán của Giám đốc Sở Y tế Quảng Nam Nguyễn Văn Hai cho nhiều suy nghĩ trĩu lòng. Không phải oan ức. Cũng không phải ăn năn. Vì chiếm đoạt tiền bạc nhà nước không phải là lần đầu. Cũng không phải lớn nhất. Mỗi máy nâng khống giá đến 2 - 6 lần. số tiền nâng khống cũng rất lớn, đến 5-6 tỷ đồng. So với hộ gia đình đồng bào vùng cao tiêu pha cả nhà một ngày chỉ có 100 000 đồng, thì số tiền chiếm đoạt mỗi máy 5 tỷ đồng sẽ nuôi sống 50 000 hộ gia đình trong một ngày! 3. Nhưng tính về số lần nhân khống và số tiền chiếm đoạt thì phi vụ ở CDC Hà Nội hay ở Sở Y tế Quảng Nam chưa ăn nhằm gì. Không biết đã là kỷ lục chưa, nhưng nâng giá gấp 1300 lần ở vụ Tinro đã làm cho ai nghe đến cũng phải xanh mặt. Lô hàng thanh lý chỉ trị giá 100 triệu mà nâng giá thành 130 tỷ đồng (https://tuoitre.vn/nang-gia-thiet-bi-lan-len-gap-1300-lan-d…). Chỉ nâng giá có 18 lần, nhưng giá trị lớn, từ 500 tỷ lên 8900 tỷ của vụ AVG làm người to gan nhất cũng phải vỡ mật. Chỉ riêng các quan to đến mức bộ trưởng như ông Nguyễn Bắc Son và ông Trương Minh Tuấn nới có bản lĩnh chịu đựng được sấm sét. Nếu tư nhân làm chủ đầu tư thì quãng đường sắt trên cao 13,5 Km Cát Linh – Hà Đông không thể vượt giá 300 triệu USD. Nâng giá hơn 3 lần, từ 300 triệu USD lên 968 triệu USD của đường sắt Cát Linh – Hà Đông đã nốc ao không chỉ hàng vạn người, mà làm lao đao cả nền kinh tế Thủ Đô trong nhiều chục năm vì phải “kéo cày trả nợ”. Vụ áp phe thế kỷ đường sắt Cát Linh – Hà Đông cướp đi số tiền có thể nuôi cả 50 000 hộ gia đình đồng bào nghèo rẻo cao trong suốt khoảng 8 năm 5 tháng (668 triệu USD x23000 đồng=15364 tỷ đồng/10 0000 đồng/50 000 = 3072 ngày/365= 8,416 năm). Đâu chỉ có những dự án đã nêu trên. Còn hàng ngàn những dự án khác nữa. Phải hỏi ngược lại, là có dự án nào của nhà nước mà không bị nâng giá? Cho nên, cảm nhận những giọt nước mắt trong các vụ án máy xét nghiệm PCR vừa qua như thế nào đây? Chỉ mua một chiếc máy mà khai khống để chiếm đoạt một lúc cả 500 tấn gạo, trong khi nhân dân lâm đại nạn, khi đồng bào góp từng bó rau quả trứng chống đại dịch, trong khi người nghèo xếp hàng dài tại máy tự động để nhận 1,5-3kg gạo - là sự tham nhũng đã đạt đến tột cùng khốn nạn. Lương tâm đã đến chỗ táng tận. Đó là sự bất ngờ đến sững sờ, khi đất nước lâm vào hoàn cảnh nguy nan, đe dọa giống nòi, lại bị những mũi dao từ trong bụng đâm ra. Những mũi dao tự mình đâm chính mình. Nhưng còn muôn vạn mũi dao như thế đang chờ phía trước - khi kẻ thù đã toan tính giăng bẫy khắp mọi nơi. II. TẠI SAO LÃNH ĐẠO BỘ Y TẾ LẠI KHÔNG BIẾT GIÁ MÁY PCR? Máy xét nghiệm PCR không phải là cái kim. Không phải là bó rau. Cũng không phải là vũ khí tuyệt mật. Ngoại trừ PTT Vũ Đức Đam kiêm nhiệm, sao các ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, Đỗ Xuân Tuyên, Trương Quốc Cường và Nguyễn Trường Sơn không ai biết giá? Đừng biện hộ rằng Bộ trưởng và Thứ trưởng không thể biết hết giá, và không cần phải biết giá. Người phụ nữ chịu trách nhiệm hậu cần cho gia đình, cầm túi tiền hạn hẹp, họ phải đi khảo giá biết giá bao nhiêu mặt hàng? Từ bó rau, viên thuốc… cho đến chiếc máy gia dụng… và đến cả chiếc ô tô? Ở đâu họ cũng suy tư. Ở đâu họ cũng đắn đo. Đã làm lãnh đạo Bộ thì phải biết giá. Từ thượng vàng cho đến hạ cám. Chưa biết thì sẽ biết ngay nếu cần. Điều đó không khó trong thời đại công nghệ internet hiện nay. Thế mới xứng với tài năng của người đứng đầu Bộ. Thế mới xứng với lòng tin được giao cả số phận một Bộ với tài sản khổng lồ về tiền bạc và con người trong tay. Đáng ra lãnh đạo Bộ Y tế phải hướng dẫn cho các cấp dưới phải tìm mua máy ở những đâu, với giá như thế nào. Lãnh đạo Bộ Y tế không thể từ chối trách nhiệm trong đợt sóng ma quỷ mưu toan chiếm đoạt tiền bạc của nhân dân từ nâng giá máy xét nghiệm PCR. Nguyên nhân nào? Không được báo cáo về giá? Phân cấp quyền hạn và trách nhiệm? Tiêu tiền không phải của mình? Yếu kém về trình độ? Hoa hồng? Há miệng mắc quai? Rừng nào cọp nấy?... tất cả tổng hợp lại đã làm nên các dự án như Đường sắt Cát linh – Hà Đông, AVG…và PCR. III. TIÊU CHUẨN NÀO CHO VỊ TRÍ BỘ TRƯỞNG BỘ Y TÊ? Vụ nâng giá máy xét nghiệm PCR đã đóng góp thêm một khẩn cầu cấp thiết, rằng Bộ Y tế rất cần một Bộ trưởng thực sự giỏi. 1. GIỎI CHUYÊN MÔN LÀ TIÊU CHUẨN QUYẾT ĐỊNH Với những ngành liên quan đến khoa học tự nhiên như Y tế, người đứng đầu ngành phải là những người rất giỏi về chuyên môn. Vào thời của mình, không phải nhất thiết là xuất sắc số 1 trong cả nước, nhưng là trong nhóm xuất sắc số 1 của cả nước. Không chỉ giỏi chuyên môn ở ngành hẹp mà giỏi ở cả ngành rộng. Đó thực sự là những con người tầm bác học. Chỉ có thể như thế mới vững tay lái không đưa ngành Y tế đi lạc hướng, đồng thời bắt kịp với trình độ chuyên môn cao ở các nước phát triển hàng đầu. Ở các nước TBCN, là nơi hoàn toàn tự do học thuật, trên nền tảng sở hữu tư nhân. Ở đó, các đơn vị cơ sở toàn quyền quyết định sự phát triển, nên lãnh đạo các đơn vị cơ sở thực sự là những người giỏi về chuyên môn, còn lãnh đạo ngành ở mức quốc gia cần thiên về tầm chiến lược quản lý. Nhưng ở Việt Nam, thì lãnh đạo Bộ quyết định đến cả hoạt động tác nghiệp của các đơn vị cơ sở. Vì thế không thể không yêu cầu giỏi về chuyên môn trên bình diện rộng của tầm hiểu biết bác học. Đó là điều cần lưu ý trong lựa chọn các Bộ trưởng ở Việt Nam. Điều này không chỉ đúng cho Bộ Y tế, Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, mà còn nhiều Bộ khác nữa. Vài chục năm gần đây, các Bộ trưởng Bộ Y tế không phải là những nhà chuyên môn sáng láng, phần lớn cuộc đời lại bị điều đi làm quản lý các đơn vị khác chuyên môn, nên ảnh hưởng đến sự phát triển của Bộ Y tế. Chẳng hạn như ông Nguyễn Quốc Triệu từng giữ chức Phó chủ tịch rồi Chủ tịch UBND TP Hà Nội trước khi làm Bộ trưởng Bộ Y tế, nên chuyên môn bị mai một, đã không đóng góp được gì còn làm chậm bước tiến của ngành Y Việt Nam. 2. THỰC SỰ GIỎI CHUYÊN MÔN TẤT CÓ ĐẠO ĐỨC Trong các ngành khoa học tự nhiên, trong đó có Y học, ở mọi thời, những nhà khoa học giỏi đích thực - luôn là những người biết tuân thủ và trân trọng đạo đức chuẩn mực của xã hội. Tính nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học truyền cho họ điều đó. Nếu không nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học thì không bao giờ có được kết quả khoa học giỏi. Cho nên, người có thành tựu khoa học giỏi đích thực luôn là những người tuân thủ và tôn trọng các chuẩn mực được xã hội chắt lọc nhiều đời. Hệ quả kéo theo là đạo đức của họ luôn phù hợp với yêu cầu cao của mọi xã hội. Các cố Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giỏi chuyên môn và sáng ngời y đức của người thầy thuốc. Chỉ có từ khi nền kinh tế thị trường hoang dã xuất hiện, đã kéo theo sự băng hoại của xã hội, tác động tiêu cực lên một số Bộ trưởng Bộ Y tế, làm giảm uy tín của Lãnh đạo nghành Y tế. Không chỉ trong ngành Y, mà trong tất cả các ngành khoa học, những kẻ làm dơ bẩn khoa học chưa bao giờ là những người giỏi chuyên môn đích thực. Đó chỉ là những kẻ khoác áo khoa học. 3. THẾ NÀO LÀ KINH NGHIỆM THỰC TẾ? 3.1. Khoác một lý lịch dài về kinh nghiệm, ở nước ta, trong vấn đề bổ nhiệm nhân sự, là yêu cầu có hại nhiều hơn có lợi. Vì đó là kinh nghiệm giả tạo. Điều một nhân sự của Bộ Y tế đi làm bí thư huyện, phó chủ tịch hay chủ tịch tỉnh… trong một vài năm chỉ là màn kịch. Vừa không học được việc mới. Vừa quên chuyên môn cũ. Đó không phải là kinh nghiệm. 3.2. Đối với vị trí Bộ trưởng Bộ Y tế, kinh nghiệm thiết thực chính là điều hành các bệnh viện lớn và các trường đại học lớn. Như tướng mặt trận làm tổng tư lệnh, chính hiệu trưởng các đại học Y, giám đốc các bệnh viện lớn trên cả nước là các ứng viên tiềm năng ngồi vào vị trí Bộ trưởng Bộ Y tế. 3.3. Những người giỏi hơn nữa, bước một bước lên ghế Bộ trưởng từ chức Trưởng khoa hay Chủ nhiệm bộ môn. 3.4. Những siêu nhân, ngồi ngay vào ghế Bộ trưởng hay Tổng thống từ zero chức vụ và zero kinh nghiệm. Đó là trường hợp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Đó là trường hợp Tổng thống Ukraine Zelensky. Lý lịch, chức vụ và kinh nghiệm là cánh cửa đóng cho tài năng trẻ xuất chúng. 4. TRONG GIỎI CHUYÊN MÔN TẤT SẼ TÌM ĐƯỢC GIỎI VỀ QUẢN LÝ Sẽ có phản biện rằng giỏi chuyên môn chưa chắc đã giỏi quản lý. Đúng. Nhưng trong 10 người giỏi về chuyên môn tất có 1/2 không tồi về quản lý, tất có 1/4 giỏi quản lý, tất có 1/10 rất giỏi về quản lý. Cho nên chọn Bộ trưởng phải chọn trong số những người có chuyên môn giỏi nhất. 5. TRỌNG CHUYÊN MÔN KHÓ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI CÁC NHÂN TỐ KHÁC Người giỏi chuyên môn lấy chuyên môn làm trọng. Vì thế những nhân tố như lý lịch, quan hệ, quyền lực và quyền lợi không được họ ưu tiên bằng chuyên môn. Những người lấy lý lịch, quan hệ, quyền lực, quyền lợi làm nhân tố áp đảo trước chuyên môn - là những người không thực sự giỏi về chuyên môn. Có thể chỉ khoác áo chuyên môn! IV. MỞ RỘNG CỬA VÀ MẠNH DẠN CẢI CÁCH 1. Tuổi 40 không thể gọi là trẻ. Đó là tuổi đủ chín chắn cho bất cứ vị trí nào, bao gồm cả vị trí Chủ tịch nước - dù chưa một ngày kinh nghiệm. Đó là lúc cường thịnh của trí tuệ và sức khỏe. Khi có trí tuệ sáng láng thì bất chấp mọi nhân tố khác – bất chấp tuổi tác, bất chấp chức vụ, bất chấp kinh nghiệm, bất chấp lý lịch. 2. ‘Con mắt tinh đời nhất’ là tổng hợp con mắt của hàng triệu người, của toàn thể nhân dân. Cho nên cần thiết phải sinh ra một quy trình dân chủ của số lớn trong lựa chọn nhân sự. Chỉ có dân chủ ở số lớn mới là ‘con mắt tinh đời nhất’. Vì đó là ‘con mắt của số lớn’. Lớn đến hàng triệu mà không thể tiền bạc nào mua được. Lớn đến hàng chục triệu để không quyền lực nào có thể khuất phục. 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã rất vất vả trong chống dịch covid 19. Thế mà Thủ tướng lại còn phải giải quyết những khó khăn do các Bộ đẻ ra. Chẳng hạn như Thủ tướng phải xoay như chong chóng trong vụ xuất khẩu gạo vừa qua. Nhiệm vụ của cấp Bộ mà lại buộc Thủ tướng phải xử lý, thì làm sao có được một Chính phủ mạnh? Hãy mở rộng cửa cho các ứng viên trẻ. Hãy áp dụng quy luật số lớn. Hãy tranh cử 1 mất 1 còn. Ngay trong các Bộ còn nhiều nhân tài chưa có cơ hội bộc lộ khả năng. Trong Nhân dân lại còn nhiều người tài giỏi khác nữa. Làn sóng nâng giá máy xét nghiệm PCR trong lúc cả nước gặp đại họa dịch covid 19 cho thấy tham nhũng đã đạt đến mức cuối cùng của khốn nạn. Đây không phải là hiện tượng nhất thời của ngành Y. Đây không phải là cá biệt của xã hội. Đây là căn bệnh sinh ra từ Cấu trúc Hệ thống của Thể chế. Cho nên trị tham nhũng bằng cách bắt bỏ tù không bao giờ hết. Phải trị đúng bệnh. Phải Cải cách Thể chế. Biết là rất khó. Nhưng kiên trì chờ đợi. Đất Nước là của chung của cả Dân Tộc.  
......

Chuyện cổng Dinh Độc Lập ngày 30.04.1975

Hình minh họa Việt Tân| "Những tấm hình hay những đoạn phim về cảnh chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập để vào bên trong dinh, đều được chụp từ bên trong chụp ra. Có hai điểm cần chú ý: Thứ nhứt, cổng dinh phải đóng thì xe tăng mới ủi sập để đi vào. Thứ hai, nếu cổng đóng lại, tức cổng dinh chưa mở, thì người chụp hình hay người quay phim cảnh nầy, làm sao mà vào bên trong dinh Độc Lập trước xe tăng để chụp hình hay quay phim?" CHUYỆN CỔNG DINH ĐỘC LẬP NGÀY 30-4-1975 Trần Gia Phụng Tin tức báo chí của cộng sản Việt Nam (CSVN) đều viết rằng, khi tấn công dinh Độc Lập ở thủ đô Sài Gòn ngày 30-4-1975, chiến xa CS đã ủi sập cánh cổng dinh Độc Lập. Chẳng những thế, bộ Lịch sử Việt Nam do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Việt Nam (tức “bên thắng cuộc”) tại Hà Nội, phát hành tháng 8 năm 2017, cũng viết như thế. Bộ thông sử nầy rất đồ sộ, gồm 15 tập, tổng cộng trên 9,000 trang, do 30 giáo sư, tiến sĩ Sử học CSVN biên soạn. Trong 15 tập nầy, tập thứ 13, do PGS-TS [phó giáo sư tiến sĩ] Nguyễn Văn Nhật chủ biên, chương VI, trang 535 viết nguyên văn như sau: “Thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm dinh Độc Lập – dinh lũy cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, chiếc xe tăng mang số hiệu 390 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203 dẫn đầu đội hình tiến công của Quân đoàn 2, húc đổ cánh cổng sắt của dinh Độc Lập …” Bộ sách nầy được xem là bộ chính sử căn bản của chế độ CSVN, làm nền tảng cho các sách giáo khoa lịch sử của CSVN. Dưới chế độ CSVN thế kỷ 21, các giáo sư tiến sĩ với các loa phát thanh phường, khóm, làng xã nói cùng một nhịp điệu như nhau, đúng như ý kiến của nhà văn Pháp André Gide vào thập niên 30 thế kỷ trước, cách đây gần 90 năm. Theo lời mời của nhà cầm quyền Liên Xô, Gide đến Moscow (Moscou), thủ đô của Liên Xô, tham dự tang lễ của nhà văn Maxime Gorki. Khi trở về Pháp, ông viết tác phẩm Retour de l’URSS, ấn hành năm 1936 ở Paris. Trong sách nầy, ông đã viết rằng, ở nước Nga CS, chỉ cần nghe một người Nga nói gì thì đủ biết 200 triệu dân Nga nói gì. Ngày nay ở Việt Nam không lẽ cũng có thể nói chỉ cần nghe loa phóng thanh phường xã thôn xóm CS nói gì, thì cũng có thể đoán biết các giáo sư tiến sĩ CS nói gì? Trở lại nguồn tin về cánh cổng dinh Độc Lập Sài Gòn ngày 30-4-1975 do CSVN đưa ra, báo chí thế giới cũng đều viết theo như thế. Tuy nhiên, trên lý luận, xin chú ý, mới chỉ trên lý luận cho vui mà thôi, có hai câu hỏi cần được đặt ra là: 1) Lúc đó, cựu đại tướng Dương Văn Minh đang có mặt trong dinh Độc Lập mà theo lời ông là để chờ đợi quân CS đến. Chờ “khách” thì phải mở cổng dinh để đón mời “khách” vào. Nếu đóng cổng dinh, thì “khách” làm sao mà vào được? 2) Những tấm hình hay những đoạn phim về cảnh chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập để vào bên trong dinh, đều được chụp từ bên trong chụp ra. Có hai điểm cần chú ý: Thứ nhứt, cổng dinh phải đóng thì xe tăng mới ủi sập để đi vào. Thứ hai, nếu cổng đóng lại, tức cổng dinh chưa mở, thì người chụp hình hay người quay phim cảnh nầy, làm sao mà vào bên trong dinh Độc Lập trước xe tăng để chụp hình hay quay phim? Hay những người nầy trổ tài chui cổng hoặc trèo tường để vào hành nghề? Đó mới chỉ là nói lý cho vui thôi, thưa độc giả. Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway). Lúc đó, vào năm 1975, giáo sư Thành còn trẻ, nhà ở vùng cầu Sài Gòn, ngồi trên yên sau xe vespa của phụ thân, tò mò chạy theo sau đoàn quân của CS, để theo dõi cho biết chuyện gì sẽ xảy ra khi quân CS vào thành phố… Ông Thành đã chứng kiến tận mắt đầy đủ sự việc tại cổng dinh Độc Lập hôm đó. Theo lời giáo sư Thành kể lại, sáng 30-4-1975, cổng dinh Độc Lập đã mở sẵn. Xe thiết giáp CS khi đến dinh Đôc Lập, chạy thẳng vào trong dinh, không có gì trở ngại. Vào bên trong rồi, có thể do lệnh trên, tài xế lại lái xe thiết giáp chạy trở ra ngoài. Khi đó, lính CS đóng cổng dinh, quàng dây xích sắt, nhưng không khóa. Xe thiết giáp quay đầu trở lại, chạy đến tông sập cánh cổng dinh Độc Lập, rồi chạy vào bên trong, để cho các nhiếp ảnh viên chụp hình và quay phim. Giáo sư Đỗ Văn Thành kể lại câu chuyện trên cho người viết tại nhà bác sĩ Phạm Hữu Trác, phụ trách tạp chí Truyền Thông ở Montreal ngày 28-4-2007, nhân dịp ông Thành cùng gia đình từ Oslo (Na Uy) qua Montreal (Canada) tham dự Lễ ra mắt sách Kỷ niệm và suy ngẫm, bản dịch từ sách Souvenirs et Pensées của thân mẫu ông là bác sĩ Nguyễn Thị Đảnh tại TRUNG TÂM SAIM (Service d’ Adaptation et d’Integration de Montréal) do Khối Y giới Cao niên và Cơ sở Truyền Thông Montreal tổ chức. Ngoài lời trình bày trên đây của giáo sư Đỗ Văn Thành, ba tài liệu sau đây cũng trình bày câu chuyện gần như thế: 1) Bài báo “Sài Gòn trong cơn hấp hối 30-04-1975” của Nhan Hữu Mai, cận vệ của cựu thủ tướng Vũ Văn Mẫu, đăng trên http://sucmanhcongdong.info và được luân lưu trên các e-mail group. Trong bài báo nầy, ông Nhan Hữu Mai viết: “Khoảng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4, xe tăng cộng sản tiến vào dinh Độc Lập mà không gặp một sức kháng cự nào vì cổng chính đã được mở rộng từ trước”. 2) Thứ hai là bài “Dinh Độc Lập, ngày tháng đợi chờ” của Ý Yên, đăng trên DCVOnline.net ngày 10-04-2012, theo đó: “Lúc 11:15 ngày 30-4-1975, toán xe tăng Bắc Việt tới cổng dinh theo đường Thống Nhứt, trương cờ Mặt Trận GPMN. Một người lính trên xe ra lệnh cho lính gác khóa cánh cổng lại; anh lính chần chờ, quay vô hỏi lệnh viên sĩ quan trực, bị người bộ đội trên xe bắn chết tại chỗ. Một bộ đội khác nhảy xuống, khép cánh cổng, lấy khóa xích vòng chặt lại để chiếc T-54 rồ máy húc nghiêng cánh cổng màu xanh, dây xích bung ra. Đại liên trên xe và lính tùng thiết đồng loạt tác xạ dữ dội, làm như có sức chống trả từ trong dinh. Xe tăng tràn vô đến giữa sân cỏ, mấy người lính Bắc Việt nhảy xuống...” 3) Thứ ba, theo tác giả Huy Đức, trong sách Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, Saigon: Osinbook 2012, chương I: Ba mươi tháng Tư, mục: Sài Gòn trong vòng vây, tr. 32 thì sáng 30-4-1975, cựu tướng Nguyễn Hữu Hạnh đến nhà số 3 đường Trần Quý Cáp [dinh Hoa Lan] tìm tổng thống Dương Văn Minh nhưng không có; tướng Hạnh liền đến dinh Độc Lập, “vào thẳng dinh bằng cổng chính, cổng dinh mở, không có lính gác.” Lúc ông Hạnh đến, cổng dinh Độc Lập mở, không lính gác thì ngay sau đó, quân CS đến, đâu có ai đóng hay gác cổng? Chú ý: đây là tài liệu do một nhà báo CS trong nước viết. Hiện người nầy còn sống và hành nghề trong nước. Như thế, qua hai câu hai câu hỏi đặt ra từ đầu, qua câu chuyện kể của tiến sĩ Đỗ Văn Thành, và qua các bài báo trên đây, nhứt là qua tài liệu của một nhà báo CS, thì rõ ràng vào ngày 30-4-1975, cổng dinh Độc Lập đã mở sẵn, còn việc chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập chỉ là một màn kịch do CS dàn dựng để tuyên truyền, bắt trẻ em học tập trong các sách giáo khoa lịch sử CS. Tài tình quá! Giống như xi-nê-ma Hồ Ly Vọng! Đây không phải là lần đầu CS đóng kịch. Năm 1954 cũng vậy. Các sách lịch sử CS đều đăng hình cờ đỏ của CS được bộ đội CS cắm trên hầm chỉ huy của thiếu tướng Pháp De Castries khi tấn công Điện Biên Phủ. Trận nầy kết thúc ngày 7-5-1954, kết thúc luôn cuộc chiến 1946-1954. Sau đó là hội nghị Genève, đưa đến hiệp định đình chiến và chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17. Tuy nhiên điện báo Tuần Việt Nam ở trong nước, ngày 07-05-2009 đã đăng bài phỏng vấn thiếu tướng Lê Mã Lương, giám đốc Viện Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (CS), theo đó thiếu tướng Lương đã phủ nhận điều nầy. Thiếu tướng Lê Mã Lương cho biết, tại Điện Biên Phủ, chỉ có một lá cờ duy nhứt được cắm trên đồi mà CS gọi là đồi Him Lam (tức đồi cứ điểm Béatrice), còn lá cờ cắm trên nóc hầm của thiếu tướng De Castries lần đầu tiên xuất hiện trong bộ phim Việt Nam trên đường thắng lợi của nhà quay phim Liên Xô là Roman Karmen, tức cảnh lá cờ CS trên hầm chỉ huy của thiếu tướng De Castries chỉ là cảnh xi-nê-ma mà thôi, không có thật. Thiếu tướng Lê Mã Lương cho biết: “Sau khi Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam ghi nhận chính xác điều đó, chúng tôi đã cất lá cờ tung bay trên nóc hầm Đờ Cát trước đây có trưng bày ở bảo tàng”. Những chuyện tầm thường và rõ ràng như thế mà CS còn thay trắng đổi đen, theo chủ trương của đảng CS, huống gì là những sự kiện lịch sử trọng đại. Sử học CSVN chỉ để phục vụ chủ nghĩa CS, phục vụ đảng CS và phục vụ nhà nước CS. Vì vậy, ngày nay, trong nước thầy không muốn dạy sử, học trò không muốn học sử. Thế đó! “Học sử ngày nay đã chán rồi”. Không ai lạ gì lịch sử viết theo lệnh của đảng CSVN! Sử gia Trần Gia Phụng 30/04/2020    
......

Đừng biến Việt Nam thành quốc gia của tượng đài và lăng mộ.

Nguyen Ngoc Chu I. CHÁY NHÀ MỚI RA MỌI NHẼ VÀ PHÉP “MUỐN ĂN GẮP BỎ CHO NGƯỜI” Thế là rõ. Cháy nhà mới ra... mọi nhẽ. Phía sau của mục đích đặt tượng Lý Thái Tông là đặt tượng các chánh án của Tòa án Nhân dân Tỗi cao (TANDTC). “Văn phòng TAND Tối cao cho biết, đa số các ý kiến góp ý nhất trí với phương án xây dựng tượng các chánh án TAND Tối cao là tượng bán thân dáng đứng, có chân đế. Dự kiến tượng và khối phụ trợ được đúc bằng chất liệu đồng đỏ (nguyên khối), chân đế tượng được làm bằng đá tự nhiên. Kích thước tượng dự kiến cao 2,2m (bao gồm cả tượng, khối phụ trợ và chân đế; trong đó phần chân đế dự kiến cao 1,2m” (https://dantri.com.vn/…/tand-toi-cao-muon-dung-tuong-cac-co…). Tượng vua Lý Thái Tông chỉ là cái cớ. Đây là phép “Muốn ăn gắp bỏ cho người”. II. ĐÃ LÀ TÒA ÁN THÌ PHẢI QUANG MINH CHÍNH ĐẠI 1. Trong công văn 141/TANDTC-VP ngày 23/4/2020 đã ghi rõ là tượng vua Lý Thái Tông sẽ được “đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, và Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp”. 2. Kinh phí dựng tượng vua Lý Thái Tông cũng đã được Nhà nước phê duyệt trong kế hoạch xây dựng trụ sở TANDTC như ông Nguyễn Quang Ngọc thừa nhận: “Được biết, thiết kế xây dựng tượng nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam nằm trong kế hoạch xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt” (http://congly.vn/…/82-5-y-kien-lua-chon-vua-ly-thai-tong-la…). Ông Nguyễn Quang Ngọc là Phó chủ tịch Hội Lịch sử Việt Nam, một “quân cờ chính” trong ván bài “Chọn nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam”. tượng vua Lý Thái Tông 3. Nhưng sau khi tiếp thu ý kiến , Chánh án TANDTC Nguyễn Hoà Bình cho biết: - Chỉ đặt tượng vua Lý Thái Tông duy nhất ở TANDTC. - “Việc xây dựng tượng vua Lý Thái Tông sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp”. - “ Và không sử dụng ngân sách Nhà nước. Nếu xây dựng tượng thì cán bộ, công chức ngành toà án sẽ đóng góp kinh phí”(https://dantri.com.vn/…/tand-toi-cao-muon-dung-tuong-cac-co…). Lương của cán bộ, công chức ngành tòa án, theo mức lương hiện hành, thì rất eo hẹp. Vậy mà phải quyên góp để xây dựng tượng vua Lý Thái Tông thì có làm thêm khó khăn cho đời sống cán bộ công chức ngành tòa án không? Hay rồi vẫn biến báo sử dụng ngân sách đã được duyệt? 4. Muốn trở thành quan tòa để ngồi trên công đường xử án thì phải quang minh chính đại. Quang minh chính đại phải trở thành thuộc tính của các quan tòa. Ở ngôi vị của TANDTC lại càng phải quang minh chính đại. 5. Tại sao Chánh án TANDTC mới chỉ tiếp thu ý kiến của nhân dân chỉ một phần? Vẫn kiên trì đặt cho bằng được tượng vua Lý Thái Tông tại TANDTC? Hứa không dùng tiền từ ngân sách nhưng sẽ quyên góp? 6. Cho nên, không đặt tượng của vua Lý Thái Tông tại TANDTC. Để không tiêu tiền từ ngân sách. Để không phải quyên góp từ tiền lương của cán bộ công chức ngành tòa án. Để khỏi phải đối phó với xã hội đến mức dối lời, làm mất tính quang minh chính đại của tòa án. III. KHÔNG TẠC TƯỢNG CÁC CHÁNH ÁN 1. Ngành tòa án Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chưa làm được gì xuất sắc cho nhân dân, nếu không nói là còn rất nhiều khiếm khuyết. Vì đã để cho tình trạng án oan ngày một gia tăng. Số lượng án không giải quyết kéo dài nhiều năm. Đưa đến nhiều oan trái cho nhiều người dân trong nhiều năm. Đã có quá nhiều dẫn chứng mà không cần phải liệt kê ra ở đây. 2. Các cựu chánh án TANDTC , cũng từ năm 1945 đến nay, chưa có ai ghi được những thành tựu xuất sắc để trở thành huyền thoại. Đó là không nói đến phần khuyết điểm, để cho ngành tòa án xuống cấp nghiêm trọng như ở mức hiện nay. Vì ở dưới quyền điều hành của chánh án mà đã để lọt nhiều quan tòa có trình độ yếu, đạo đức kém mà vẫn ngồi xử ở công đường. Hậu quả là nạn ăn tiền trong xét xử trở thành quốc nạn, mang đến oan ức cho nhiều gia đình. Mức độ yếu kém của quan tòa đã xuống đến đáy, đến mức như ông chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã xác nhận “viết một đằng tuyên một nẻo”, phải mời người đến “dạy viết chính tả, từng lỗi chấm phẩy”, thì nói chi đến trình độ để xử các vụ án phức tạp: “Đặc biệt, Chánh án tòa tối cao cũng chỉ ra nhiều trường hợp viết bản án cũng có lỗi về chính tả thậm chí viết một đằng tuyên một nẻo. Hoặc có trường hợp 2 bản án cùng số, cùng ngày nhưng khác nội dung khiến dư luận đặt câu hỏi về thẩm phán: “Ok thì nhẹ, không ok thì nặng”. Đây là thách thức lớn khi sắp tới ngành tòa án sẽ công khai bản án lên cổng thông tin. Cũng theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, trong năm 2017, ngành tòa án sẽ mở lớp tập huấn để viết bản án theo mẫu định sẵn. Lớp học này sẽ mời các giáo viên dạy văn đến dạy về chính tả, ngữ pháp và từng dấu chấm, dấu phẩy…” (https://www.tienphong.vn/…/nganh-toa-an-se-moi-giao-vien-de…). 3. Không có ông chánh án nào của TANDTC trở thành huyền thoại cả. Bởi thế, không ông chánh án nào xứng đáng được tạc tượng cả. Tượng đài ở các nước là hậu thế tôn vinh những huyền thoại. Đừng học theo, vì ngành tòa án Việt Nam hiện đại chưa có huyền thoại. Đừng làm tốn thêm tiền thuế của dân. IV. ĐỪNG BIẾN VIỆT NAM THÀNH ĐẤT NƯỚC CỦA TƯỢNG ĐÀI VÀ LĂNG MỘ 1. Dựng tượng tiêu biểu ngành, tạc tượng lưu danh các chánh án, có phải TANDTC đang muốn tiên phong mở đường cho một xu thế làm suy yếu đất nước? Nếu bộ nào cũng dựng tượng các bộ trưởng, ngành nào cũng dựng tượng đầu ngành, thì đất Hà Nội đâu đủ chỗ cho các tượng đây? Những năm gần đây, hình thành phong trào xây tượng đài. Cả nước xây tượng đài. Tốn kém vô kể về tiền bạc và đất đai. Những năm gần đây, hình thành phong trào xây lăng mộ. Các quan càng to lăng mộ càng lớn. Có người lăng mộ còn chiếm nhiều đất hơn cả vua. Chế độ nào cũng dựng tượng xây mộ như hiện nay thì Việt Nam không còn đất để cày cấy mà sống sót. 2. Không thể lưu danh cho hậu thế bởi tượng đài và lăng mộ do mình tự dựng lên. Hậu thế sẽ dỡ bỏ nếu hậu thế không tự nguyện tôn vinh. 3. Đề nghị TANDTC bỏ hẳn việc dựng tượng Lý Thái Tông và các chánh án tại Tòa án Nhân dân Tối cao. Điều mà TANDTC cần làm - là chấm dứt các án oan sai, chấm dứt hối lộ trong xử án, chấm dứt án bỏ túi, chấm dứt chạy án, và loại bỏ các quan tòa dốt nát về trình độ, băng hoại về đạo đức ra khỏi ngành tòa án. Lúc đó nhân dân sẽ tự động tôn vinh ngành tòa án. Đừng biến Việt Nam thành đất nước của tượng đài và lăng mộ.
......

Kiêu ngạo CS - vẫn rần rần kỷ niệm ngày 30 tháng Tư

Mạnh Kim| Hệ thống tuyên truyền lẫn bộ máy chính quyền các cấp vẫn rần rần kỷ niệm “45 năm ngày giải phóng”. Dĩ nhiên chính quyền không “ngu” và không “thấy” được tâm trạng và phản ứng của người dân nói chung, cả ba miền, lẫn người Việt hải ngoại. Thế nhưng người ta vẫn làm. Có năm yếu tố có thể giúp giải thích phần nào lý do. 1/ Đó là cơ hội để rút rỉa ngân sách. Lễ lộc và kỷ niệm luôn là dịp được ăn chia thoải mái và tham nhũng gần như công khai. Chính quyền “nhỏ” ăn kiểu “nhỏ”; chính quyền “lớn” xơi kiểu lớn, nhân danh phục vụ nhân dân và nhân danh cả việc “tưởng nhớ” người đã khuất. 2/ Điều thứ hai là duy trì “nhận thức” cho giới trẻ. Nhồi sọ trong nhà trường là không đủ. Những sự kiện cụ thể như thế này mới khiến giới trẻ “hiểu” hơn về “những gì đã xảy ra” dù những gì được kể chỉ là những câu chuyện được tô màu, tiết giảm liều lượng, thậm chí ngụy tạo. Thử phỏng vấn một bạn trẻ 8x hoặc 9x về cuộc chiến Việt Nam, về ngày “thống nhất 30-4”, có lẽ họ nói không gì khác hơn những gì được thuật một chiều trên mặt báo. Hỏi họ có biết những chuyện sau ngày “giải phóng” về việc có hàng triệu người vượt biên bỏ mạng, hàng ngàn người vô tội phải đi tù, hàng triệu người khác đột nhiên mất nhà mất cửa…, chắc họ không biết hoặc thậm chí có thể nghĩ đó là “bịa đặt”. 3/ Yếu tố thứ ba là sự nêu bật tính “chính nghĩa cuộc chiến”. Chính quyền không thể nói sự thật về việc Hiệp định 1973 bị xé toạc và Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng như thế nào khi đưa quân chính quy vào đánh chiếm miền Nam. Cuộc chiến này, theo chính quyền, cần được hiểu là cuộc chiến “chính nghĩa”, được thực hiện nhằm “giải phóng” miền Nam khỏi sự áp bức của chế độ VNCH “thối nát” khiến đồng bào miền Nam khổ sở, và đồng thời đánh đuổi xâm lược ngoại bang Mỹ… Nêu bật yếu tố “chính nghĩa” cũng nhằm cho thấy phản ứng của người hải ngoại đối với sự kiện 30-4 là “sai lầm”. 4/ Điều quan trọng nữa để tổ chức kỷ niệm 30-4 là làm nổi bật tính chính danh của đảng cai trị, rằng đảng và chỉ đảng cộng sản mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. 5/ Yếu tố cuối cùng có lẽ là xuất phát từ chủ trương chia rẽ. Cách thức hành xử của nhà cầm quyền khiến khó có thể không nghĩ đây là một chính sách. Mục đích là làm suy yếu sức mạnh đoàn kết chính trị – đặc biệt giữa người trong nước với người hải ngoại – một sự đoàn kết có thể dẫn đến những hành động hoặc những cuộc vận động ảnh hưởng đến việc duy trì và củng cố thể chế, đưa đến một “nguy cơ” “đa nguyên”./.  
......

‘Quan nhất thời, dân vạn đại, chế độ này phải thay đổi’

Công dân Việt Nam gốc Pháp, ông Andre Menras Hồ Cương Quyết, cho rằng xã hội Việt Nam “không thực sự hòa bình” như trên bề mặt của nó. Khánh An-VOA| Một người Pháp đã cắm “cờ giải phóng” của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trước Hạ nghị viện của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1970 nói với VOA rằng những năm tháng dài sinh sống và đồng hành cùng người dân Việt Nam đã giúp ông nhìn thấy rõ chế độ mà ông từng ủng hộ nay đã trở thành một hệ thống mafia chính trị kết hợp với kinh tế, đầy tham nhũng và chà đạp con người, “không xứng đáng” và không phù hợp với quan niệm sống của ông “về con người và nhân quyền”. Từng được chính quyền Việt Nam tôn vinh như một “anh hùng quốc tế” và được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đặc cách cấp quốc tịch Việt Nam với tên “Hồ Cương Quyết” vào năm 2009, ông Andre Menras nói với VOA rằng ngày xưa ông ủng hộ chính quyền miền Bắc vì không thể chịu nổi cảnh người dân chết chóc trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, và vì nghĩ rằng chỉ có cách đó mới giúp chấm dứt “cái ác” do chiến tranh gây ra. “Bởi vì tôi không đi theo chính quyền nào. Tôi không đi theo một ý thức hệ nào. Tôi đi theo con người, tình trạng của con người tại chỗ. Hồi xưa, tôi là giáo viên. Tôi 20 tuổi, là cao thủ bóng bầu dục ở Pháp, có nghĩa là tôi không quan tâm đến chính trị, không biết Marx-Lenin, không thuộc về công đoàn nào. Khi tôi đi xe gắn máy ở nông thôn [Việt Nam] năm 1968, Tết Mậu thân 1869, thì tôi thấy tình trạng của người nông dân ở đó bị đánh bom, bị giết ở trên đường, bị thương ở bụng… Làm sao [tôi] chịu nổi? Chiến tranh là ác nhất trong thế giới này. Vậy nên tôi phản ứng như một thanh niên Pháp yêu đời và không chấp nhận tình trạng đó. Tôi đã làm như thực tế tôi thấy, không phải theo ý thức hệ”, ông Menras kể lại với VOA. Tuy nhiên, điều mà chàng thanh niên Andre Menras lúc đó không ngờ tới là vài chục năm sau đó, chính mình lại là người lên tiếng phản đối chính quyền mà mình đã từng tâm huyết ủng hộ. “Những giá trị của tôi vẫn còn đây, nhưng tôi thay đổi về vấn đề đi theo ai, không theo ai hay chính quyền nào, bởi vì tôi thấy ở Việt Nam một thực tế rất rõ là người dân bị chính quyền cướp quyền và bị coi thường, bị đàn áp. Có một đảng là Đảng Cộng sản đã không tôn trọng người dân và tham nhũng. Không phải tham nhũng ít mà là tham nhũng khổng lồ, là một hệ thống mafia chính trị cấu kết với kinh doanh, lưu manh, và hơn nữa là tôi thấy họ hèn với Trung Quốc”, ông Andre Menras nói. Sau bộ phim “Hoàng Sa: Nỗi đau mất mát” nói về cuộc sống của ngư dân miền trung Việt Nam trước hiểm hoạ Trung Quốc, ông Andre Menras mới đây công bố bộ phim mới có tên “Việt Nam: Tiếng gào thét từ bên trong”, trong đó quy tụ nhiều tiếng nói từ những “công thần” của chế độ như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyên phó Bí thư thành đoàn TPHCM – cựu tù chính trị Lê Công Giàu, nhà văn Nguyên Ngọc, Nghệ sĩ ưu tú Kim Chi… và nhiều trí thức khác như GS. TS. Chu Hảo, nhà giáo Phạm Toàn, Giám mục Nguyễn Thái Hợp, luật sư Đặng Đình Mạnh… Ông Menras nói bộ phim mà ông đã âm thầm thực hiện một mình suốt 2 tháng là nhằm để ghi lại “những tiếng gào thét” về sự thật bên trong một xã hội “không thực sự hoà bình” như trên bề mặt của nó. Ông cho biết: “Một số người hồi xưa đã chiến đấu, đã phục vụ chế độ này. Nhưng từ từ họ không chịu được sự bất nhân, cái ác của chế độ toàn trị này và cảm thấy như bị phản bội. Giống như bản thân tôi, những giá trị mà tôi đã chiến đấu vì con người, vì hoà bình, thì tôi thấy chế độ này chà đạp, họ ăn mày dĩ vãng và làm ngược lại, lợi dụng cái đó”. Trong phim, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, người đã 104 tuổi và có thể thấy thính lực đã không còn tốt, thừa nhận rằng Việt Nam cần phải thay đổi, mà trước tiên là phải có dân chủ. “Không có dân chủ, chả được cái gì”, vị tướng cộng sản nói thêm. Theo đạo diễn, nhà làm phim tự do người Pháp, bộ phim có tính “lột trần sự thật” này không hề nằm trong ý định ban đầu của ông. Năm ngoái, ông Menras trở về Việt Nam với dự tính thực hiện bộ phim tài liệu mới về Trường Sa, nhưng sự kiện một người bạn bị bắt sau khi dự buổi họp mặt với các trí thức khác đã khiến ông hoàn toàn thay đổi ý định và quyết tâm thực hiện một bộ phim về nhân quyền. “Một số người đã xin tôi quay, ghi lại lời nói của họ. Tôi không xin. Họ xin. Họ vui vì có một cách để có thể nói mà người ở bên ngoài và trong nước có thể nghe được. Tôi rất ấn tượng về thái độ của họ. Họ làm không phải vì họ, vì cuộc đời họ đã ở sau lưng rồi, mà vì thế hệ mới, vì tương lai của đất nước. Những người đó là những người rất yêu nước”, ông Menras cho biết thêm. Công dân Việt Nam gốc Pháp này nói rằng với hơn nửa thế kỷ sống với người Việt, từ lâu, ông Menras đã xem Việt Nam là đất nước của mình, và ông “có quyền và có trách nhiệm” nói lên những điều tốt cho đất nước. Nhà làm phim người Pháp hiện đang nỗ lực phổ biến bộ phim ra quốc tế, với mong muốn tiếng nói của các trí thức trong phim sẽ được lắng nghe, và để bên ngoài biết tình trạng thực sự của con người trong xã hội “hoà bình” tại Việt Nam. “Họ phải biết chế độ này đã tuyên chiến với dân, và tiêu biểu là vụ Đồng Tâm, khi hàng ngàn cảnh sát cơ động đã tấn công một làng nhỏ nông dân, những người bình thường đã phục vụ chế độ từ mấy chục năm, và hành quyết một ông già đã bị tàn phế ngay trên giường một cách man rợ như vậy thì chế độ này là của ai?”, ông Menras nói với VOA. Mượn câu nói “Quan nhất thời, dân vạn đại” của người Việt, ông Andre Menras nói ông tin chắc Việt Nam sẽ phải thay đổi, dù ông không muốn và không dám đưa ra bất cứ một dự đoán nào về tương lai của quê hương thứ hai này. “Tôi đã học một điều là phải rất khiêm tốn khi nói về lịch sử. Khi tôi đến Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ treo cờ giải phóng. Khi tôi đã treo cờ giải phóng thì không nghĩ [mình] còn sống, [mà] sẽ bị bắn chết. Sau đó, không nghĩ mình sẽ bị tù. Không nghĩ sau đó 5 năm thì hết bom đạn, khói lửa ở Việt Nam. Nhưng như ông Võ Văn Kiệt đã nói, không nghĩ rằng ‘triệu người sẽ buồn’”. “Như một cách nói ở Việt Nam hay nói là ‘Quan nhất thời, dân vạn đại’, nghĩa là tình trạng ở Việt Nam bắt buộc sẽ phải thay đổi. Có thể tôi không được thấy ngày đó, nhưng chắc chắn tôi biết là ‘dân vạn đại’, nghĩa là dân chủ sẽ thắng. Việt Nam sẽ có một chế độ, một xã hội dân sự và lành mạnh. Đó là một điều chắc chắn”, ông Menras khẳng định./.  
......

Khi chánh án là “vua”

Hình: Một trong ba mẫu phác thảo biểu tượng công lý Lý Thái Tông (Nguồn: Internet) Tân Phong – Web Việt Tân Chẳng hiểu căn cớ làm sao mà Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam lại nảy ra ý muốn lấy ông vua Lý Thái Tông làm “tổ ngành” của mình và dựng tượng ông như biểu tượng của …Công Lý ở các tòa án các cấp, từ trung ương tới địa phương. Ý tưởng này thậm chí còn bị chính những cựu công chức cao cấp của chế độ cho rằng “dựng tượng vua để tôn kính thì được chứ để làm biểu tượng Công lý thì nực cười quá” – như ông Ngô Cường, nguyên vụ trưởng vụ quốc tế của Tòa án nhân dân tối cao nói với báo Tuổi Trẻ online hôm 28 tháng Tư, 2020. Tuy vậy, ý tưởng nực cười đó vẫn có thể được thực thi ở một xứ sở mà bất kể chuyện phi lý và quái đản đến đâu cũng có thể trở thành hiện thực khi nó được “lãnh đạo” chấp thuận và trở thành “quyết tâm chính trị”. Một cuộc triển lãm các mẫu hình tượng ông vua Lý Thái Tông trong trang phục “áo cổn, mũ miện”, một tay cầm một quyển sách, tay kia cầm một cái cân, hông đeo một thanh gươm được đem ra thuyết minh các ý nghĩa “thâm thúy”, mang tính lịch sử sâu sắc… Thôi thì chưa nói đến những ý tứ thâm sâu mà chỉ có lãnh đạo mới hiểu được. Dân đen nhìn qua thì thấy ông Lý Thái Tông trông rất giống ông vua Tàu nào đó trên các bộ phim chiếu suốt ngày trên các kênh truyền hình Việt Nam mà được Trung Quốc tặng miễn phí. Nói về trang phục triều Lý thì quả thực cho tới giờ, chúng ta cũng chẳng thể biết các vua chúa ngày xưa ăn mặc ra sao. Lịch sử chính thống mới được ghi chép lại từ thời Trần. Cái sự ăn mặc của cổ nhân dù có đem ra tranh cãi trong “ngàn năm mũ áo” của ông Trần Quang Đức thì cũng chẳng có mấy căn cứ sử liệu đầy đủ. Ngoài những hình vẽ, ảnh chụp hiếm hoi có từ thời Nguyễn làm mẫu hình gốc còn lại thì cũng tùy thế nhân sáng tạo theo trí óc của mình. Thế nên, chuyện ông vua Lý bây giờ có mặc y chang ông vua nhà Đường bên Tàu thì cũng là chuyện dễ hiểu khi mà giờ đây “người người xem phim Tàu, nhà nhà xem phim Tàu.” Không rõ từ khi nào, cái “văn hóa tượng đài” nó lại ăn sâu vào trí não của các lãnh đạo CSVN đến như thế và cớ tại làm sao thì có …Giời mới biết. Nhưng kể ra thì cũng có cái lý của nó vì mang tiếng là đất nước 4000 năm văn hiến nhưng chẳng có một tượng đài nào thực sự có giá trị lịch sử. Những người cộng sản chắc sẽ phải cố công lắm để dựng lên một hình tượng trong lòng dân chúng. Dù 20 năm qua, tượng của ông Hồ được xây dựng trên khắp mọi miền đất nước, ngốn một nguồn kinh phí khổng lồ hàng trăm ngàn tỷ nhưng thú thực là nó xa lạ, phô trương và …rẻ tiền về giá trị văn hóa chứ đừng nói tới lịch sử. Nói thì bảo ác khẩu, chứ cứ nhìn số phận những tượng đài của các “bậc thày vĩ đại” của ông Hồ là ông Lê Nin, ông Các Mác thì biết. Có lãnh đạo cộng sản nào dám khẳng định rằng 10 năm, 20 năm nữa… những giai cấp vô sản ở thế kỷ 21 hôm nay, vào một ngày đẹp trời nào đó, lại chẳng quàng dây kéo cổ tượng ông Hồ xuống mà đập, giống như với tượng ông Lê Nin ở nước Nga? Có lẽ thế, nên bây giờ, người ta lại tính chuyện dựng tượng ông vua Lý? Được coi là ông vua “nhân triết thông tuệ, có đại lược về văn võ, biết trước mọi việc, đánh đâu được đấy, vũ công lừng lẫy. Khi trở thành Hoàng đế, ông thân oan, đặt luật, trị quốc thân dân, đưa đất nước bước vào thời kỳ hoàng kim, thái bình, thịnh trị và trở thành tấm gương bảo vệ công lý tiêu biểu nhất trong thời đại quân chủ Việt Nam.” Phải chăng giờ tượng ông Hồ đã trở thành quá nhàm và mất thiêng? Hay có một cuộc thay đổi màu sắc dần dần từ “cộng sản chủ nghĩa” sang “dân tộc chủ nghĩa” chăng? Nhưng có thay đổi màu gì thì cái bản chất vẫn là “định hướng xã hội chủ nghĩa” và mọi sự thì vẫn phải theo “ý đảng.” Có một điều khá kỳ khôi và bi hài là người cộng sản từ trước tới nay luôn gương cao ngọn cờ “đấu tranh giai cấp, đánh đổ ách phong kiến, thực dân, giải phóng dân tộc.” Những người cộng sản đã đập phá không hề thương tiếc những công trình lịch sử, xóa bỏ và viết lại lịch sử theo chủ kiến của những “lãnh đạo cộng sản.” Thế mà giờ đây, họ lại dựng tượng ông vua Lý theo hình tượng na ná của một ông vua Tàu nào đó, cầm chiếc cân đứng ở tòa án của người cộng sản. Người thì bảo phải làm thêm cho ông cái ghế chánh án để bên cạnh, kẻ thì bảo phải thêm cái chuông cho người dân đến đánh kêu oan (Dương Trung Quốc)…thôi thì chín người, mười ý. Cái tri thức của kẻ hậu thế nó chắp vá, hổ lốn tới thảm hại làm sao! Thế là ông vua Lý Thái Tông, một tay thì mượn cái cân của thần Công lý ở Tây Phương, một tay cầm thêm quyển sách luật “Hình thư,” lại còn đeo gươm, ghế ngồi, trống chiêng cho đủ bộ, đứng ở trước cửa tòa án của nhà cầm quyền cộng sản. Thế là rõ rồi, cái tòa đó sẽ vừa viết luật, vừa đem số mạng dân đen lên cân được mấy lạng cân tiền, rồi rút gươm ra mà chặt… Đã là vua rồi thì nói sao chẳng phải ý Trời! Nghe nói, sắp tới nhà cầm quyền sẽ đem vụ án Hồ Duy Hải ra giám đốc thẩm như một cuộc trình diễn công lý của người cộng sản. Một vụ án tiêu biểu cho oan khuất ngút trời của người dân đen ở xứ thiên đường này. Vụ án mà có sự vi phạm cố ý trắng trợn của cơ quan tiến hành tố tụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án đã bị phơi bày trước công luận, bị Quốc Hội lên tiếng nhiều lần nhưng phải đợi tới 12 năm mới được kháng nghị giám đốc thẩm. Số phận của chàng thanh niên Hồ Duy Hải thật là một số phận bi thảm, hy hữu. Khi mà chiếc cổ của anh đã đặt dưới chiếc máy chém của chế độ thì người mẹ của anh vẫn cố gắng hết sức để lôi chân anh ta ra và cái lưỡi chém vẫn chưa rơi xuống. Sự sống chết của người dân oan trở thành cuộc cạnh tranh chính trị của các phe phái. Và giờ, có lẽ sau 12 năm sau, số phận của Hồ Duy Hải sẽ trở thành một cuộc trình diễn công lý của “phe thắng trận.” Một hệ thống tư pháp như thế mà đem hình tượng ông vua Lý Thái Tông ra làm biểu tượng quả thực là trơ trẽn và đốn mạt làm sao. Nó cũng giống như cái chế độ “bán nước, hại dân” này suốt nửa thế kỷ qua đã xử dụng hình tượng ông Hồ để chính danh một thể chế ăn cướp, tồi bại. 1/5/2020 Tân Phong  
......

Cội nguồn của sự chia rẽ dân tộc

Đỗ Ngà| Trong xã hội này chỉ có kẻ cướp hoàn lương mới được gọi là hòa nhập với xã hội. Còn khi kẻ lương thiện từ bỏ những gì vốn có của mình gia nhập vào thế giới tội ác thì tất đó không phải là hòa nhập với xã hội mà người ta gọi là sa ngã. Không ai xem tội ác, bất lương, phi nhân tính, ích kỷ là chuẩn mực để con người phải hòa nhập vào đó. Xã hội từ cổ chí kim, từ đông sang tây đều minh định rằng: đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, bao dung mới là chuẩn mực chứ không phải ngược lại. Hòa nhập hay hòa hợp thì cũng tiêu chuẩn cũng giống nhau, chấp nhận những giá trị phổ quát và không phạm vào những điều gây chia rẽ. Đã 45 năm sau ngày Sài Gòn sụp đổ mà bài toán hòa hợp hòa giải dân tộc vẫn không thể nào giải được, bởi lẽ, chính cộng sản ngạo mạn cho rằng, chính kẻ thắng cuộc mới là kẻ ra chuẩn mực mà bất cần đến những giá trị phổ quát như đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, và bao dung. Đó là bản chất vấn đề đã đưa đến sự chia rẽ dân tộc suốt ròng rã 45 năm qua, và nó sẽ kéo dài đến nhiều năm sau nữa. Nội chiến Việt Nam diễn ra sau nội chiến Mỹ trăm năm, nhưng vì sự vô minh vốn có của người CS khi não trạng của họ bị nhiễm quá nặng lý thuyết “bạo lực cách mạng” của Mác Lê nên họ chẳng rút ra được bài học gì từ cách cư xử của người Mỹ trước đó. Cái đáng sợ là họ lại luôn phủ định bất cứ những giá trị nào mà do “tư bản” tạo ra. Như ta biết, năm 1861, nước Mỹ đã từng xảy ra nội chiến đẫm máu giữa quân đội Miền Bắc chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ và quân Miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ. Cuộc chiến này kéo dài chỉ có 4 năm mà đã làm cho hơn 600 ngàn người phải bỏ mạng, và hơn 400 ngàn người bị thương. Nó vô cùng khốc liệt. Mà như ta biết, càng khốc liệt thì càng dễ phát sinh thù hận sâu sắc. Đã là nội chiến thì cuộc nội chiến nào cũng đau thương. Nó là sự tương tàn của những người cùng tổ quốc. Chính vì vậy, nếu tránh được chiến tranh thì không gì bằng, nhưng nếu không tránh được thì sau khi chiến tranh kết thúc, giữa 2 bên hãy cư xử với nhau như những người quân tử thì dân tộc có được sự hòa hợp hòa giải. Và chỉ có hòa hợp hòa giải thì khi đó dân tộc mới phát huy sức mạnh mà hướng tới thái bình cho nhân dân và thịnh vượng cho đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1865 là ngày lịch sử, không những lịch sử cho nước Mỹ mà là còn ngày lịch sử cho các dân tộc khác muốn hướng vào sự hòa hợp. Ngày ấy không những nó là ngày ký hiệp ước đình chiến kết thúc chiến tranh mà nó còn là ngày mở ra một cuộc hòa hợp hòa giải dân tộc mang tính mẫu mực cho những ai yêu chuộng công lý và hòa bình. Ngày đó, tướng miền Bắc Ulysses S. Grant đã gặp tướng Miền Nam Robert E. Lee trong phòng khách của căn nhà nhỏ tại làng Appomattox Court House, bang Virginia. Trong cuộc gặp lịch sử ấy, tướng Ulysses S. Grant của bên thắng cuộc đã cư xử với bên thua cuộc bằng sự bao dung của kẻ chiến thắng, bằng thái độ đúng mực của người quân tử. Ngày đó Ulysses S. Grant cam kết với Robert E. Lee rằng, phía ông vẫn xem những người thua cuộc là anh em một nhà, là đồng bào trong một nước. Để thể hiện tinh thần đó, ngay trong phòng họp, Ulysses S. Grant đã thẳng thừng bác bỏ các ý kiến của các chỉ huy dưới quyền muốn xử Robert E. Lee tội phản quốc. Một cách cư xử không gì đẹp bằng. Đấy chỉ là lời là những cam kết, còn thực hiện thì sao? Liệu tướng Ulysses S. Grant có nuốt lời lừa Robert E. Lee như người Cộng Sản đã lừa quân dân cán chính VNCH sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 không? Xin thưa là không. Thực tế, khi thi hành hiệp ước, Ulysses S. Grant đã làm còn tuyệt vời hơn cả những gì ông đã ký. Ông không hề bắt một người lính miền Nam nào làm tù binh, ông nghiêm cấm binh sỹ của mình không được có bất kỳ hành động trả thù hay sỉ nhục nào với binh lính bại trận. Nghiêm cấm binh sỹ không được có bất cứ hành động thất lễ nào với tướng Robert E. Lee. Chưa dừng lại ở đó, ông còn bác bỏ luôn yêu cầu được diễu hành ăn mừng chiến thắng của binh sỹ bằng lời nhắc nhở rằng “Những kẻ mà các bạn gọi là quân nổi loạn đều là đồng bào của chúng ta đấy!”. Vì sao? Vì ông biết nếu binh lính ông diễu hành ăn mừng chiến thắng, thì đấy chính là nhát dao cứa vào vết thương lòng của những người bại trận-những người mà ông xem là đồng bào của mình. Không những thế, ông còn cho phép binh lính bại trận được được phép giữ lại ngựa súng để phục vụ cho mục đích mưu sinh và phòng thân. Đây là điều duy nhất ông làm trái với quy định của hiệp ước. Theo quy định của bất kỳ hiệp ước đầu hàng nào thì điều khoản không bao giờ thiếu, đó tước bỏ vũ khí của phía bại trận. Năm 1865 nội chiến kết thúc thì chỉ nửa thế kỷ sau, nước Mỹ đã vươn lên vị trí dẫn đầu thế giới và thay thế vai trò thống trị của Anh Quốc. Như vậy chúng ta thấy ở đây là, chuẩn mực nào mà người Mỹ đã dùng để giải bài toán để hòa hợp hòa giải dân tộc của họ? Có phải bên thắng buộc thua phải quỳ gối chấp nhận những gì trái với luân thường đạo lý không? Không! Kẻ chiến thắng đó đã chọn sự bao dung, nhân bản, đạo đức, trung thực làm chuẩn mực. Chính những chuẩn mực này mà bên thua cuộc đã quay về với chính nghĩa và vứt bỏ hận thù. Mà như ta biết, một khi kẻ thắng cuộc- những kẻ nắm quyền điều hành nước Mỹ đã chọn những chuẩn mực đó để cư xử với nhau thì sao nước Mỹ không hùng cường được? Trái với người Mỹ thì người Cộng Sản Việt Nam đã làm ngược tất cả. Họ không bao giờ chịu từ bỏ sự gian trá, không bao giờ từ bỏ thái độ hách dịch của kẻ chiến thắng, không từ bỏ ý đồ trả thù thấp hèn, họ không bao giờ từ bỏ gian ác, và tất nhiên họ không bao giờ từ bỏ dối trá. Vậy nên, bên thua cuộc không thể nào hòa hợp hòa giải với họ được. Với cách cư xử như thế, thì thậm chí ngay cả những công dân được sinh ra và lớn lên dưới thời cai trị của họ thì cũng không thể nào dung nạp được. Dung nạp sao được khi mà họ cứ lộng quyền bắt bớ người nói lên sự thật? Vậy thì hòa hợp hòa giải thế nào được đây? Qua bao năm sống dưới chế độ CS, thì chúng ta thấy một điều rõ ràng rằng, CS không thể dung nạp được sự thẳng thắng và trung thực của chính dân mình, nhưng họ lại dung nạp rất tốt sự gian trá của kẻ thù cướp nước. Vậy câu hỏi đặt ra là, cuối cùng CS được sinh ta trên đất nước này là để làm gì? Thực tế cho thấy, họ được sinh ra chỉ để mang lại những cuộc chiến tranh vô nghĩa làm hao mòn nội lực đất nước, họ mang đến sự chia rẽ và lòng hận thù sâu sắc giữa chính người Việt với nhau. Và bất hạnh hơn, họ còn mang đến cho dân tộc này chiếc thòng lọng nô lệ. Với kẻ thắng cuộc như vậy thì bất cứ ai yêu chuộng những giá trị chuẩn mực như đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, và bao dung đều không thể hòa hợp với họ được. Thật sự là như vậy, cho nên có thể nói còn CS thì dân tộc không thể có hòa hợp hòa giải dân tộc. Đó là cái kết rất đắng cho dân tộc. Không biết tại sao dân tộc này cứ bị CS đeo bám mãi?! Một dân tộc bị đọa đày dai dẳng. Đỗ Ngà  
......

Sinh vi Tướng tử vi Thần: Các quân nhân quân lực VNCH tự sát trong những ngày cuối cùng 30.04.1975

"Những ai đã chết vì sông núi Sẽ sống muôn đời với núi sông" CÁC QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VNCH KHÔNG MUỐN RƠI VÀO TAY GIẶC, ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA NĂM 1975. 1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975 2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975 3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975 4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975 5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975 6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn 7- Đại Tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975. 8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975 9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ 10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG, 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn 11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh 12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975 13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt 30/4/1975 14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham m ưu. Tự sát ngày 30/4/1975 15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng) 16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con 17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ 18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975 19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75 20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975 21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975 22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975 23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản 24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975 25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975 26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975 27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975 28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75 29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975 30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM 31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn 32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn. 33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975 34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa 35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975 36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau 37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu...,,v v v còn nhiều vị nữa ...!
......

45 năm sau, con đường nào cho giáo dục Việt Nam

Phạm Minh Hoàng - Web Việt Tân| Vào những ngày tháng kỷ niệm 45 năm chủ nghĩa cộng sản thống trị trên toàn cõi đất nước, nếu phải chọn một chủ đề để nói về những thất bại của họ, chắc chắn chủ đề đó phải là giáo dục, và những ai còn nghĩ về tương lai của dân tộc, chắc chắn sẽ phải đặt những câu hỏi: Đảng CSVN đã tàn phá nền giáo dục như thế nào? và đến bao giờ đất nước mới thoát ra khỏi cảnh u tối của ngày hôm nay? Để có một cái nhìn từ cội rễ vấn đề, trước tiên chúng ta phải căn cứ vào những văn bản, những chủ trương chính thống của hai thể chế. Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Việt Nam Cộng Sản. Trong chế độ VNCH, ta có thể tóm tắt các chủ trương giáo dục vào 3 triết lý chính: − Nhân bản: Chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế giới; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời làm căn bản; xem con người như một động lực của sự phát triển chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ; − Dân tộc: Giáo dục phải biểu hiện, bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác; − Khai phóng: Giáo dục phải không ngừng hướng tới sự tiến bộ, tôn trọng tinh thần khoa học, mở rộng tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, tinh hoa văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội. Cả 3 triết lý này được ghi vào Hiến Pháp, và là kim chỉ nam cho mọi chủ trương về giáo dục trước năm 1975. Riêng về phía chế độ Cộng sản ở miền Bắc và ngày nay trên toàn thể đất nước, Luật Giáo Dục 2005 đã quy định: Điều 2. Mục tiêu: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Điều 3.1. Tính chất, nguyên lý giáo dục: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều 40. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học: Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghệ thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận xét đầu tiên mà ai cũng có thể thấy đó là phía VNCH đề cao những giá trị phổ quát của nhân loại. Ngược lại, phía CS nhấn mạnh đến một chủ nghĩa chính trị (cộng sản) đi kèm theo tư tưởng của những con người đi theo lý tưởng này (Mác, Lênin, Hồ Chí Minh). Có lẽ đây là đặc thù chung của các nước độc tài. Và 45 năm sau ngày thống trị toàn thể đất nước, ngay cả những người cầm quyền cũng như báo chí chính thống và các nhà giáo cũng đều phải nhận ra được rằng họ đã đưa cả một nền giáo dục đến một tình trạng suy đồi và không hề thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vụ gian lận thi cử ở Hội đồng thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) tại Trường Đồi Ngô (Bắc Giang) khi có tới 42 cán bộ, giáo viên, nhân viên dính líu gây chấn động dư luận và được báo Thanh Niên mô tả là “chưa từng có trong lịch sử loài người.” Nhưng “cái lịch sử” ấy lại được lặp lại 6 năm sau với vụ gian lận trong công tác tổ chức, chấm thi ở kỳ thi tốt nghiệp THPT 2018 tại 3 tỉnh Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình. Lần này vụ việc được báo điện tử Vietnamnet đánh giá là “chưa từng có trong các kỳ thi quốc gia.” Song song với gian lận trong thi học hành, thi cử, tình trạng bạo lực học đường cũng diễn ra với một mức độ chưa từng có: Học sinh lớp 8 mắng chửi và bóp cổ cô giáo; phụ huynh bênh con xông vào trường đánh gẫy sống mũi thầy giáo; cô giáo ra lệnh cho học sinh tát một bạn trong lớp 231 cái vì nói chuyện trong giờ học; học sinh đánh nhau, lột quần áo, hạ nhục nhau công khai… Tất cả đều trở nên những chuyện thường ngày và dư luận thì chỉ biết thở dài ngao ngán! Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đương nhiên, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (GD&ĐT) phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu quy tất cả trách nhiệm cho ngành giáo dục thì hoàn toàn không khách quan và không công bằng. Lý do là giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, còn Bộ GD&ĐT là cơ quan phải thực thi theo đúng chủ trương đã được hoạch định. Và chủ trương thì đã được ghi rõ trong Luật Giáo Dục như đã đề cập ở trên. Khách quan mà nói, trong nhiểu năm qua, nhiều đời bộ trưởng, trưởng các ngành giáo dục đã lập nhiều ủy ban, đưa nhiều đợt cán bộ, công chức để cố gắng tìm tòi, tham khảo nhiều mô hình giáo dục của các quốc gia tiên tiến áp dụng vào Việt Nam nhưng hoàn toàn bế tắc và chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Nguyên nhân một phần là tiếp thu chắp vá, nhưng phần chính là do cơ chế giáo dục Việt Nam không có môi trường cho các mô hình giáo dục tiên tiến vận hành để mang lại hiệu quả. Vậy thì mô hình nào mới đem lại kết quả? Trước tiên phải nói đến khối lượng và cách phân bổ kiến thức. Theo Giáo Sư Hoàng Xuân Sính, lối học nhồi nhét của Việt Nam ngày nay rất lạc hậu và đi ngược lại sự phát triển trí tuệ của học sinh. Để dễ hiểu, chúng ta có thể ví việc học như một cuộc chạy trường lực. Vào những năm tháng trung, tiểu học, các em chỉ cần học thông, viết thạo, biết tính toán và đặc biệt là để định hình bản thân và chung sống với người khác. Ngoài kiến thức hàn lâm nhà trường còn chú trọng đến việc rèn luyện thể chất và các kỹ năng sống. Tất cả như để chuẩn bị các bước chạy xa trên đại học. Thứ hai, về nội dung kiến thức. Tại các nước phát triển, nhà nước tạo cơ chế mở và quyền tự chủ, thông thoáng cho các nhà trường. Nhờ vậy, họ phát huy được tối đa tính chủ động, năng lực sáng tạo của các cơ sở giáo dục trong tự do học thuật cũng như trong xây dựng chiến lược phát triển nhà trường. Trong không gian giáo dục như vậy, người thầy không phải là nhà truyền giáo, áp đặt một chiều kiến thức có sẵn, mà là người bạn đồng hành của học sinh trong quá trình tìm tòi, khám phá tìm ra chân lý. Chính vì thế nền giáo dục không bị xơ cứng, thoái hóa, lạc hậu với thời gian mà ngược lại luôn sống động tạo ra các sản phẩm là những con người có tư tưởng khai phóng, có tư duy độc lập; có năng lực phản biện và dám phản biện bảo vệ chân lý; luôn chủ động, sáng tạo trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày của bản thân và trong đời sống xã hội. Trên đây là ý kiến của một độc giả đã được đang trên báo điện tử Vietnamnet. Thứ ba, trả lương xứng đáng cho các thầy cô. Hiện nay, hai ngành có mức lương thấp nhất trong xã hội là sư phạm và nông nghiệp, ngược lại, ngành có mức lương cao nhất là an ninh. Theo một công bố của Bộ GD&ĐT, thì lương khởi điểm của giáo viên trung bình khỏng 3,5 triệu. Sau 18 năm thâm niên, lương tăng 2,4 lần, nghĩa là chỉ bằng lương của một công nhân nhà máy Samsung. Với mức lương bèo bọt này thì các thầy cô khó chu toàn trách nhiệm và dễ dẫn tới các tiêu cực. Hiện có khoảng 1 triệu giáo viên trung, tiểu học. Nếu đồng loạt tăng mỗi người 50 USD/tháng thì tốn 600 triệu USD/năm, nghĩa là chỉ bằng 6% ngân sách giáo dục. Ba điều trên đây không phải là chướng ngại khó, nhưng sao mãi chúng ta không thể vượt qua? Quả đúng như thế! Rất dễ, nhưng ở Việt Nam thì rất khó, vì: − Giảm tải cho học sinh ư? Nếu thế thì sách giáo khoa in ra hàng triệu cuốn ai mua? Cho đến nay đã thay sách giáo khoa 3 lần. Có lần Bộ GD&ĐT đã xin một ngân khoản 70 ngàn tỉ, tương đương với 3 tỉ USD chỉ để thay sách! Một con số chóng mặt. − Loại bỏ các môn vô bổ như “Lịch sử Đảng, Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế học Mác Lê, Tư tưởng Hồ chí Minh” và thay vào các môn Đào tạo nhân cách, Khái niệm về Quyền Con Người, Tư duy phản biện… ư ? Người nào đề nghị chắc phải thực sự can đảm hoặc chán sống! − Loại bỏ các giáo viên yếu, vô kỷ luật ư? Có mà anh bị loại trước không chừng? Chúng là dạng 5C (con cháu các cụ cả). − Cho đại học quyền tự chủ ư? Được! nhưng cơ sở đảng vẫn phải duy trì và nội dung vẫn do đảng kiểm soát. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu thế nào là sự khác biệt giữa hai nền giáo dục của VNCH và Việt Nam Cộng Sản. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu tại sao Bộ Luật Giáo Dục 2005 nó chi phối đến cuộc sống và chính sách giáo dục của Việt Nam hiện nay. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu rằng chỉ có một cách để cải tổ sâu rộng nền giáo dục nước nhà và đưa đất nước vào một kỷ nguyên mới đó là, xóa bỏ chế độ độc tài để xây dựng một xã hội thực sự nhân bản. Phạm Minh Hoàng 30/4, giáo dục Việt Nam, hệ thống giáo dục Việt Nam, nền giáo dục VNCH, Quốc Hận 30/4
......

Làm thế nào để đánh cho tàn phế một dân tộc?

Đỗ Ngà  - Van Nga Do Ngay từ lứa tuổi thiếu nhi, mọi học sinh dưới mái trường XHCN đều bị buộc phải hô khẩu hiệu “Vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lí tưởng bác hồ vĩ đại, hãy sẵn sàng”. Đây là một câu khẩu hiệu thể hiện bản chất của CS, bản chất lợi dụng ngay sự ngây thơ con trẻ để phục vụ cho ý đồ chính trị. Ngày nay chúng ta luôn phẫn nộ bất kỳ kẻ nào nhẫn tâm bắt con nít hành hạ làm cho tàn phế chân tay, rồi buộc những đứa trẻ tội nghiệp đó phải bò lết đi ăn mày để mang nhiều tiền về làm giàu cho chúng, thì cớ sao chúng ta không phẫn nộ khi có một kẻ nào đó bắt trẻ con làm cho tàn phế bộ não rồi dùng những đứa con nít ấy như là công cụ để trục lợi? Chắc chắn kẻ làm tàn phế não bộ con nít ấy phải khốn nạn hơn những kẻ đã hành hạ thân xác bọn trẻ. Ở trên đời này có những kẻ làm tàn phế bộ óc con nít sao? Có. Xin thưa, đó chính là Cộng Sản. Ở đây CS không phải bắt một vài đứa trẻ để chọc mù não bộ mà họ bắt mọi đứa trẻ trong một đất nước trăm triệu dân để chọc mù não. Như ta biết, xúi trẻ em đi vào vùng súng đạn là một tội ác không thể dung thứ, nhưng với CS thì họ không từ bất kỳ thủ đoạn nào cả. Hình ảnh Lượm trong một bài thơ của Tố Hữu là một ví dụ. Hiện nay hầu hết các bậc cha mẹ đều lớn lên trong nền giáo dục XHCN độc hại nên không mấy ai nhận ra cái man rợ mà Tố Hữu đã gởi vào trong thơ Lượm. Nếu là người có đạo đức và có tư duy độc lập mà khi đọc bài thơ này thì không ai không sởn gai ốc vì chất man rợ trong nó, man rợ không khác gì quân ISIS ngày nay. Giả sử như có một thế lực chính trị nào xúi một đứa con vị thành niên của bạn phải băng qua những làn đạn chết người giữa khu vực chiến sự tàn khốc, mục đích là để phục vụ cho đám người già đầu đang núp lùm tránh đạn thì bạn nghĩ như thế nào? Bạn có dám cho con bạn làm chuyện đó không? Và liệu rằng, với tổ chức chính trị mà có dã tâm xúi một đứa trẻ con đi vào chỗ chết như thế, thì có đáng để cho bạn theo nó và tôn vinh nó không? Nếu bạn dám giao con cho chúng dùng mục đích như thế thì quả thật, một là bạn có bản chất loài cầm thú, hai là bạn đã bị tẩy não. Con nít được sinh ra là để nó được sống trên nền tảng lý tưởng của riêng nó, để nó sống cuộc đời đúng với ước mơ của nó. Tất cả mọi con người đều phải trải qua thời tuổi thơ. Nhiệm vụ của bậc cha mẹ, nhiệm vụ của nền giáo dục là cần phải chắp cánh để ước mơ của chúng được bay cao. Nó tựa như mồi lửa khi mới được nhóm lên, nhiệm vụ của một nhà nước chân chính là phải thổi vào ngọn lửa ấy một luồng dưỡng khí để rồi những ước mơ của chúng được bùng lên chứ không phải dập tắt chúng. Trăm triệu con người là trăm triệu lý tưởng. Và trong trăm triệu lý tưởng ấy có hàng vạn thậm chí hàng triệu lý tưởng phi thường thì nó là nguồn sức mạnh vô giá góp phần vào sự phát triển xã hội, góp phần vào sự tiến bộ đất nước, và góp phần làm cho quốc gia trở nên hùng cường. Ấy vậy mà vì mục đích cai trị, CS nhẫn tâm dập tắt nó đi. Thường thì chúng ta nghĩ câu khẩu hiệu mà CS buộc học sinh hô hào kia là vô hại. Nhưng không! Nghĩ thế là lầm to. Khi chúng ta xâu chuỗi lại với những gì mà CS đã và đang làm, thì tất sẽ thấy đấy đó là một quá trình có chủ đích, có bài bản. Với một thiên la địa võng đánh phá vào não trạng của dân tộc như thế thì dẫn đến não trang dân tộc này bị tàn phế là điều khó tránh khỏi. Đó là thành công của ĐCS và là họa lớn cho dân tộc. Đánh cho chết lý tưởng chưa đủ, CS còn phải đánh tan nguyện vọng của toàn dân nữa mới đủ bộ. Phải vừa đánh chết ý tưởng vừa đánh tan nguyện vọng thì ĐCS mới dễ dàng dẫn dắt cả dân tộc này đi theo ý họ muốn mới được. Từ khi lên làm tổng bí thư cho đến giờ, Nguyễn Phú Trọng đã âm thầm ký 27 văn kiện bí mật giữa ĐCS Việt Nam và ĐCS Trung Quốc. Mà như ta biết, chỉ có ký những văn kiện phản dân hại nước mới bí mật như vậy. Cho nên để dẫn dắt dân tộc này ngoan ngoãn chui vào họng con mãnh thú Tàu Cộng thì tất, Nguyễn Phú Trọng phải loại bỏ nguyện vọng của toàn dân và áp đặt nguyện vọng của ông ta lên tất cả gần 100 triệu người. Đó là dã tâm của lão già 76 tuổi, đầu bạc đang chiếm giữ 2 ghế này. Hôm qua, ngày 27 tháng tư, đồng loạt các tờ báo đảng đăng bài “Suy nghĩ của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là suy nghĩ của toàn Đảng, toàn dân” là một bước đi ấy, bước đi giết chết nguyện vọng toàn dân để áp đặt nguyện vọng của một người có tư tưởng nô lệ Tàu lên đầu dân tộc. Giết chết lý tưởng của con nít để áp đặt lý tưởng của một xác chết vẫn chưa đủ khốn nạn, thì hôm nay Nguyễn Phú Trọng lại giết chết nguyện vọng của toàn dân để áp đặt nguyện vọng bệnh hoạn của lão. Việc làm này của ông Trọng âu cũng là điều dễ hiểu, cái khó hiểu ở đây là tại sao dân tộc này lại để cho những kẻ bệnh hoạn như thế giết chết ước mơ và áp đặt nguyện vọng của chúng lên một cách dễ dàng như vậy?! Câu trả lời dành cho 100 triệu người./.    
......

Phút cuối của tướng Lê Văn Hưng

Từ trái sang phải : Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và Đại Tá Trần Văn Nhựt tại chiến trường An Lộc hôm 7 Tháng Bảy, 1972. (Hình: Flickr manhhai) Tuấn Khanh - nhacsituankhanh| ‘…Theo gương tiền nhân bảo toàn khí tiết, sau khi gặp mặt thuộc cấp dặn dò, tâm tình và vĩnh biệt gia đình, ông đã tuẫn tiết tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ, bằng cách dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45. Hưởng dương 42 tuổi…’ Trải qua cuộc nội chiến, phía Bắc vẫn ca ngợi những anh hùng của mình. Miền Nam cũng có những anh hùng trong trí nhớ của người dân. Đó là lịch sử. Và lịch sử thì sừng sững, có thể được nhìn từ nhiều hướng nhưng không ai có thể vin vào lý lẽ nào để xóa đi. Dưới đây là chuyện kể của bà Kim Hoàng, vợ của tướng Lê Văn Hưng, mở ra một góc khuất của lịch sử. Xin đặt lại nơi đây, nhân tưởng niệm 45 năm cuộc tương tàn. Phút cuối của tướng Lê Văn Hưng Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: "Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. " Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: "Em phải sống ở lại nuôi con."  Tôi hoảng hốt: "Kìa mình, sao mình đổi ý?" - "Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con." - "Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc." - "Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta." - "Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?" Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: - "Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?"  Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:  - "Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế."                                                    *** Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: "Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào." Tôi phát run lên hỏi:  "Nhưng mình ơi, còn em? Em phải làm gì trong lúc này?" Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: "Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình." Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:  "Vâng, em xin nghe lời mình." Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục: "Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi." - "Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?"  Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:  "Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh." *** Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: "Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó." Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: "Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên."  Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống. Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: "Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh." Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: "Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả."  Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. *** Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: "Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết." Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chặt cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: "Nghĩa trở lại với tôi." Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: "Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?" Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: "Chuẩn Tướng! Trời ơi, Chuẩn Tướng!" Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: "Chuẩn Tướng! Chuẩn Tướng ơi!" Tôi bảo Giêng: "Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào cũng phải ngăn chận Việt Cộng." Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap vấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, giấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc dộng, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi. (Bài viết của Bà Quả phụ Lê Văn Hưng, khuê danh Phạm Thị Kim Hoàng) ---------------- Tướng Lê Văn Hưng là chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 3 năm 1972, ông được vinh thăng cấp bậc Chuẩn tướng nhiệm chức tại Bộ tư lệnh Sư đoàn ở căn cứ Lai Khê, Bình Dương. Sau trận tử thủ An Lộc thành công nổi tiếng trong chiến trận "Mùa hè đỏ lửa", tháng 7 cùng năm ông được tặng thưởng tại mặt trận Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu cùng ân thưởng Huy chương đặc biệt mang danh hiệu Bình Long Anh Dũng. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, được lệnh bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Đại tá Mạch Văn Trường (nguyên Chánh thanh tra của Sư đoàn), để về lại Quân đoàn IV nhận chức Tư lệnh phó Quân đoàn do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 vào lúc 8 giờ 45 sáng, khi được tin Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí đầu hàng. Tại Bộ tư lệnh Quân đoàn IV ông rất đau buồn, với tinh thần bất khuất không chịu đào thoát hoặc đầu hàng địch. Theo gương tiền nhân bảo toàn khí tiết, sau khi gặp mặt thuộc cấp dặn dò, tâm tình và vĩnh biệt gia đình, ông đã tuẫn tiết tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ, bằng cách dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45. Hưởng dương 42 tuổi. 26/04/2020 Tuấn Khanh - nhacsituankhanh  
......

Đa nguyên và khai phóng là nền tảng phát huy tiềm lực đại khối toàn dân

Nguyễn Văn Đài - Web Việt Tân| 45 năm qua kể từ ngày 30 tháng Tư, 1975, hai miền Nam và Bắc đã thống nhất trong vòng kiềm tỏa của chế độ Cộng sản. Nếu những người lãnh đạo Việt Nam coi chủ trương “dân giàu nước mạnh” mà họ tuyên bố sau khi chiếm miền Nam làm mục tiêu phát triển thì ngày hôm nay, đất nước và xã hội Việt Nam đã có một tương lai hoàn toàn khác. Việt Nam 45 năm dưới chế độ cộng sản, tuy kinh tế có phát triển, thu hút nhiều đầu tư ngoại quốc sau ba thập niên mở cửa, nhưng sự phát triển này chỉ giúp làm giàu cho một giai cấp thống trị trong đảng cùng với đám tư bản đỏ. Có 4 yếu tố quan trọng mang tính quyết định trong việc phát triển và xây dựng một quốc gia từ nghèo nàn, lạc hậu để trở thành giàu mạnh và văn minh, mọi người dân được thụ hưởng cuộc sống tự do, sung túc và hạnh phúc. Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên phong phú và dồi dào; Thứ hai, vị trí địa lý có tầm chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng; Thứ ba, người dân thông minh, cần cù, chịu khó. Thứ tư, yếu tố cuối cùng mang tính nội tại của mỗi quốc gia và là yếu tố quan trọng nhất mang tính chất quyết định, đó là thể chế chính trị. Trong 4 yếu tố nói trên, 3 yếu tố đầu mang tính tự nhiên được Đấng Tạo hóa ban cho mà tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều mơ ước có được. Nếu chúng ta đem so sánh 3 yếu tố đầu tiên của Việt Nam với 4 cường quốc trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore thì thấy là cả 4 cường quốc nêu trên đều không có được các nguồn tài nguyên thiên phong phú và dồi dào như Việt Nam. Một là Việt Nam có đầy đủ các nguồn tài nguyên quí, hiếm phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước như Vonfram, Titan, dầu khí, quặng boxit, đất hiếm, than đá, quặng sắt, đồng, kẽm, chì,… Nhưng trong hơn 30 năm qua, chế độ cộng sản đã khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt, gây ô nhiễm môi trường, lợi tức thu được từ việc xuất khẩu quặng thô thì đem chia nhau để hưởng thụ, không đem để đầu tư xây dựng đất nước. Việt Nam cũng có 3 khu vực phát triển nông nghiệp tuyệt vời như đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ, là vựa lúa của cả nước và thế giới. Tây nguyên là khu vực cây công nghiệp như cao su, cà phê, ca cao, điều, tiêu,… mang tầm thế giới; Việt Nam có bờ biển dài, có nhiều bãi tắm và danh lam bực nhất thế giới như Hạ Long, Lăng Cô, Đà Nẵng, Phan Thiết, Vũng Tàu, Phú Quốc,… Tài nguyên biển phong phú,… Hai là Việt Nam có vị trí chiến lược hàng đầu khu vực và thế giới. Biển Đông là nơi có tuyến hàng hải quốc tế chiếm tới 60% lượng vận tải hàng hóa toàn cầu. Biển Đông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan, Trung Quốc ở khu vực, mà còn có tầm quan trọng với cả Hoa Kỳ và Âu Châu. Nói cách khác, tầm quan trọng của Việt Nam và biển Đông chính là trục lộ giao tiếp của các châu lục, trên mọi lĩnh vực như quân sự, chính trị, kinh tế,… Quốc gia nào khống chế được biển Đông thì quốc gia đó đã khống chế được hơn phân nửa thế giới. Hơn 30 năm qua, đảng và chế độ cộng sản chỉ đem biển Đông và vị trí chiến lược của Việt Nam ra làm chính sách đu dây giữa Việt Nam với các cường quốc như với Hoa Kỳ và Trung Quốc, với Nhật Bản và Trung Quốc, với Úc và Trung Quốc,… Mục đích tìm kiếm sự tồn tại cho đảng và chế độ CSVN. Không đem lợi ích gì cho đất nước và Nhân dân. Đồng thời đảng và chế độ CSVN đã và đang đánh mất tất cả mọi lợi thế của biển Đông và Việt Nam vào tay Trung Quốc. Ba là Việt Nam có dân số trẻ và mọi người đều cần cù, chịu khó, thông minh. Nhưng dưới sự cai trị của chế độ cộng sản, nền giáo dục lạc hậu lại mang tính nhồi sọ nên đã làm cho những người Việt Nam trẻ tuổi không phát huy được tố chất thông minh của mình. Nhiều tài năng trẻ tuổi sau khi du học nước ngoài thì họ ở lại. Nhưng đem yếu tố thứ tư liên quan đến thể chế chính trị, đối chiếu với 4 quốc gia phát triển Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore, Đài Loan, người ta mới thấy lý do vì sao yếu tố này mang tính quyết định trong sự phát triển của quốc gia. Cả 4 cường quốc trên không có 3 yếu tố quan trọng mà Việt Nam có. Nhưng 4 cường quốc đó có thể chế chính trị tự do, dân chủ đa đảng, văn minh, vì thế mà thể chế chính trị đã giúp cho 4 quốc gia nói trên từ nghèo nàn, bị tàn phá bởi chiến tranh, thường xuyên bị thiên tai, để vươn lên thành cường quốc về kinh tế, chính trị ở Á Châu và thế giới. Còn Việt Nam bị cai trị bởi đảng và chế độ cộng sản độc đoán, chuyên quyền, phản động. Nên đảng và chế độ cộng sản đã phá hủy mọi yếu tố thuận lợi của đất nước, tham nhũng, hủ bại và làm suy đồi văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Vậy làm thế nào để phát huy 3 yếu tố thuận lợi mà Đấng Tạo hóa đã ban cho đất nước, dân tộc Việt Nam để phát triển đất nước? Chúng ta đã thấy rõ, đảng cộng sản và thể chế chính trị độc tài, bạo lực của nhà nước cộng sản hiện nay là chuớng ngại duy nhất – đã và đang cản trở và phá hủy mọi tiềm năng – khiến cho người Việt Nam không có điều kiện đóng góp thật sự vào công cuộc canh tân và phát triển lâu dài. Đảng và chế độ cộng sản cũng đã và đang gây chia rẽ và mất đoàn kết giữa cộng đồng người Việt ở trong và ngoài nước. Vậy nên, Việt Nam cần một nền chính trị đa nguyên, đa đảng để đoàn kết người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng nhau chung tay xây dựng đất nước. Nói đến đa nguyên, tức là nói đến sự chấp nhận khác biệt nhưng sẵn sàng hợp lực vì quyền lợi tối thượng cho hạnh phúc nhân dân, chứ không nhằm phục vụ cho bất cứ đảng phái hay chủ nghĩa nào. Đi cùng với việc thiết lập nền chính trị đa nguyên, đa đảng, tinh thần khai phóng là một yếu tố cần thiết để con người mở rộng tầm nhìn, biết dung nạp cái mới tốt đẹp thay thế cái cũ đã lỗi thời. Tinh thần khai phóng không chỉ giúp cho người Cộng sản nhìn thấy sự cổ hũ, lạc hậu của chủ nghĩa Mác – Lênin trong sự phát triển của toàn cầu hóa, mà còn giúp cho người Việt Nam có sự tự do chọn lựa hướng tiến của đất nước, bằng chính ước mơ muốn thay đổi Việt Nam của mỗi người. Nói cách khác, đa nguyên đa đảng chỉ là nguyên tắc sinh hoạt, nhưng chính tinh thần khai phóng đã giúp cho con người sống hài hòa và chấp nhận khác biệt để cùng vươn lên. Muốn có tinh thần khai phóng, trước hết con người phải được thông tin và tự do tìm hiểu về những thay đổi chung quanh, kể cả thế giới bên ngoài, hầu từ đó có thể nhìn ra những gì phải làm và làm ra sao để cải tiến đời sống cho được văn minh hơn và giúp cho xã hội tiến bộ hơn. Ngày nào mà đất nước Việt Nam chưa có một thể chế chính trị dựa trên hai nguyên tắc Đa Nguyên và Khai Phóng, sức mạnh toàn dân không thể kết hợp làm một mà ngay cả tiềm năng to lớn được Đấng tạo hóa ban cho cũng không khai dụng một cách hợp lý để phát triển bền vững như Nhật Bản hay Nam Hàn. Rõ ràng 45 năm nhìn lại sau biến cố 30 tháng Tư, 1975 nhu cầu sinh tử của Việt Nam không phải là phát triển kinh tế, gia tăng tổng sản lượng GDP mà chính là thay đổi thể chế chính trị để cho mỗi người dân được tự do thực hiện ước mơ của chính mình, đóng vào góp vào ước mơ Việt Nam: Tự do, Dân chủ, Thịnh vượng. Nguyễn Văn Đài  
......

Nói thẳng với Phan Đăng

Ls Yến Phương| Những ngày này, người dân Việt Nam ở trong nhiều tình cảm xáo trộn, khi thấy “giặc” Trung Quốc đang ngày đêm uy hiếp nước ta. Nỗi lòng của người dân cả nước, trong đó có em – một người con nước Việt, luôn tự vấn lòng mình, “ta phải làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”? Xin tự giới thiệu với anh Phan Đăng, em chỉ là một nữ sinh Sài Gòn, sinh năm 1995, mới tốt nghiệp đại học luật, chuyên ngành luật quốc tế được 3 năm. Kiến thức của một cô gái nhỏ như em, chắc chưa theo kịp với một nhà báo tiếng tăm tầm cỡ như anh. Nhưng em mạo muội nói thẳng với anh một số vấn đề. Cũng như nhiều bạn trẻ khác, em cũng rất say mê chương trình “Lẩm Bẩm 24h” của anh Phan Đăng trên kênh Youtube. Thế nhưng, khi nghe anh Phan Đăng “lẩm bẩm” trên trang Youtube của anh ấy về đề tài Biển Đông – kiện hay không kiện, em từ kinh ngạc chuyển sang phẫn nộ. Clip này, anh Phan Đăng nói khoảng hơn 38 phút, em đã phải nghe ít nhất là 5 lần, để hiểu được vì sao Việt Nam “không chịu phát triển” và trở nên yếu hèn như vậy? Vì sao giới trẻ Việt Nam nhiều người không yếu ớt về thể chất, nhưng lại bạc nhược về tinh thần? Vì có những con người như anh, Phan Đăng ạ. Trong bài nói chuyện gần 40 phút này, luận điểm chính của anh Phan Đăng là: Để trả lời cho câu hỏi, có nên kiện Trung Quốc hay không, anh Phan Đăng nói là giới trẻ Việt Nam cần phải trả lời 3 câu hỏi của anh ấy trước đã. Đó là i) Kiện toà nào?; Kiện cái gì?; Và sau khi kiện sẽ làm gì? Trong lúc hùng biện, anh Phan Đăng đã dẫn chứng rất nhiều kiến thức từ luật quốc tế, lịch sử Việt Nam cũng như quan hệ quốc tế hiện đại để dẫn chứng cho các luận điểm của anh ấy. Và chốt lại, anh Phan Đăng trả lời giùm là “các bạn trẻ cứ yên tâm đi, Đảng và Nhà nước đã biết hết các nỗi lo của các bạn rồi, Đảng và Nhà nước đã có phương án hết cả rồi. Và chúng ta cũng không cần kiện Trung Quốc đâu. Các bạn cứ tin tưởng vào Đảng và Nhà nước đi”. Bài viết của em để đáp lại lời anh, chia thành hai phần chính. Một là trả lời 3 câu hỏi của anh về chuyện kiện. Hai là trả lời cho luận điểm hãy yên tâm đi, mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo rồi. Và bây giờ, em sẽ xin nói thẳng với anh Phan Đăng từng vấn đề một. Vấn đề 1 Thứ nhất, anh Phan Đăng không phải là chuyên gia luật quốc tế, mà anh ấy cũng tự nhận, những cái anh ấy nói, các cụ các bác biết hết cả rồi. Tuy vậy, thực tế là kiến thức của anh ấy không có chuyên môn về luật quốc tế. Nhưng anh lại nói chuyện kiện tụng quốc tế. Như vậy thì rõ ràng anh ta nói về một thứ anh ta không nắm chắc. Mà không nắm chắc thì chắc chắn thông tin anh ấy cung cấp không đầy đủ. “Một nửa cái bánh mì là một nửa cái bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải sự thật”. Đó là em chưa trích câu nói của Lê nin – thầy của Đảng anh là “sự nhiệt tình cộng với sự ngu dốt thành một sự phá hoại”. Chính vì thế, nếu anh không rõ về luật quốc tế, thì “để Mị nói cho mà nghe nè”: 1. Kiện toà nào Từ năm 2014 trở đi, mỗi năm vào dịp hè về, tiếng ve kêu, hoa phượng nở là tàu Trung Quốc lại tiến vào vùng biển của Việt Nam. Những căng thẳng lại dâng lên, và em lại nghe báo chí và các chuyên gia lên tiếng là cần kiện Trung Quốc ra Toà. Anh Phan Đăng có nhắc tới 3 Toà án quốc tế, nhưng hỡi ôi, anh lại nhầm lẫn. Toà thứ nhất, anh nói đúng, đó là Toà án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – Viết tắt là ICJ). Toà này là cơ quan tư pháp của Liên Hợp Quốc. Toà thứ hai anh Phan Đăng nhắc tới là Toà trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration- viết tắt là PCA). Đây là Toà quốc tế lâu đời nhất. Nhưng Toà này không phải là Toà đã ra Phán quyết trong vụ Philippines kiện Trung Quốc như anh nói đâu. Toà thứ ba thì anh Phan Đăng càng lầm lẫn. Toà này mới là Toà xét xử vụ Philippines kiện Trung Quốc nhưng nó chỉ là một Hội đồng trọng tài được thành lập khi phát sinh vụ việc giải quyết tranh chấp, thuật ngữ chuyên môn gọi là adhoc. Vụ Philippines kiện Trung Quốc là bởi vì, nếu một Toà muốn có thẩm quyền xét xử tranh chấp đó, phải có thẩm quyền xét xử theo luật định. Hai Toà trên ICJ và PCA đều đòi hỏi các bên tranh chấp đồng ý đưa lên Toà giải quyết thì Toà mới có thẩm quyền. Thứ hai, trong Công ước Luật biển của LHQ năm 1982 (gọi tắt là UNCLOS) có quy định nếu các bên tranh chấp mà tranh chấp đó liên quan đến việc áp dụng hoặc giải thích bất cứ điều khoản nào của UNCLOS thì có thể sử dụng các cơ chế giải quyết được quy định tại UNCLOS. Trong đó, có Toà trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Và chính một Toà trọng tài như vậy đã được thành lập với 5 Thẩm phán quốc tế lừng danh về luật biển là thành viên của Hội đồng trọng tài. Và theo quy định về giải quyết tranh chấp như đã nêu trong UNCLOS thì nếu các bên đã tiến hành các thủ tục giải quyết trong bước đầu tiên, nhưng vẫn không được, thì một bên có thể yêu cầu một phán quyết từ Hội đồng trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS này, mà không cần sự đồng ý của bên còn lại. Và nhờ có quy định đó, Philippines mới có thể lôi được Trung Quốc ra Toà, bởi vì Trung Quốc có bao giờ thèm ra Toà đâu. Túm lại là thế này nhé anh Phan Đăng, Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS xử vụ Philippines kiện Trung Quốc là một Hội đồng trọng tài có 5 thành viên, được lập ra chỉ để giải quyết vụ này thôi. Và Toà này sử dụng PCA làm chỗ để thực hiện vụ xét xử, sử dụng các dịch vụ của PCA để tiến hành xét xử, và dĩ nhiên, sẽ phải trả tiền cho PCA cho các dịch vụ này. Chứ không phải vụ này do PCA xử anh nhé. Không biết nói thế này, anh Phan Đăng có hiểu không nhỉ, chứ em hồi học đại học, các thầy cô đã giảng rất kỹ về chức năng và tính chất của Toà này, cũng như về Phán quyết biển Đông năm 2016. 2. Kiện cái gì Vấn đề số 2 này liên quan đến vấn đề thứ nhất. Như đã trình bày ở vấn đề số 1, các Toà ICJ và PCA thì không thể có thẩm quyền vì Trung Quốc luôn từ chối việc ra Toà, và hai Toà này có thể khởi kiện vấn đề chủ quyền. Thế nhưng, tranh chấp chủ quyền là một câu chuyện lâu dài, nó có khi kéo dài đến đời cháu anh Phan Đăng cũng chưa chắc đã giải quyết xong. Và chủ quyền không phải là tất cả. Điều quan trọng đáng nói ở đây là Trung Quốc đang sử dụng lúc thì “đường lưỡi bò” lúc thì “Tứ Sa” để làm bình phong cho việc “cướp biển” của Việt Nam. Các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với nguồn tài nguyên hải sản phong phú nay còn đâu? Ngư dân Việt Nam phải lang thang sang “trộm cá” tại vùng biển của các nước khác. Rồi dầu mỏ, khí đốt – nguồn tài nguyên đã nuôi sống nhà nước Việt Nam thời bao cấp, nay còn đâu, khi các mỏ gần thì đã khai thác sắp cạn kiệt, còn mỏ xa hơn một chút như Cá Rồng Đỏ, Cá Kiếm Nâu, Sao Vàng – Đại Nguyệt… bị “giặc Tàu” đe doạ, bắt ép phải rút lui, không được khai thác, cho dù nó nằm ở “nhà mình”. Rồi nếu khi giặc Tàu kiểm soát được hết vùng biển của mình, liệu tất cả các con tàu của mình có thể ra khơi khi không được sự cho phép của nó? Vậy thì nguy hiểm nhất đang cận kề, đó là nguy cơ Việt Nam đang mất biển. Biển mới quan trọng anh ạ. Chứ cái mỏm đá thì ăn thua gì, nhưng ta phải giữ các mỏm đá ấy vì ta muốn giữ biển, anh Phan Đăng ạ. Không biết anh Phan Đăng thông kim bác cổ như vậy có biết câu: “Đường đi khó không phải vì sông ngăn núi trở mà trong lòng cảm thấy có núi trở sông ngăn”. Lỗ Tấn cũng có câu: “Lúc ban đầu, thế giới không có đường đi, về sau người ta đi mãi thì cũng thành đường”. Trước năm 2016, anh nói câu kiện hay không kiện như bây giờ, em nghe còn lọt tai, chứ sau năm 2016, Philippines đã mở đường rồi anh ạ. Anh chỉ việc đi theo mà thôi, vấn đề là anh có dám đi không? Và chắc anh đã từng yêu, nên phải biết rằng khi người ta quyết tâm, người ta sẽ hành động, còn khi người ta không muốn làm thì người ta tìm lý do. Kiện cái gì thì em sẽ nói đây anh ạ. Em – một cô gái yêu kiều, xinh đẹp, mỏng manh nhưng không khiếp nhược trước giặc Tàu “xâm lược” sẽ chỉ anh cần kiện gì. Nếu giặc Tàu lại tiếp tục cho tàu bè của họ, Hải Dương địa chất các loại đó, xâm phạm vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của mình thì anh cứ thu thập bằng chứng về các hoạt động trái phép của họ để đệ đơn lên một Toà Trọng tài theo Phụ lục VII yêu cầu Toà phán quyết là hành động đó đúng hay sai? Và giặc Tàu bảo đó là vùng tranh chấp như khu vực Bãi Tư Chính chẳng hạn, thì anh có thể đệ đơn lên Toà hỏi khu vực đó của Việt Nam hay của Tàu Cộng? Và ai có quyền khai thác dầu mỏ, khí đốt ở đó? Cái đó hoàn toàn nằm trong việc giải thích hoặc áp dụng UNCLOS nên Toà sẽ có thẩm quyền anh ạ. Anh có nói là Việt Nam có thể yêu cầu Toà tuyên bố “đường lưỡi bò” vô hiệu. Anh ơi, cái đó Toà đã tuyên rồi, anh mất công yêu cầu lại nữa làm gì. Cho nên em nói, anh chắc phải học luật từ em thôi. Mà em chả dạy anh đâu, vì anh vừa không đẹp trai lại hèn như thế thì em chả chơi. Hihi! Còn nhiều thứ có thể kiện lắm anh ơi, chẳng hạn nè, Hoàng Sa tuy Trung Quốc đang chiếm đóng, nhưng anh có thể yêu cầu Toà trọng tài (từ giờ em nói Toà trọng tài tức là nói Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS nhé anh) phán quyết các thực thể tại Hoàng Sa có là đảo hay không? là vì Tàu Cộng nói đây là các đảo, nó có chủ quyền, vậy nó có quyền kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo đó. Rồi nữa nè, năm 1996, Tàu Cộng nó tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, anh có thể kiện lên Toà trọng tài hỏi đường cơ sở thẳng ấy có vi phạm hay không? Túm cái ống quần lại là nếu anh muốn kiện (mà làm sao anh muốn được, Đảng và Nhà nước của anh kìa, nếu muốn kiện), cứ nói em. Em học luật quốc tế tại Sài Gòn, học chuyên Anh từ nhỏ, nên tiếng Anh em nói như gió, (mà chắc anh nghe tiếng có tiếng không) thì sẽ kiện được, dư sức kiện anh nhé. 3. Sau khi kiện thì làm gì? Anh Phan Đăng nói là dù có kiện ra Toà quốc tế thì cũng chả làm gì vì các toà án quốc tế không có cơ chế cưỡng chế thực hiện. Anh ơi, kiến thức này hồi năm 3 em đã được học. Chả có toà quốc tế nào có cơ chế cưỡng chế thực hiện, chỉ một ít trường hợp của ICJ thì Hội Đồng Bảo An LHQ mới giúp thực hiện, mà thực tế ít xảy ra lắm anh ạ. Nhưng sẽ có cơ chế anh ạ. Mà đúng rồi, anh ở cái xứ mà chỉ biết sử dụng cường quyền thì quan tâm gì đến pháp luật. Pháp luật chỉ được áp dụng khi muốn “triệt tiêu” một ai đó thôi. Chứ Đảng và Nhà nước của anh luôn ở trên pháp luật thì anh nghĩ luật pháp quốc tế nó cũng vậy chăng? Anh có biết là gần 500 năm trước Công nguyên, tinh thần tôn trọng pháp luật đã thấm đẫm trong tâm thức của người phương Tây ở Hy Lạp cổ đại không, huống chi bây giờ. Nói như anh, chắc dẹp hết các Toà án quốc tế đi nhỉ, vì gần như chả có toà án quốc tế nào mà có cơ quan cưỡng chế thi hành án như nhà nước anh nhỉ? Và đây nè, em trích nguyên văn từ một bài viết của anh Dương Danh Huy trên BBC, em thích anh này hơn anh vì ảnh không hèn như anh: “Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung. Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp và sự ủng hộ của họ sẽ có nhiều trọng lượng hơn. Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi “vùng tranh chấp“. Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra LHQ, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có trong tay một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn.” Đó anh thấy không. Kiện là kiện thôi, ăn thua có muốn và có dám kiện không kìa anh ơi. Anh lại nói rằng, nếu kiện Trung Quốc thì sẽ khó khăn cho người dân mình. Anh ơi, sao anh không nói Đảng và Nhà nước anh học tập Đài Loan đi, họ không dựa vào Trung Quốc mà kinh tế họ vẫn phát triển ầm ầm kìa. Khi đó thì kiện hay không cũng đâu có ngán. Còn đây, cho dù Việt Nam mình không kiện Trung Quốc, thì người dân mình vẫn buôn bán với họ theo kiểu mình là con tin của họ. Lúc thích thì họ mua. Lúc không thích thì họ kiếm chuyện đóng cửa. Mãi mãi người dân mình sẽ là con tin của họ thôi nếu không tìm cách thoát ra “ảnh hưởng của họ” anh ơi. Vấn đề 2 Tiếp theo, anh Phan Đăng nói là “các bạn cứ yên tâm đi, mọi việc Đảng và Nhà nước đã biết hết rồi, Đảng và Nhà nước đã lo cả rồi”. Ôi thôi! Em sẽ phân tích từng thứ cho anh thấy nhé. Anh chắc phải biết, trên báo chí người ta dẫn lời các chuyên gia từ trong đến ngoài nước đều khẳng định là Trung Quốc sẽ quyết tâm độc chiếm biển Đông bằng được. Điều đó là không hồ nghi gì cả. Vậy anh nói Đảng và Nhà nước có cách rồi, không cần kiện mà vẫn giữ được tất cả, không mất gì cả. Có chuyện đó không anh? Đảng và Nhà nước anh có phép thần gì để làm được như thế? Anh có biết là vừa rồi, khi Trung Quốc lại nhắc lại cái “công hàm” Phạm Văn Đồng 1958 làm cả nước xôn xao không anh? Anh biết vì sao mà người ta lại cãi nhau ỏm tỏi như vậy không? Đó là niềm tin giữa những người dân với Đảng và Nhà nước của anh đã cạn kiệt rồi. Mà không cạn sao được. Đảng và Nhà nước của anh nào là vụ Đồng Tâm, Văn Giang, Tiên Lãng… toàn “đánh úp” người dân thôi. Thế thì làm sao mà họ tin vào Đảng và Nhà nước được? Vì lỡ tin, lại có một cái Hiệp ước Thành Đô nữa hay sao? Thêm nữa, Đảng và Nhà nước của anh, từ Chính phủ đến quân đội, công an, đều tham nhũng đầy mình, đều là những bầy sâu nhung nhúc, ăn của dân không chừa thứ gì. Ngay cả đại dịch Covid mới đây nè, mua cái máy xét nghiệm có 2 tỉ thì kê lên 10 tỉ, thế thì với những đại tướng tham nhũng như Phùng Quang Thanh, Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, hay Trung tướng Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành… Những người đó mua tàu ngầm Kilo hay tàu chiến Gerard về, lấy gì để đảm bảo họ không kê giá, không ăn bớt? Và những vũ khí đó, liệu có còn xài được không hay chiến sự nổ ra mới hiện nguyên hình là những đống sắt vụn? Chưa kể, với những người tham tiền như thế thì Trung Quốc họ thiếu gì tiền, họ tìm cách hối lộ cho các anh hàng tỉ đô la như cái vụ Bô xít Tây nguyên… Lỡ các anh bán nước thì làm sao tụi dân đen như tụi em có thể biết được? Cho nên anh Phan Đăng ơi, lẽ ra, anh phải khuyến khích những người trẻ như em phải trăn trở với vận mệnh dân tộc, phải đau với nỗi đau của dân tộc thì mới đúng, đằng này anh bảo tụi em hãy vô tư vui chơi đi, hãy trà sữa và tự sướng đi, cho dù ngã vào xe lửa chết cũng được. Thao thức với dân tộc không có nghĩa là chúng em chống lại Đảng và nhà nước của các anh đâu. Chúng em muốn đồng hành với Đảng và Nhà nước của anh trong công cuộc chống lại giặc Tàu này kia. Ngày xưa, Chế Lan Viên phải đau khổ vì “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/ Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.” Thế mà ngày nay, khi tụi em thao thức với tương lai của dân tộc, thì anh lại khuyên bảo tụi em là hãy lo yêu nhau và làm tình đi, vì tất cả Đảng và Nhà nước đã lo rồi. Cũng Đảng và nhà nước của anh lo mà như chị Trần Thị Lam phải đau khổ thốt lên rằng: “Rừng đã hết và biển thì đang chết/ Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa”. Anh dẫn chứng lịch sử chúng ta bị đô hộ hàng ngàn năm mà không bị mất nước. Đúng là như vậy. Bác Hồ kính yêu của anh (đúng không anh?) đã từng nói thế này: “Cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể”. Chính vì thế, anh phải xem cụ thể trường hợp này thế nào nha anh? Nước Việt Nam bị đô hộ hàng ngàn năm không bị mất là nhờ ý chí kiên cường bất khuất chống giặc Tàu của cha ông ta, còn ươn hèn thì làm sao mà chả mất nước. Anh ơi, anh hay nói về lịch sử, anh có nhớ Hịch tướng sĩ không? Này nhé, “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.” Phải có ý chí quyết tâm, căm thù giặc như vậy thì mới có thể giữ được nước chứ anh. Em còn muốn viết nhiều nữa, nhưng em sẽ đợi khi nào anh trả lời em đã. À, em còn cần nói thêm với anh đôi điều. Đó là thay vì kêu tụi em hãy yên tâm kê cao gối ngủ đi, thì anh cần nhớ lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ anh đó: “Chúng ta muốn hoà bình nên chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì kẻ địch càng lấn tới”. Và mong rằng, Đảng và Nhà nước của anh cần phải hiệu triệu toàn dân: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, quyết không để mất một tấc đất, tấc biển nào của tổ tiên để lại” thì tất cả những người trẻ như em sẽ theo bước, chứ không phải ru ngủ tụi em nhé anh. Và nếu anh còn tiếp tục ru ngủ nữa, anh sẽ là tội đồ của dân tộc này đó. Còn chương trình “Lẩm bẩm 24h” của anh chắc nên đổi thành “Lẩn Thẩn 24h” thì mới đúng bản chất. Chào thương mến và quyết thắng nhé anh!    
......

Môi trường sống đang chết dần bởi bàn tay quan chức Cộng Sản

Đặng Xuân Diệu - Web Việt Tân| Sau hơn ba mươi năm, đất nước Việt Nam núp bóng dưới mỹ từ “đổi mới”, nhưng môi trường sống lại trở nên ngày một tồi tệ đến mức nguy hiểm đến cuộc sống và tính mạng người dân. Tình trạng ô nhiễm diễn ra khắp nơi, từ biển khơi tới rừng núi cao, từ hải đảo Phú Quốc đến thung lũng Tây Bắc. Câu nói cửa miệng của mọi người Việt Nam hiện nay là “mọi thứ đều bị ô nhiễm.” Một nghiên cứu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ về bảo vệ hệ sinh thái công bố vào năm 2018, Việt Nam đứng thứ 131 trên toàn cầu, thấp hơn cả Trung Quốc đứng thứ 109. Trong đó có một số chỉ tiêu cơ bản mà Việt Nam đứng sát đáy của nhóm 10 nước tồi tệ nhất về xử lý nước thải, ô nhiễm bụi và mật độ che phủ rừng. Theo báo cáo năm 2017 của tổ chức Ocean Conservacy, Việt Nam là nước đứng thứ 4 trong số các quốc gia gây ô nhiễm môi trường biển nhiều nhất trên thế giới. Trong đó, rác nhựa của 5 nước gồm Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Sri Lanka thải ra biển nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trên thế giới cộng lại. Riêng tại Việt Nam vào năm 2016, công ty Formosa đã gây thảm họa môi trường khiến cá chết hàng loạt trên chiều dài hơn 300 km dọc bờ biển mà đến nay chưa hồi phục. Về ô nhiễm không khí, theo số liệu từ EPI (The Environmental Performance Index) của Hoa Kỳ thực hiện và công bố, Việt Nam hiện đang đứng trong nhóm 10 quốc gia ô nhiễm không khí nhất Châu Á. Đáng lưu ý, tổng lượng bụi ở Hà Nội và TP. HCM liên tục tăng cao, khiến chỉ số chất lượng không khí (AQI – Air Quality Index) luôn ở mức dẫn đầu trong số 10 thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Thật vậy, chúng ta không khỏi giật mình khi xem những con số do Bộ Tài Nguyên và Môi Trường báo cáo vào tháng Tám, 2019 như sau: (không loại trừ khả năng con số thực tế còn kinh khủng hơn). Mỗi năm, cả nước đã thải ra môi trường hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; phát sinh hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt; hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp; hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại từ nguồn khác. Riêng lượng tro xỉ thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than đang vận hành ước tính 12,2 triệu tấn và chủ yếu tập trung tại khu vực miền Bắc (chiếm 60%), miền Trung (chiếm 21%) và miền Nam (chiếm 19%). Chúng ta đều biết hệ thống nhà máy nhiệt điện này đều nhập khẩu máy móc, dây chuyền công nghệ từ Trung Quốc 4 tốt. Trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m³ nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Trên 5.000 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng; hơn 4.500 làng nghề. Hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m³ nước thải y tế. Cả nước hiện có 787 đô thị với 3.000.000 m³ nước thải/ngày đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý trước khi chảy thẳng ra kênh mương, sông rạch. Hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan. Như vậy, phải nói rằng người dân cả nước đang sống trong tình trạng nguy hiểm, do ô nhiễm môi trường ngày càng lớn cả về quy mô lẫn mức độ độc hại từ đất đai canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và không khí . Bằng chứng là thời điểm này ở các khu đô thị Việt Nam, để tìm được một con sông hay kênh đào có nguồn nước trong sạch theo tiêu chuẩn bình thường là điều vô cùng hiếm. Nước vốn là chất không màu, không mùi nhưng giờ đây tại Việt Nam, nước hầu hết đã có màu nâu, thậm chí màu đen và có mùi hôi thối. Để môi trường sống của người dân trên cả nước dẫn đến thảm trạng như ngày hôm nay là do rất nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân cốt lõi và nền tảng nhất chính là xuất phát từ giới lãnh đạo của đảng Cộng Sản không có tầm nhìn chiến lược hay còn gọi là thiếu sự hiểu biết về việc xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi lòng tham của quan chức kể từ khi mở cửa phát triển kinh tế được dịp nở rộ. Các quan niệm “ăn xổi ở thì” trong thời bao cấp được nâng lên một tầm cao mới trong hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó trở thành tư duy “vơ vét theo nhiệm kỳ” và “sống chết mặc dân, tiền quan bỏ túi.” Nhìn về quá khứ chúng ta thấy rõ ràng thảm trạng môi trường của Việt Nam bắt nguồn từ sai lầm về việc xây dựng hệ thống giao thông quốc gia, lập quy hoạch cơ sở hạ tầng đô thị và chủ trương phát triển nông thôn. Bắt đầu từ năm 1996 sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và kỷ niệm 10 năm chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, cầu đường bắt đầu hình thành và mở rộng ở mọi nơi. Các định chế tài chính quốc tế và các quốc gia phát triển ào ào đổ ngân quỹ vào viện trợ cho Việt Nam, khiến cho cả một dải đất hình chữ S bỗng trở thành một bãi xưởng công trường kéo dài hơn 20 năm nay mà vẫn ngổn ngang mịt mù khói bụi. Để kịp giải ngân, các dự án được vẽ ra và phê duyệt rầm rộ trong cái tầm nhìn hạn hẹp ấy, sau đó phân chia cho các tổng công ty nhà nước, tập đoàn tư nhân, doanh nghiệp cá nhân, tập đoàn quốc tế… thi nhau đào núi, ngăn sông, lấp hồ, đắp đập thủy điện… khiến cho hệ thống thủy văn tự nhiên hàng ngàn năm nay bị phá vỡ hoàn toàn. Mẹ Việt Nam kể từ đó và nhiều năm sau này phải luôn gồng mình chịu cảnh hạn hán, lũ lụt thảm khốc như là một tất yếu. Rõ ràng là với một thể chế độc tài cả về cơ cấu lẫn tư tưởng đã sản sinh ra hàng hàng lớp lớp thế hệ cán bộ tham lam vô độ. Do đó việc mở cửa phát triển kinh tế theo cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, đã làm cho đất nước bị phân chia, xé nát ngay từ đầu và sau này cứ chạy theo chắp vá, giải tỏa, đền bù… khiến cho sai lầm chồng chất sai lầm. Bắt đầu từ tư duy thiển cận trong một hệ thống chính nhơ nhớp, hàng ngàn thứ hệ lụy về môi trường và xã hội đã bắt đầu sinh sôi nảy nở, để rồi đến nay sau 45 năm cai trị toàn cõi Việt Nam, đảng Cộng Sản đã biến đất nước với rừng vàng biển bạc, đất đai phì nhiêu thành một tổ quốc cạn kiệt mọi thứ ngoại trừ bất công lan tràn. Đặng Xuân Diệu Vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội  
......

Một lời khuyên nguy hại

Luân Lê| Cuối cùng thì anh ta cũng đã muốn từ bỏ chủ quyền của đất nước về một phần quan trọng - biển đảo. Anh ta có quyền có quan điểm, nhưng việc khuyên nhủ và muốn mọi người phải từ bỏ quyền đối với lãnh thổ lại là một vấn đề nghiêm trọng. Nó chống lại bổn phận bảo vệ tổ quốc được ghi nhận trong Hiến pháp là một nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả nhất của một nhà nước và mỗi công dân. Khởi kiện là một biện pháp hoà bình và văn minh nhất mà loài người đạt được sau những cuộc chinh phạt và xâm lấn lãnh thổ bằng quân sự (chiến tranh) qua các thời kỳ biến động lâu dài của lịch sử. Nhưng anh ta lại đang đi ngược lại sự vận hành này - từ bỏ quyền khởi kiện để tuân theo pháp luật - thứ mà ai và quốc gia nào cũng phải thượng tôn nó trong mọi hoạt động của mình. Anh ta muốn nhân dân phải từ bỏ quyền bảo vệ tổ quốc của mình theo con đường văn minh và ít tổn thất nhất. Nhưng anh ta cũng lại không quên nhắc rằng người dân nên tin tưởng vào Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ các quần đảo của Việt Nam. Công hàm 1958 và những chính sách đối xử bất công với lịch sử sau 1975 với thực thể VNCH chẳng phải là những thứ đang gây bất lợi cho chính Việt Nam hay sao? Chẳng phải hàng dài người phải đến những cây nhả gạo tự động của tư nhân từ thiện trong đợt đại dịch này? Nên nhớ, niềm tin là một sự lựa chọn. Và trong mọi hoàn cảnh, việc hành xử theo luật pháp mới là quan trọng nhất khẳng định sự văn minh và trách nhiệm của bất kỳ một chủ thể nào. Năm 1988 chẳng phải Trung Quốc đánh Gạc Ma mà ta đã chẳng thể làm gì? Chẳng phải Trung Quốc vẫn thường xuyên gây hấn và xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, ngày một trắng trợn, manh động và dày đặc hơn? Nhân dân nào cũng cần một chính quyền mạnh mẽ và hành động theo luật pháp, nó là một phương thức văn minh và hoà bình, ít tổn hại nhất về mọi mặt mà lại có sự chính danh trước toàn thế giới. Anh ta, vẫn chỉ muốn nhân dân cam chịu hành xử vô pháp và cúi đầu chịu đựng những vấn đề vượt quá cả thẩm quyền của một Nhà nước hay nhỏ hơn là một Đảng đang cầm quyền. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất. Trong khi anh ta thì chẳng có hiểu biết gì về luật pháp, làm sao lại dám lên tiếng khuyên nhủ nhân dân về những điều ngu ngốc tai hại tới mức, ngầm nhắc rằng, đừng bận tâm gì tới vấn đề chủ quyền quốc gia - chẳng thể kiện vì không biết kiện ai và kiện cái gì. Bài học đầu tiên để làm người, là bài học về độc lập và nghĩa vụ trước Tổ quốc của mình. Anh ta đã tự tuyên bố tước bỏ cả hai, và còn muốn nhân dân cũng nên thực hiện nó vào thời điểm mà chúng ta phải hành động quyết liệt nhất. “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không làm vương đất Bắc”. Và một chàng trai mười sáu tuổi còn sôi sục lòng yêu nước trước giặc xâm lăng bờ cõi. Đằng này, hậu bối khuyên nhủ người dân trở nên cam chịu và bạc nhược trước tình thế mà buộc phải cứng rắn và cương quyết. Đó là một hành động gây tổn hại đến lòng yêu nước và tinh thần của nhân dân.          
......

45 năm chính sách “triệt người”

Manh Kim Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn: “Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu... Cả chủ tiệm cũng mạng vong”… Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975. Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… đều bị tống đi học tập cải tạo. Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo… Những hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Trong số “đối tượng” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Điều đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “trả giá” cho lòng yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau 1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái nhà. Sinh năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris; bằng Cao học Vạn Vật học, Paris; bằng Thạc sĩ/Agrégé Vạn vật học; bằng Tiến sĩ Khoa học/Vạn vật học, Paris. Giáo sư Hộ từng là giám đốc Hải học viện Nha Trang; Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn; Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục; Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ… Ông cũng là Hội viên Hội Thực vật học Pháp; Hội viện Hội Tảo học Quốc tế; Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế; Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong… Giáo sư Hộ là người vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học. Sau 9 năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ. Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris (thuộc hệ thống Đại học Sorbonne), miệt mài làm việc suốt sáu năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Không như giáo sư Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư Hộ mời về Viện Đại học Cần Thơ thay mình ở ghế viện trưởng, giáo sư Xuân tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Vanderbilt, Mỹ. Giáo sư Xuân cũng là vị Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Một bài báo trên Thanh Niên (28-4-2015) nhắc lại: “Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30-4-1975, những người nào có chức sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam”. Gs. Phạm Hoàng Hộ và Gs. Nguyễn Duy Xuân Không chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại Hà-Nam-Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc. Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: “Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu”… Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo (cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia; bị đi “cải tạo”), giáo sư Vũ Quốc Thông (Khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù)?… Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu chế độ cai trị - luôn dễ bị “kích động” một cách thái quá cái gọi là “tự hào dân tộc” - biết dùng hiền tài, để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa? Trí thức chân chính là những người không chỉ “thể hiện” lòng yêu nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang. Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2-2-2017, tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980: “Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!”… Chưa ai thống kê cho thấy có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo… còn là “thành phần phản động” thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí thức. 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người”, “triệt” cả chính người của họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không có cơ hội. Một trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác sĩ Ngô Thế Vinh. Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán ông ở Hà Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch… Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm./.  
......

Vì Sao Nhiều Người Thích Truyện Kiều?

Pham Nguyen Truong I. Tư duy theo lối mòn   Đôi lời phi lộ: Nhân việc ông Nguyễn Phú Trọng lẩy Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" làm ngứa cái lỗ nhĩ, suốt đêm không ngủ được mới nảy ra ý định viết loạt bài này, nhưng đây không phải là chê cụ Nguyễn Du hay truyện Kiều mà là chê những người thời nay vẫn tư duy theo lối nông dân, duy tình, theo lối mòn, từ thời Nguyễn Du hay trước cả Nguyễn Du.   1. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (ở đây xin không cần ghi chú thêm rằng cả người nói lẫn người nghe đều hiểu "Tâm" là "Thiện tâm" chứ không phải "Tà Tâm" hay "Ác Tâm"; "Tâm= Đức", "có Tâm" = "có Đạo đức". Đây chính là câu làm ngứa cái lỗi nhĩ. Tai sao ngứa? Tại vì đấy là câu cửa miệng, sao mòn nhưng rất sai và rất có hại! Xin hỏi: Bạn đã bao giờ thấy người nào phàn nàn là thiếu tâm chưa? Chắc chắn là chưa. Bạn có thể thấy nhiều người phàn nàn là thiếu sức khỏe, bạn có thể thấy đôi khi có người phàn nàn là thiếu kiến thức hoặc thiếu thông minh, nhưng thiếu tâm thì từ thuở khai thiên lập địa đến nay chưa có người nào phàn nàn hết. Không ai chịu nhận là mình thiếu tâm, cho nên một người nào đó, ví dụ, ông vua, quan trên hay bí thư chi bộ sẽ là người quyết định ai là kẻ có “tâm”. Thế là rất sai và rất có hại. Xin xem xét 2 trường hợp A. Trường văn trận bút, cụ thể là lĩnh vực dịch thuật mà tôi khá thạo. Không có "Tài" làm sao dịch hay? Mà không có "Tâm" làm sao biết thông thạo hai, ba thứ tiếng? Thêm nữa, người ta nói "Tài", 10% là bẩm sinh, 90% là do học tập, cho nên người có "Tài" thực chất đã là có "Tâm". Những lĩnh vực viết lách khác, làm văn, làm thơ, làm báo thì cũng tương tự như thế, người ta chỉ thấy người “tài”, được thể hiện trên trang sách, trang báo, và có thể đánh giá một cách khách quan hoặc tương đối khách quan; và cũng có thể nói “Có tài là có tâm” Nhưng ở các nước phong kiến hay độc tài đảng trị, người nào không nghe quan trên hay bí thi chi bộ liền bị coi là không có "Tâm", và những thể chế lạc hậu đó đã giết chết hoặc chí ít là làm thui chột biết bao nhiêu tài năng. B. Chính trường Đây là lĩnh vực dễ bị lẫn lộn nhất và cũng dễ bị người ta dễ dãi tin rằng “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” hơn cả. Đấy là khi người ta nghĩ tới Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… và họ đặt câu hỏi: “Những người đó có tài không?”, rồi tự trả lời: “Có quá đi chứ!”. “Nhưng vì sao họ giết nhiều người như thế?”. “Vì họ không có tâm”. Ở đây lại phải chia thành hai trường hợp. - Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… là những kẻ cướp được chính quyền. Ta có thể làm gì với kẻ cướp trên đoạn đường vắng khi hắn bảo: “Đưa ví và xe đây hay mất mạng?”. Chắc hắn là phần lớn chúng ta không muốn mất mạng. Cho nên phải tránh bọn cướp. Cướp chính quyền thì cũng thế. May là hiện nay những vụ cướp chính quyền đã là của hiếm và ngày càng hiếm hơn. - Nhân dân Đức lúc đó vì những bức xúc nhất thời mà chủ quan nên đã giao cho một kẻ mị dân đại tài là Hitler nhiều quyền hành quá đến mức sau này ông ta đã dìm nhiều dân tộc láng giềng và cả nhân dân Đức vào biển máu. Nhưng nhân loại đã có biện pháp khắc chế những tên đồ tể như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… Đấy là chế độ dân chủ với chính phủ hạn chế, pháp quyền, tam quyên phân lập, tòa án độc lập, tự do ngôn luận và xã hội dân sự vững mạnh. Chỉ xin lấy một ví dụ rất gần đây về thời gian và rất gần chúng ta về địa lí: Hàn Quốc. Các chính khách cứ việc thoải mái nói rằng mình có tâm, thậm chí rất nhiều tâm; dân chúng nghe lọt lỗ nhĩ thì họ sẽ bầu cho quý vị. Nhưng dân chúng cũng có những cơ chế để phế truất, thậm chí cho quý vị vào tù. Bà tổng thống Hàn Quốc vừa vào tù là ví dụ nhãn tiền. Nước Mĩ thì cũng thế. Như vậy là, chế độ dân chủ, với những đặc điểm của nó như chính phủ hạn chế, pháp quyền, tam quyên phân lập, tòa án độc lập, tự do ngôn luận và xã hội dân sự vững mạnh có thể nhầm lẫn mà bầu một kẻ “không có tâm” lên làm tổng thống, nhưng cũng có những cơ chế để lôi kẻ đó xuống, thậm chí là bỏ tù hắn ta; chẳng cần phải bàn nhiều về “tâm” với “tài”. Thương trường thì cũng thế. Thị trường tự do, cởi mở, không có rào cản, trăm người bán vạn người mua sẽ cho người ta thấy ngay người sàn xuất hay người bán hàng nào có tâm và tài mà không cần phải bàn nhiều về “tâm” với “tài”. Ngứa cái lỗ nhĩ và mất thì giờ vô ích. Ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư của một đảng tự nhận là lãnh đạo cả nước mà không biết những chuyện đó, vẫn suy nghĩ theo lối duy tình, sáo mòn, lạc hậu, trích dẫn lung tung. Thật là đáng nản và thật là bất hạnh cho chúng ta!  
......

Công an Việt Nam ra sức bảo vệ đường lưởi bò

Phạm Minh Vũ| Thời gian gần đây, mặc dù đất nước đang ngập chìm trong dịch bệnh Virus Vũ Hán, thay vì tìm cách giúp dân chống dịch, thì lực lượng công an Việt Nam không quên thể hiện rất rõ bản chất tay sai cho trung cộng. Nếu như Trung cộng lợi dụng tình trạng dịch bệnh để tranh thủ gây hấn ở Biển Đông, thì cộng sản VN lại lợi dụng dịch bệnh để sách nhiễu, gây phiền toái thậm chí bắt giam nhiều người yêu nước chống trung cộng. Mới đây, nhà cầm quyền Hà Nội bắt giam nhiều người yêu nước ôn hoà như Đinh Thị Thu Thuỷ, Trần Đức Thạch. Mời và đe doạ, gây áp lực với nhiều anh chị em lên tiếng trên mạng xã hội. Điểm chung nhiều anh em bị mời đều liên quan tới Khẩu trang có biểu tượng NoU là cắt đường lưỡi bò phi pháp do trung cộng vẽ ra tại Biển Đông. Lực lượng an ninh VN nói rằng không được đeo loại khẩu trang “phản động” này, để hợp thức hoá cái gọi là “phản động” thì công an VN gắn cho nó lên cái mác Việt Tân. Muốn người dân thấy rằng khẩu trang này là Việt Tân làm ra là sai trái, là không được đeo ở VN đâu. Sự thật là do người dân VN quyên góp tiền qua lời kêu gọi của một số người yêu nước, trong đó Cô giáo Yêu nước, yêu môi trường Ngô Thị Thứ là người ra sức vận động nhân dân góp tiền. Mà nếu sử dụng cách gắn cái mác Việt Tân lên khẩu trang ấy thì cộng sản Việt Nam lại thừa nhận Việt Tân là yêu nước đòi chủ quyền, và cũng tự vạch mặt mình là bọn tay sai cho tàu cộng để ra sức bảo vệ đương lười bò rồi. Tôi đang tự hỏi, tự khi nào bảo vệ chủ quyền quốc gia lại bị cho là phi pháp? Và tự khi nào bọn phản quốc lại suốt ngày lên Tivi, báo đảng để rao giảng lòng yêu nước? Thay vì nghĩ cách hiến kế để chống giặc, để lấy lại chủ quyển biển đảo cho VN thì công an VN lại đàn áp dân, đe dọa ai mà mặc áo, bịt khẩu trang có biểu tượng cắt đường bò sẽ bị bỏ tù, sẽ bị đánh đập, sẽ bị đuổi việc. Hành động ra sức bảo vệ đường lưỡi bò của lực lượng công an bằng cách sử dụng vũ lực để trấn áp dân trong thời gian qua là bằng chứng không thể chối cãi, để thêm một lần nữa khẳng định: chính chúng nó là bọn phản quốc, chính chúng nó là tay sai, không ai ngoài bọn chúng. Không biết các ông là người Việt hay người Tàu nên tôi xin long trọng nhắc lại cho các ông nhớ, Người Việt Nam luôn có lòng yêu nước nồng nàn, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả thậm chí bằng sinh mạng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bằng chứng là hàng triệu người Việt nằm xuống vì yêu nước cho cả 2 miền. Xa hơn còn văng vẳng tiếng trống Mê Linh, trên Sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa còn loang máu quân xâm lược. Lòng yêu nước của Người Việt Nam chúng tôi không phải là cân đường hộp sữa mà cân đo đong đếm bằng nhà tù hay là vài tờ giấy mời là doạ được họ. Giấy mời đó chỉ doạ được bọn phản quốc như các ông mà thôi. Đừng ngạo mạn khi còn quyền lực trên tay, dừng tay lại đi. Là con người phải biết suy nghĩ, hãy nghĩ về tương lai Nhân dân sẽ gửi lại giấy mời đó tới các ông với nội dung gì chắc các ông đã biết. Hãy nhớ rằng, tội gì Nhân dân cũng có thể tha thứ được, tội phản quốc thì còn mãi với thiên thu!
......

Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh: Câu chuyện người xứ Nghệ

‘…Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh cả hai là người con xứ Nghệ nhưng họ đã lựa chọn hai con đường dấn thân rất khác nhau. Một bên là suy nghĩ, văn hóa dân tộc, văn hóa từ cư dân làng, tư tưởng nhân nghĩa, và đồng thuận xã hội để góp phần vào việc giúp dân…’ Phạm Đình Bá - baotiengdan.com| Nghệ Tĩnh là vùng đất định cư của tộc Việt với các di chỉ khảo cổ trên bốn ngàn năm (1). Cứ địa nầy đóng vai trò quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước. Lấy ví dụ, đầu thế kỷ 15, vua Lê Lợi dưỡng quân ở xứ nầy để kháng chiến chống quân Minh xâm lăng và giành lại độc lập cho nước Đại Việt (2). Xứ nầy đầy đủ địa hình núi cao, trung du, đồng bằng và ven biển (3, 4). Dân miền núi sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề nông. Dân trung du thường trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, chăn nuôi, làm sản phẩm và dệt vải. Dân đồng bằng làm nông, do nhiều núi đồi bao quanh nên đất ruộng không nhiều. Nghề biển đã ăn sâu từ bao đời và cứ thế ra khơi bám biển. Người xứ Nghệ có tính hiếu học, giàu lòng yêu quê hương, kiên cường và dũng cảm chống ngoại xâm (3, 4). Nhà hoạt động xã hội Lê Anh Hùng sinh ra và lớn lên ở đây. Một người điềm đạm, mực thước và hiền lành với bạn bè nhưng cứng rắn với dối trá, anh suy nghĩ và làm văn theo văn hóa Nghệ Tĩnh (5). Cứ mỗi lần cầm bút là anh nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 39 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, và thường sống phấp phỏng khi còn tự do để viết (6). Tuy thế, anh nói, “Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận trận chiến này.” Ông Hồ Chí Minh cũng là người xứ Nghệ (7). Trong quá trình hoạt động lâu dài để sáng lập đảng Cộng sản, giành độc lập cho đất nước rồi tạo dựng quyền lực cho đảng, ông từng vào tù ra khám nhiều lần. Ông bị tù ở nhiều nơi và nhiều năm, Hồng Kông, Liên Xô và Trung Quốc (7). Trong những năm lao tù, ông không bị gán ghép là ông bị bệnh tâm thần. Ông cũng không bị buộc phải uống thuốc dành cho người điên để làm suy giảm tinh thần đấu tranh của ông cho đảng. Chính phủ mà ông tạo dựng, theo ý của ông, là một chính phủ cho dân, vì dân và dân ở đây theo ý ông là dân nghèo, dân đen. Lê Anh Hùng học trung học ở Nghệ Tĩnh và tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Anh rời đại học để bước vào một xã hội với nhiều vấn đề, bao gồm thảm họa môi trường, tham nhũng, dân oan, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm và vi phạm nhân quyền (6). Phản ứng của anh trước bất công cũng không khác gì phản ứng của những người đi trước anh. Nhận đình về giá trị và đời sống người dân đưa đẩy anh vào con đường đối kháng với bất công và bạo lực qua ngòi bút mạch lạc với tầm phân tích có chiều sâu (6). Cảng Sơn Dương, Vũng Áng Hà Tĩnh là thương cảng với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam và của Lào (8). Thảm họa môi trường Formosa đề cập đến hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 2016 và sau đó lan ra vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, và Quảng Nam-Đà Nẵng (9). Trong gần 3 tháng, chính phủ che đậy thảm họa môi trường nầy, dù rằng đến cuối tháng 4, hàng tấn cá biển chết dạt vào bờ ở các tỉnh Hà Tĩnh (>10 tấn), Quảng Trị (>30 tấn), và Quảng Bình (>100 tấn). Ngày 30 tháng 6 năm 2016, gần ba tháng sau, chính phủ tổ chức họp báo, công bố nguyên nhân cá chết là do chất thải gây ô nhiễm từ Công ty thép Formosa khi chính phủ cho phép họ dùng một đường ống ngầm để mỗi ngày xả ra biển khoảng 12.000 m3 chất thải. Trong hơn 1 năm từ khi có thảm họa Formosa, hàng loạt người dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và nhiều thành phố trong cả nước đã xuống đường trong nhiều đợt để đòi hỏi “Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch” (9). Các bloggers, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ sáng tác về đời sống cư dân các tỉnh bị liên hệ, cũng như lo âu của dân ở nhiều nơi khác. Mặc dù chính phủ đàn áp các cuộc xuống đường và bắt giam một số người lên tiếng về thảm họa môi trường, blogger Lê Anh Hùng và nhiều người khác vẫn lên tiếng liên tục và mạnh mẽ để bảo vệ môi trường (10). Thực tế phổ biến trong cách lãnh đạo và cách làm việc của đảng và chính phủ của ông Hồ là sự hiện diện thường xuyên của tham nhũng, dối trá và gian lận (11). Nhân viên nhà nước lừa dối dân trong khi cung cấp dịch vụ mà trên luật pháp, dân được quyền nhận các dịch vụ ấy. Đồng nghiệp lừa dối nhau. Các cơ quan cấp dưới gian lận trong nhiệm vụ và ăn chận các quỹ được phân bổ. Tham nhũng đi vào trung tâm của chế độ và có quy mô lớn. Tổ chức Toàn vẹn tài chính toàn cầu ước tính thất thoát ra nước ngoài mỗi năm trung bình khoảng 10,6 tỉ đô la Mỹ liên tục từ 2006 đến 2015, và rất có thể vẫn tiếp tục cho đến nay, 2020 (12). Bất chấp đàn áp từ đảng qua bắt bớ và giam cầm, các bloggers tiếp tục tố cáo nguy cơ làm mất đi cơ hội đầu tư vào các dự án cần thiết cho đất nước khi cán bộ cấp cao tẩu tán tiền hối lộ và gia đình ra nước ngoài (13). Lê Anh Hùng là tiên phong trong mạng lưới bloggers chống tham nhũng và gởi đơn tố cáo các lãnh đạo cao cấp tham nhũng đến Quốc Hội và chính phủ bền bỉ và kiên trì, tổng cọng 136 lần (14). Quan điểm trong chính phủ về sở hữu tài sản là “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đất đai thuộc sở hữu bao đời của dân, do lao động nhiều đời của họ, họ có quyền sỡ hữu chính đáng (15). Nhưng quan điểm trong dân gian là có chỗ nào có tài sản thuộc sỡ hữu nhà nước mà không có bọn ăn cắp có thẻ đảng. Xã hội dần dần không có ai đúng ai sai, chỉ có kẻ mạnh người yếu. Kết quả là hơn một triệu dân oan bị cưỡng chế đất đai nhà cửa của họ bởi cán bộ đảng và nhà nước (15). Các địa danh nổi tiếng về cán bộ cưỡng chế tài sản của dân bao gồm Dương Nội, Thủ Thiêm, Cồn Dầu, Lộc Hưng và Đồng Tâm, cũng như hàng ngàn nơi lớn nhỏ khác (16). Ở Đồng Tâm, thảo luận giữa người dân và chính quyền tiếp tục duy trì từ 2017 đến 2019, nhưng bất ngờ lúc 3 giờ rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, chính quyền tấn công vào làng Đồng Tâm (17). Chính quyền bắt vài chục người và bắn chết cụ Lê Đình Kình, 84 tuổi, cựu Bí thư Đảng uỷ xã Đồng Tâm, người lãnh đạo Tổ Đồng Thuận thay mặt bà con khiếu nại về quyền sử dụng khu đất đang tranh chấp. Chính quyền sau đó cản trở những người hoạt động dân sự độc lập từ Hà Nội muốn tiếp cận với Đồng Tâm để minh bạch thông tin từ Đồng Tâm. Lê Anh Hùng là người tích cực trong việc giúp tiếng nói cho quyền lợi của dân oan (18). Lịch sử dân tộc phần lớn là về chống xâm lăng từ phương Bắc (19). Từ thế kỷ II trước Công Nguyên cho đến đầu thế kỷ X, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ và Ngô Quyền liên tục đấu tranh giành độc lập trong thời kỳ Bắc thuộc.  Thế kỷ X đến XV chứng kiến những thành công trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng của Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, các vua và tướng lĩnh nhà Trần, và Lê Lợi. Trong lịch sử chống ngoại xâm, cư dân làng xã là thành trì bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc, và ngoài ra, tư tưởng nhân nghĩa (Lê Lợi) và đồng thuận xã hội (Hội nghị Diên Hồng) góp phần vào việc giữ nước, an dân. Ngày nay, chính phủ chỉ là hư cấu của đảng. Đảng đặt chủ nghĩa Mác-Lê lên trên các giá trị văn hóa dân tộc và dùng đấu tranh gia cấp để phân rã xã hội nhằm bảo tồn quyền lực (20). Đảng không minh bạch về mức phụ thuộc của đảng vào đảng Cộng Sản Trung Quốc. Trong khi đó, đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình có những yêu sách chủ quyền ở Biển Đông rất lớn, với cái gọi là “đường chín đoạn” bao gồm phần lớn vùng biển nầy (21). Ngược lại, chính phủ Việt Nam thì hầu như là im lặng và không có biểu hiện hay biện pháp nào để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Cộng. Các cuộc biểu tình ôn hòa phản đối Trung Quốc xâm lấn lãnh hải đất nước năm 2011 và 2014 tại Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, Thanh Hóa, đã thu hút hàng ngàn người tham gia (22). Năm 2018, khi những lãnh đạo trong đảng của ông Hồ có kế hoạch mở ba đặc khu kinh tế tại phía bắc, trung tâm và phía nam, nơi các nhà đầu tư Trung Quốc được bảo trợ từ chính phủ với tiền thuế của dân và họ được phép thuê đất tới 99 năm, đa số dân coi đây là hình thức bán đứng quyền lợi quốc gia. Các cuộc biểu tình lớn chống luật đặc khu đã diễn ra ở nhiều thành phố trong năm 2018. Lê Anh Hùng xuống đường ở Hà Nội, phỏng vấn người tham gia biểu tình, thâu thập tin tức và tường thuật các sự vụ nầy (23). Trong gần 20 năm, những việc làm của Lê Anh Hùng phản ánh quan điểm những người quan tâm đến thảm họa môi trường, tham nhũng, dân oan, toàn vẹn lãnh thổ và sự bất lực cũng như tham ô của đảng và thể chế mà Hồ Chí Minh tạo dựng. Việc làm của Lê Anh Hùng cũng là điển hình cho cuộc xung đột giữa các thế hệ trẻ và những người đứng đầu cấu trúc xã hội từ Hồ Chí Minh. Xung đột lớn nhất giữa Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh là trong quan điểm giặc “nội xâm”. Hồ Chí Minh định nghĩa giặc nội xâm là tham ô, lãng phí và quan liêu, và nếu không giải quyết loại giặc nội xâm này thì không thể thắng được giặc ngoại xâm (24). Định nghĩa hẹp của ông Hồ thiếu mất một thành tố quan trọng, theo Lê Anh Hùng và những người yêu nước. Chính nhất, giặc nội xâm phải bao gồm những người nối giáo cho giặc phương Bắc. Theo định nghĩa nầy và trong bối cảnh đất nước hiện nay, việc đảng và chính phủ từ ông Hồ không minh bạch về mức phụ thuộc của đảng vào đảng Cộng Sản Trung Quốc là hành động có thể coi là hành động nội gián đầu tiên cho giặc phương Bắc (14). Theo suy nghĩ của Lê Anh Hùng và những người yêu nước, đảng của Hồ Chí Minh tạo điều kiện và hỗ trợ trong nỗ lực Hán hóa đất nước (14). Lê Anh Hùng đau lòng trước đất nước tràn ngập hàng hoá Trung Quốc; nông nghiệp phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc từ giống lúa, thuốc trừ sâu cho đến phân bón; an ninh năng lượng đặt vào tay Trung Quốc với hầu hết các nhà máy nhiệt điện, thuỷ điện hoặc do Trung Quốc làm tổng thầu hoặc mua thiết bị Trung Quốc, vốn lạc hậu và hư hỏng; ngành công nghiệp xây dựng với 24 nhà máy xi măng thì có đến 23 nhà máy do Trung Quốc làm tổng thầu; ngành khai thác khoáng sản mà phần lớn các mỏ khoáng sản đều do người Trung Quốc nắm; tuyến biên giới được mở toang bằng hệ thống xa lộ cao tốc theo các hướng tấn công của đội quân xâm lược đến từ phương bắc tháng 2/1979, mở đường cho cuộc xâm lăng kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Điểm khác biệt nhất giữa Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh có thể định hình bởi một bên là lòng yêu nước tiềm tàng theo đúng văn hóa Nghệ Tĩnh và bên kia, là suy nghĩ vọng ngoại với chủ định áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai bằng bạo lực lên toàn dân tộc với trọng tâm duy nhất là duy trì quyền lực của đảng để lãnh đạo có thể vơ vét tài sản của người dân để tẩu tán tài sản và gia đình chúng ra nước ngoài. Trước bạo lực và đàn áp (25), Lê Anh Hùng dựa vào sức mạnh nội tâm và truyền thống xứ Nghệ để cảm tháng rằng “Họ muốn bịt miệng tôi nhưng thành bại lại do ý Trời; điều đó nằm ngoài ý chí của họ.” Lê Anh Hùng bị bắt tại vào ngày 5 tháng 7 năm 2018 và bị giam trong 20 tháng mà không xét xử (6). Tổ chức Ân xá Quốc tế lên án vụ bắt giữ và yêu cầu chính phủ Hà Nội phải trả tự do ngay lập tức (26). Kể từ tháng 11 năm 2019, anh đã bị buộc phải uống thuốc dành cho người bị bệnh tâm thần tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương số 1, Hà Nội. Mẹ anh nói rằng anh thường xuyên bị nhức đầu, đờ đẫn và không ngủ được (27). Nhiều làn sóng phản đối trên trang mạng trong và ngoài nước đã không ngăn được sự lạm dụng thể xác và tinh thần của anh (27, 28). Mẹ anh nói với Đài Á Châu Tự Do (6) – An ninh buộc con trai tôi phải uống thuốc, nhưng cháu đã cố từ chối. Nếu họ nghĩ rằng con trai tôi có tội thì hãy truy tố nó, nếu không phải trả con tôi cho tôi! Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh cả hai là người con xứ Nghệ nhưng họ đã lựa chọn hai con đường dấn thân rất khác nhau. Một bên là suy nghĩ, văn hóa dân tộc, văn hóa từ cư dân làng, tư tưởng nhân nghĩa, và đồng thuận xã hội để góp phần vào việc giúp dân. Môt bên là tha phương cầu đạo, đem nghịch lý ngoại lai mà áp đặt lên toàn dân với vũ lực và cường bạo. Lịch sử sẽ cho thấy lựa chọn nào là đúng và lựa chọn nào là sai. Nhưng cái giá cho đại đa số người dân, nhất là cái giá về lựa chọn của Hồ Chí Minh cho dân nghèo và dân oan là quá khắc nghiệt. Việc cấp thiết cho những người quan tâm đến các lựa chọn nầy là đòi hỏi an toàn chữa trị cho Lê Anh Hùng. Phạm Đình Bá, viết theo chỉ dẫn của những người đòi hỏi an toàn chữa trị cho Lê Anh Hùng Nguyễn Chí Trung – nhà hoạt động, đảng Dân Xã – Sài Gòn. Nhà giáo Đặng Đăng Phước – trung cấp sư phạm mầm non Đăk Lăk. Nguyễn Tấn Quan – nhà báo tự do – Sài Gòn. Ngô Thị Hồng Lâm – nhà nghiên cứu lịch sử – Vũng Tàu. Nguyễn Xuân Lam – làm việc tự do – vương quốc Anh. Nguyễn Thị Hiền – giáo viên – Hà Nội. Vũ Văn Tuyển – kỹ sư – Sài Gòn. Võ Lê Diễm Thuý – giáo viên – Maryland, Hoa Kỳ. Nguyễn Vũ Bình – nhà báo – Hà Nội. Nguyễn Đức Lão – tu sĩ tôn giáo – Bảo Lộc, Lâm Đồng. David Tuan – giáo viên – Raleigh NC, Calirona, Hoa Kỳ. Nguyễn Tường An – Lâm Đồng, Việt Nam. Việt Hưng – lái xe – Đồng Nai, Việt Nam. Nguyễn Đan Quế – cựu bác sĩ, giảng viên trường đại học y dược – Sài Gòn. Nguyễn Thúy Hạnh – nội trợ – Sài Gòn. Nguyễn Lê Tuấn, Kiến trúc sư, Lausanne, Thuỵ Sĩ Lê Đoàn Thể – lao động tự do – Hà Nội. Nguyễn thị Phụng – nội trợ – Sài Gòn. Vũ Thư Hiên – nhà văn – Pháp. Phạm Thành (Bà Đầm Xòe) – nhà văn – Hà Nội Trần Nghi Hoàng, nhà thơ, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ Khánh Phương, nhà thơ, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ Hà Huy Toàn, nhà giáo, Hà Nội. Nguyễn Tự Quyết – kỹ sư điện tử – Hoa Kỳ. Hồng Phúc – ký giả – Nhà báo, Ký giả truyền thông tại Wichita, Kansas, Hoa Kỳ. Nguyễn Thy – kinh doanh tự do – Sài Gòn. Bùi Văn Sơn – nhà hàng – Cộng hòa Áo. Bùi Đình Sệnh – cựu sinh viên Đại Học Bách Khoa Hà Nội – Làm vườn – Hải Phòng. Trần Hải – giáo viên – Bình Thuận. Đặng Thị Mười – giáo viên về hưu – Hà Tĩnh. Nguyễn Tường Thụy – nhà báo – Hà Nội. Huỳnh Ngọc Tuấn – nhà văn – Đăk Lăk. Đàm Ngọc Tuyên – nhà báo – Quảng Ngãi. Trương Quang Khánh – kỹ sư điện – Sài Gòn. Phạm Viêm Phương – chuyên viên dịch thuật – Sài Gòn. Nguyễn Thị Hà – Nghề tự do – Từ Sơn – Bắc Ninh. Tăng Thị Thu Thảo – Bà nội trợ – An Giang. Nguyễn Chiến – lao động tự do – Sài Gòn. Nguyễn Anh Duy – Gia Lai – Việt Nam. Phạm Lan – Australia. Đỗ Thành Nhân – Tư Vấn Đầu Tư – Quảng Ngãi. Nguyễn Kim Chi – Hà Nội. Huỳnh Thị Kim Liên – nội trợ – Houston, Hoa Kỳ Hoàng Hùng – Kỹ sư – Sài Gòn. Nguyễn Thanh Nguyện, Vũng Tàu. Trương Tiến Minh – công nhân – Cộng hòa liên bang Đức. Nguyễn thanh Vinh – Kế toán – Sài Gòn Trần Bảo Quốc – – Essen, Germany Thanh Nguyen – Về hưu – Santa Anna, USA Nguyễn Quang Vinh – Sỹ quan quân đội nghỉ hưu – Đội Cấn, Hà Nội Hồ Quang Huy – Ks đường sắt – Khánh Hòa, Việt Nam Ngô Tuấn Quang – Hành nghề tự do – Thái Nguyên Truong Tien Minh – Công nhân – Schwabach Cong Hao Lien Bang Duc Huỳnh Thi Thu Vân – nội trợ – Sài Gòn. Xuân Chiến – Lao động tự do – Thanh Hóa, Việt Nam. Tôn Phi – Liên đoàn ký giả Á châu – Sài Gòn. Lê Mạnh Hà – Tiếng Dân Tivi Tuyên Quang – Việt Nam. Nguồn: 1. Võ Văn Tuyển. Về hình thức mai táng của cư dân thời tiền – sơ sử trên đất Nghệ An. Văn Hóa Nghệ An. http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/32-dat-nuoc-xu-nghe/701-ve-hinh-thuc-mai-tang-cua-cu-dan-thoi-tien-so-su-tren-dat-nghe-an 2. Hoàng Nguyên. Lễ hội Bươn Xao. Văn Hóa Nghệ An. http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/26-tin-tuc/13378-le-hoi-buon-xao 3. Nghệ An. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ An 4. Hà Tĩnh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hà Tĩnh 5. Thư của nhà nghiên cứu sức khỏe Bùi Đình Sệnh về trường hợp ký giả Lê Anh Hùng. https://nghiepdoanbaochi.org/2020/03/25/thu-cua-nha-nghien-cuu-suc-khoe-bui-dinh-senh-ve-truong-hop-ky-gia-le-anh-hung/ 6. Nguyễn Vũ Bình. Hãy cứu giúp người tù bị cưỡng bức điều trị tâm thần: Lê Anh Hùng. https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/save-le-anh-hung-11092019092411.html 7. Hồ Chí Minh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hồ Chí Minh 8. Cảng Sơn Dương Vũng Án Hà Tĩnh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Cảng_Sơn_Dương_-_Vũng_Áng 9. Cá chết hàng loạt ở Việt Nam 2016.  https://vi.wikipedia.org/wiki/ Cá_chết_hàng_loạt_ở_Việt_Nam_năm_2016 10. Lê Anh Hùng. Vì sao Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn ‘quyết liệt’ ủng hộ Formosa Hà Tĩnh? https://www.voatiengviet.com/a/vi-sao-thu-tuong-nguyen-tan-dung-van-quyet-liet-ung-ho-formosa-ha-tinh/2972679.html 11. Độc tài độc đảng và tham nhũng. https://nghiepdoansinhvien.org/2019/03/11/doc-tai-doc-dang-va-tham-nhung/ 12. Vietnam Tops List for World’s Illicit Financial Flows. https://www.ozy.com/around-the-world/vietnam-tops-list-for-worlds-illicit-financial-flows/95871/ 13. Ưu tiên về tương lai đất nước có đúng không? https://nghiepdoanbaochi.org/2019/10/11/bai-nghien-cuu-uu-tien-ve-tuong-lai-dat-nuoc-co-dung-khong/ 14. Lê Anh Hùng. Thư ngỏ gửi ĐBQH Dương Trung Quốc về vụ tố cáo Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải. https://www.voatiengviet.com/a/thu-ngo-gui-dbqh-duong-trung-quoc-ve-vu-to-cao-bi-thu-thanh-uy-ha-noi-hoang-trung-hai/3253288.html 15. Bùi Quang Vơm. Đối thoại với Tổng Trọng về cuộc chiến chống tham nhũng. http://www.viet-studies.net/kinhte/DoiThoaiVeThamNhung_ABS.htm 16. Dân oan và sự sợ hãi của chế độ. https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/ReviewOnlineDomesticPress/mistreated-citizens-and-the-regime-s-fearness-nn-03042016114346.html 17. Tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tranh_chấp_đất_đai_tại_Đồng_Tâm 18. Tường thuật phiên tòa xét xử sơ thẩm Dân oan Cấn Thị Thêu. http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2016/09/20/dien-bien-phien-toa-xet-xu-so-tham-dan-oan-can-thi-theu/ 19. Bắc thuộc. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/bac-thuoc-lan-thu-nhat 20. Giặc nội xâm đang tàn phá đất nước! https://nghiepdoansinhvien.org/2019/12/30/giac-noi-xam-dang-tan-pha-dat-nuoc/ 21. Đường Lưỡi Bò từ đâu mà ra? https://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/07/160718_china_taiwan_nine_dash_line 22. Biểu tình phản đối Trung Quốc tại Việt Nam 2014. https://vi.wikipedia.org/wiki/Biểu_tình_phản_đối_Trung_Quốc_tại_Việt_Nam_2014 23. Hà Nội trả tự do cho blogger Lê Anh Hùng sau 10 ngày giam giữ trong trại tâm thần. http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20130205-ha-noi-tra-tu-do-cho-blogger-le-anh-hung-sau-10-ngay-giam-giu-trong-trai-tam-than 24. Hồ Chí Minh. Quan điểm về “chống giặc nội xâm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. http://tinhuyquangtri.vn/ quan-diem-ve-“chong-giac-noi-xam”-cua-chu-tich-ho-chi-minh 25. Lê Anh Hùng. Nỗi sợ của con người trước ác quỷ. https://www.voatiengviet.com/a/noi-so-cua-con-nguoi-truoc-ac-quy/3235198.html 26. Viet Nam: Blogger arrested for criticizing government must be freed. https://www.amnesty.org/en/latest/news/2018/07/viet-nam-blogger-arrested-for-criticizing-government-must-be-freed/ 27. Anh Khoa. Blogger Lê Anh Hùng bị cưỡng bức tinh thần. https://vietnamthoibao.org/vntb-blogger-le-anh-hung-bi-cuong-buc-tinh-than/ 28. Reporters Without Borders. Vietnam: Second trial brings blogger’s total prison sentence to nine years. https://rsf.org/en/news/vietnam-second-trial-brings-bloggers-total-prison-sentence-nine-years  
......

Pages