2014

Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy

Chẳng lẽ đốn đời đến mức phải nói lời cảm ơn với cái giàn khoan HD 981 hả trời đất!? Tôi cảm thấy xấu hổ trong lòng về ý nghĩ này, và quả thực  trong bụng có lúc tôi đã nghĩ như vậy!  Nguyễn Trung Sự thật là không ít các bạn đồng niên của tôi cũng có cách nghĩ như thế trước một thực tế đau lòng: Hàng chục năm nay, chí ít là từ khi anh Trần Quang Cơ trong cuốn Hồi ức và suy nghĩ  (2001) của mình đã giấy trắng mực đen cảnh báo rành rành trước cả nước về mối họa Thành Đô. Nhưng tất cả cứ như nước đổ đầu vịt! Các lời cảnh báo khác qua mấy khóa đại hội đảng cũng thế… Thậm chí mãi cho đến ngày 02-05-2014 trở về trước, nghĩa là cho đến khi cái giàn khoan HD 981 cắm sâu vào vùng biển của ta, hễ cứ ai mở miệng phê phán Trung Quốc ăn hiếp nước ta nhiều chuyện, hay biểu tình lên tiếng đòi “NO U” (nói Không với đường lưỡi bò!)..,  là lập tức bị gán cho cái tội phá đại cục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để lật đổ chế độ!.. Đã có những bắt bớ và tù đầy nhằm đàn áp những chuyện này. Thậm chí ngay cái tên gọi Trung Quốc trong không biết bao nhiêu hành động phải gọi là tội ác ức hiếp nước ta dù là trên bộ hay dưới biển, phía ta cũng phải lờ đi, ngậm bồ hòn làm ngọt, hoặc vì vì lý do nào đấy nếu buộc phải nhắc đến thì cũng phải gọi trẹo đi là tầu lạ, kẻ lạ… Nhưng đúng là từ sau cái ngày 02-05-2014 câu chuyện đã bắt đầu khác. Vâng, mới chỉ bắt đầu khác thôi. Bây giờ mà có ai cả gan công khai bảo vệ 4 tốt và 16 chữ, chắc chắn sẽ được cả nước ném đá khỏi phải đem đi chôn luôn!  Dù sao, toàn bộ câu chuyện nói trên mới chỉ là chuyện nổ bùng của tình cảm – một tình cảm bị quyền lực và tủi nhục lâu nay đè nén đến ê chề, nhìn đất nước hàng ngày oằn lên dưới sự lũng đoạn mọi mặt của Trung Quốc mà không làm gì được! Nói đúng hơn là: Không được làm gì! Bây giờ xin cùng nhau giữ cái đầu lạnh một chút, giữ trái tim ấm một chút với đất nước, để cả nước cùng nhau nhìn nhận lại tất cả. Khi được tin báo về nước là hội nghị Thành Đô đã kết thúc, bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thốt lên: Một thời Bắc thuộc lần thứ hai bắt đầu!  Câu chuyện giàn khoan HD 981 hôm nay bắt đầu từ đấy. Thỏa thuận Thành Đô 1990 ra đời trong hoàn cảnh (1) Việt Nam đã thấm đòn cuộc chiến tranh 17-02-1979 của Trung Quốc (chỉ thực sự kết thúc 1989) và chiến tranh Campuchia (do Trung Quốc cài dựng lên để lừa ta vào), (2) Trung Quốc vừa mới đánh chiếm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa năm 1988, và (3) hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa (các nước Liên Xô – Đông Âu cũ) bắt đầu sụp đổ từ 1989. Nỗi lo sự sụp đổ này có thể xóa mất chế độ chính trị ở nước ta là một trong những tác nhân quyết định dẫn tới bước đi nói trên của lãnh đạo phía Việt Nam hồi ấy, chưa kể đến những nguyên nhân khác cá nhân.  Tìm kiếm liên minh ý thức hệ ở Thành Đô trong bối cảnh như vậy chính là tìm kiếm liên minh với kẻ vừa mới thẳng tay làm thịt mình mấy trận liền. (Xin đừng quên: Trung Quốc lúc ấy còn kênh kiệu: Nếu Việt Nam có chịu đến Thành Đô thì cũng chỉ có liên minh thôi, chứ không thể có đồng minh, chỉ là đồng chí chứ không thể là đồng minh!..) Không thể nói lãnh đạo phía Việt Nam thời ấy không đếm xỉa đến thực trạng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc như đã nêu trong Sách Trắng 1979[1]. Nhưng quyết định Thành Đô là sự lựa chọn của lãnh đạo phía Việt Nam vào thời điểm và hoàn cảnh lịch sử của thế giới cũng như của chính nước ta lúc bấy giờ, với niềm tin sẽ phục hồi lại được quan hệ hữu nghị giữa hai nước, sẽ có hòa bình, và tạo ra được liên minh ý thức hệ, để từ đó có thể bảo vệ chế độ và giữ nước. Những điều cốt lõi này tạo nên quyết định lựa chọn liên mình ý thức hệ.  Hơn nữa, hệ thống thế giới XHCN không còn nữa, Việt Nam phải đi với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội – rất nhiều lần lãnh đạo đã giảng giải như vậy trong nội bộ và trong nhân dân. Chặng đường một phần tư thế kỷ từ Thành Đô đến giàn khoan HD 981, là  chặng đường Việt Nam nhận được một nền hòa bình phải trả giá đắt bằng nhiều nhân nhượng hoặc thua thiệt đau lòng – trong những vấn đề biên giới trên bộ và trên biển, trong quan hệ kinh tế, trong nhiều vấn đề chính trị khác, và lòng tự trọng dân tộc bị tổn thương nặng nề…  Trong những năm gần đây đã có nhiều học giả và cơ quan nghiên cứu trong nước trong nước đưa ra nhiều dữ liệu, sự kiện và những lý lẽ xác đáng cho thấy kinh tế nước ta lệ thuộc nghiêm trọng và trên thực tế gần như trở thành một nền kinh tế phụ trợ cho Trung Quốc: Cung cấp như vơ vét mọi tài nguyên khoáng sản ta có cho Trung Quốc; xuất siêu của ta sang thị trường toàn thế giới không đủ bù nhập siêu của ta từ Trung Quốc; Việt Nam trở thành một thị trường lý tưởng tiêu thụ hàng hóa rẻ, độc hại và chất lượng xấu của Trung Quốc; trong hơn một thập kỷ nay khoảng 2/3 công trình kinh tế lớn xây mới trong cả nước rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc với chất lượng công nghệ thấp, đắt, ô nhiễm môi trường nặng nề, bóp chết khả năng nội địa hóa của nước ta…   Thực tế một phần tư thế kỷ vừa qua cũng cho thấy nội tình đất nước bị quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn và chia rẽ ngày càng trầm trọng, con đường phát triển của đất nước bị kìm hãm, nhiều cơ hội phát triển của đất nước bị cướp mất, chịu nhẫn nhục ngậm bồ hòn làm ngọt nhiều thứ... Liên minh ý thức hệ dù mang tên 4 tốt và 16 chữ  không thể ngăn cản biết bao nhiêu việc làm sai trái năm này qua năm khác của Trung Quốc trên Biển Đông. Về toàn cục, nước ta chỉ gặt hái được một thực tế: ta càng nhân nhượng Trung Quốc càng lấn tới. Và hôm nay nước ta lâm vào tình trạng bị cô lập trước nguy cơ bị lấn chiếm tiếp, bị bao vây và xâm lược từ phía Trung Quốc chưa từng có kể từ 30-04-1975.  Nỗi đau còn nhức nhối hơn ở chỗ Trung Quốc đã làm được như vậy đối với nước ta giữa lúc nước ta đã hội nhập toàn diện vào quá trình toàn cầu hóa, sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường quan trọng trên thế giới, hầu hết các quốc gia quan trọng trên thế giới là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện của nước ta. Nói cách khác: Lợi dụng cái liên minh ý thức hệ này, quyền lực mềm Trung Quốc đã thành công trong việc vô hiệu hóa đáng kể những nỗ lực hội nhập quốc tế của Việt Nam để vươn ra bên ngoài, đã giam hãm thành công Việt Nam trong vòng kiềm tỏa của Trung Quốc mà đến hôm nay Việt Nam vẫn chưa có cách gì thoát ra.  Còn một hiện tượng nữa cần lưu ý. Về mặt nào đó, phẩm chất chính trị của chế độ ở thời điểm Việt Nam bước vào Hội nghị Thành Đô so với hôm nay có sự khác biệt nghiêm trọng: Hôm nay là sự tha hóa đến mức nguy hiểm, mà chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa nhận là đang đe dọa sự tồn vong của đảng và của chế độ. Ngoài quá trình tha hóa tự thân của chế độ toàn trị một đảng, phải nói quyền lực mềm Trung Quốc chủ yếu bằng sử dụng những thủ đoạn tham nhũng và hủ hóa đã góp phần quan trọng vào làm sâu sắc thêm quá trình tha hóa này của chế độ chính trị ở nước ta. Mười ngày đầu (02-05 đến 11-05-2014) sau khi xảy ra sự kiện giàn khoan HD 981 là mười ngày câm lặng, bất động không biết nên phản ứng như thế nào, mọi nỗ lực “đường dây nóng” đều vô ích hoặc bị cự tuyệt, càng lúng túng đến mức như nhắm mắt làm ngơ giữa lúc đất nước đang có bao nhiêu hội họp quan trọng… Đó là mười ngày phơi bầy ra sự ươn hèn của hệ thống chính trị, làm tổn thương nghiêm trọng quốc thể.  Đến đây có thể rút ra kết luận: Tạo ra liên minh ý thức hệ ở Thành Đô là để mong có hòa bình, bảo vệ được chế độ và giữ được nước, nhưng hôm nay gặt hái được: kinh tế lệ thuộc, độc lập chủ quyền quốc gia tiếp tục bị uy hiếp, chế độ chính trị bị Trung Quốc lũng đoạn sâu thêm, đảng cũng bị Trung Quốc trói buộc cả về tư duy và về hành động vào liên minh này (nên đọc thêm “4 không được” do Trung Quốc đưa ra trước khi Dương Khiết Trì đến Hà Nội 16-06-2014), con đường phát triển của đất nước bị chặn đứng.  Liên minh như thế đúng là mất cả chì lẫn chài.  Toàn bộ những diễn biến của quan hệ Việt – Trung tác động vào Việt Nam trong một phần tư thế kỷ vừa qua thừa nhận: Việt Nam về nhiều mặt và trên thực tế trở thành một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc[2]. *           Trên đây không chỉ là câu chuyện của thất bại tìm kiếm liên minh ý thức hệ. Nó còn là câu chuyện sụp đổ ý thức hệ của chính bản thân ĐCSVN trên 2 phương diện:  (1) Trung Quốc có một ý thức hệ riêng của mình và tùy từng thời kỳ mang những tên gọi khác nhau. Hiện tại tên gọi đó là CNXH đặc sắc Trung Quốc và Giấc mộng Trung Hoa. Nhưng trước sau vẫn chỉ là cái gốc bành trướng Đại Hán. Thật ra trước khi có Thành Đô, Việt Nam lần đầu tiên được hưởng quả đắng của ý thức hệ gốc này là năm 1956, khi Trung Quốc lợi dụng tình hình nhá nhem chiếm một phần Hoàng Sa, giữa lúc quan hệ hai nước đẹp như trong thơ: Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông…  Thứ ý thức hệ bành trướng Đại Hán này đâu có thèm liên minh, nó chỉ ban tặng cho phía ta 4 tốt và 16 chữ, thế thôi. Đấy chính là thực chất của cái gọi là “liên minh nhưng không phải là đồng minh, đồng chí chứ không đồng minh…” mà Trung Quốc đã giao hẹn trước với phía ta khi chấp nhận ngồi với ta ở Thành Đô. (2) Ý thức hệ của ĐCSVN đã thất bại trong việc dẫn dắt con đường phát triển của Việt Nam trong 4 thập kỷ đầu tiên xây dựng và bảo vệ đất nước kể từ sau 30-04-1975[3]. Đất nước đang đứng trước cuộc khủng hoảng toàn diện và đòi hỏi phải tìm một con đường khác để đi vào một thời kỳ phát triển khác – một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Thế nhưng hiện nay ĐCSVN với tư cách là người nắm quyền hành tuyệt đối đang nợ đất nước câu trả lời, nói thẳng ra là không đủ trí tuệ, phẩm chất và bản lĩnh để tìm được câu trả lời. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trước sau đã nhiều lần thay mặt đảng trả lời trước toàn đảng và toàn dân rồi: Phải kiên định con đường của chủ nghĩa xã hội. Câu trả lời này chỉ nói lên đến hôm nay ĐCSVN vẫn chưa có câu trả lời. Thực tế chặng đường Thành Đô – giàn khoan HD 981 cho thấy một phần tư thế kỷ vừa qua phía ta đã chịu bịt tai, nhắm mắt, ngậm miệng, tự trói chân tay…, chịu  biết bao nhiêu thua thiệt và nhân nhượng; nhiều cái Trung Quốc làm sai không dám cãi; nhiều cái lợi ích quốc gia đòi hỏi nhưng không dám đi trước, không dám làm khác hay làm trái Trung Quốc, cả trong đối nội và đối ngoại; nhiều cái lợi ích quốc gia đòi hỏi phải giữ đến cùng nhưng không giữ được; thậm chí phải bỏ qua, che đậy hay cắt xén cả lịch sử để giữ hòa hiếu, cho đội ngũ dư luận viên lung lạc dân (dọa mất sổ hưu!)… tất cả để cố cùng giữ đại cục cho bằng được… Nhưng trước sau nước ta vẫn cứ chịu thua thiệt tiếp, đất nước hôm nay càng lâm nguy. Làm nghề ngoại giao, thực quả đến nay tôi chưa tìm được trên thế giới này có một quốc gia độc lập nào có vị thế quốc tế không thể nói là thấp kém như Việt Nam mà lại chịu để cho một nước láng giềng khép vào khuôn khổ đến như vậy! Hai năm trời nước ta là ủy viên không thường trực Hội Đồng Bảo An mà cứ phải chịu im như thóc trước bao nhiêu việc sai trái của Trung Quốc trên Biển Đông…  Nhìn lại quá khứ, tôi cũng chưa thấy nước Việt Nam độc lập trong lịch sử mấy nghìn năm quan hệ với Trung Quốc có thời nào độc lập quốc gia lại bị trói buộc như hôm nay!  Trong khi chăm lo giữ đại cục như thế, cũng xin đảng và nhà nước giao cho hàng nghìn người Việt đang làm việc hay học tập ở Trung Quốc nhiệm vụ tìm hiểu dư luận xã hội và báo cáo trung thực về nước xem Trung Quốc với tính cách là một quốc gia đang nhìn quốc gia Việt Nam như thế nào. Đại sứ quán của ta ở Trung Quốc phải là người trước tiên làm tốt việc này. Đồng thời cũng nên giao ngay cho các đoàn cán bộ đảng và nhà nước mỗi năm hàng trăm người được cử sang học tập ở Trung Quốc làm nghiêm túc việc tìm hiểu này. Một số sinh viên học ở Trung Quốc về nói với tôi: Ông ạ, cháu thấy họ nhìn Việt Nam chưa được một nửa con mắt đâu ạ. Họ khinh nước ta tệ hại hơn thế nhiều… Tại sao báo chí Trung Quốc ra rả hàng ngày những bài và tin tức về Việt Nam như thế, mà nhân dân ta chẳng được hay biết gì ngoài cái 4 tốt và 16 chữ? Tin tức một số báo chí Trung Quốc lâu nay nói thẳng: Việt Nam đáng cho một bài học mới (theo kiểu của Đặng Tiểu Bình), nhân dân Trung Quốc đã được chuẩn bị tư tưởng cho việc này… Ai muốn quy kết những điều tôi viết ra ở đây là kích động chống Trung Quốc thì tùy. Trước sau tôi vẫn nghĩ, muốn có hòa bình và giữ được hòa bình với Trung Quốc, nhất thiết phải hiểu họ, hiểu cho đến tận xương tủy họ[4]. Xin ý chí và trí tuệ cả nước hơn lúc nào hết thấy rõ: Một phần tư thế kỷ khai thác sự lệ thuộc đến mức gần như tự trói tay và tự bịt mắt của nước ta, Trung Quốc đã tạo ra được cho mình một tình huống hôm nay có trong tay đủ mọi kịch bản từ A đến Z để chủ động tùy nghi xử lý Việt Nam – từ những thủ đoạn đê tiện và bẩn thỉu nhất đến chiến tranh. Xin cứ nhìn xem Trung Quốc đang làm gì bằng “hòa bình”  và trong hòa bình – ví dụ trước khi cử Dương Khiết Trì sang Việt Nam (16-05-2014) thì đưa ra cho phía Việt Nam “4 không được”, cứ nhìn trong 2 ngày 13 và 14-05-2014 quyền lực mềm Trung Quốc kích động cướp phá thành công khỏang 800 xí nghiệp có FDI từ Bắc vào Nam, cứ nhìn Trung Quốc bầy binh bố trận trên bộ và trên biển chung quanh nước ta, cứ nhìn cái 9 vạch bây giờ thành 10 vạch, cứ nhìn rồi đây cái chiến tuyến trên biển nối liền các căn cứ quân sự Du Lâm (Hải Nam) Gạc Ma, Chữ Thập, rồi kéo tiếp về phía Scarborough (Philippines), và báo chí Trung Quốc đã để ngỏ khả năng lập vùng nhận dạng phòng không (AIDZ) trên Biển Đông… Rồi các ngón đòn kinh tế và quyền lực mềm khác sẵn sàng dành cho Việt Nam… Một số chuyên gia của ta tính toán những đòn kinh tế này có thể dễ dàng làm GDP của Việt Nam tụt 5 – 10%... Kịch bản Trung Quốc đang thực hiện để xử lý Việt Nam hiện là kịch bản tối ưu số một đối với họ. Bởi vì kịch bản này đang mang lại kết quả nhiều nhất, rẻ nhất, “êm ả” nhất: Duy trì được sự khiếp nhược hiện tại của Việt Nam để lấn chiếm tiếp, uy hiếp tiếp mà không phải dùng đến những biện pháp quân sự trực tiếp và ồn ào hơn. Chừng nào còn sự khiếp nhược này, kịch bản này còn phát huy tốt tác dụng. Làm quá tay dân chúng Việt Nam có thể sẽ nổi lên chống chế độ, mà như thế sẽ rất bất lợi cho kịch bản rẻ, tốt, “êm ả” và đang rất hữu dụng này! Nếu tình hình đòi hỏi chuyển kịch bản cũng không sao, mọi thứ Trung Quốc đã sẵn sàng... Cứ nghe những tuyên bố mới nhất của Tập Cẩm Bình cho rằng Biển Đông là lợi ích cốt lõi không thể nhân nhượng của Trung Quốc, rồi nhìn các hành động leo thang tiếp tục của Trung Quốc đang diễn ra, có thể thấy rõ toàn bộ cục diện Biển Đông hiện nay. Xin hỏi cả nước: -      Quốc gia trong tình thế hiện nay đã sẵn sàng mọi mặt chưa? Bây giờ vẫn còn đang tính đến Chừng nào ngư dân còn bám biển thì còn giữ được đảo… Trước sau vẫn phải kiên định… (các phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng). -      Quốc gia trong tình thế hiện nay đã phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước chưa? Hay là bây giờ nói cứu nước là biểu hiện của hốt hoảng? của thổi phồng tâm lý bi quan, là kích động chống chế độ?.. Vậy chỉ còn mỗi cách mở mắt, mở mồm, cởi trói nhìn thẳng vào sự thật để tìm câu trả lời, tìm lối ra.  Xin nói ngay ở đây thế này: Cái đáng lo đối với nước ta không phải là việc Trung Quốc có thể gọi mưa hú gió trị ta thế nào! Đấy không phải câu chuyện đáng sợ nhất, nước ta đã từng bị thử thách như thế nhiều lần rồi và không sợ. Đất nước này không thể mất về tay Trung Quốc được đâu. Nhưng thật sự cái đáng lo nằm ở chỗ bất ngờ hoặc để xảy ra hoang mang, tự ta phá ta, mắc bẫy vào chính cái võ kích động của quyền lực mềm Trung Quốc... Rồi cái nhân danh chống kích động và bạo loạn đển đàn áp dân… Trong khi đó đất nước đang phải đối mặt với trăm nghìn vấn đề nhạy cảm giữa hòa bình và chiến tranh, giữa ổn định và đổ vỡ. Ngay giữa Hà Nội mà có chỗ cứ lát 1m vỉa hè hết một tỷ đồng! Quảng Trị có nơi hạn hạn nặng hàng tháng nay không có nước cho người, gia súc và cây trồng. Khu công nghiệp Vũng Áng được hưởng ưu đãi đến tột cùng (Tuổi trẻ online 08-07-2014) với hàng nghìn lao động Trung Quốc chỉ cách căn cứ hải Quân Du Lâm ở Hải Nam và giàn khoan HD 981 khoảng trên dưới 200 km sẽ là cái gì đối với Việt Nam? Thể chế chính trị và hệ thống nhà nước hiện hành làm sao có được và quản lý được một nước công nghiệp cơ bản theo hướng hiện đại vào năm 2020? Nhập siêu và nợ công cứ tăng mãi không giảm. Thay thế nhập khẩu nguyên vât liệu từ Trung Quốc như thế nào? Nếu Trung Quốc gây rối loạn trên mặt trận tài chính, ngân hàng thì đối phó ra sao?.. v.v… Vâng, sẩy tay là rối lọan, là đổ vỡ, là dậu đổ bìm leo. Người Việt Nam nào không muốn có hòa bình lúc này để xử lý những vấn đề đang chồng chất ngập đầu mình!..  Thế nhưng trong tình hình này cứ giấu dân, trấn an suông, không cùng với dân chuẩn bị đối phó với mọi tình huống, liệu có yên thân không? Cứ khiếp nhược cầu hòa mãi, liệu Trung Quốc có nương tay không? Thế giới sẽ nhìn Việt Nam ra sao? Giúp hay không nên giúp?..  Việt Nam có thực sự muốn được giúp không, hay là..?.. Chính lúc này hơn bao giờ hết phải bàn kỹ với dân, huy động trí tuệ và sự tham gia ứng phó của toàn dân. Hơn bao giờ hết phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước cho cả nước để cùng tìm cách thực hiện. Có tự giúp mình thì thế giới mới giúp mình! Phải đi với dân, đối thoại với dân để bàn việc cứu nước. Đối thoại trực tiếp với tất cả các tổ chức xã hội dân sự đang có, để cùng nhau bàn việc cứu nước, chứ không phải bịt miệng họ, quy kết cho họ đủ mọi thứ để khống chế hay đàn áp họ như vẫn đang làm. Lúc này vẫn kiên định hàng đầu là bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng như Tổng bí thư yêu cầu thì làm sao giữ được nước? Tại sao không đặt vấn đề ngược lại: Lấy giữ nước, cứu nước làm nhiệm vụ trung tâm, qua đó thay đổi chế độ, thay đổi hay là lột xác đảng để trở thành đảng của dân tộc? Đất nước không cứu được, liệu đảng sẽ còn tồn tại? Mà nếu còn tồn tại thì sẽ là cái đảng gì? Có thể tồn tại như thế mãi được không? Đại hội XII có nên quan tâm vấn đề này không? Đặt vấn đề hay không đặt vẫn đề cứu nước chính là ở điểm nghiêm trọng này. Tôi nghĩ đại đa số người dân nước ta – trước hết là trí tuệ Việt Nam – đủ hiểu biết và có bản lĩnh làm như thế để cứu nước. Tôi thực sự tin rằng có nhiều đảng viên ĐCSVN cũng đang nghĩ và muốn làm như thế. Chẳng ý đồ đen tối nào có thể kích động nổi chúng ta mù quáng chống Trung Quốc theo bất kể lối suy nghĩ kỳ thị và phân biệt chủng tộc nào. Chính vì muốn sống hòa bình bên cạnh Trung Quốc, nên bây giờ việc đầu tiên phải làm là cứu nước. Cứu nước khỏi cái mù quáng và tự trói đối với Trung Quốc, khỏi tình trạng quyền lực chỉ lo quay về trấn áp trong nước để bảo vệ chế độ, khỏi mọi yếu kém vì đất nước đang khủng hoảng và tha hóa toàn diện, khỏi tình trạng mất phương hướng và tê liệt về con đường phát triển. Cứu nước để tìm ra con đường làm cho đất nước mạnh lên theo mọi nghĩa. Vì chỉ như thế mới có thể chung sống hòa bình với Trung Quốc, rồi từ đó mới có hữu nghị đúng đắn, hợp tác đúng đắn. Một phần tư thế kỷ tự trói vừa qua để giữ đại cục đã dắt chúng ta đến câu trả lời này.  Nếu ai nghĩ rằng làm cho Việt Nam mạnh như thế là chống Trung Quốc, thì cứ để cho họ bênh và bảo vệ Trung Quốc. Ai quy kết rằng gọi mọi sự việc đúng với tên thật trong quan hệ Việt – Trung là kích động chống chế độ, chống đại cục quan hệ Việt – Trung, thì đấy chính là biểu hiện muốn đàn áp những nỗ lực muốn cứu nước. Ai thực sự muốn đục nước béo cò bằng những việc làm kích động thù hận hay xuyên tạc sự thật để gây rối kiếm lợi bẩn thỉu, thì chính những việc làm này nói lên dã tâm của họ. Tất cả những thứ này không phải là công việc của chúng ta và cũng không thể lung lạc chúng ta.  Xin nhấn mạnh, cái sai gốc trong việc tìm kiếm liên minh ý thức hệ ở Thành Đô là ở chỗ: Làm tất cả mọi việc để bảo vệ chế độ, rồi mới tính đến giữ nước. Đấy là cách tính toán có giữ được chế độ mới giữ được nước.  Nhất thiết phải sửa cái sai gốc vô cùng tệ hại này. Trước tình hình đất nước lâm nguy hôm nay, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi trước các cử tri (Hà Nội và một số nơi khác) phải kiên định giữ hòa bình, đoàn kết, bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân, không lầm lẫn đấu tranh chống những sai trái trên Biển Đông với 1,3 tỷ nhân dân Trung Quốc, phải kiên trì gìn giữ mối quan hệ hai nước đã xây dựng được từ lâu đời, phải đấu tranh  bằng mọi biện pháp hòa bình – kể cả những biện pháp luật pháp quốc tế, phải đề phòng kẻ xấu kích động…   Tất cả những điều Tổng bí thư đã nói trên hiển nhiên vẫn là nếp nghĩ cũ, vẫn là cách tính toán có giữ được chế độ mới giữ được nước đã từng dẫn tới Thành Đô trước đây 25 năm, là cách ĐCSVN đã làm rất triệt để xuyên suốt 25 năm vừa qua, và hôm nay dẫn đất nước tới cái giàn khoan HD 981 với nhiều hệ lụy mới. Cho đến khi tôi viết những dòng chữ này, chưa thấy một ý kiến nào từ lãnh đạo đảng đặt vấn đề: Đất nước phải tìm một con đường khác để có thể sống được hòa bình bên cạnh Trung Quốc. Hay là đảng đang giữ bí mật? Không phải chỉ riêng tổng bí thư, toàn thể Bộ Chính trị đến nay chưa ai nói thẳng ra với cả nước để cùng lo liệu: Đất nước đang bị Trung Quốc uy hiếp nghiêm trọng thế này vì yếu quá và có đang có quá nhiều yếu kém đối nội cũng như đối ngoại. Cũng chưa thấy vị lãnh đạo nào nghiêm túc đặt vấn đề: Duy trì hiện trạng của đất nước, đất nước sẽ thua tiếp, lâm nguy tiếp! Phải tìm đường làm cho nước mạnh lên để cứu nước! Thay vào đó, lúc này lúc khác chỉ có những câu nói trấn an mà chính người nói có lẽ cũng thấy khó tin. Làm như vậy hiểm nguy của đất nước sẽ bớt đi? (1) Đất nước đang có quá nhiều yếu kém nguy hiểm, con đường phát triển đất nước do có quá nhiều sai lầm nên đang bị cuộc khủng hoảng toàn diện hiện nay chặn đứng, (2) uy hiếp của Trung Quốc ngày càng không kiểm soát được và độc lập chủ quyền quốc gia đang bị xâm lấn tiếp, (3) kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đã sang trang với những vấn đề và thách thức hoàn toàn mới – cả 3 vấn đề lớn này đảng chưa có đối sách nào, chưa có một hướng chiến lược xoay sở ra sao... Chẳng lẽ tình hình như vậy chưa đủ để nhận định đất nước đang lâm nguy đến mức phải đặt vấn đề cứu nước? Xin cả nước suy nghĩ cho thật kỹ. Ngay hiện tại đã có nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, đối ngoại… nước đến chân rồi mà chưa biết nhảy như thế nào… Chẳng lẽ trước sau chỉ một mực: Ngư dân còn bám biển thì còn đảo!.. Trong ngôn ngữ và sinh hoạt đảng hiện nay hình như đang thiếu vắng hoàn toàn hai chữ cứu nước!?  Đại hội XII của ĐCSVN sắp đến. Trong quá trình chuẩn bị, dư luận cả nước chỉ được thông báo những việc có liên quan đến chuẩn bị nhân sự đại hội các cấp; kêu gọi các cấp nghiêm túc thực hiện những quyết định của Hội nghị Trung ương 9 về chuẩn bị Đại hội – nhưng dư luận cả nước không biết rõ đấy là những quyết định gì; đặt vấn đề phải tổng kết 30 năm đổi mới nhưng dư luận cả nước không biết là sẽ tổng kết như thế nào (còn tổng kết như các đại hội các khóa trước đã làm thì đã dẫn đến thực trạng đất nước hôm nay…) Nghĩa là cũng như mọi khóa đại hội khác, việc của đảng là việc của đảng, nhân dân là người ngoài cuộc với lọn nghĩa của khái niệm này; nếu có chuyện lấy ý kiến này nọ thì cũng chỉ là làm chiếu lệ cho có vẻ dân chủ.  Song mọi việc đại hội XII của đảng sẽ quyết lại là những việc liên quan đến sự mất còn của đất nước. Cho đến nay chưa thấy một thông báo nào đặt vấn đề đại hội tới sẽ phải làm gì, đảng sẽ phải làm gì. để đất nước mạnh lên để cứu nước? Chẳng lẽ đấy là bí mật của đảng – nghĩa là đất nước này là của riêng đảng. Hay là vấn đề này chưa được đặt ra? Đến bây giờ chỉ có những thông báo phải bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, kiên định giữ hòa bình, chống bị kích động… - như 25 năm nay vẫn thường làm. Xin nhắc lại tại đây một chân lý nguyên sơ rất mộc mạc: Đất nước này là của nhân dân, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là của đảng, đơn giản là đảng cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong nhân dân mà thôi. Dù đảng có yêu nước giả thử là hơn dân, thông minh hơn dân vài con sào đi nữa, đất nước vẫn là của nhân dân, trong đó đảng chỉ là một bộ phận. Đấy là giả thử thôi, hôm nay phải nói ngược lại. Song trên tất cả mọi lý lẽ, đất nước đang lâm nguy, làm cho nước mạnh lên để cứu nước là sự nghiệp của nhân dân cả nước, của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Đây không được phép là việc riêng của đảng. Đây không thể là công việc riêng của ĐCSVN, dù có muốn đảng cũng không làm nổi.  Không bao giờ được phép coi cứu nước là một việc riêng của đảng, bởi vì nhân dân cả nước không  bao giờ giao cho đảng một việc riêng như thế. Nhưng nhân dân sẵn sàng để cho đảng phục vụ một sự nghiệp như thế nếu đảng có phẩm chất và năng lực phục vụ sự nghiệp này đúng với ý nguyện của nhân dân và lợi ích của quốc gia. Nếu cứu nước không phải là việc riêng của đảng, nhất thiết đảng phải bàn luận với cả nước. Nếu làm đúng trách nhiệm là đảng đang độc nhất nắm quyền, ĐCSVN phải đứng ra tổ chức để nhân dân cả nước bàn bạc và quyết định việc cứu nước, chứ không phải ngăn cấm hoặc gây cản trở việc bàn luận, bưng bít báo chí… như hiện nay. Trong  sự nghiêp cứu nước, dứt khoát đảng phải chấm dứt việc loại nhân dân ra ngoài cuộc, đơn giản vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc là sự nghiệp của nhân dân, không thể khác được, không ai làm thay được. Thậm chí phải nói, chính vì loại nhân dân ra ngòai cuộc, cho nên đảng đã liên tiếp vấp phải những thất bại nặng nề trong 40 năm đầu tiên đất nước độc lập thống nhất mà lịch sử chắc chắn sẽ không bỏ qua.  Ví dụ: -      Nếu ngay sau khi đất nước độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 đảng phát huy trí tuệ và sức mạnh của nhân dân với tới cả tình thần đoàn kết và hòa giải dân tộc để xây dựng nên một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ, mọi chủ quyền đất nước thuộc về nhân dân, lựa chọn con đường dân tộc và dân chủ cùng đi với cả thế giới tiến bộ để xây dựng và bảo vệ đất nước, hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong thế giới này? Vì không làm được như vậy, phải nói đây là thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của ĐCSVN. Con đường đã đi phải trải qua 4 cuộc chiến tranh đẫm máu, thế nhưng hôm nay đất nước vẫn chỉ đạt được mục tiêu dang dở: chưa hoàn thành nốt sự nghiệp cuối cùng đảng đã cam kết là đem lại độc lập tự do cho nhân dân. -      Nếu không loại nhân dân ra ngoài cuộc, nếu dựa hẳn vào nhân dân, coi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc là của nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân, coi lợi ích của nhân dân và của quốc gia là trên hết, sợ gì mà không phát huy nhân dân đi cùng với cả thế giới để giữ nước và xây dựng đất nước theo con đường dân tộc và dân chủ. Đâu có cần thiết phải đến Thành Đô để tìm kiếm thứ liên minh khốn khổ này? -      Nếu trong toàn bộ quá trình đàm phán biên giới  Việt – Trung không bí mật với nhân dân, mà lại lấy nhân dân làm hậu thuẫn và dựa vào lẽ phải trong đời sống quốc tế, kết quả sẽ thế nào? -      Che giấu nhân dân biết bao nhiêu sự việc sai trái của Trung Quốc có làm giảm được tính bành trướng và sự thâm độc của Trung Quốc hay không? Vân… vân… -      … -      … Bí mật quốc gia lúc nào cũng có, song đấy là những vấn đề chiến lược hay chiến thuật cụ thể. Còn đường lối giữ nước, toàn bộ nhiệm vụ cứu nước thì phải dựa hẳn vào dân. Đấu tranh tổng hợp và toàn diện để giữ nước chống lại kẻ thù lớn hơn mình gấp bội, càng phải dựa vào dân, trang bị cho nhân dân mọi hiểu biết và thông tin để có thể dựa hẳn vào nhân dân, taọ mọi điều kiện phát huy sức mạnh và sự tham gia của dân vào việc nước… Chứ không phải là cung cấp cho nhân dân những thông tin định hướng, dậy dân theo kiểu làm cho nhiều thế hệ trẻ hôm nay vẫn không biết là đã xảy ra chiến tranh 17-02-1979, thậm chí xóa cả những vết tích các tội ác chiến tranh nhân dân ta đã phải chịu đựng, biết tên kẻ cướp mà cứ phải gọi nó là kẻ lạ, tầu lạ…  Và nhất là để cứu nước, đừng bao giờ coi dân là kẻ thù, áp dụng những cách đối xử dân như kẻ thù, trấn áp sự phản kháng chính đáng của dân nhân danh bảo vệ cái này cái nọ. Nói đi cũng phải nói lại, từng người dân cũng phải ý thức đầy đủ về quyền và trách nhiệm của chính mình: Đất nước này là của chính mình! Đừng bao giờ chịu bị loại ra đứng ngoài cuộc trong những vấn đề sống còn của đất nước. Đã đến lúc phải đặt ra nhiệm vụ cứu nước là sự nghiệp trọng đại nhất của toàn dân tộc ta lúc này. ĐCSVN bây giờ là gì, chính là thái độ của đảng đối với sự nghiệp trọng đại nhất của toàn dân tộc lúc này là cứu nước. *           Vâng, một phần tư thế kỷ quan hệ hòa hiếu với Trung Quốc vừa qua, sự việc nước ta đi từ thất bại này đến thất bại khác trong mối quan hệ hai nước có một trong những nguyên nhân chiến lược quan trọng nhất là đã không lựa chọn con đường cứu nước phải là con đường làm cho đất nước mạnh lên. Những thất bại ấy là cái giá phải trả cho việc lựa chọn con đường dựa vào liên minh ý thức hệ để bảo vệ chế độ, trên cơ sở đó để giữ nước, và do đó đã đi tới cái quyết định Thành Đô. Con đường ấy được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định đi khẳng định lại nhiều lần qua sửa đổi Hiến pháp 2013, và mới đây nhất là khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội: Phải kiên trì bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân, đề phòng mọi kích động…           Một phần tư thế kỷ vừa qua, vì ưu tiên số một là phải bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng.., chứ không phải ưu tiên số một là làm cho đất nước mạnh lên với đúng nghĩa, nên đã đạt được trong chế độ toàn trị một đảng là: Chế độ “mạnh” lên, đảng “mạnh” lên – mạnh với nghĩa càng chuyên chính hơn với dân, càng “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước… Còn đất nước ta trở thành cái gì như hôm nay và đang gần như thân cô thế cô như thế này trong cái thế giới mà nước ta đã hội nhập toàn diện thì cả nước đều thấy rõ. Thân cô thế cô giữa lúc cả thế giới – chỉ ngoại trừ Trung Quốc – muốn có một Việt Nam mạnh mẽ đứng vững chãi trên đôi chân của mình! Thật là quái ác làm sao! Đừng đổ hết mọi cái xấu, mọi cái nguyên nhân thua thiệt của ta cho phía Trung Quốc. Nghiêm túc thì phải tự phê bình – xin  tạm mượn cách nói theo ngôn từ ưa thích của Tổng bí thư – : Để cho đất nước yếu kém như hôm nay, để cho Trung Quốc lũng đoạn nước ta trầm trọng như thế này, có nguyên nhân chủ yếu là đảng càng ra sức bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng là ưu tiên hàng đầu. Hệ quả là cả chế độ và đảng ngày càng hư hỏng và tha hóa nhiều hơn. Chỉ cần xem thống kê hàng năm các tội phạm tham nhũng tiêu cực, quy mô các tội phạm này, mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng, số đảng viên phạm tội ngày càng nhiều và chức vụ ngày càng cao – giữa lúc từ nhiều năm nay đang đẩy mạnh học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh… - đủ thấy rõ thực trạng hư hỏng và tha hóa này. Sự yếu kém toàn diện của cả nước hiện nay trước hết là tổng hợp sự tha hóa toàn diện của chế độ và của đảng, chứ không thể đổ lỗi cho Trung Quốc hay cho bất kỳ lực lượng thù địch hay diễn biến hòa bình nào. Đúng ra còn phải nhận định: Ưu tiên bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng như đã làm suốt một phần tư thế kỷ vừa qua trong khuôn khổ liên minh ý thức hệ Thành Đô với Trung Quốc đã hủ hóa đảng nghiêm trọng, đồng thời làm hỏng cả chế độ, làm hỏng cả đất nước. Nhiều giá trị đạo đức xã hội hôm nay băng hoại nghiêm trọng so với thời kỳ 1990… Đảng đang ngày càng cùn đi về trí tuệ và ý chí chiến đấu, bây giờ chỉ biết cố học đủ mọi thứ từ Trung Quốc, lúc này vẫn đang cử người đi học mọi thứ ở Trung Quốc… Đảng bây giờ chỉ biết ra sức bám vào quá khứ để biện minh cho vị thế chính trị hiện tại đảng đang nắm giữ. Đảng ngày càng co rúm thụ động trước mọi thay đổi diễn ra ở trong nước và trên thế giới, đến mức trên thực tế đảng đã tự đánh mất vai trò lãnh đạo lẽ ra phải có, đơn giản vì bất lực không thể vạch ra được lối thoát đất nước đang đòi hỏi. Đảng càng không dám đi tiên phong tìm lối thoát cho đất nước. Đảng hôm nay trên thực tế chỉ còn lại là một lực lượng chính trị mạnh nhất trong nước đang cai trị đất nước, với mọi quyền lực kinh tế và chính trị lớn nhất, với sự chi phối của các nhóm lợi ích chồng chéo. Đảng với tính chất mới được hình thành trong quá trình tha hóa như thế trên thực tế đang trở thành đảng của các nhóm quyền lực và các nhóm lợi ích khác nhau, rất thuận lợi cho quyền lực mềm Trung Quốc khai thác. Nghĩa là đảng cũng đang trở thành con tin của những thứ nhóm này, trở thành lực cản sự phát triển của đất nước. Trung Quốc đã đi được những nước cờ tệ hại quá đáng đối với nước ta, hù dọa và kiềm tỏa nước ta, ngăn cản được nước ta đi với cả thế giới.., trong đó có nguyên nhân quan trọng là đảng đang ở trong thực trạng yếu kém như hiện nay. Từng đảng viên, trước hết là những người giữ trọng trách trong đảng, nếu còn quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ đảng, nếu còn tự trọng danh dự người đảng viên, còn chút tấm lòng với đất nước, xin hãy cùng nhau nhìn thẳng vào thực trạng hiện nay của đảng. Riêng đối với đảng viên, tôi xin giãi bầy: Muốn cứu nước thì phải cứu đảng trước! Đấy là món nợ lương tâm và là trách nhiệm chính trị phải trang trải của mỗi đảng viên đối với đất nước. Đảng viên không cứu đảng thì còn ai làm nữa?  Đối với cả nước, tôi  không thể đòi muốn cứu nước trước hết phải cứu đảng.  Nhưng đối với đảng viên, tôi bắt buộc phải nói như vậy, vì lẽ: Nếu từng đảng viên không làm được cho đảng của mình với tính cách chỉ còn là lực lượng chính trị mạnh nhất  như hiện nay phải thay đổi đến mức lột xác về ý thức hệ và về phẩm chất, để cùng đi chung với toàn dân tộc trong sự nghiệp làm cho đất nước mạnh lên, sẽ là một thảm họa cho đất nước. Vì như thế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước rồi đây sẽ phải đối kháng với lực lượng chính trị mạnh nhất này trong nước, đầu rơi máu chẩy cho vô nghĩa sẽ là chuyện không thể tránh khỏi. Nếu mỗi đảng viên hôm nay sớm quên hoặc không biết quá khứ đau thương của dân tộc ta trong 4 cuộc chiến tranh vừa qua của đất nước, xin chịu khó học nhờ các bài học xương máu đang nóng hổi của nhân dân các nước Trung Đông,  Bắc Phi và Ukraina hiện nay… Cho nên không gì may mắn hơn cho đất nước chúng ta, nếu làm cho lực lượng chính trị mạnh nhất này ý thức được nhiệm vụ chính trị mới này để tự lột xác cùng đi với cả dân tộc. Đảng dù yếu kém như hiện nay, song biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết vẫn dư lực ý thức được và làm được nhiệm vụ chính trị đáng phải làm này, thậm chí có thể sẽ là quân chủ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng đại này của quốc gia. Làm được như thế, từ trong hàng ngũ các đảng viên của đảng sẽ xuất hiện những gương mặt mới trong hàng ngũ cứu nước của quốc gia, rồi sự rèn luyện của cuộc sống sẽ làm nên tất cả những gì cuộc sống đòi hỏi. Ai suy nghĩ gì về lời giãi bầy này thì tùy, trước sau tôi cho rằng vận mệnh của đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay và trong thực trạng yếu kém của đất nước chỉ đặt ra cho các đảng viên ĐCSVN sự lựa chọn duy nhất này mà thôi.  Truyền thống yêu nước là nền móng đầu tiên xác lập nên ĐCSVN khi còn đang mất nước. Trước Cách mạng Tháng Tám, trong 2 cuộc kháng chiến và cả nhiều thời kỳ sau này nữa.., hầu hết hay rất nhiều người gia nhập ĐCSVN trước hết là vì yêu nước, muốn hy sinh chiến đấu giải phóng đất nước, tự nguyện xin được cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tại sao trong đảng không lấy truyền thống yêu nước ấy để hôm nay xác định cho mình con đường cùng đi với cả dân tộc? Hãy bắt đầu từ việc đảng không được phép coi đất nước là của riêng mình. Nhân dân dân là nhân vật trung tâm của sự nghiệp cứu nứơc hôm nay. Hay là bây giờ quyền lực, tiền bạc và mọi lợi ích ích kỷ cùng với mọi sa đọa khác đã làm biến chất đảng tất cả?  Trong tình hình hiện nay, nếu đảng viên không cứu nổi đảng của mình để chọn con đường cùng đi với cả dân tộc như thế, đảng chỉ còn lại sự sàng lọc không thể cưỡng lại của quy luật tự nhiên. Lựa chọn con đường làm cho đất nước mạnh lên để cứu nước trước hết có nghĩa là tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện sự nghiệp làm cho đất nước mạnh lên * (1) Thế giới đã chuyển hẳn sang một cục diện mới của trật tự quốc tế đa cực, mọi giá trị và phương thức tập hợp lực lượng quốc tế đã thay đổi sâu sắc rất khó lường, quan hệ kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đặt ra cho mọi quốc gia những vấn đề và thách thức hoàn toàn mới. (2) Trong cái nóng bỏng của trật tự quốc tế mới hiện nay vấn đề Trung Quốc càng làm cho cả thế giới mất ổn định hơn và có nhiều tác động trực tiếp đến nước ta với tính cách vừa là nạn nhân trực tiếp nhất của bành trướng bá quyền Trung Quốc và vừa là trận địa của những đụng độ giữa các quyền lực lớn. (3) Đất nước bắt buộc phải có một thể chế chính trị mới đủ sức phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho việc thoát khỏi khủng hoảng hiện nay và đi vào một thời kỳ phát triển mới bền vững của con đường dân tộc và dân chủ, để từ đó mới có thể đứng vững ngay trên trận địa của đất nước đầy sóng gió. Nội dung của nhiệm vụ cứu nước đặt ra cho nhân dân ta lúc này chính là xử lý thắng lợi 3 vấn đề trọng đại ấy của hôm nay. ĐCSVN hôm nay là gì? Câu trả lời phụ thuộc vào việc đảng có đặt ra cho mình và cho cả nước câu hỏi Hiện nay có hay không có vấn đề cứu nước? như đã trình bầy trên, cùng bàn bạc với cả nước để trả lời bằng được câu hỏi này. Nhìn lại 25 năm qua từ Thành Đô, như đã nói ngay ở trên, liên minh ý thức hệ tìm kiếm ở Thành Đô thực chất là do ảo tưởng hay do lo sợ, nên trên thực tế là đã đi tìm kiếm liên minh với kẻ vừa mới làm thịt nước mình liên tiếp mấy trận liền. Chính vì thế trong ¼ thế kỷ tiếp theo của liên minh này nước ta bị ăn thịt tiếp nhiều lần là điều tất yếu, làm sao tránh được? Sự thật này còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy. Bởi vì Thục Dương Vương, giữ hòa hiếu trong tư thế một quốc gia độc lập, Người thua chẳng qua chỉ vỉ mất cảnh giác mà thôi. Còn ở Thành Đô, ĐCSVN tự nguyện ép mình đi hẳn với liên minh mà vẫn thua mất cả chì lẫn chài. Thỏa thuận hòa hiếu cấp cao giữa hai nước mới đây nhất là năm 2011 cũng chỉ là một mớ giấy và chữ, không thể cản nổi cái giàn khoan HD 981. Nó còn cay đắng hơn muôn phần ở chỗ cuối cùng thì Thục An Dương Vương cũng nhận ra được kẻ thù làm mình mất nước là ai. Còn nước ta hôm nay? Còn hôm nay, ĐCSVN và những người đứng trong hệ thống chính trị của đất nước liệu đã nhận dạng được kẻ đã nhiều lần ăn thịt mình và bây giờ đang lăm le ăn thịt mình tiếp hay chưa? Trả lời câu hỏi này tùy thuộc ĐCSVN lúc này và trong quá trình chuẩn bị cho đại hội XII có đặt ra hay không đặt ra vấn đề cứu nước như đã trình bầy trong bài viết này hay không./. Nguyễn Trung Hà Nội, ngày 05-07-2014   Theo Việt- studies [1] Sách trắng về “Sự thật Quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua”, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1979. http://thuctu.blogspot.com/2012/07/sach-trang-su-that-ve-quan-he-viet-na... Tham khảo thêm [2] Tham khảo thêm: Thư của Nguyễn Trung ngày 28-10-2010 gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng,  Http://nguyentrung-vt.blogspot.com, nhãn Đảng Cộng Sản Việt Nam. [3] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Xin hãy mở to mắt”, http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HayMoToMat.htm [4] Tham khảo: (1) Tổng bí thư Lê Duẩn nói về Trung Quốc   http://nguyenxuanhung.com/page/detailinfo/idc/12/id/156/le-duan-noi-ve-t.... (2) Sách trắng “SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC  TRONG 30 NĂM QUA” http://sachhiem.net/LICHSU/NXB_ST/NXBSuThat_1.php. (3) Trần Quang Cơ: Hồi ức và suy nghĩ http://minhtrietviet.net/lemontee/wp-content/uploads/2014/06/HOI-UC-SUY-... Nguồn: http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTro...
......

CSVN đổi lập trường vụ HD 981?

Sau 2 tháng ‘lình xình” trong nội bộ kể từ khi Bắc Kinh cho mang giàn khoan HD981 vào tận sân nhà của Việt Nam vào ngày 2/5 cho đến nay, bốn nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của đảng Cộng sản Việt Nam đã có những phát biểu mà một vài dư luận đã vội đánh giá rằng đã có thái độ “cứng rắn” đối với các quan hệ hữu nghị với Trung Quốc hiện nay. Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu: “Xây dựng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc nhưng không lùi bước trước sự đe dọa”. Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: “Không đánh đổi chủ quyền để nhận lấy hữu nghị viển vông và lệ thuộc”. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu: “Chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, phải gìn giữ”. Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “Gìn giữ hữu nghị với Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng phải giữ vững chủ quyền”. Tuy mỗi người phát biểu mỗi vẻ khác nhau, nhưng đều tập trung vào hai vấn đề “hữu nghị” và “chủ quyền” trong quan hệ ngày một phức tạp giữa CSVN và Trung Cộng hiện nay.   Đọc kỹ các phát biểu này rõ ràng là lãnh đạo Hà Nội không nhắm vào đối tượng chính là nhà cầm quyền Bắc Kinh mà là để nói cho người dân, hay đúng hơn là cho cán bộ và đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam nghe cho bớt bức xúc trước hành động hung hăng và bạo ngược của tàu hải giám Trung Cộng tấn công thô bạo vào các tàu cảnh sát biển của Việt Nam.   Nói cách khác là những leo thang các hành động ngang ngược của Bắc Kinh - qua vụ đâm nát tàu cảnh sát biển rồi còn tố ngược lại là do chính tàu Việt Nam gây sự, tấn công và những thái độ khinh miệt, gọi Việt Nam là “đứa con hoang đàng” phải “dạy cho một bài học” - đã phá vỡ lô cốt “tự kiềm chế để tránh những xung đột” của lãnh đạo Hà Nội bấy lâu nay, để nhích lên lằn ranh “chỉ trích Bắc Kinh” nhưng lại hướng vào dư luận Việt Nam chứ không phải Trung Cộng. Đây là điểm then chốt mà chúng ta phải nhận diện cho rõ để không có những vọng động như một số người đã “bày tỏ” vui mừng rằng lãnh đạo Hà Nội đã thay đổi lập trường - từ mềm sang cứng - đối với Bắc Kinh. Có người còn cho rằng các phát biểu nói trên còn biểu hiện sự thống nhất quan điểm của Bộ chính trị để “bật đèn xanh” cho phía chính phủ tiến hành vấn đề pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài Liên hiệp quốc nay mai. Những phát biểu của bộ tứ còn được tô đậm thêm bằng màn biểu diễn mới đây của ông Nguyễn Tấn Dũng khi chủ tọa phiên họp chính phủ đầu tháng 7/2014 về cái gọi là “chuẩn bị cho tình huống xấu” nếu Trung Quốc tấn công về mặt kinh tế”.   Gọi đây là màn biểu diễn vì trong thực tế chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng không có khả năng đối phó nếu Trung Quốc thực sự gây khó khăn cho nền kinh tế của Việt Nam trên ba lãnh vực: 1/ Nguyên vật liệu sản xuất bao gồm các mặt hàng công nghiệp; 2/ Đóng cửa giao thương ở biên giới; 3/ Rút các gói thầu và đầu tư ra khỏi Việt Nam. Rõ ràng là 2 tháng qua, chính sách bảo vệ chủ quyền bằng đường lối thương thuyết ngoại giao hòa bình của Hà Nội đã hoàn toàn thất bại. Nó đã không chỉ khiến cho Trung Quốc ngày càng hung hăng bạo ngược thêm trên biển Đông, mà còn tỏ thái độ khinh thị, coi thường ý chí chiến đấu của dân tộc Việt Nam khi chính bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh đánh giá vụ HD 981 chỉ là “mâu thuẫn nhỏ trong gia đình”. Ngoài ra, sự kiện quốc hội không ra nghị quyết về vụ giàn khoan HD 981 vì cho là tình hình chưa đến mức nghiêm trọng, đã như giọt nước làm tràn sự phẫn uất của dư luận nên vì thế mà lãnh đạo Hà Nội đã phải chữa cháy bằng một số phát biểu nói trên. Tóm lại, toàn bộ các tuyên bố và xử sự của bộ tứ Hùng, Dũng, Sang, Trọng trong những ngày qua vẫn không có gì đột phá mang tính giải pháp mà chỉ là những trò múa may để “tự lừa”, nhằm khỏa lấp thái độ nhu nhược không dám có bất cứ hành động nào, đối với sự hung hăng trên biển Đông của Trung Cộng hiện nay. Lý Thái Hùng    
......

SAIGON - HỌP MẶT XÃ HỘI DÂN SỰ VỀ CÔNG ĐOÀN ĐỘC LẬP.

Hôm nay, 04/07/2014 tại Chùa Liên Trì, Q2, Sài Gòn, các nhóm hội xã hội dân sự (XHDS) có buổi họp mặt với chủ đề chính là bàn thảo về Công đoàn Độc lập. Khách tham gia cuộc họp dành một phút tưởng niệm những người đã hy sinh cho Tổ quốc Việt Nam thân yêu.   Cuộc họp được bắt đầu lúc 08:45 và dự kiến kết thúc lúc 11:30. Nội dung cuộc họp bao gồm: - Chào mừng sự ra đời của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam - Chào đón cô Đỗ Thị Minh Hạnh trở về. - Bàn thảo về Công đoàn Độc lập. - Quyền tự do lập hội - tụ họp ôn hòa. Được biết, đây là cuộc họp mặt thường kỳ của các nhóm hội XHDS. Kỳ họp lần này do Con Đường Việt Nam điều phối. Trong nội dung cuộc họp, có bàn đến quyền tự do lập hội và tụ họp ôn hòa. Tuy nhiên, theo chúng tôi được biết đã có một số cá nhân không thể ra khỏi nhà vì bị cơ quan công quyền dùng lực lượng an ninh, trinh sát ngoại tuyến, công an khu vực chặn cửa. Danh sách bị chặn chưa cập nhật đầy đủ bao gồm: - Bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Ông bị canh nhà từ chiều 3/7. Sáng nay, khi bước ra khỏi nhà, ông liền bị đẩy vào nhà bằng sức mạnh và số đông. - Ông Phạm Bá Hải. Ông Hải ngoài việc bị chặn còn bị gửi giấy triệu tập lên trụ sở CA làm việc ngay lập tức - Chánh trị sứ Hứa Phi và các tín đồ Cao Đài bị chặn và câu lưu tại Lâm Đồng. - Anh Hoàng Văn Dũng bị chặn tại nhà riêng.   Trước chùa Liên Trì, Quận 2, có hàng chục trinh sát ngoại tuyến, an ninh... canh gác và quay phim, chụp hình. Tuy nhiên, cuộc họp vẫn đang diễn ra... Danh sách các Hội nhóm: 1. Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự 2. Hội Tù Nhân Lương Tâm 3. Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất 4. Cao Đài 5. Phật Giáo Hòa Hảo 6. Tin Lành 7. Bạch Đằng Giang Foundation 8. Hội Phụ Nữ Nhân Quyền 9. Hội Anh Em Dân Chủ 10. Hội Nhà báo Độc lập 11. Mạng Lưới Blogger Việt Nam 12. Con Đường Việt Nam 13. Hội Bầu Bí Tương Thân 14. Truyền Thông Dòng Chúa Cứu Thế 15. Liên Đới Dân Oan 16. Hiệp Hội Dân Oan 17. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo 18. No - U Saigon   Nguồn: Con Đường Việt Nam
......

Chiến thuật của Việt Nam trên Biển Ðông

Gần hai tháng nay, không có ai ít nhiều quan tâm đến Việt Nam mà không tự hỏi: Việt Nam đối phó với hành động lấn chiếm Biển Đông của Trung Quốc như thế nào? Về phía Trung Quốc, hầu như mọi người đều biết họ muốn gì. Và thật ra thì họ cũng không hề giấu giếm ý đồ của họ: Chiếm toàn bộ Biển Đông (bao gồm cả Trường Sa, dĩ nhiên!). Tàu Kiểm ngư KN951 bị tàu Trung Cộng đâm nát Còn phía Việt Nam? Không ai biết gì cả. Tất cả các nhà lãnh đạo đều im lặng, hoặc nếu mở miệng thì chỉ nói những điều chung chung, vô thưởng vô phạt, ra vẻ đầy quyết tâm nhưng lại không chỉ ra, hoặc gợi lên, một chiến thuật nào cả.   Trở lại với câu hỏi trên, Việt Nam sẽ đối phó với Trung Quốc như thế nào? Có hai cách trả lời: tiêu cực và tích cực. Tiêu cực, như những gì chúng ta thường thấy nhan nhản trên các mạng lưới xã hội, từ blog đến facebook, nhiều người cho rằng Việt Nam đã bán đứng Biển Đông cho Trung Quốc rồi; hoặc nếu không phải bán đứng thì cũng, ít nhất, một số khá đông ủy viên trong Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành Trung ương đảng chủ trương nhượng bộ, để Trung Quốc tha hồ làm chủ trên Biển Đông. Theo cách nhìn này thì những lời phát biểu này nọ hoặc việc đưa tàu hải giám hay tàu đánh cá ra chạy lòng vòng giàn khoan HD-981 chỉ là một vở kịch nhằm đánh lừa dân chúng để không ai quá phẫn nộ có thể đổ xuống đường biểu tình chống lại họ. Nói cách khác, theo cách nhìn này, “mặt trận” chính mà chính quyền Việt Nam muốn đối phó không phải là Trung Quốc mà chính là dân chúng Việt Nam. Khả năng trên không phải không có. Có nhiều bằng chứng: Một, từ lịch sử, họ đã từng làm vậy qua công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958; hai, qua cách họ hành xử với Trung Quốc kể từ sau hội nghị Thành Đô năm 1990; ba, qua sự lúng túng của họ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc trong mấy tháng vừa qua. Không thể nói sự kiện Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 đến Biển Đông là bất ngờ được. Làm chính trị, không thể không biết trước những việc đơn giản như vậy. Không biết là ngu. Nhưng nếu biết trước mà không chuẩn bị gì cả, thậm chí, không thống nhất được ý kiến trong một nhúm 14 người trong Bộ Chính trị là sao? Nhưng thôi, ở đây, tôi xin nhìn vấn đề theo hướng tích cực, là, chính quyền Việt Nam, một, thực tâm muốn chống lại Trung Quốc; hai, đang toan tính một chiến thuật gì đó để bảo vệ Trường Sa và Biển Đông. Nếu vậy, chiến thuật của họ là gì? Theo tôi, có hai chiến thuật chính: Câu giờ và bêu xấu Trung Quốc. Họ ra lệnh cho các tàu hải giám, hải ngư và tàu đánh cá tư nhân Việt Nam ra chạy lòng vòng chung quanh giàn khoan HD-981 nhưng không đối đầu để tránh leo thang xung đột. Họ chạy lòng vòng như vậy để chứng tỏ với dân chúng trong nước là họ cương quyết bảo vệ lãnh hải Việt Nam nhưng đồng thời cũng để tàu Trung Quốc húc vài chiếc chìm để… quay phim. Vâng, để quay phim. Mới đây, trên các cơ quan truyền thông Tây phương đã xuất hiện một số hình ảnh tàu Trung Quốc xịt nước vào tàu Việt Nam, đâm sầm vào một số tàu Việt Nam, làm hư hại nhiều tàu đánh cá Việt Nam… Những bức ảnh và những thước phim ấy đều do phóng viên ngoại quốc thực hiện. Việc mời gọi phóng viên chụp ảnh và quay phim để công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng quốc tế như vậy có hai mục đích: Một, để cả thế giới thấy sự xâm lược hung hãn và tàn bạo của Trung Quốc, từ đó, càng thêm ghét và sợ Trung Quốc. Hai, để thế giới thấy Việt Nam, tuy nhỏ và yếu, nhưng vẫn nhất định không chấp nhận việc Trung Quốc làm bá chủ trên Biển Đông. Vì ghét và sợ Trung Quốc nên càng cảm thấy có nhu cầu đoàn kết với nhau để chống lại Trung Quốc. Vì thấy Việt Nam có quyết tâm nhưng yếu ớt nên càng cảm thấy có nhu cầu ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam. Nhớ, sau năm 1975, khi Khmer Đỏ quấy nhiễu ở biên giới phía Tây, Việt Nam cũng thực hiện chiến thuật ấy. Trong suốt mấy năm, từ cuối năm 1975 đến năm 1978, Khmer Đỏ nhiều lần xua quân tràn qua biên giới bắn giết đồng bào Việt Nam, chính quyền chỉ la làng chứ không có phản ứng gì quyết liệt cả. Nếu lúc ấy, chính quyền quyết định phản công, họ có thể làm được một cách dễ dàng. Nhưng họ không làm. Chủ yếu để chứng minh cho thế giới thấy họ là nạn nhân, và khi họ tràn quân sang chiếm Campuchia, thế giới cũng dễ dàng thông cảm: Đó chỉ là một phản ứng tự vệ. Một việc chẳng đặng đừng. Lần ấy, Việt Nam không thành công trong nỗ lực tuyên truyền của mình cho nên khi Việt Nam chiếm Campuchia, các nước Tây phương vẫn đồng loạt kết tội là Việt Nam xâm lược và càng gia tăng mức độ cấm vận đối với Việt Nam. Tôi nhớ, trong một bài viết sau chuyến thăm Việt Nam năm 1980, khi nhắc đến phong trào vượt biên, Gabriel García Márquez cũng cho Việt Nam hoàn toàn thất bại trên mặt trận tuyên truyền đối ngoại. Lần này, Việt Nam có nhiều lợi điểm hơn. Thứ nhất, hiện nay trên thế giới đang có rất nhiều người ghét Trung Quốc và cũng sợ sự phát triển của Trung Quốc. Âm mưu bành trướng của Trung Quốc đã quá rõ ràng. Hơn nữa, kẻ thù của Trung Quốc cũng rất nhiều. Ngoài Việt Nam, ít nhất Nhật Bản và Philippines cũng là đối tượng để Trung Quốc giành giật và uy hiếp. Thứ hai, Việt Nam hiện nay, tuy bị phê phán nhiều nhưng quan hệ với các nước trên thế giới tương đối tốt đẹp. Mọi người đều thấy Việt Nam chỉ nguy hiểm đối với chính đồng bào của họ nhưng không hề nguy hiểm đối với bất cứ một nước nào khác. Với hai lý do này, việc Việt Nam thành công trong nỗ lực tuyên truyền của họ không có gì khó hiểu. Nhưng đó chỉ là một thành công nhỏ. Cuộc tranh chấp với Trung Quốc hiện nay rất phức tạp, bao gồm nhiều bình diện khác nhau: tuyên truyền, pháp lý, ngoại giao và, ở trường hợp xấu nhất, ít người mong muốn nhất, quân sự. Việc đóng vai trò nạn nhân để tranh thủ sự đồng tình của thế giới chỉ thuộc bình diện tuyên truyền. Giả dụ chiến dịch tuyên truyền ấy thành công thì, sau khi tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới, Việt Nam sẽ làm gì nữa? Ở đây có hai vấn đề: Thứ nhất, nên lưu ý là Việt Nam không có nhiều thì giờ để làm một cái gì đó. Đến giữa tháng 8, khi Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 về nước theo kế hoạch dự trù một cách yên ổn, họ đã thành công trong việc chứng tỏ với thế giới là Biển Đông thuộc về họ, nơi họ muốn đến lúc nào thì đến, muốn đi lúc nào thì đi. Việc bất động của Việt Nam cũng được xem là một sự xác nhận điều đó: Họ không hề phản đối. Thứ hai, việc tranh thủ sự đồng cảm của thế giới chỉ là bước đầu và không hứa hẹn bất cứ một sự hậu thuẫn nào cả. Xin lưu ý: Ukraine được cả thế giới, đặc biệt Mỹ và Cộng đồng châu Âu, thương cảm và ủng hộ nhưng điều đó không hề ngăn chận được bàn tay tham lam, xảo quyệt và tàn bạo của Putin. Nguồn: voatiengviet.com
......

Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

1. Đâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1/2014, các báo của Nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng.   Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến tranh quân sự, do nước A thực hiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày, hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao… Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (19/01/1974-19/01/2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014) cho thấy, cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn… 1/ Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?   a. Đối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị Ngày 14/02/2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị”, tác giả là Blogger Lê Anh Hùng, cho biết:   “Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).   b. Đối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh Đáng chú ý là, Khu Kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Đài Loan, nhưng đã nhượng lại 100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3.300ha, trong đó diện tích đất liền là hơn 2.000 ha và diện tích mặt nước trên 1.200 ha.   Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai miền. Tháng 10/2013, đài RFA, đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài báo trích đăng là:   “… Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc”. Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ: “Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm”. Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng và khai khoáng.   Vũng Áng quả là một vị trí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ không thể không được báo động!   2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm – Vũng Áng – Cửa Việt Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn cứ quân sự Du Lâm – Vũng Áng – Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt Việt Nam cả về đường biển và đường bộ, thậm chí chia Việt Nam thành hai miền. Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra, vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra. Đây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.   (Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào). 3. Vũng Áng – Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò” Ta dễ dàng nhận thấy, phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò” nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippines; trong khi, do khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu hẹp… cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (đường màu trắng mờ). Liệu Trung Quốc có thể khống chế diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Đông: “Chủ tịch Mao Trạch Đông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979). Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên, không phải là không có căn cứ, với bọn Bá quyền Đại Hán Bắc Kinh, thì mọi việc đều có thể. 4. Vài lời kết 1. Không ngẫu nhiên mà Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm toàn bộ Biển Đông. 2. Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp 35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17/02/1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc. Nguồn: Boixitvn
......

World Cup 2014 không quên HOÀNG SA - TRƯỜNG SA CỦA VN

Tình hình Việt Nam trong và ngoài nước sôi động từ lúc Trung Cộng đưa giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và đang tiếp tục đưa các giàn khoan khác ra biển Đông, với hành động ngang ngược  “cá lớn nuốt cá bé” không tôn trọng luật biển quốc tế. Cộng đồng người Việt quốc gia trên khắp thế giới đều biểu tình trước các toà đại xứ Tàu để phản đối hành động vừa ăn cướp vừa la làng của Tàu.   Đầu tháng 5 ở trong nước có những đợt biểu tình chống Tàu ở Sài Gòn, Hà Nội…Nhưng buồn thay số người tham dự không được đông đảo so với hơn 90 triệu dân số! Người dân Việt Nam thờ ơ với vận mênh đất nước?hay sợ hải trước bạo quyền vì biểu tình thường bị đàn áp,đánh đập thô bạo ... Những người chống Tàu như Điếu Cày Nguyễn văn Hải, Tạ Phong Tần, các nhạc sĩ  Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang….thể hiện lòng yêu nước chống ngoại xâm của một công dân đều bị tù nhiều năm. Việt Khang sáng tác những nhạc phẩm: Việt Nam Tôi Đâu, Anh Là Ai… dòng nhạc làm rung động hàng triệu triệu con tim, được dịch ra nhiều ngôn ngữ phổ biến sâu rộng ở hải ngoại, trong các sinh hoạt cộng đồng thường hát các nhạc phẩm đó cũng như nhạc phẩm Triệu Con Tim, Đáp Lời Sông Núi của NS Trúc Hồ làm dâng trào lòng yêu nước.   Trong hai tháng qua chúng tôi du lịch Mỹ, Canada, đi từ Houston, Miami, Washington, New York, Toronto…nơi nào có Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CS nơi đó đều có tổ chức biểu tình chống Tàu, hàng ngàn người tham dự rợp bóng cờ vàng tung bay và những đêm đốt nến cầu nguyện cho Việt Nam.Lòng yêu nước là bổn phận của mỗi công dân Việt Nam, cán bộ, công an, bộ đội của nhà cầm quyền CSVN đừng vì miếng đỉnh chung mà quên ý thức trách nhiệm của mình với tiền nhân, đã bỏ xương máu gìn giữ quê hương gấm vóc từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Không thể để bọn Tàu xâm lăng Việt Nam dưới mọi hình thức. Nhà cầm quyền CSVN phải biết tôn trọng nhân phẩm, ý nguyện của người dân, phải dân chủ hoá đất nước, để bảo vệ hồn thiêng sông núi, Chúng ta không thể ngồi nói chuyện khơi khơi với kẻ cướp đã vào nhà, “giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Đời nhà Trần phải Hội Nghị Diên Hồng đã được toàn dân đồng lòng, đoàn kết đánh đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho dân tộc. Việt Nam từng trải qua cuộc chiến tranh biên giới phiá Bắc năm 1979, và Tàu chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 là một bài học giá trị của lịch sử, để biết phân biệt giữa Thù và Bạn. Năm 1974 Trung Cộng chiếm quần đảo Hoàng Sa, Hải quân anh hùng nổ súng trước, bắn chìm chiến hạm của địch để bảo vệ chủ quyền của mình, dù không chiến thắng nhưng trận đánh đó đi vào lịch sử, thế giới đều biết vùng biển đảo đó của VNCH.   Philippines kiện Trung Cộng ra tòa án quốc tế, tại sao Việt Nam nói mà không dám làm, không đánh nhau trên biển, nhưng phải lên tiếng mạnh mẽ cụ thể và kiện như Philippines để thế giới biết trình trạng VN bị Tàu xâm chiếm vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.Theo công luận trong và ngoài nước đã lên án, phê bình CSVN bán nước với bằng chứng  “Công hàm Phạm Văn Đồng” và tiếp tục trong suốt bao nhiêu năm qua, giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung đã có bao nhiêu bản ký kết, hiệp ước trong bí mật như Hội nghị Thành Đô 1990; hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam-Trung Cộng 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ tháng 12 năm 2000…Tội bán nước là tội nặng nhất, không thể tha thứ. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống luôn bị nguyền rủa với hành động “Cõng rắn cắn gà nhà”.   Đảng CSVN luôn ca tụng16 chữ vàng và 4 tốt để ca tụng sự liên hệ giữa 2 đảng CSVN và Trung Cộng, đây là cái hèn của CSVN trước kẻ thù truyền kiếp.Tổ tiên chúng ta phải luôn đối đầu với kẻ thù từ phưong bắc, bị ngàn năm bắc thuộc nhưng không bị đồng hóa, toàn dân đã đoàn kết một lòng hy sinh biết bao xương màu giành lại độc lập thoát khỏi ách nô lệ. Thế kỷ 21 không thể nào để dân tộc Việt Nam bị nô lệ  bọn giặc Tàu.   Xin đừng quên trách nhiệm giữ nước là của toàn dân Việt Nam. Yêu cầu đảng CSVN hãy thả hết tù nhân yêu nước trong những năm qua bị bắt, bị tù đày gian khổ để thể hiện tinh thần chống Tàu bằng hành động cụ thể. CSVN không trả tự do cho những người từng có thành tích chống Tàu bất bạo động, càng đàn áp bắt bớ người biểu tình chống Tàu là “hèn với giặc ác với dân”, là bằng chứng cuả kẻ bán nước.   Muốn chống ngoại xâm dân tộc VN phải đoàn kết, một lòng không sợ hải trước bạo quyền tay sai bán nước. Trong thời gian World Cup 2014 phần lớn người ta xem các trận thư hùng của 32 đội tuyển của các quốc gia tham dự giải vô địch bóng đá thế giới. Chắc chắn bên Việt Nam sẽ có nhiều người mất nhà vì thua cá độ. Một phần thì lãng quên việc ngoài biển đông luôn dậy sóng bởi giặc Tàu Ô trên vùng biển của Việt Nam, nhiều ngư dân VN ”bám biển giữ ngư trường“ đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm…. Riêng Cộng Đồng người Việt ở Mỹ không chỉ xem World Cup mà xao lãng trước tình hình trong nước trước họa xâm lăng của Tàu cộng, hàng trăm Hội Đoàn khắp các tiểu bang đang tích cực hưởng ứng vận động tổ chức biểu tình trước Tòa Đại Sứ Trung Cộng và Tòa Đại Sứ CSVN, cũng như chương trình “Hát Cho Biển Đông & Quyền Con Người tại Washington DC cùng ngày 6/ 7/2014. Chương trình concert miễn phí ngoài trời có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ ASIA như Ns. Trúc Hồ, Nguyên Khang, Y Phương, Lâm Thuý Vân, Lâm Nhật Tiến, Đan Nguyên, Mai Thanh Sơn, Đoàn Phi, Đặng Thế Luận, Huỳnh Phi Tiễn, Hoàng Anh Thư, Nga My, Ngọc Minh, cùng các xướng ngôn viên Đài Truyền Hình SBTN như Diệu Quyên, Mai Phi Long, và Victoria Tố Uyên. Địa điểm: 1455 Pennsylvania Ave NW, Washington Nhạc phẩm “Việt Nam Ơi” mới nhất của NS Trúc Hồ được phổ biến sâu rộng kêu gọi lòng yêu nước cuả mọi người dân VN khắp năm châu … …………………. Việt Nam ơi, đất nước ta khổ đau từng giờ, hãy đứng lên đừng nên lo sợ. Ta thề không phản bội quê hương. Việt Nam ơi, Bắc Trung Nam cùng nhau một lòng, hãy đứng lên đập tan bạo tàn. Ta thề không nô lệ ngoại bang. Việt Nam ơi, đất nước ta khổ đau từng ngày, hãy đứng lên đập tan độc tài. Ta giành quyền bảo vệ giang san. Việt Nam ơi, khắp năm châu người dân một lòng, hãy đứng lên con cháu Tiên Rồng. Ta cùng xây dựng lại Việt Nam. Muốn bảo vệ đất nước để dân tộc Việt Nam thoát cảnh lệ thuộc Tàu là phải giải thể chế độ CS có như vậy mới thoát được cái ách nô lệ trên cổ dân tộc Việt Nam. Dù sống xa quê hương nhưng chúng tôi  luôn hy vọng một ngày mai tươi sáng cho dân tộc Việt. Nguyễn Quý Đại
......

Đảng cộng sản Việt Nam nên làm gì với “bốn không được” của Bắc Kinh?

Ngày 18.6.2104, cựu Bộ trưởng Ngoại giao China, ông Dương Khiết Trì (Yang Jiéchí), Ủy viên Quốc vụ viện đặc trách đối ngoại và vấn đề Đài Loan, có chuyến công cán tại Việt Nam. Trong khi còn chưa tiến hành hội đàm với phía Việt Nam, thì ở bên nước Tàu, vào tối 17.6, Tân Hoa Xã, hãng thông tấn chính thức của China, đã ra “mệnh lệnh” gửi tới Hà Nội về cái gọi là “bốn không được”, với giọng điệu rất trịch thượng, hống hách.   Với tiêu đề: “Việt Nam và “bốn không được”, kẻ biết thời thế mới là tuấn kiệt”(1), đăng trên Tân Hoa Xã, được báo điện tử vtc.vn lược dịch như sau: “Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông); Thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa); Thứ ba, không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải; Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”.   Sống bên cạnh một nước lớn có rất nhiều mưu mô xảo trá như China, tâm lý chung của người Việt là: Làm theo yêu cầu của China là đồng nghĩa với sự thua thiệt, thậm chí là tự sát. Rất tiếc, gần 85 năm qua, kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lại liên tục “làm theo” như vậy. Hậu quả là, đến thời điểm này, sau khi để Bắc Kinh thâu tóm quyền lực ở cấp cao nhất của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam gần như đã buông xuôi, phó thác vận mệnh dân tộc Việt cho Bắc Kinh. Từ “bốn không được” nêu trên, thử đi tìm ẩn ý của Bắc Kinh trong “mệnh lệnh” gửi tới Hà Nội xem sao: 1. Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông). Ở nội dung này, Bắc Kinh tỏ rõ ý chí quyết tâm và khả năng dùng sức mạnh khi cần. Bắc Kinh đã đánh bài ngửa với Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là giọng nói của một đại ca (ông chủ) khuyên đám đàn em vốn chỉ quen vâng dạ, nghe lời. Nếu có đem ra thảo luận trong Bộ Chính trị nội dung này, mà không có vị nào thấy nhục nhã, thì chẳng còn gì để nói về tư cách cũng như tầm hiểu biết và văn hóa của các vị nữa. Qua cách phản ứng và những đối sách của Việt Nam, kể từ hôm China đặt giàn khoan Hải Dương 981 đến nay, nhiều người cho rằng, đa số các ông bà trong Bộ Chính trị hiện nay như đã buông xuôi và không kiểm soát được tình hình. Việt Nam hiện nay đang trong một giai đoạn nguy hiểm, lực bất tòng tâm. Tựa như một giai đoạn lịch sử Nhà Trần, “ngó thấy sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình…”, khi Nguyên Mông đang ở thế mạnh chinh phục khắp Á – Âu. Chỉ sợ lúc này nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam “chia năm xẻ bảy” mà thôi. Thực tế đang cho phép nghi ngờ, Bắc Kinh có tay trong nội ứng, mà mọi động thái của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đều đã bị Bắc Kinh nắm được. Thực tế, Bắc Kinh cũng rất sợ một cuộc đụng độ Trung – Việt, mặc dù China có tiềm lực gấp vài chục lần Việt Nam. China không chỉ gây oán thù với Việt Nam, mà còn cả Nhật, Mỹ, Philippines. Một cuộc đụng độ với Việt Nam rất có thể sẽ đưa Bắc Kinh đến sa lầy, ngoài ý muốn.   2. Thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa). Điều này chứng tỏ, Bắc Kinh rất sợ những tư liệu lịch sử của Việt Nam về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Mặc dù “Công hàm Phạm Văn Đồng” có thể là cú đá phản lưới nhà tai hại; nhưng dù sao, vẫn còn có nhiều cách để biện giải trước các tòa án sau này. Như vậy, về nội dung thứ hai này, Việt Nam nên tổ chức tuyên truyền không chỉ ở trong nước để Nhân Dân được biết về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa; đặc biệt rất cần tổ chức các hội thảo quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. 3. Thứ ba, không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải. Một Việt Nam dân chủ, đa đảng theo thể chế Tam quyền phân lập đúng nghĩa, là điều mà Bắc Kinh lo sợ nhất hiện nay. Liên minh quân sự với Nhật Bản, Hoa Kỳ và các nước trong khu vực… đang trở thành một nhu cầu tất yếu, và chính sự hung hăng của Bắc Kinh đang đưa Việt Nam đến với Liên minh này. Lịch sử như đang trao cho Việt Nam một cơ hội, theo đó, nếu Việt Nam đa đảng và được hưởng một nền dân chủ thực sự như Hàn Quốc, Nhật Bản… thì nhân dân China sẽ nổi dậy, và rất có thể China sẽ tan rã thành nhiều nước như nhận định của nhiều người. Và như vậy, vẫn còn cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam, để phần nào sửa chữa sai lầm đối với Đất Nước. Hy vọng thời thế và vận nước sẽ đưa đến cơ hội cho các vị ở Bộ Chính trị hiện nay nắm được cơ hội lịch sử này. 4. Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ. Đây thực sự là một “mệnh lệnh” của Bắc Kinh đối với Hà Nội. Nội dung cuối cùng này như là “xương sống” xuyên suốt tất cả các mối quan hệ khác, vậy chúng là gì? Nội dung này cho thấy: - “Hội nghị Thành Đô” (9.1990) do các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và có sự chứng kiến của ông Phạm Văn Đồng, ký kết với Bắc Kinh, chẳng biết là nó gồm những gì, nhưng có vẻ kinh hoàng đối với người Việt! Đồng ý với tác giả Hạ Đình Nguyên trong bài viết “Đã rách tấm da lừa hữu nghị!”, đăng trên Blog Bauxite Việt Nam, hôm 24.6.2014. Theo đó, tác giả Hạ Đình Nguyên, viết: “Không đơn giản mà lá cờ Trung Quốc xuất hiện ở Thủ đô Hà Nội với 6 ngôi sao rạng ngời màu sắc trong dịp các lãnh đạo cấp cao Việt Nam đón tiến Tập Cận Bình. Đó là một phép thử để thăm dò phản ứng của nhân dân Việt Nam, hay thăm dò thái độ của từng “đồng chí” trong lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam? Sau phép thử công khai, có lẽ họ đã hài lòng về kết quả, giống như ban lãnh đạo Bắc Triều Tiên ngồi xem lại camera thấy quan chức nào “khóc nhiều, khóc và khóc ít” trong lễ tang của Kim Yong Il để thẩm định những khuôn mặt trung thành”. “Cờ 6 sao” – đâu chỉ là phép thử sự trung thành của Hà Nội đối với Bắc Kinh, mà rất có thể là sự thăm dò phản ứng của Nhân Dân Việt Nam cho một sự sát nhật lịch sử: Mãn-Mông-Hồi-Tạng-Việt xung quanh một “Đại Hán”?. Nguồn ảnh: https://nr-021.appspot.com/boxitvn.blogspot.com/2014/06/a-rach-tam-da-lu... - Sau Đỗ Mười, tác giả của Hội nghị Thành Đô, là các đời Tổng Bí thư: Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, mỗi ông, đều gắn với những tai tiếng: Hiệp định Biên giới (mà Việt Nam bị mất khoảng 1.500 km2, trong đó có một nửa Thác Bản Giốc, các cao điểm chiến lược ở Thanh Thủy, Hà Giang…); Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (nhượng cho China khoảng 11.000 km2 biển Vịnh Bắc Bộ), và đưa China vào khai thác bô xít tại địa bàn chiến lược Tây Nguyên, đưa kinh tế Việt Nam phụ thuộc gần như hoàn toàn vào China như hiện nay. - Với ông Nguyễn Phú Trọng, mặc dù mới lên làm TBT được nửa nhiệm kỳ, nhưng hình ảnh ông để lại là rất nhạt nhòa, nhiều nội dung đi ngược lại lòng dân... Trong chuyến công du sang China sau khi được bầu là TBT, trong tuyên bố chung Việt Nam-China có đoạn: “Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp; cùng phòng ngừa và tấn công các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm xuyên biên giới; tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình” (3). Không thể nói khác hơn, đây chính là sự sao chép mô hình China tại Việt Nam, kể cả giúp nhau “giữ gìn ổn định trong nước của mình”?! (nếu như có sự bạo loạn, lật đổ… thì Bắc Kinh sẽ cho lực lượng sang “ổn định” chăng?).   Trong bài viết nêu trên, tác giả Hạ Đình Nguyên còn viết: “Người dân đang hoài nghi về phái “thân Trung Quốc”, trong Đảng, mà đứng đầu Đảng là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”.   - Chắc chắn rằng, “Công hàm Phạm Văn Đồng” chưa phải là cú sốc cuối cùng đối với người Việt. Mọi thứ như đang nằm ở văn kiện “Hội nghị Thành Đô”. Nhưng sẽ như mọi sự thật khác, không bao lâu nữa, người Việt sẽ được thấy nội dung của nó, mà không ai khác, Bắc Kinh, vì quyền lợi của China, họ sẽ công bố, như họ đã làm đối với “Công hàm Phạm Văn Đồng”.   Không phải ngẫu nhiên mà báo chí China gọi Việt Nam (hay Đảng Cộng sản Việt Nam?), như là một “đứa con hoang đàng hãy trở về”, như báo chí đang gây xôn xao mấy ngày gần đây, sau chuyến thăm Việt Nam của Dương Khiết Trì. Như vậy, bằng mệnh lệnh “bốn không được”, Bắc Kinh đã ra lệnh cho Hà Nội buộc phải thi hành theo yêu cầu của họ. Nếu không nắm trong tay tất cả những bí quyết mang tính sinh tử, thì chắc chắn Bắc Kinh không thể có giọng điệu ngỗ ngược kiểu quan thầy như vậy được. Bắc Kinh đang dồn Hà Nội đến chân tường. Mà chỉ còn một cách duy nhất, đó là trở về với Nhân Dân thì Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể thoát hiểm, và phần nào bớt được tội lỗi đã gây ra đối với Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam.   (1) http://vtc.vn/311-490509/quoc-te/tan-hoa-xa-lai-trang-tron-vu-khong-de-d... (2) https://boxitvn.blogspot.com/2014/06/a-rach-tam-da-lua-huu-nghi.html (3) http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Viet-Nam--Trung-Quoc-ra-Tuyen-bo-chung... 24.6.2014 H.M.   Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

VN- tâm lý “chờ sung rụng” và trạng thái “bị lờn thuốc”

Tâm lý “chờ sung rụng”…   Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng nằm trên vùng biển thuộc chủ quyền của VN đã gần 2 tháng trời. Và mới đây, Bắc Kinh tiếp tục đưa thêm 3,4 giàn khoan khác ra biển Đông, trong đó giàn khoan Nam Hải 9 đang được di chuyển tới gần vùng đặc quyền kinh tế của VN. Điều này cho thấy sau một thời gian thử thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền VN cũng như dư luận quốc tế về vụ Hải Dương 981, nhận thấy phản ứng của VN và của quốc tế không đủ mạnh, không đáng sợ, Trung Cộng có vẻ cho rằng đã đến lúc muốn làm gì thì làm, đặc biệt đối với VN.   Về mặt thực tế mà nói, VN xem như đã mất biển. Một quốc gia nằm quay mặt ra biển, có đường bờ biển dài 3260 km không kể các đảo, nay phải chịu cảnh bị chặn mất đường ra biển. Ngư dân chỉ cần đánh bắt cá xa bờ một chút là gặp tàu Trung Quốc, bị Trung Quốc rượt đuổi, đánh cướp, đánh chìm tàu các kiểu, còn người thì bị đánh đập, bắt cóc, đòi tiền chuộc…Vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của VN, nằm trong khu vực biển Đông được đánh giá là giàu có về tài nguyên, dầu khí…nhưng trong tương lai, người Việt chỉ còn có thể giương mắt nhìn tàu “nước bạn” nghênh ngang đi lại, nhìn giàn khoan “nước bạn” khai thác dầu của nước mình. Không những thế, một khi Trung Cộng đã hoàn tất các căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa Trường Sa mà chúng đánh chiếm được từ VN, thì an ninh quốc phòng của VN thật sự bị đặt trong tình trạng nguy hiểm! Thế nhưng, nhà cầm quyền VN, suốt trong thời gian giàn khoan Trung Cộng xâm phạm lãnh hải VN, đã tỏ ra thực sự lúng túng, không biết chống đỡ cách nào, ngoại trừ phản đối miệng, phản đối bằng thư, công hàm, cho tàu kiểm ngư lượn vòng xa xa giàn khoan bắt loa phản đối, khuyến khích ngư dân ra khơi giữ vững chủ quyền thay cho nhà nước… Các quan chức lãnh đạo cho tới tướng tá cao cấp, người này phát biểu mâu thuẫn với người kia, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, cho thấy nội bộ đảng và nhà nước cộng sản VN vẫn đang bị chia rẽ sâu sắc trong mối quan hệ với Trung Cộng và phương hướng giải quyết. Khi thấy sự bất bình, phẫn nộ trong dân chúng có vẻ tăng lên thì họ lại lên tiếng mỵ dân vài câu rồi đâu lại vào đó. Người VN trong nước, ngọai trừ một số bày tỏ sự phẫn nộ, uất hận trên các trang blog, các trang mạng xã hội…số đông còn bận tiếp tục quay cuồng với cơm áo gạo tiền và bao nhiêu mối lo hàng ngày. Bởi có thể làm gì, khi ngay cả biểu tình phản đối Trung Cộng nhà nước cũng không cho phép, và bởi vì “mọi chuyện đã có đảng và nhà nước lo”. Dân chờ nhà cầm quyền hành động. Trong nỗi tuyệt vọng, dù từ lâu đã mất lòng tin vào quyết tâm chống Tàu của nhà cầm quyền, người dân hết mong chờ cả giàn lãnh đạo thay đổi, tìm cách “thoát Trung”, lại hy vọng có một nhân vật cụ thể trong đảng, trong nhà nước cộng sản dám vượt lên trước, gánh vác trách nhiệm với non sông. Chẳng hạn, chỉ cần ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất lên đôi lời mạnh mẽ, người ta đã vội mừng, vội đặt niềm tin bất chấp những “thành tích” tệ hại của ông Dũng trong việc điều hành, quản lý kinh tế, bất chấp ông Dũng từng nhiều lần nói mà không làm trong quá khứ.   Trong khi đó, cả giàn lãnh đạo cho tới tướng tá nhìn nhau, đùn đẩy nhau rồi cũng…cùng chờ. Chờ các nước khác, nhất là những nước lớn mạnh như Hoa Kỳ, Nhật… có những hành động gây áp lực, hoặc trừng phạt Trung Cộng giúp mình. Thật khôi hài trong việc VN, một mặt luôn tìm mọi cách nhai lại cái quá khứ “thắng” Mỹ, chửi Mỹ, mặt khác lại lên tiếng kêu gọi Hoa Kỳ phải có hành động trước sự hung hăng ngang ngược của Trung Quốc. Có lãnh đạo VN còn hàm ý trách cả…EU, như bà Tôn Nữ Thị Ninh, cựu Đại sứ Việt Nam tại EU và Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, phát biểu trong bài trả lời phỏng vấn một phóng viên của Đức: "EU vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của VN và một số nước khác trong khu vực Đông Nam Á...Tôi cho rằng, giờ là lúc châu Âu tăng cường hiện diện ở đây để hỗ trợ cho việc thực thi một trật tự thế giới đa cực“. Đây là lời bình trên trang Ba Sàm: “Bà Ninh lại kêu gọi “bọn đế quốc” can thiệp vào “chuyện nội bộ của gia đình”? Chẳng phải bà đã từng phát biểu tại buổi họp báo ở Mỹ hồi năm 2004, rằng: “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”? Mời xem lại: NHỮNG ĐỨA CON HƯ CỦA TÔN NỮ THỊ NINH (LTHQ)”. Tiếp đến là chờ Bắc Kinh động lòng suy nghĩ lại tình hữu nghị đôi bên. Một số quan chức vẫn gọi Trung Quốc là “bạn”, bản thông cáo của Quốc hội VN vẫn kêu gọi “giữ vững quan hệ hữu nghị giữa hai nước”... Cuối cùng là chờ… đến tháng Tám khi Tàu Cộng tự động rút giàn khoan đi theo như kế hoạch từ đầu của chúng. Nhưng bây giờ khi giàn khoan thứ nhất chưa rút đi mà các giàn khoan khác lại xuất hiện, thì họ vẫn chưa có hành động gì khác!   …và trạng thái “bị lờn thuốc” Điều nguy hiểm hơn, về phía dân chúng, sau những phẫn nộ ban đầu khi được biết giàn khoan Trung Cộng kéo vào vùng biển thuộc lãnh hải của VN, tâm trạng chung của số đông dường như đã xìu xuống, nhường chỗ cho sự chán nản, tuyệt vọng, thờ ơ. Bây giờ ngay cả khi nghe tin có 4 giàn khoan, tin Trung Cộng tiếp tục hoành hành trên biển, đang xây đảo nhân tạo trở thành căn cứ quân sự…người dân cũng không phản ứng. Chuyện vận mệnh của nước mình mà dân mình còn thờ ơ như vậy, trách gì thế giới? Rõ ràng so với mấy hôm đầu báo chí các nước đều lên tiếng về việc Trung Quốc xâm phạm lãnh hải nước láng giềng, dư luận đa số nghiêng về phía VN, nếu lúc đó VN lên tiếng mạnh mẽ hơn, thậm chí kịp thời kiện Trung Cộng ra tòa án quôc tế chứ không chỉ dọa kiện thì có lẽ nhiều nước sẽ ủng hộ. Còn bây giờ, mỗi ngày trên thế giới có bao nhiêu chuyện nóng xảy ra, người ta lại quên chuyện Việt Nam và Trung Quốc. Nếu so sánh giữa VN và Philippines, hai quốc gia đang cùng chung một hoàn cảnh bị Trung Cộng đe dọa về chủ quyền, người ta có thể thấy rất rõ Philippines thật tâm, quyết liệt chống Trung Quốc. Người dân Philippines được tự do biểu tình phản đối Trung Cộng, từ người đứng đầu chính phủ là Tổng thống cho đến các nhân vật lãnh đạo cao cấp, người phát ngôn Bộ ngoại giao…luôn luôn có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ trước mọi động thái của Trung Quốc. Chính phủ Philippines quyết chí kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, nỗ lực nâng cấp mối quan hệ đồng minh với Mỹ, mở toang các căn cứ cho Mỹ, toàn lực chống Trung Quốc.   Trong khi đó, nhà cầm quyền VN chỉ chống Trung Quốc một cách cầm chừng, nửa vời. Người yêu nước biểu tình phản đối Trung Cộng bị đàn áp, còn những người bị bắt giữ trước đây với cùng lý do vẫn chưa được thả ra. Bốn nhân vật có vị trí cao nhất trong bộ máy lãnh đạo là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, lặn mất tăm hoặc chỉ có những phát biểu rất chậm, khi giàn khoan và lực lượng tàu bảo vệ đã vào trong vùng lãnh hải VN, đâm va, gây hư hỏng tàu chấp pháp và tàu cá của ngư dân Việt một thời gian. Nói mạnh hơn, dù vẫn chưa đủ là ông Thủ tướng, thì cũng chỉ nói rồi để đó.   Cả đám lãnh đạo, tướng tá cao cấp trốn trong nhà mặc đội tàu của lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư phải gồng lên chịu đựng những cú va chạm, đâm húc từ phía tàu Trung Quốc đông, to và mạnh hơn hẳn, và ngư dân thì bị đẩy ra làm những “lá chắn sống” bằng những mỹ từ đẹp đẽ “ngư dân kiên trì bám biển, giữ vững chủ quyền”. Quốc hội họp trong lúc tình hình như dầu sôi lửa bỏng nhưng cuối cùng vẫn không ra nghị quyết về biển Đông. Rồi VN dậm dọa sẽ kiện Trung Quốc nhưng chưa biết bao giờ kiện, còn Trung Quốc thì đã nhanh tay kiện trước. Trung Quốc đã và đang hoàn tất những căn cứ quân sự khủng trên các quần đảo Trường Sa Hoàng Sa, nhưng VN vẫn không dám cho Hoa Kỳ chính thức thuê cảng Cam Ranh, ngược lại, lại “ưu tiên cho Nga sử dụng vịnh Cam Ranh” và chỉ làm những động tác an dân kiểu như cho “Tàu vận tải của hải quân Mỹ vào vịnh Nha Trang“ (Tuổi Trẻ). Xâu chuỗi lại tất cả quá trình đối phó với Trung Quốc của nhà cầm quyền VN để thấy rằng họ có thực tâm chống Trung Quốc hay không. Mặt khác, nếu chú ý vào mọi chính sách cho tới cách hành xử của Trung Cộng, chúng ta sẽ thấy rằng Bắc Kinh rất nhất quán với tham vọng trước sau như một về việc độc chiếm biển Đông, làm bá chủ khu vực. Và để thực hiện điều đó, Trung Quốc có chiến lược hẳn hoi, tiến hành từng bước, từng bước cho đến khi hoàn tất. Hành xử như một kẻ cướp, nhưng Bắc Kinh đồng thời tỏ ra rất am hiểu tâm lý con người. Đó là mọi thứ đều có thể trở thành quen, giống như hiện tượng bị lờn thuốc. Cứ dấn tới, đo lường phản ứng của “đối phương” và của thế giới như thế nào, nếu bị phản ứng mạnh thì sẽ tạm lùi lại chờ thời, còn nếu không thì lại dấn tới, lần sau mạnh hơn lần trước, nhưng đến lần hai, lần ba, lần thứ n… thì kẻ bị tấn công đã trở nên quen, và cam chịu, các nước khác cũng quen. Thế là Bắc Kinh thắng. Với nhà cầm quyền VN, họ đã quen với nỗi nhục bị Bắc Kinh chơi đểu, lấn lướt, khinh thường, họ cũng quen luôn với việc bị người dân coi như một tập đoàn bán nước, nhưng không lẽ với hơn 90 triệu người VN, viễn cảnh mất nước rồi cũng sẽ trở thành quen và chấp nhận? Nguồn: Facebook Song Chi
......

Xã Hội Dân Sự và Đảng Chính Trị - Nhu Cầu Phối Hợp để Xây Dựng Dân Chủ

“Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh – qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị (ĐCT) – hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT. Đừng để chế độ độc tài hay một vài kẻ, vì tham vọng quyền lực cá nhân, lợi dụng tâm lý “sợ/ghét chính trị” để bài bác và chia rẽ giữa những người cùng một tấm lòng vì tổ quốc.”   Trong xu hướng dân chủ hóa toàn cầu ngày nay, vai trò của xã hội dân sự (XHDS) được nhắc đến như một “thế trận” cần thiết để chuyển hóa các chế độ độc tài sang dân chủ, đặc biệt là tại Đông Âu cách nay hơn 2 thập niên và mới đây tại Bắc Phi. Tuy nhiên, bên cạnh các chuyển hóa này, vai trò của những lực lượng chính trị, cụ thể là các đảng phái chính trị đã góp phần không nhỏ trong việc thể chế hóa nền tảng dân chủ và ngăn chận sự hồi sinh của các đảng Cộng sản độc tài.   Bài nghiên cứu này muốn nhấn mạnh đến sự phối hợp không thể thiếu giữa XHDS và các đảng chính trị để xây dựng và củng cố dân chủ trong cả hai hoàn cảnh độc tài và tự do. Trước hết, XHDS là gì? Theo định nghĩa hẹp, Xã Hội Dân Sự (XHDS) bao gồm các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organization, NGOs), phi lợi nhuận (non-profit organization, NPOs), phi đảng phái, và thường là các tổ chức thiện nguyện, tranh đấu và bênh vực cho một lý tưởng nào đó trong xã hội. Trong định nghĩa rộng hơn, XHDS là tất cả các tổ chức nằm ngoài nhà nước và doanh nghiệp (thị trường); và bao gồm cả các nhóm nhắm tới quyền lợi riêng tư như công đoàn, hiệp hội các chuyên gia, phòng thương mại. Cũng có quan niệm cho là XHDS bao gồm các doanh nghiệp đặc biệt như truyền thông, trường tư và các hiệp hội “vì lợi nhuận”.   1. Tầm quan trọng của XHDS trong mọi cơ chế chính trị   XHDS là những tổ chức do người dân tự nguyện lập ra, tự trang trải về tài chính, không hưởng lương hoặc trợ cấp của nhà nước. Các tổ chức xã hội dân sự không chỉ  nhằm phục vụ các  nhu cầu dân sinh, mà còn can thiệp vào những ảnh hưởng chính trị để bảo vệ quyền con người và các phúc lợi, ổn định chung. Trong môi trường độc tài, XHDS giúp khởi sự những thay đổi nhỏ gắn liền với đời sống của người dân, và từng bước chuyển quyền tự quyết vào tay người dân, và làm giảm dần quyền lực của chế độ độc tài toàn trị. Xã hội dân sự có thể bắt đầu một quá trình chuyển hóa dân chủ; nhưng chỉ có các lực lượng chính trị với sự hỗ trợ của XHDS, mới có thể củng cố một hệ thống dân chủ và thể chế hóa một quá trình chính trị dân chủ. Đây là lý do tại sao cần phải có một mối quan hệ lành mạnh giữa xã hội dân sự và các đảng chính trị - với sự hợp tác, nhưng ở một khoảng cách - để thực hiện được mục tiêu phục vụ cho toàn xã hội mà không bị chính quyền, qua đảng của mình, chi phối. Trong môi trường dân chủ, XHDS giúp tạo điều kiện để thực hiện các quyền tự do chính trị và sự tham gia của các cá nhân trong tiến trình dân chủ, liên kết các cá nhân với nhau và vận động họ tranh đấu cho những quyền lợi chung một cách hiệu quả. XHDS cũng giúp quân bằng quyền lực của chính phủ để ngăn ngừa độc tài và tha hóa, đồng thời giúp chính phủ hiểu rõ nguyện vọng của người dân mà đáp ứng và làm tròn trách nhiệm phục vụ dân.   Nhiều chuyên gia đã lưu ý rằng XHDS là nơi mà "vốn xã hội (social capital)" được xây dựng để duy trì nền dân chủ, quân bình lại với quyền lực nhà nước, phát hiện tình trạng lạm quyền nếu có, và buộc nhà nước phải thực hiện đúng Hiến Pháp. XHDS cũng là nơi mà các giá trị quan trọng như hợp tác, thỏa hiệp, và sự tin tưởng được phát triển để đưa đến một nền dân chủ ổn định. Do đó, xã hội dân sự là một trong ba "chân kiềng" của chế độ dân chủ: xã hội dân sự, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền. 2. Tầm quan trọng của Đảng Chính Trị - không thể thiếu trong các xã hội dân chủ Đảng chính trị (ĐCT) là một phần quan trọng của xã hội vì giúp hình thành một cơ chế chính trị để thực thi nguyện vọng của người dân trong môi trường dân chủ, và của một thiểu số trong môi trường độc tài.  Ảnh hưởng của đảng chính trị rất phổ biến trong tất cả các giai đoạn hình thành của tiến trình dân chủ, và cực kỳ quan trọng giống như các tổ chức xã hội dân sự.   Không có nền dân chủ nào tồn tại mà không cần đến sự hoạt động của các đảng phái chính trị. Đảng chính trị là nhịp cầu nối kết cử tri, nhà nước và cơ cấu. Như Seymour Martin Lipset đã viết: “Đảng chính trị không thể thiếu tới độ không thể nào tưởng tượng ra một nền dân chủ hiện đại mà không có nó ”. Đảng chính trị đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyển dụng và lựa chọn ứng cử viên cho cuộc bầu cử, hình thành và duy trì các chính phủ, và thành lập chính sách.  Đảng chính trị cũng có thể đóng một vai trò kết nối trong xã hội bằng cách huy động cử tri, tổng hợp và diễn đạt các lợi ích xã hội, và củng cố tính hợp pháp của hệ thống chính trị. 3. Nhu cầu sinh hoạt độc lập và phối hợp giữa XHDS và ĐCT a/ Nhu cầu độc lập giữa XHDS và ĐCT: Vì ĐCT là phương tiện đưa đến sự hình thành của chính quyền, do đó cần phải có sự độc lập giữa hai thực thể này để các tổ chức của XHDS không bị thao túng hay lệ thuộc vào ĐCT hay chính quyền (thí dụ như lệ thuộc tài chánh, nhân sự ...) . Tuy nhiên, một cá nhân sinh hoạt trong một đảng phái vẫn có nhu cầu sinh hoạt trong các tổ chức XHDS, và đó là quyền công dân trong một đất nước tự do (thí dụ, một chính trị gia hay một đảng viên của một ĐCT vẫn có thể là hội viên của một hội ái hữu, từ thiện, tôn giáo, văn hóa...). Mầm mống chia rẽ, phân hóa, tạo nghi ngờ là từ phía chính quyền độc tài. Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc năm 2002 đã xem xét đặc biệt đến sức mạnh của các nền dân chủ trên toàn thế giới, và cảnh báo về sự phát triển của “xã hội phi dân sự” (XHPDS), bao gồm các nhóm lợi ích và “XHDS do nhà nước điều hành” (“government operated non-governmental associations”, GONGOs). Các tổ chức XHPDS này giả danh hoạt động cho dân chủ, nhưng mục đích thực sự là chống dân chủ; tham gia trà trộn vào các tổ chức để tạo nghi ngờ và lấy tin cho chính quyền độc tài. Cũng có khuynh hướng là các nhà hoạt động trong XHDS, nhất là để chuyển  hóa thể chế độc tài sang dân chủ, đã tự thành lập ra ĐCT hoặc tham gia các ĐCT để tham dự vào guồng máy chính quyền thời hậu độc tài khi họ thấy đóng góp được hữu hiệu hơn trong guồng máy trực tiếp điều hành đất nước hoặc thành lập các chính sách.   b/ Nhu cầu phối hợp giữa XHDS và ĐCT:Nhu cầu độc lập giữa XHDS và ĐCT không có nghĩa là không có sự phối hợp làm việc cho mục tiêu chung, nhất là trong các quốc gia độc tài. Sự đoàn kết giữa các tổ chức XHDS với nhau, với các ĐCT, và giữa các ĐCT với nhau là một nhu cầu tối cần để tạo sức mạnh sinh tồn và chống lại guồng máy bạo lực độc tài. Nếu không có sự phối hợp giữa các đảng phái chính trị và xã hội dân sự, công dân cuối cùng sẽ trở nên vỡ mộng với tiến trình chính trị và có thể bị quy phục bởi các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa mị dân.   Khoảng cách giữa các bên và xã hội dân sự đã dẫn đến một hiện tượng mà một nhà khoa học chính trị Georgia, ông Ghia Nodia, gọi là "XHDS tự mê", đặc trưng bởi một thái độ chống chính trị cực đoan, coi chính trị như một cái gì đó bẩn thỉu, và đối lại, chỉ có các tổ chức XHDS NGOs là trong sạch, lý tưởng. Các tổ chức chính trị, theo ông Nodia nhận xét, sẵn sàng đáp trả lại việc tự nhận ưu việt đạo đức của các NGOs bằng cáo buộc chính các NGOs là những kẻ cơ hội chủ nghĩa tham lam đuổi theo tài trợ phương Tây, hoặc là những kẻ lý tưởng hời hợt, nói rất nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, huyên thuyên về các nguyên tắc chung chung nhưng hoàn toàn lạc quẻ đối với thực tế chính trị. Hai thái cực suy nghĩ xấu cho nhau này dễ bị hai thành phần lợi dụng để làm lợi cho chính họ: đó chính là chế độ độc tài đương quyền và những thành phần cơ hội chủ nghĩa, mị dân.  Chế độ độc tài lạm dụng để chia rẽ khối chống đối, trong khi kẻ mị dân thì muốn lợi dụng danh nghĩa chống độc tài nhưng “phi chính trị” hoặc “phi đảng phái” để chiêu dụ và thu tóm quyền lực. Lý do chính giúp "cuộc cách mạng hoa hồng" tại Georgia thành công là các đảng dân chủ và các tổ chức xã hội dân sự đã biết cách làm việc chặt chẽ với nhau. Khi các thực thể này không nhìn ra được các lợi ích, kết quả thường xấu cho cả hai phía.  Nếu ĐCT yếu hoặc thậm chí sụp đổ, mà thường xảy ra nếu ĐCT bị cô lập từ XHDS, một kẻ mị dân có thể lấp đầy khoảng trống chính trị và tạo ra mối đe dọa cho cả hai. Điều này chính là những gì đã xảy ra ở Venezuela, nơi Hugo Chavez, đã gạt qua một bên các ĐCT truyền thống, sau đó tiếp tục tấn công các công đoàn, cơ quan truyền thông, nhà thờ, cộng đồng doanh nghiệp độc lập, các tổ chức phi chính phủ, và các quy định của pháp luật nói chung.     4.Những bài học từ các xứ vừa thoát khỏi ách độc tài Quan sát các quốc gia độc tài và vừa thoát độc tài, các nhà nghiên cứu đã rút ra những bài học như sau: • Cần phải đoàn kết giữa tất cả các lực lượng chống độc tài. Đây là bài học đầu tiên và quan trọng nhất; không có chỗ cho sự chia rẽ trong phe đối lập; không có chỗ cho một vị cứu tinh dân tộc, không có chỗ cho bất khoan dung, bao gồm cả đối với những người làm việc với chế độ. Đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự cần phối hợp với nhau để giúp xóa bỏ độc tài và xây dựng một chế độ dân chủ. • Trong nhiều trường hợp, chế độ độc tài có thể bị sụp đổ trong khi “chủ nghĩa độc tài” vẫn còn tồn tại. Serbia và Georgia là những ví dụ về điều này. Công việc của xã hội dân sự là trung tâm truyền bá văn hóa dân chủ trong mọi lãnh vực xã hội. • Một xã hội dân chủ cần một nhà nước dân chủ. Trong đó, vai trò của các đảng chính trị rất quan trọng để đào tạo cán bộ trong guồng máy chính quyền hướng tới mục tiêu dân chủ. Mặt khác, cả đảng chính trị lẫn xã hội dân sự có trách nhiệm thúc đẩy giáo dục công dân để có cử tri tốt hầu đưa tới các cuộc bầu cử tốt. • Các đảng chính trị gần gũi hơn với các quá trình ra quyết định chính trị, đó là lý do mà một số người cho là sự tồn tại của ĐCT là quan trọng hơn sự tồn tại của các tổ chức xã hội dân sự. Đối với những người khác, sự hiện diện của cả hai là cần thiết, như là sự đồng tồn tại của nền “dân chủ đại diện” (Representative democracy = ĐCT) và nền “dân chủ tham gia” (Participatory democracy = XHDS). Nên duy trì tinh thần của sự đồng thuận và hợp tác lâu dài giữa các đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự, một sự tương tác hỗ trợ, bổ xung cho nhau. • Quốc tế nên gia tăng quan tâm đến mối tương quan nên có giữa các tổ chức xã hội dân sự và các đảng chính trị. Theo đó,  Liên Hiệp Quốc cần cải tổ để có một chính sách thích hợp. • Nhân quyền là lãnh vực đang được thế giới quan tâm và đề cao ở khắp nơi. Nhưng nhân quyền chỉ có thể phát triển tối hảo khi các tổ chức  xã hội dân sự và các đảng phái chính trị có những chương trình hợp tác chặt chẽ để cổ võ và ngăn chận mọi chủ trương bóp chết quyền con người. • Trong các xã hội chuyển tiếp, mà theo định nghĩa là chưa có một mạng lưới mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân sự, hợp tác quốc tế có thể giúp rất nhiều để ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân trong giới lãnh đạo. 5. Kết luận: Nhận thức quan trọng nhất là đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội dân sự đều cần thiết cho dân chủ; mỗi thực thể có một vai trò đặc biệt và sự hợp tác giữa họ là cách tốt nhất để góp phần gia tăng dân chủ. Họ là đồng minh, không phải kẻ thù, trong việc thúc đẩy sự thay đổi dân chủ. Các cơ chế quốc tế như European Union (EU) và United Nations (UN) có thể đóng góp vào mục tiêu này bằng cách hỗ trợ các dự án nhằm thúc đẩy sự phát triển liên kết giữa các tổ chức NGO, các đảng phái, và thậm chí cả các tổ chức nhà nước. Chỉ cần hoạt động trong một nhà nước độc tài thì tự động hầu hết các tổ chức XHDS đã nhuốm màu sắc chính trị. Để tồn tại, một số tổ chức NGO phải dựa vào sự hỗ trợ tài chính từ phương Tây. Hỗ trợ này được thúc đẩy chủ yếu bởi mục tiêu chính trị, chẳng hạn như mang lại dân chủ hay cởi mở hóa không khí chính trị bị đàn áp tại các quốc gia độc tài - ngay cả khi sự hỗ trợ dành cho các nhóm hoàn toàn xa cách với chính trị. Ngày nay, hỗ trợ của EU hay UN cần được hướng tới thúc đẩy sự hợp tác giữa các tác nhân chính trị và xã hội dân sự. Việc đẩy mạnh xã hội dân sự trong khi lại coi thường các đảng chính trị là tạo ra một sự mất cân bằng nguy hiểm bằng cách tăng nhu cầu thay đổi (từ XHDS) mà không tăng cường phương tiện có thể cung cấp nhu cầu thay đổi, đó chính là các đảng phái chính trị. Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh – qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị(ĐCT) – hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT. Đừng để chế độ độc tài hay một vài kẻ, vì tham vọng quyền lực cá nhân, lợi dụng tâm lý “sợ/ghét chính trị” để bài bác và chia rẽ giữa những người cùng một tấm lòng vì tổ quốc.   Nguồn tham khảo: 1. Bozóki, András. Political Parties and the Prospects for Democracy.http://www.unc.edu/depts/europe/conferences/parties/papers/bozoki_consti... 2. Carothers, Thomas. Civil Society. 1999-2000http://carnegieendowment.org/pdf/CivilSociety.pdf 3. Charnysh, Volha  Civil Society and Political Parties: Together While Apart. December  10, 2012http://belarusdigest.com/story/civil-society-and-political-parties-toget... 4. Dippell, Matt . The role of Civil Society and Political Parties in a Democracy. February 18, 2000, Washington, D.C. National Democratic Institute for International Affairs. https://www.ndi.org/files/1005_ww_civilsocpolparties.pdf 5. Gerrits, André  – The Netherlands; Herd, Graeme  – GermanySekulovic, Vlatko  – Serbia, Ungar, Elisabeth  – Colombia. Political Parties and Civil Society: How to Build Better Relations? World Movement for Democracy.http://www.wmd.org/assemblies/fourth-assembly/reports/political-party-bu... 6. Gershman, Carl . The Relationship of Political Parties and Civil Society. March 17, 2004.  The National Endowment for Democracy http://www.ned.org/about/board/meet-our-president/archived-remarks-and-p...
......

Thảo luận thoát Trung về văn hóa (1): Giã từ nền văn hóa quỳ lạy

Có lần, Hán Cao Tổ Lưu Bang (202 trước Công nguyên) nói với Lục Giả: “Ta ngồi trên lưng ngựa mà có được thiên hạ thì cần gì phải học Thi, Thư…”. Nhưng rồi Hán Cao Tổ cũng nghe lời khuyên của Lục Giả trọng dụng kẻ sĩ, đề cao Nho giáo để củng cố ngai vàng. Đến đời Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) thì đạo Nho trở thành quốc giáo. Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi), người được xem là sáng lập ra Nho giáo được tôn lên bực thánh, trở thành Vạn thế sư biểu (người thầy của muôn đời). Điều cốt lõi của Khổng giáo là lý thuyết về người quân tử, tức kẻ cai trị đất nước (quân là cai trị, quân tử là người cai trị). Theo Khổng Tử thì người quân tử phải biết tu thân, phải có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc… Tu thân rồi, người quân tử phải dấn thân hành động: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Người quân tử phải chính danh để cai trị đất nước. Các triều đại phong kiến sau này đều triệt để khai thác Khổng giáo, họ biến đổi, “gia cố” Nho giáo thành một triết thuyết cực đoan có lợi cho giai cấp thống trị. Chữ đạo của Khổng Tử là những mối quan hệ phải có trong xã hội thời đó như đạo vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn hữu… sau này chỉ còn ba quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ với cái logic phản động và phản dân chủ nhất: quân sử thần tử, thần bất tử bất trung(vua bảo chết, thần không chết là bất trung); phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu); với phụ nữ thì: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà thì phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng chết phải theo con).   Trong chế độ phong kiến, nhân dân đã tiếp thu những “đạo lý” đó như người khát nước uống thuốc độc để giải khát. Chế độ phong kiến tàn bạo và thối nát ở Trung Quốc đã nhờ triết thuyết của Khổng giáo mà tồn tại và kéo dài cho đến cách mạng Tân Hợi 1911. Vì thế, nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) đã phê phán Nho giáo một cách triệt để: “Trên phương diện chính trị, Nho giáo chủ yếu là bảo thủ. Nó bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách… Bảo vệ lễ nghi của các triều đại xưa là mối quan tâm hàng đầu của Khổng Tử. Trong chữ lễ, vương triều Trung Hoa cũng như Việt Nam đã tìm thấy biện pháp tốt nhất để duy trì sự ổn định của ngai vàng” (Bàn về đạo Nho – nguyên văn tiếng Pháp đăng trên tạp chí La Pensée số 10-1962 với đề là Confucianisme et Marxisme au Vietnam. Dịch sang tiếng Việt, in trong Bàn về Đạo Nho – 1993). Với Khổng giáo, vua là Thiên tử (con Trời), thay Trời cai trị muôn dân. Vua với nước là một. Yêu nước là trung với Vua (trung quân ái quốc). Điều nguy hiểm nhất của triết thuyết Khổng Tử là: Người quân tử nhờ tu thân mà có vai trò cai trị, nhưng khi quân tử – tức kẻ cai trị – không tu thân, trở thành những hôn quân bạo chúa thì dân chúng vẫn phải cam chịu, không được làm cách mạng lật đổ chúng. Vì thế Nguyễn Khắc Viện mới viết: Khổng Tử từ chối mọi cải cách! Trong xã hội Khổng giáo mấy ngàn năm ở Trung Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm quan. Làm quan để được quỳ lạy dưới ngai vàng. Cái văn hoá quỳ lạy ấy đã kìm hãm nước Trung Hoa trong vòng tăm tối mấy ngàn năm. Trong nền văn hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên đúng. Chỉ có vua đúng. Vua bảo chết là phải chết. Cha bảo chết thì con phải chết. Tóm lại là không có chân lý. Hay nói khác đi, không ai đi tìm chân lý cả. Chân lý đã có sẵn ở kẻ bề trên, ở triều đại chính thống, bất kể nó thế nào! Điều trớ trêu là văn hoá quỳ lạy ấy còn tồn tại đến hôm nay ở nước Trung Hoa cộng sản. Tướng Lưu Á Châu, một nhà bình luận nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay kể rằng, khi ông đi học một lớp chính trị trong quân đội, thấy thầy giảng chướng quá, ông đứng lên thắc mắc. Ông thầy liền nói: Tại sao anh dám cãi lại tôi? Tướng Lưu Á Châu thất vọng, vì thầy đã không dám hỏi: “Vì sao anh lại nói như thế?”, rồi tranh luận để tìm ra chân lý. Thầy chỉ phán: “Vì sao anh dám cãi lại tôi?!”. Thầy luôn đúng. Trò không được cãi. Nước Trung Hoa cộng sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội Khổng Mạnh trá hình mà thôi! Trong khi đó thì ở phương Tây, cùng thời với Khổng Tử, Aristote (384-332 trước CN) đã tuyên bố: “Platon là thầy tôi, nhưng chân lý còn quý hơn thầy!”. Cái văn hoá chân lý quý hơn thầy ấy đã dẫn dắt phương Tây trở thành một xã hội dân chủ và văn minh đến ngày hôm nay. Việt Nam chúng ta từng một ngàn năm Bắc thuộc, lại luôn chịu ảnh hưởng của người láng giềng hủ bại Trung Hoa, nên tầng lớp có học của nước ta thấm đẫm thứ văn hoá quỳ lạy của Trung Hoa. Trí thức nước ta trong mấy ngàn năm lịch sử chỉ lo dùi mài kinh sử để mong đỗ đạt làm quan, để được quỳ lạy trước sân rồng. Có người già rồi còn đi thi, suốt đời ăn bám vợ con. Việc làm ra của cải vật chất đều do người phụ nữ và những người ít chữ gánh vác. Trí thức Việt Nam trong quá khứ không ai học để làm cách mạng, để thay đổi đất nước. Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau còn tồn tại đến hôm nay ở nông thôn miền Bắc là kết quả của tư duy làm quan, tư duy quỳ lạy. Báo chí của Việt Nam hôm nay hay ca ngợi một bà mẹ đi bán hàng rong mà nuôi được bốn năm người con học đại học. Học để mong kiếm một mảnh bằng vênh vang với làng xóm! Học để mong kiếm một cái chân trong cơ quan nhà nước, để trở thành một anh công chức, một anh nha lại, trên bảo dưới phải nghe. Khi bàn về việc trọng dụng đội ngũ trí thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói, đại ý, xung quanh thủ tướng toàn là những người có bằng cấp cao, thạc sĩ, tiến sĩ… toàn là trí thức!   Thực ra các vị đó chỉ là những công chức, không phải trí thức. Mà đã là công chức thì trên bảo gì dưới phải nghe theo. Nếu không nghe thì “văng” ra khỏi bộ máy quyền lực ngay lập tức. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc bình sinh có nói với người viết bài này: “Tư bản Pháp chỉ tuyển chọn vào bộ máy những người đỗ đạt cao. Vì thế, khi vào một cơ quan công quyền, người ta biết rõ những người ngồi đó đều là người tài giỏi, vì thế, họ vừa có quyền, lại vừa có uy. Thế mới gọi là uy quyền. Nhưng quyền uy mấy thì cũng là công chức. Nhân dân Pháp chỉ kính trọng những trí thức tự do, vì họ dám phản biện xã hội, bảo vệ lẽ phải. Nước Pháp có hàng trăm nghìn hội đoàn độc lập. Đó là một lực lượng dân chủ hùng mạnh để cân bằng với chính quyền của giai cấp tư bản”. Buồn thay, bộ máy công quyền của Việt Nam hôm nay chỉ tuyển chọn những người “dễ bảo” hoặc biết “mua bán”. Vì thế nó ngày càng xuống cấp. Có lần, trong một cuộc gặp gỡ có nguyên Bộ trưởng L.H.N., phó giáo sư tiến sĩ V.T.K. và người viết bài này, trong lúc vui vẻ, phó giáo sư V.T.K. than phiền với Bộ trưởng L.H.N.: Mấy tay vụ trưởng đi theo anh chuyến này vô Nam, qua nói chuyện tôi thấy các vị đó dốt quá! Nguyên Bộ trưởng L.H.N. nói: Ngày xưa dốt là từ cấp thứ trưởng trở lên, cấp vụ nó giỏi lắm, nay nó dốt xuống đến cấp vụ rồi!!! Từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy, đã hình thành một tâm lý xin-cho trong xã hội. Khi nhóm Cánh Buồm của nhà giáo Phạm Toàn soạn thảo bộ sách Học tiếng Việt cho học sinh lớp 1 theo hướng cải cách giáo dục, tôi đến chơi một người bạn cũ từng là một quan chức cao cấp, từng ở nước ngoài nhiều năm, có học thức cao… và tặng ông một trong các cuốn sách Học tiếng Việt đó. Cầm sách trong tay, ông nói ngay: Họ không cho lưu hành đâu anh ạ! Thì ra cái tâm lý xin-cho đã ngấm vào xương tuỷ giới trí thức nước ta. Trên phải cho thì dưới mới được làm! Dù chưa ai cấm đoán bao giờ! Ít lâu sau, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa cho học sinh phổ thông học. Thế là tôi viết giới thiệu bài tập đọc “Lễ thả thuyền ra Hoàng Sa…” đã có trong sách Tiếng Việt lớp 1 của nhóm Cánh Buồm. Báo Người Lao động TP HCM đã đăng ngay bài đó trong tháng 1-2014 (vì… Thủ tướng đã… cho… nói về Hoàng Sa và Trường Sa!!!). Ngày nay nước ta đã manh nha kinh tế thị trường, có bao nhiêu điều kiện và cơ hội để học làm người tự do, làm khoa học, làm chuyên môn, làm nghề… làm ra của cải cho một đất nước “đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên) thì trí thức nước ta cần mau chóng giã từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy có cội nguồn từ văn hoá Khổng Mạnh Trung Hoa để canh tân đất nước.   Để kết thúc bài viết này, tôi xin kể một câu chuyện về giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, ông sinh năm 1941 tại xã Điện Thắng Bắc huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hiện ông là một Việt kiều ở Bỉ, hoạt động trong lĩnh vực khoa học không gian. Ông là một nhà khoa học rất nổi tiếng, là “một trong 10 người làm thay đổi nước Bỉ” như cách nói của chính phủ Bỉ. Ông giảng dạy ở bậc đại học đã nhiều năm, từng là trưởng Khoa Cơ học phá huỷ thuộc Khoa Kỹ thuật không gian Đại học Liège. Một ngày kia, đồng nghiệp của ông “phát hiện” ra ông chỉ có bằng kỹ sư, chưa có bằng tiến sĩ như bao đồng nghiệp khác đang làm việc cùng ông. Người ta đề nghị giáo sư Nguyễn Đăng Hưng làm hồ sơ để thi tiến sĩ. Khi giáo sư Hưng tập hợp các công trình mình đã làm và đã được ứng dụng trong sản xuất để trình Hội đồng, chuẩn bị cho luận án tiến sĩ sẽ làm, thì Hội đồng nhất trí cao rằng ông xứng đáng là tiến sĩ từ lâu rồi, khỏi cần thi! Tại một quán càfê ở đường Phạm Ngọc Thạch Quận 1 TP HCM cuối năm 2013 vừa qua, giáo sư Hưng tâm sự với chúng tôi: Mãi làm việc quá nên tôi… quên làm tiến sĩ. Bao giờ cái văn hoá học để làm việc thay thế được văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy trong giới tinh hoa ở nước ta, thì Việt Nam mới mở mày mở mặt được. Tháng 6-2014   L. P. K.   Nguồn: http://vanviet.info/
......

Thoát Cộng, thoát Trung, Thoát chết

Quỹ thời gian của Việt Nam đã cạn.  Việt Nam đã tới tận đầu cuối của sợi dây đu chính trị và an ninh quốc gia.  Ở thời khắc lịch sử này Việt Nam chỉ có hai sự chọn lựa dứt khoát: “Death by China” hoặc là “Re-birth by US-Japan”. Bộ tứ bộ chính trị VN từ phải sang: Chủ tịch Trương tấn Sang, TBT Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng. Nếu như ĐCSVN và những người đang cầm nắm quyền lực điều hành đất nước kiên định thà là cho Việt Nam “chết bởi tay Trung Cộng” để bảo vệ ĐCSVN và tư lợi của riêng mình thì vận mệnh Việt Nam chắc chắn sẽ bi đát. Tuy nhiên, toàn dân Việt, dầu là đang ở nơi nào trên mặt đất này, cũng không để cho đất nước mình “chết bởi bàn tay Trung Cộng” một cách thầm lặng.  Đặc biệt là nhân dân quốc nội chắc chắn sẽ “tính toán sòng phẳng và trọn gói” với ĐCSVN.  Một khi đã không thể kềm hãm được sự phẫn nộ, nhân dân trước hết có thể sẽ dùng máu của ĐCSVN để đáp trả bọn xâm lăng Trung Cộng và để rữa sạch trang sử ô nhục của dân tộc.   Không, tôi chưa từng chủ trương bạo động.  Cũng không cổ xúy bạo động.  Chỉ là dự cảm không lành cho một “bất hạnh lớn” đang lù lù tiến tới.  Hy vọng là những người Việt chân chính đang là đảng viên trong hàng ngũ ĐCSVN kịp thời từ bỏ tổ chức bán nước hại dân này mà quay về với đại thể dân tộc.  Hy vọng là những người Việt chân chính đang là quân nhân trong hàng ngũ QĐNDVN kịp thời từ bỏ Tổ Quốc XHCN của tổ chức bán nước hại dân này mà quay về bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam.  Hy vọng là những người Việt chân chính đang là cán bộ trong hàng ngũ CANDVN kịp thời từ bỏ thái độ “còn đảng còn mình” ngu trung với tổ chức bán nước hại dân này mà quay về bảo vệ an ninh cho công dân Việt Nam.  Đừng để cho máu của người Việt thêm một lần nữa chảy tràn vì cộng nô bán nước hại dân. Nếu như Việt Nam chọn lựa con đường “Tái sanh nhờ Mỹ-Nhật” thì đây là một số việc cơ bản mà Việt Nam cần nhanh chóng tiến hành:     Thanh lọc nội bộ một cách triệt để và toàn diện.     Loại trừ ĐCSVN ra khỏi cơ chế và quyền lực nhà nước thông qua Quốc Hội.     Chuyên nghiệp hóa vai trò Đại Biểu Quốc Hội.     Luật hóa quyền cắt đặt những cố vấn riêng chung quanh mình để hỗ trợ cho vai trò Đại Biểu Quốc Hội chuyên nghiệp.     Giải thể Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, trả lại tự do và tự chủ cho các đoàn thể và tổ chức xã hội.  Thành lập một mặt trận chấn hưng đức trí Việt Nam.     Trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm và dân oan. Khuyến khích sự tham dự và phát triển của các xã hội dân sự. Tuyệt đối tôn trọng nhân quyền và dân quyền.     Tái cơ cấu hệ thống chính quyền trên nền tảng của một thể chế chính trị dân chủ và tự do.     Tách rời quân đội ra khỏi hoạt động chính trị.  Chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa lực lượng vũ trang.  Tham gia vào liên minh quân sự “an ninh tập thể” của ĐNA do Nhật Bản đề xuất.     Công nhận quyền tự do tư hữu.  Cải tổ kinh tế một cách sâu, rộng và toàn diện. Bỏ hẳn cái đuôi “theo định hướng XHCN”.     Loại trừ cơ chế áp đặt ý thức hệ.  Cải tổ giáo dục và đào tạo một cách sâu, rộng và toàn diện.   Nhân dân Việt Nam cần phải làm gì trước hiện tình của đất nước?  Rất đơn giản: Hãy làm một công dân có trách nhiệm.  Đó là, hãy đứng lên, thật đông, cùng nhau xác lập quyền lực của toàn dân.  Nếu ngay cả một điều đơn giản như thế này cũng không thể hoặc không dám thì nói chi đến việc hy sinh máu xương để bảo vệ tổ quốc. Cụ thể hơn, nhân dân quốc nội cần phải dứt khoát “Thoát Cộng” nếu muốn “Thoát Trung” và “Thoát Chết” bằng cách:       Hãy từ bỏ ĐCSVN.  Từ nay không nói tới ĐCSVN, không kiến nghị với ĐCSVN, không khiếu nại với ĐCSVN, không tham gia họp hành bầu bán ĐCSVN. . .     Hãy triệt tiêu quyền lực của ĐCSVN.  Không hợp tác với ĐCSVN, không nghe lệnh của ĐCSVN, không tạo cơ hội cho ĐCSVN, không dung thứ cho sự lộng quyền của ĐCSVN . . . .     Hãy làm mọi thứ có thể để củng cố quyền lực của Thủ Tướng và của Quốc Hội.  Không vì một Nguyễn Tấn Dũng hoặc một cá nhân nào mà chỉ vì vai trò Thủ Tướng và vai trò Đại Biểu Quốc Hội của một nhà nước pháp quyền cần phải có đủ sức mạnh.  Đừng nhầm lẫn giữa quyền lực của một cá nhân đang nắm vai trò và quyền lực của chính vai trò dầu là ai đang nắm nó (cũng cố institution).  Chính vì Thủ Tướng và Quốc Hội không có đủ quyền lực cho nên ĐCSVN mới dễ dàng thao túng lũng đoạn chính quyền và đất nước. Sự toàn vẹn lãnh thổ và tương lai của 90 triệu dân tùy thuộc vào một điều kiện đơn giản; đó là, phải gỡ cho được bàn tay phù thủy của ĐCSVN đang khống chế hệ thống chính trị và chính quyền của Việt Nam.  Nhân dân Việt Nam có thừa khả năng để gỡ bỏ nó. Một con voi to bị giam giữ chỉ bởi sợi giây nhỏ buộc vào cọc là tại vì nó đã bị buộc từ lúc nhỏ và bị buộc quá lâu đến đổi quên rằng mình đã lớn và có thừa sức mạnh để bức sợi dây to hơn nhiều.  Tôi kỳ vọng Việt Nam không là con voi vô vọng đó. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Lần thức tỉnh sau cùng?

Sau ngày 30 tháng Tư, 1975, người dân miền Bắc nói chung và những đảng viên cộng sản nói riêng lần đầu tiên bước chân vào Sài Gòn và miền Nam, mới vỡ ra một sự thật, đó là cuộc sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam khá hơn chế độ XHCN ở miền Bắc về rất nhiều mặt.   Kinh tế là cái đập vào mắt mọi người ngay lập tức và dễ nhìn ra nhất khi so sánh từ bộ mặt các đô thị cho tới nông thôn hai miền, thu nhập, mức sống của người dân, số lượng, chất lượng, sự phong phú của các chủng loại sản phẩm, hàng hóa trong đời sống hàng ngày, rồi tổng sản lượng quốc gia, vị trí nền kinh tế của mỗi miền so với các nước trong khu vực…   Đến chất lượng của nền giáo dục, y tế, thành tựu về văn hóa nghệ thuật xét trên tiêu chí tự do sáng tác, sự đa dạng, phong phú trong các tác phẩm. Quan trọng hơn là một môi trường sống tự do dân chủ được thể hiện từ tự do báo chí, lập hội, lập đảng, biểu tình phản đối Mỹ và chính quyền Sài Gòn, tự do tiếp nhận thông tin …   Trí thức miền Bắc nhận ra sự khác biệt này khi tiếp xúc với kho báo chí, sách vở, tư liệu, dịch thuật mênh mông đa chiều của chế độ miền Nam. Trong lúc miền Bắc chỉ được đọc/nghe/xem báo chí quốc doanh của nhà nước, tư liệu dịch thuật thì chỉ từ Liên Xô và các nước XHCN anh em, ai lén lút nghe đài BBC có thể bị tù ngay thì ở miền Nam báo đài, sách vở các nước từ nhiều nguồn khác nhau, kể cả tư tưởng của Mác của Mao…được in ấn, lưu hành rộng rãi.   Phóng viên nước ngoài được tự do sục sạo khắp nơi, tác nghiệp đưa tin và phải nói thật, chính sự tự do này cũng là con dao hai lưỡi đối với chế độ VNCH trong khi phải đương đầu với cái loa tuyên truyền một chiều phát hết cỡ của truyền thông báo chí cộng sản. Nhưng tự do dân chủ thì phải như vậy.   Trước đó, người dân miền Bắc luôn được nghe đảng và nhà nước tuyên truyền rằng cuộc sống của đồng bào miền Nam vô cùng khốn khổ vì bị Mỹ ngụy kìm kẹp, đồng bào miền Nam đang rên siết dưới gót giày ngoại xâm, phải hy sinh tất cả để giải phóng miền Nam… Trước thực tế rành rành sau đất nước thống nhất, những “cái loa” của đảng lại tìm cách ngụy biện rằng đó chỉ là phồn vinh giả tạo, miền Nam giàu là do Mỹ viện trợ, chứ còn đời sống xã hội thì thối nát, toàn đĩ điếm, xì ke, tham nhũng…   Mặc dù vậy, trong lòng nhiều người, chắc chắn niềm tin vào đảng, vào nhà nước cộng sản đã giảm sút khá nhiều, thậm chí có những người thực sự thức tỉnh vì nhận ra mình, cha ông mình đã bị lừa. Theo thời gian, những giá trị của VNCH đã từ từ, lặng lẽ hoặc công khai được phục hồi. Từ việc chuyển đổi mô hình từ kinh tế quốc doanh, tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường dù vẫn còn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”, bỏ ngăn sông cấm chợ, bỏ các mô hình làm chủ tập thể như hợp tác xã, nông trường…trở lại với tư nhân, tư hữu. Từ việc một số lượng không nhỏ sách của miền Nam trước năm 1975 được cho in ấn, tái xuất bản, một số lượng lớn các ca khúc của miền Nam được phổ biến, trình diễn công khai (cần phải nói thêm rằng âm nhạc miền Nam chưa bao giờ hoàn toàn chết trong suốt 40 năm qua, ngay cả trong thời kỳ đầu khi bị lên án là đồi trụy, phản động…thì người dân vẫn lén lút nghe). Trong đời sống hàng ngày nhiều thứ cũng dần dần xuất hiện trở lại. Chẳng hạn, việc cho phép cô giáo tiểu học, trung học rồi đến nữ sinh trung học lại được mặc áo dài, trang phục công sở nam mặc veston thắt cravate đi giày, nữ ăn mặc đẹp, lịch sự thay vì cung cách xuề xòa một thời được đề cao. Trong các cơ quan công sở hành chính thay vì gọi “sếp”, gọi cấp trên là anh Hai, Chị Ba, chú Tư…thân mật theo kiểu gia đình đã trở lại thành ông/bà lịch sự. Những từ ngữ trong giao dịch công sở, giấy tờ hành chính, trong giáo dục, bằng cấp, đời sống…một thời cứ Việt hóa một cách thô thiển như “xưởng đẻ”, chiến sĩ gái, bài nói (diễn văn), các bạn nghe đài (quý thính giả), hát đôi (song ca), hát tốp hoặc tốp ca (hợp ca)…từ từ “đổi mới thành cũ”, kể cả CMND cũng trở lại là thẻ căn cước… Nhưng cái án nặng nề nhất mà chế độ VNCH bị đảng và nhà nước cộng sản “đóng đinh” bao năm là một chế độ ngụy quyền, tay sai bán nước, đã hằn thành nếp nghĩ trong đầu óc bao thế hệ người Việt sinh ra và lớn lên ở miền Bắc trước đây cũng như người dân cả nước thời hậu chiến.   Đối với những người dân lặng lẽ tìm cách mở mắt cho mình qua báo chí tư liệu “lề trái” trong và ngoài nước, từ lâu đã nhận ra nhiều sự thật phía sau “hào quang” chiến thắng và tính chính danh, chính nghĩa của đảng cộng sản trong cả hai cuộc chiến tranh với Pháp, Mỹ, sự thật về mối quan hệ Việt-Trung trong suốt bao nhiêu năm…   Thật ra, thông qua đường lối chính trị ngoại giao cho tới cách hành xử của phần lớn các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản, người dân VN cũng như thế giới không khó khăn gì để nhận ra đảng cộng sản hèn hạ, bạc nhược trước Trung Cộng như thế nào, thật sự là một cái đảng bán nước ra sao. Nhưng muốn thuyết phục tất cả những ai còn mơ hồ, hoặc vẫn còn chút niềm tin vào nhà cầm quyền VN thì phải có bằng chứng giấy trắng mực đen. Và dần dần những bằng chứng đó đã bị lộ ra, từ chính “bạn vàng” Trung Quốc. Từ công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, bản đồ, sách giáo khoa do nước VNDCCH phát hành công nhận Trường Sa-Hoàng Sa là của Trung Quốc… được chính Trung Cộng đính kèm làm bằng khi kiện VN ra trước Liên Hiệp Quốc ngày 9 tháng Sáu vừa qua.   Nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ. Đừng quên trong suốt bao nhiêu năm qua, giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung đã có bao nhiêu bản ký kết, hiệp ước trong bí mật, rồi nào Hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam-Trung Quốc 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ tháng 12 năm 2000, Hội nghị Thành Đô 1990… Không ai biết được hai bên đã ký kết thỏa thuận những gì, chỉ biết Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, hàng trăm kilomet vuông dọc biên giới phía Bắc, hàng ngàn hải lý vuông lãnh hải thuộc vịnh Bắc Bộ…trở thành của Trung Cộng, do chính đảng và nhà nước cộng sản VN tự tay dâng cho giặc. Chưa kể một phần Trường Sa và nhiều địa điểm bị Trung Cộng cưỡng chiếm qua các cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, trận Gạc Ma 1988… Và bây giờ, điều chua chát là nhà cầm quyền VN phải viện dẫn đến thực tế Hoàng Sa lúc bấy giờ đang thuộc quyền quản lý của chính quyền VNCH, bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm từ năm 1974, để “chạy tội” cho công hàm 1958, hay những “Tấm bia chủ quyền thời VNCH trở thành di tích quốc gia” (Báo Thanh Niên)… Và bây giờ, trước lòng tham vô đáy, sự hung hăng ngang ngược của Trung Cộng, nhiều nước ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á đều mong muốn được là đồng minh của Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc, kể cả VN, vẫn luôn tự hào đã đánh đuổi “đế quốc Mỹ xâm lược”.   Ai sai lầm, ai bán nước, câu trả lời đã quá rõ ràng. Chưa kể, nếu nói là một chế độ tay sai, đánh thuê, thì chính đảng cộng sản VN còn tự hào thừa nhận “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”, chính đảng cộng sản cũng phải dựa vào lương thực, quân tranh quân dụng, tiền bạc, vũ khí, đạn dược, cố vấn, kể cả con người…của các nước XHCN anh em để có thể đánh Mỹ và VNCH. Như thế là sau 39 năm, cái tiếng oan trong lịch sử “một chế độ tay sai, đánh thuê, bán nước” của chế độ VNCH đã được gột rửa, đối với những ai hiểu biết.   39 năm lâu hay là mau? Có thể gọi là mau nếu so với quãng đường lịch sử dài mấy ngàn năm của một quốc gia, nhưng riêng trong hoàn cảnh ngặt nghèo của VN, khi cơn ác mộng mất nước, bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Cộng đang lơ lửng trước mắt và thời gian còn lại quá ít, thì mọi sự thật được bạch hóa đều trở nên quá chậm. Dù sao, đối với tất cả những ai thức tỉnh trước sự thật về đảng cộng sản VN lần này, có lẽ sẽ là sự thức tỉnh sau cùng, và không bao giờ còn chút mơ hồ, lầm lẫn nào nữa. Bởi với một dân tộc có một lịch sử cay đắng “1000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…” (ca khúc “Gia tài của Mẹ”, Trịnh Công Sơn), tội bán nước luôn luôn là tội lớn nhất, không thể tha thứ. Với cái tội bán nước có bằng chứng, có quá trình, tiếp tục một cách lâu dài và đem lại quá nhiều hệ lụy cho đất nước, dân tộc, đảng và nhà nước cộng sản còn lý do nào để có thể tiếp tục độc quyền lãnh đạo đất nước?   Nguồn: Facebook Song Chi
......

Đồng Chí Dương Khiết Trì

Vừa qua, viêc ông Dương Khiết Trì, nhân vật cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo nhà nước TQ sang VN để “ đôn đốc đứa con hoang đàng trở về nhà”(theo cách nói của báo chí TQ), và khi hai bên gặp nhau, họ vẫn gọi là “đồng chí”. Sự kiện này đã gây nên làn sóng phẫn nộ trong dư luận VN. Bởi vì theo dư luận quần chúng, những hàng động vừa qua của TQ đã lộ nguyên hình là tên KẺ CƯỚP. Vậy tại sao đã nhận diện rõ ràng là kẻ cướp mà VN vẫn gọi TQ là “đồng chí”? Dương Khiết Trì gọi mấy người lãnh đạo ĐCSVN là “đồng chí” trong dịp y sang VN để “rao giảng” là hoàn toàn đúng. Bởi theo ông Bộ trưởng QP PQT, thì mặc dù giữa hai nước hiện nay “đôi khi” còn tồn tại một số vấn đề bất đồng ý kiến. Nhưng đó là ..chuyện nhỏ trong gia đình. Về cơ bản, quan hệ giữa hai nước vẫn tốt đẹp?   Người ta có thể hiểu rằng, những hành động TQ xâm chiếm biển đảo và biên giới ở các tỉnh phía Bắc VN, hạ đặt giàn khoan HD 981 trong lãnh hải nước ta, và đang tiếp tục đưa tiếp mấy giàn khoan nữa ra biển Đông nữa, đều nằm trong một “kịch bản” đã được hai bên hoạch định từ sau hội nghị Thành Đô năm 1990, và mấy đời Tổng bí thư kế tiếp. Những hành động của TQ hiện nay chỉ là phần nổi của tảng băng, mà phần chìm nay đang dần dần hiện rõ. Người VN đã đặt ra nhiều câu hỏi mà không tìm được câu trả lời . Tại sao nhà nước VN cho TQ khai thác boxit ỏ Tây Nguyên, một vị trí quan trọng về chiến lược, có nhiều tác hại về môi trường và bản sắc văn hóa Tây Nguyên (trong khi nhân dân cả nước, nhiều nhà khoa học, nhiều nhân sỹ trí thức và nhiều vị lão thành cách mạng cực lực phản đối)?Tại sao VN bán hàng trăm ngàn ha rừng đầu nguồn ở những nơi xung yếu cho TQ? Tại sao VN bán 22.700ha đất ở Vũng Áng, một vị trí xung yếu của miền Trung cho TQ thời hạn 70 năm? Tại sao trong nhiều công trình quan trọng trong ngành xây dựng, các nhà thầu TQ thắng đến 90%, rồi sau đó đưa lao động phổ thông người TQ vào làm việc mà lẽ ra đó là công việc của người VN, để rồi người lao động VN phải “tha phương cầu thực” ở xứ người để rồi nhiều trường hợp đã phải bỏ xác nơi đất khách quê người? ..vv. Có như vậy mới giải thích được tại sao, kể từ khi hai nước VN và TQ ký hiệp định biên giới trên bộ từ năm 1999, hiện đã đóng hàng trăm cột mốc để phân định ranh giới giữa hai quốc gia, mà cho đến nay, nhà nước VN vẫn không công khai tọa độ của đường ranh giới mới, cũng như tọa độ của các cột mốc biên giới đã được chôn xong? Kể từ khi TQ đưa giàn khoan HD 981 xâm phạm lãnh hải nước ta đến nay đã gần hai tháng, mà hai cơ quan quyền lực nhất là BCHTƯ qua hội nghị TQ 9 và QH VN hiện đang họp vẫn “câm như hến”?   Như vậy việc Dương Khiết Trì và các lãnh đạo VN gọi nhau là “đồng chí”là hoàn toàn đúng. Bởi vì hai bên đang thực hiện một mục tiêu chung, là dần dần biến quốc gia VN thành một tỉnh của TQ. Trong đợt đón Thủ tướng TQ Lý Khắc Cường sang thăm VN vào năm 2013, ban tổ chức đã in cờ TQ có 6 ngôi sao, mà nguyên cờ TQ chỉ có 5 sao, là một sao lớn và bốn sao nhỏ. Việc các nhà tổ chức in thêm một sao trên cờ TQ thể hiện “tâm nguyện” của họ muốn việc sát nhập càng sớm càng tốt. Rồi trong sách giáo khoa của các lớp vỡ lòng, người ta đã xóa cờ tổ quốc, để in vào đó là cờ TQ. Khi bị dư luận phản đối, thì ông Đào Trọng Thi, chủ nhiệm uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, phát biểu trên một tờ báo cho rằng đó chỉ là “Chúng ta đang sống trong thời kỳ cần phải tiếp thu tinh hoa của tất cả các nước để phát triển”. Nói trắng ra là họ đang đầu độc lớp trẻ chấp nhận một nhà nước VN làm chư hầu cho TQ. Họ đang là “đồng chí” của nhau, vì hai bên cùng có một chế độ độc tài đảng trị, cùng quyết tâm xây dựng đất nước tiến lên …..chủ nghĩa xã hội. Chỉ khác nhau một điểm nhỏ, là TQ không tôn thờ Mác-Lê nin-Mao Trạch Đông, không xây dựng chế độ cộng sản. Còn VN vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.   Họ còn là “đồng chí” của nhau vì cùng là hai nhà nước ….ăn thịt người. TQ lập kỷ lục thế giới với thành tích làm cho hàng chục triệu người chết đói trong chính sách “đại nhảy vọt” vào cuối thập niên năm mươi, và dùng xe tăng để “ xay thịt người” trong biến cố Thiên An Môn mùa xuân năm 1989, làm chết hàng chục ngàn người biểu tình đòi dân chủ, mà trong tay không một tấc sắt. Còn VN với các thành tích trong Cải cách ruộng đất, đã giết chết hàng vạn người vô tội. Và sau đó là các chiến dịch đàn áp nhóm Nhân văn giai phẩm, nhóm Xét lại chống đảng, và đặc biệt là đưa hàng chục vạn cán bộ và binh lính trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vào chết dần chết mòn trong cái gọi là “học tập cải tạo”, và đã đẩy hàng triệu người phải “di tản” đi tìm bến bờ tự do, để rồi hàng vạn người phải làm mồi cho cá trên các đại dương. Ngày xưa, nàng Mỵ Châu khi ngồi sau lưng vua Hùng, đã âm thầm lấy lông ngỗng thả xuống đánh dấu cho Trọng Thủy đưa quân Hán xâm lược nước ta. Ngày nay, “ triều đình nhà Sản” đã chuẩn bị mọi tình huống và điều kiện thuân lợi để “quân thiên triều” bất cứ lúc nào cũng có thể ‘nuốt chửng” mảnh đất hình chữ S. Có điều, những hành động đó không che được tai mắt nhân dân, và đang bị nhân dân nguyền rủa.
......

Lo "ăn mày dĩ vãng", quên giặc vào đến nhà

Từ ngày 02 tháng 5 - 2014 đến nay giặc Tầu đặt giàn khoan khùng HD 981 vào vùng biển thềm lục địa thuộc chủ quyền Việt Nam, cho hàng trăm tầu lớn vào uy hiếp, mấy chục lần đâm hỏng tầu chấp pháp của Việt Nam, đâm chìm tầu cá ngư dân ta, làm bị thương hàng chục đồng bào và chiến sĩ ta, lòng dân trào sôi giận giữ, khắp nơi bàn mưu, tính kế để chống giặc Tầu, cứu nước, thì bộ máy tuyên truyền của nhà nước lại làm nhiều việc đi ngược lại lòng dân. Ví dụ, trong thời điểm hiện nay, tại sao không phát động thi viết về âm mưu thâm hiểm, thái độ giả dối, hành động độc ác của giới cầm quyền Trung cộng với nước ta và hiến kế để ta thoát khỏi nanh vuốt của bầy ác thú, mà lại phát động cuộc thi sau đây? (Bqp.vn) – “Sáng 16/6/2014, tại Hà Nội, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã phát động cuộc thi viết “Xuân 1975 bản hùng ca toàn thắng”. Đến dự có Thượng tướng Nguyễn Văn Được, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam; Trung tướng Mai Quang Phấn, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; đồng chí Nguyễn Thế Kỷ, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. “ …” Qua đó, khơi dậy lòng tự hào của mỗi người về đại thắng mùa Xuân năm 1975, về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khơi dậy ý chí và niềm tin trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; đồng thời ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống anh dũng, quật cường, mưu trí, sáng tạo và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của dân tộc và quân đội ta; tôn vinh và tri ân những đóng góp, cống hiến to lớn của các tầng lớp nhân dân Việt Nam và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.”   Cuộc thi này có ý gì?   - Phải chăng là để “ăn mày” chút vinh quang quá khứ nhằm tự huyễn hoặc, “tự sướng”, quên đi nỗi nhục nhã, hèn hạ trước giặc Tầu hôm nay? Thực ra càng nêu lên những chiến công hiển hách, chí khí quật cường của ông cha nhiều bao nhiêu thì nay càng thấy nhục, thấy hèn bấy nhiêu. Làm sao lảng tránh được thực tế phũ phàng là Trung cộng coi khinh Việt Nam, hạ nhục Việt Nam trước thế giới, nó muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói; lãnh đạo xin gặp năm lần bảy lượt nó không thèm gặp, gọi “dây nóng” nó không thèm nghe, phản đối này nọ nó bất chấp …Nhục thế mà lúc nào cũng “Tự hào Việt Nam”, “Vinh quang Việt Nam”!? - Thi viết về “sự nghiệp chống Mỹ cứu nước” và “tri ân sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế” thời ấy vào lúc này để làm gì? Phải chăng là để dân ta tiếp tục “căm thù đế quốc mỹ” – nước hiện đang có thái độ và hành động ủng hộ ta chống giặc Tầu cộng mạnh mẽ nhất? Phải chăng để tiếp tục nhắc nhở không được quên “công ơn” của Trung cộng đối với đảng CSVN, vì đã “giúp Việt Nam đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”? Phải chăng để nhắc nhở Việt Nam phải coi Mỹ là “đế quốc xâm lược”, còn Trung cộng là “đồng chí, anh em cùng ý thức hệ, cùng XHCN, chống đế quốc”? Là để ngăn Việt Nam không được kết bạn với các nước “tư bản chủ nghĩa”, như Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và các nước không “XHCN”? - Phải chăng là để tiếp tục khoét sâu nỗi hận thù Bắc – Nam vẫn nhức nhối gần 40 năm qua, mà người dân cả hai miền Nam – Bắc đang cố gắng hàn gắn lại, hòa giải, yêu thương cùng đoàn kết một lòng chống giặc Tầu xâm lược? Phải chăng là để tiếp tục gieo rắc nghi kỵ, chia rẽ, làm nguội lạnh đi những những trái tim người dân Việt ở Hải ngoại đang sôi sục biểu tình phản đối Trung cộng xâm lược Việt Nam?... Còn biết bao nhiêu việc làm của tuyên huấn, của ngành tuyên truyền đi ngược với lòng dân? Hay được chỉ đạo từ đâu? 17/6/2014 MVT   Nguồn: xuandienhannom.blogspot.com
......

Theo “đảng quang vinh”, lâm nguy vận nước

Theo dõi các sự kiện hơn một tháng qua, kể từ khi Trung Cộng đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, người ta thấy ở đó có đủ sắc thái bi hùng, kiêu hãnh, bạc nhược, hèn hạ và hài hước... Có những điều người ta ngờ ngợ từ lâu, nay bạch hóa trước ánh sáng, có những điều người ta lấp lửng từ lâu, nay huỵch toẹt trước thiên hạ, có những điều người ta lên án, bàn luận âm thầm từ lâu, nay người ta kết luận công khai. Tất cả cho thấy nhiều điều mà câu hò xứ Nghệ xa xưa đã nói: “Rằng qua cơn hoạn nạn, mới hiểu tận lòng nhau”. Cơn hoạn nạn Đất nước Việt Nam đang trải qua một cơn hoạn nạn khốc liệt. Cơn hoạn nạn bắt nguồn từ một nền chính trị độc đảng, độc trị độc tài vẫn tồn tại trên đất nước này đã quá lâu, gây bao nhiêu hệ lụy và đã tự chứng tỏ mình không đủ khả năng đưa đất nước đi lên theo chiều tiến bộ mà thậm chí ngược lại. Dù vẫn luôn tự vỗ ngực xưng là đỉnh cao trí tuệ nhân loại là đội quân tiên phong nhưng họ đang đi vào một cuộc khủng hoảng chính trị toàn diện. Ở đó, họ chứng tỏ sự khủng hoảng lớn về tư tưởng, lý luận và nhân sự. Gần một trăm năm ru ngủ dân tộc này đi theo “con đường ánh sáng của đảng” về Thiên đường Chủ nghĩa xã hội. Với cái lý thuyết huyễn hoặc rằng là CNXH sẽ thắng CHTB ở năng suất lao động, rằng là CHTB là đêm trước của CNXH, rằng là CNXH là khoa học của mọi khoa học và ở đó không có người bóc lột người… rồi hô hào nào là “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, hoặc “Đi tắt, đón đầu” v.v… Để rồi cuối cùng muốn về số 0 lại phải một quá trình dài sau đó. Nay thì các đời Tổng Bí thư nói huỵch toẹt là cái CHXH mà luôn được vẽ ra một cách công phu, tốn kém và ảo tưởng đẹp đẽ kia ấy, nó chưa rõ ràng là đầu cua tai nheo nó ra sao, mà “sẽ dần dần sáng rõ” (Nông Đức Mạnh) hoặc “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” (Nguyễn Phú Trọng). Thế nhưng, họ vẫn quyết không từ bỏ việc đưa cả dân tộc này làm vật thí nghiệm, một loại thí nghiệm mà cả loài người đã vứt bỏ ¼ thế kỷ nay bởi chắc chắn sẽ thất bại. Không chỉ khủng hoảng về tư tưởng, lý luận, đảng CS hôm nay khủng hoảng nặng nề về nhân sự. Đã 2/3 thế kỷ đảng xây dựng “con người mới XHCN”, lớp người hôm nay lãnh đạo đất nước, đều là lớp người đã ưỡn ngực tự hào là “thế hệ Hồ Chí Minh, là con cháu bác Hồ”. Thế nhưng, tham nhũng từ những con sâu, nay là một bầy sâu, tha hóa từ là hiện tượng cá biệt, đã trở thành hiện tượng bình thường và thậm chí là phổ biến với “một bộ phận không nhỏ” dù đảng không muốn nói thẳng ra là phần lớn. Vì thế, ngay cả chân Thủ tướng lãnh đạo chính phủ với nhiều những sai lầm, bao hậu quả, cuối cùng khi bị đặt vấn đề từ chức đã chỉ thẳng vào mặt Đảng mà rằng: “Tôi không biết, đảng bảo làm thì tôi làm”. Hết chỗ nói. Cơn khủng hoảng chính trị đã đẩy sự tín nhiệm của người dân vào lực lượng tự xưng này đến cuối đường hầm. Và khi sự tín nhiệm của người dân xuống thấp nhất, thì ngón đòn bạo lực được sử dụng để thể hiện bản chất cái gọi là “chuyên chính vô sản” rõ nét nhất. Bạo lực xảy ra tràn lan trong xã hội, nhiều nơi côn đồ kết hợp công quyền để đàn áp người dân. Một xã hội luôn được tự ca ngợi ổn định, hòa bình, hạnh phúc đến tận… thứ 2 thế giới, nhưng người dân luôn khủng hoảng lòng tin vào mọi mặt cuộc sống. Bắt nguồn từ tư duy lãnh đạo, một nền kinh tế Việt Nam què quặt, phụ thuộc và lâm vào miệng hố của sự mất ổn định. Nguồn gốc sâu xa từ một thể chế chính trị độc tài cộng sản đã dẫn nền kinh tế theo đường lối “kinh tế Thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa” chẳng giống ai. Ở nền kinh tế XHCN đó, không những đã không “tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn” như họ thường dạy dỗ rêu rao trong cái bộ môn Kinh tế Chính trị Mác – Lenin. Ngược lại, lực lượng lao động được sử dụng chỉ 30% tổng số nhân lực bộ máy, phần còn lại 70% ăn bám, đó chính là sản phẩm của chế độ kinh tế thị trường XHCN đã đưa lại hậu quả khủng khiếp cho nền kinh tế mà không một nguồn lực nào cáng đáng nổi. Cơn hoạn nạn cũng bắt nguồn từ nạn thâm thủng ngân sách do tham nhũng, phá hoại và đặc biệt là những dự án bởi “Chính sách lớn của đảng” đã để lại những hậu quả khủng khiếp không chỉ cho kinh tế, môi trường, an ninh quốc phòng mà trực tiếp tác động đến đời sống người dân. Đến mức Việt Nam đã phải đào khoáng sản thô bán vẫn lỗ mà vẫn cứ bán. Ở các nước xung quanh, những sự kỳ thị người Việt diễn ra ngày càng nhiều. Người Việt thuộc thế hệ Hồ Chí Minh ở nước ngoài đã thi nhau “lập thành tích” trong các vụ vi phạm pháp luật nước sở tại và tạo nên những hình ảnh đáng xấu hổ trong con mắt bạn bè, trong các vụ việc làm ăn, đầu tư và cuộc sống với nạn trộm cắp, đĩ điếm, thiếu văn minh, lịch sự tối thiểu. Trên thế giới, trước con mắt anh em, bạn bè, vị thế của Việt Nam dần dần tụt xuống hàng cuối về các chỉ tiêu tự do, nhân quyền. Hàng năm, thế giới phải nhắc nhở nhà nước VN cần tôn trọng các quyền cơ bản của con người của chính người dân đất nước mình. Công dân Việt Nam được sử dụng như những con tin cho chính nhà nước đổi lấy các hoạt động làm ăn, hội nhập. Và trong cuộc khủng hoảng không lối thoát đó của những người cộng sản, thì đất nước lâm vào một cơn hoạn nạn mới: Nạn xâm lăng từ Phương Bắc. Kết quả là khi Việt Nam lâm nạn, ngoảnh đi, ngoảnh lại trước sau thì nhà nước Việt Nam không có một bạn bè, đất nước cô đơn giữa những nguy biến. Đảng “quang vinh” - nguy vận nước Nạn xâm lấn, và bành trướng của ngoại bang phương Bắc có từ ngàn đời nay, nó cũng như bão, như lũ lụt, như nắng hạn mưa rào, nghĩa là cứ đến mùa lại đến. Cái tâm địa bành trướng của người Phương Bắc cha ông ta đã nói lại cho con cháu rõ xưa nay, mỗi người dân Việt đã ngấm vào máu vào thịt, rằng nó cũng như dịch bệnh, cứ sơ hở là nó cắn. Cũng chính vì thế mà dòng máu trung dũng chống xâm lăng từ phương Bắc đã được lưu truyền và luôn chảy trong huyết quản người Việt xưa nay, chưa bao giờ nguội tắt. Điều tệ hại nhất, là “đảng lãnh đạo” đã xác định kẻ thù của đất nước, dân tộc này là bạn “16 chữ vàng và 4 tốt” của mình. Đây chính là nguyên nhân chính đã tạo nên cơn đại hoạn nạn của đất nước hôm nay. Chính thái độ, cách hành động của nhà cầm quyền Việt Nam thời gian qua đã thể hiện một điều: Trong giai đoạn này, những bi đát, gian nan của vận nước càng tăng lên gấp bội. Không chỉ hôm nay, mà giai đoạn gần đây, những hành động của đảng Cộng sản và nhà nước CSVN đối với Trung Cộng chỉ thể hiện thành công một điều: Sự lệ thuộc, khiếp nhược đến hèn hạ. Mọi hành động, giao tiếp giữa hai quốc gia độc lập đã bị biến dạng đến thảm hại. Trong khi bọn bành trướng ngày càng lộng hành, ngang ngược đối với thể diện đất nước, đối với lãnh thổ của Tổ Quốc, thì đảng luôn chỉ đạo ngậm miệng làm thinh. Chẳng những thế, tất cả những tiếng nói của người dân thể hiện sự ưu tư trước hiện tình đất nước, trước tương lai và nguy cơ của lãnh thổ của Tổ Quốc, đều được Đảng ưu tiên xếp vào thế lực thù địch. Cũng dưới sự “lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CSVN”, người dân dần dần được đưa vào con đường nô lệ Trung Cộng về kinh tế, văn hóa và chính trị. Mọi thứ hàng hóa tiêu dùng đều là Trung Cộng chi phối, từ miếng thực phẩm, từ món hàng tiêu dùng cho đến tấm bản đồ in hình lưỡi bò treo trong phòng các quan chức… tất cả đều được Trung Cộng cung cấp. Hàng hóa tràn ngập với đầy đủ độc tố để làm suy kiệt giống nòi ta về thể lực và tinh thần. Về mặt văn hóa, báo chí, tivi tràn ngập phim Tàu, tin Trung Cộng. Báo chí đưa tin Trung Cộng cứ như đưa tin nhà mình. Thậm chí, tờ báo Đảng Cộng sản còn để bản tin ghi rõ Hoàng Sa – Trường Sa là của Trung Cộng. Trong khi tờ báo viết về Biển đảo Việt Nam thì phải đình bản, người in áo chống đường lưỡi bò, người biểu tình yêu nước thì vào tù. Trong khi lịch sử Việt Nam cố tình bị quên lãng, xuyên tạc, những chi tiết lịch sử liên quan đến bọn xâm lăng bị biến tướng, bóc gỡ, che dấu một cách nhục nhã. Học sinh Việt Nam dần dần quên lịch sử Việt Nam để nhớ lịch sử Tàu. Người dân Việt Nam không thể quên những năm tháng tủi hổ, chỉ cần nhỡ miệng, chỉ cần mặc chiếc áo có dòng chữ Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam, chỉ cần viết, nói về Biển, Đảo của Tổ Quốc, thì y như rằng có chuyện với bộ máy công an “còn đảng, còn mình”. Nhẹ, thì phiền toái, đánh đập, bắt giữ, nặng thì vào trại giam. Về mặt thể diện quốc gia, đón Tập Cận Bình, đảng đã cho gắn thêm một ngôi sao chư hầu trên lá cờ Tàu Cộng. Điều này làm ngỡ ngàng cả đất nước, cả dân tộc… Người dân, dù đã chứng kiến sự hèn hạ của cả bộ máy nhiều lần cũng không thể ngờ được não trạng nô lệ đã đến mức đó. Có thể nói, chưa có giai đoạn lịch sử nào, đất nước Việt Nam, người dân Việt Nam chịu nhục nhã bởi thái độ đê hèn trước ngoại xâm của những người tự xưng lãnh đạo đất nước như thời gian qua, họ tưởng vậy là sẽ được yên với quan thầy. Miệng lưỡi tuyên truyền của họ là “Việc biển đảo đã có đảng và nhà nước lo”. Nhưng chưa hết, bọn cướp có bao giờ chùn tay, bọn bành trướng có khi nào dừng lại. Dù dã tâm xâm lược của kẻ thù đã rõ, hành động xâm lăng của kẻ thù đã diễn ra khốc liệt hết sức ngang ngược và bạo lực thì những người tự xưng là lãnh đạo, là trí tuệ, là sức mạnh “bách chiến bách thắng” đã thể hiện sự khiếp nhược của mình, luôn mồm gọi kẻ thù là bạn, là anh em, là đồng chí, là bạn vàng… nhằm tiếp tục ôm chân quân xâm lược. Khi Hoàng Sa, một phần Trường Sa đang nằm dưới gót giày quân xâm lược Phương Bắc, những người dân tưởng nhớ đến các anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh vi lãnh thổ thiêng liêng đảng đã cho phá đám bằng mấy đứa công an cầm loa và “cắt đá” bằng một bầy đàn bà nhảy đầm trước tượng tiền nhân và bao trò mạt hạng hèn hạ khác... Khi những người yêu nước còn trong tù, những màn đấu tố người yêu nước còn chưa ráo mực, chưa hết những tiếng vang chói tai của những con nộm rơm lên án người yêu nước, thì nhà nước đang lo mải miết đi “cưỡng chế, thu hồi” đất đai, tài sản của nhân dân từ ngàn đời nay để lại bằng những biện pháp bạo lực và bất nhân. Khi lãnh thổ Tổ Quốc bị xâm lược, còn nằm dưới gót giày quân xâm lược, thay vì động viên toàn dân toàn quân chung sức chung lòng bảo vệ non sông, thì đảng kêu gọi quân đội trung thành với đảng và chống “diễn biến hòa bình”. Thậm chí đưa quân đội đi “chống diễn biến hòa bình”, đi cưỡng chế đất đai của dân cho đảng. Thậm chí, khi giặc hung hãn vào tận nhà, cắm giàn khoan, đâm thủng tàu bè của lực lượng chấp pháp VN, giết chết ngư dân trên biển Việt Nam, sau một tháng đã có gần 30 cố gắng đàm phán từ phía Việt Nam, tất cả đều bị Trung Quốc bỏ ngoài tai. Đến mức đó, đảng vẫn cứ ngậm thinh và Bộ trưởng Quốc Phòng vẫn kiên quyết “Không để xảy ra xung đột”. Thương thay cho ông ta, việc xảy ra xung đột không nằm ở ý muốn của ông ta và cái đảng CS của ông. Cách duy nhất để không phải xung đột, chỉ có trói tay để tự xin hàng khi giặc đến. Khi mà đất nước VN đang có một bộ máy cai trị đã rệu rã, ươn hèn và bạc nhược. Khi mà tình trạng đất nước đã vào tình trạng: “Trong ngoài lục đục, trên dưới không yên, thiên hạ bất đồng, nhân tâm ly tán”. Bọn bá quyền biết và thấy rõ cơ hội vạn năm có một đã đến. Có lẽ chưa bao giờ việc thực hiện mộng bá quyền Đại Hán có điều kiện thuận lợi như giai đoạn hiện nay. Và vận nước đã nhanh chóng chuyển qua giai đoạn mới: Tổ quốc bị xâm lăng Hà Nội, ngày 12/6/2014 J.B Nguyễn Hữu Vinh Nguồn: rfavietnam.com
......

Không thể “Thoát Trung” mà không “Thoát Cộng”!

Nhà báo Trần Quang Thành phỏng vấn Tiến sĩ Hà Sĩ Phu Từ hơn một tháng nay, giàn khoan Trung Quốc thăm dò dầu khí chỉ cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý, nằm sâu trong khu vực mà Việt Nam khẳng định là vùng đặc quyền kinh tế, tạo sự phẫn nộ và lo lắng cho người Việt khắp nơi. Vào chiều ngày 05/06/2014, tại trụ sở Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hà Nội, đã diễn ra một cuộc hội thảo mang tên «Làm sao để thoát Trung?». Hội thảo do Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh tổ chức. Về sự kiện này Tiến sĩ Hà Sĩ Phu trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành đã bình luận như sau: (Audio PV Tiến sĩ Hà Sĩ Phu)  http://www.4shared.com/mp3/6-pQ3ADLce/audio_cu_a_ba_i_3.html - Trần Quang Thành: Thưa Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, mấy ngày hôm nay dư luận rất quan tâm đến một cuộc hội thảo tổ chức tại 53 Nguyễn Du Hà Nội về vấn đề làm sao để thoát Trung, riêng Tiến sĩ nghĩ thế nào về vấn đề này?   - Hà Sĩ Phu: Bây giờ thì thoát Trung trở thành ý nghĩ chung của nhiều người rồi. Thấy mình bị phụ thuộc vào Tàu nhiều quá, bọn nó đè nén mình, thậm chí sẽ là một cuộc Bắc thuộc kiểu mới. Nó đến nơi rồi, gần quá rồi, cho nên kể cả những người từ những phía khác nhau cũng gặp nhau ở chỗ “thoát Trung”! Thế nhưng đi vào cụ thể cũng còn khác nhau rất nhiều đấy. Thứ nhất về nội dung thoát Trung là thoát những gì thì cũng dễ hiểu thôi, thoát Trung là phải thoát cả từ ngày xưa cơ, trước khi có Cộng sản mình cũng đã bị ảnh hưởng Trung Quốc rất nhiều, phong kiến ngày xưa cũng chịu ảnh hưởng Trung Quốc rất nặng chứ không phải chỉ từ chủ nghĩa cộng sản ta mới bị Trung Quốc đè nén như thế đâu. Điều đó là rất đúng. Thoát Trung là cả một vấn đề rất lớn, nó kéo dài rất nhiều thế kỷ rồi. Nhưng thoát Trung liên quan đến thoát Cộng như thế nào thì tôi thấy trong cuộc hội thảo đó chưa được đặt ra một cách cụ thể rõ ràng, tuy cũng có người nhắc đến. Nhưng quan trọng là thế này, bây giờ muốn thoát Trung thì gặp trở ngại gì? Chính cái chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản là yếu tố cản trở cái việc thoát Trung hiện nay, vì thế trước mắt không thể thoát Trung mà lại không tấn công vào cái yếu tố cộng sản được, vẫn còn thể chế cộng sản này mà muốn thoát Trung thì khó, cực kỳ khó. Ví dụ đơn giản thế này, muốn biểu tình chống Trung Quốc thôi, một việc quá nhỏ trong chuyện thoát Trung, mà cũng bị cấm. Nhân ngày kỷ niệm cuộc đàn áp Thiên An Môn, báo chí cũng muốn đưa một cái tin về sự kiện cách đây 25 năm rồi, ôn lại lịch sử Trung Quốc thôi, cũng phải rút bài xuống. Những việc nhỏ như thế cũng không làm được huống chi là một việc quá to lớn như việc thoát Trung? Tôi đồng ý thế này, thoát Trung là một vấn đề lớn kéo dài và liên quan rất nhiều, còn thoát Cộng chỉ liên quan đến một giai đoạn ngắn hơn, nhưng cái ngắn hơn này lại đang là trở ngại như cái núi Thái Sơn nó chặn cái đường thoát Trung, cho nên không thể thoát Trung mà lại không cần thoát Cộng! Tôi mới đọc bài của ông Ngô Nhân Dụng, tôi rất thích là sau khi đã giải thích nhiều ở phần trên rồi ông ấy mới kết luận rằng: vậy thời phải thanh toán chủ nghĩa cộng sản mới thoát Trung được. Tôi rất đồng ý với kết luận rất rõ ràng đó. - TQT: Thưa Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, ông đã khẳng định là “muốn thoát Trung trước hết phải thoát Cộng, vậy làm thế nào để thoát được Cộng?   - HSP: Hiện nay đây mới là bài toán khó nhất đấy, nói thoát Trung thì rất dễ nhưng nói đến chuyện thoát Cộng thì lại rất rắc rối, ý kiến lại phân tán rất ghê. Trong cuộc hội thảo vừa rồi không phải là không có người nghĩ đến cái điều là muốn thoát Trung thì phải thoát Cộng bởi vì Cộng chính là một cái núi Thái sơn nó chặn đứng quá trình thoát Trung, không thể tiến hành cái gì hết. Nhưng mà nói hết sự thật ấy ra bây giờ là rất khó. Chuyện đấu tranh dân chủ trong nước chính là chuyện thoát Cộng đấy. Đấu tranh để giành lấy độc lập dân tộc, giành chính quyền thì đó là chống ngoại xâm, còn thoát Cộng chính là chống nội xâm. Đây là quan hệ giữa chống nội xâm và chống ngoại xâm.   Trước đây, khi Trung Quốc nó chưa thò cái nanh vuốt quá lộ liễu ra thì vấn đề dân chủ trong nước là rất khó, không biết làm thế nào, không biết phất cái lá cờ gì để tiến hành việc dân chủ trong nước được. Vì vừa thò ra cái tư tưởng phê phán Đảng, đòi thanh toán cái độc tài Đảng trị, thì bị đàn áp dễ như không. Thế nhưng bây giờ rất hay, Trung Cộng nó chơi những trò vỗ mặt mình, thế nên nhà nước này cũng không thể im tiếng như trước được nữa cho nên cũng phải đồng thuận với nhân dân lên án Trung Cộng. Thêm một lá cờ chống ngoại xâm thì cái chống nội xâm mới phát triển lên được. Cho nên cái anh Tàu nó lại giúp mình, mặc dù nó chơi đểu thế. Nó làm cho mình cũng dễ đấu tranh cho cái dân chủ. Tóm lại là thế này: quan hệ giữa thoát Cộng và thoát Trung chính là quan hệ giữa chống nội xâm và chống ngoại xâm đấy. Thế thì làm cái gì trước và sẽ làm như thế nào? Tôi nghĩ hai cái đó nó nhịp nhàng, tức là không thể nói làm cái này xong rồi mới làm cái kia được. Tôi biết nhiều anh em ở hải ngoại cho rằng phải thanh toán xong cộng sản trong nước thì mới tính đến chuyện chống Tàu được, nhưng như vậy thì làm không nổi đâu. Vì thứ nhất không biết bao giờ mới thanh toán được cái nội xâm, nội gián, trong khi chưa chống được cái nội xâm ấy thì ngoại xâm đã tấn công ta rồi, trong nước chưa có dân chủ thì lãnh thổ Tổ quốc đã mất rồi! Thế thì không thể nói cái nào trước cái nào sau được đâu mà hai cái phải đồng thời, nhịp nhàng và  tùy theo tình hình. Nếu Trung Quốc gây hấn thêm nữa, thì ngay cả Trường sa cũng đang bị đe dọa, lúc nào cũng có thể bên miệng hố chiến tranh. Theo ý kiến của anh Ngô Nhân Dụng cũng không cần phải lo âu quá mà cũng đừng có ảo tưởng quá. Nhưng tôi nghĩ cũng phải nhịp nhàng mà tùy theo tình hình, không thể nói dứt khoát phải thoát Cộng trước hay thoát Trung trước, hai việc đó phải làm đồng thời nhịp nhàng và tùy theo tình hình. - TQT: Trong cuộc chống Trung Quốc xâm lược hiện nay nổi lên một nhân vật là ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông có nhiều tuyên bố mạnh mẽ về vấn đề chống Trung Quốc xâm lược. Ông nói tình hữu nghị không thể viển vông, ông còn nhắm vấn đề phải kiện Trung Quốc ra quốc tế. Nhưng cũng có một vị cách mạng lão thành là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh nói không hiểu được lời ấy nói thật hay giả, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nghĩ thế nào? - HSP: Cái này cũng không mới gì: Bác Tấn Dũng thì cũng nói nhiều điều hay rồi nhưng mà đúng là nói xong lại chưa làm được cái đó, dù rất có cảm tình với Thủ tướng thì cũng không thể bênh vực vì ông ấy nói mà không làm gì cả. Tôi nghĩ thế này, trong tình hình hiện nay cả giới lãnh đạo họ quá kém về mọi mặt, kém về dân chủ đã đành rồi mà còn kém cả vấn đề chống ngoại xâm. Họ rất là nhu nhược, rất là hèn. Thế thì ai nói ra điều gì tốt một tý ta vẫn phải túm lấy những câu đó để ta động viên đã. Tất nhiên phải phân biệt lời nói với con người. Lời nói đó hay thì ta cũng ghi nhận, động viên, rồi ta yêu cầu là nói rồi thì phải làm. Thái độ hơi cực đoan là sổ toẹt, tức là bất cứ câu nói nào hay dở cũng sổ toẹt hết. Đã đành sổ toẹt cũng có cơ sở bởi ông này nói hay nhiều quá nhưng chẳng làm gì. Có khi ông cũng nhằm giành ghế trong Đại hội Đảng sắp tới thôi. Thế nhưng cũng cứ động viên để gợi mở một khả năng khác, có khi vì đang bị cả một cái hệ thống o ép nên ông ấy cũng bó tay chưa làm được? Dù sao nói ra một lời tốt cũng hơn là hèn mạt hoặc im lặng không nói gì hết. Thế nhưng mình cũng không thể nhẹ dạ để bị lừa hết cái nọ đến cái kia. Cho nên phải nói như cụ Vĩnh (Nguyễn Trọng Vĩnh), nói thẳng cũng rất cần thiết. Cụ phê bình ông Nguyễn Tấn Dũng nói dối, phê bình luôn cả ông Phùng Quang Thanh với tư cách một ông tướng cha dạy một ông tướng con, tôi thấy những thái độ như thế là đều có ích cả.   - TQT: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì bảo là kiên quyết chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Thế nhưng đại tướng Phùng Quang Thanh thì bảo cái việc giàn khoan chỉ là việc nhỏ thôi chứ tình hữu nghị Trung Quốc - Việt Nam vẫn rất là đẹp đẽ, vẫn là 16 chữ vàng. Vậy có phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược không? - HSP: Thì đúng quá, ở cái hội nghị Shangrila rất lạ là Thủ tướng thì coi như là quan văn nhưng vẫn nói mạnh, còn quan võ thì rất kém, phải nói là cái câu của ông Phùng Quang Thanh kém, kém nhất! Thứ nhất là muốn xem có kiện hay không lại phải chờ xem thái độ của họ thế nào đã. Thứ hai là vẫn còn ôm cái 16 chữ vàng là cái mà cả thiên hạ họ chửi hết cỡ rồi, nên thái độ ông Phùng Quang Thanh này là không chấp nhận được. Tôi xin mở ngoặc nói thêm thế này, anh có đọc bài của ông Phạm Đình Trọng, là người đồng đội với ông Phùng Quang Thanh trước đây? Trong một trận đánh ông Phạm Đình Trọng mô tả Phùng Quang Thanh cũng là một chiến sỹ dũng cảm cho nên mới được lên chức, tức là người cũng yêu nước và dũng cảm, vốn không phải là người hèn, tôi thấy chuyện ấy rất hay. Cái hèn, cái tồi tệ của một người vốn hèn vốn tồi tệ thì thực ra không có gì đáng quan tâm. Nhưng cái hèn, cái tồi tệ của người trước đây vốn không hèn không tồi tệ mới nói lên rằng cái hèn cái tồi tệ này không phải là của cá nhân nữa mà của cả một hệ thống, đã nằm ở trong cơ chế đó thì cũng phải tồi tệ thôi. Cái tồi tệ của cơ chế đã đến mức độ làm cho những người vốn tử tế cũng không tử tế được nữa, trước đây không hèn giờ cũng không thể không hèn, chứng tỏ cái hèn mạt tồi tệ không còn là của cá nhân nữa mà nó là của cái hệ thống. Tướng Phùng Quang Thanh nếu không phải nằm trong cái hệ thống này, cái Bộ Chính trị này, chắc ông ấy cũng không đến nỗi hèn như thế. - TQT: Tiến sĩ Hà Sĩ Phu vừa nói vấn đề cải cách cơ chế thì thông điệp đầu năm 2014 của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rất mạnh vấn đề cải cách cơ chế, nhưng mà gần 6 tháng của năm 2014 đã trôi qua, Tiến sĩ thấy vấn đề cải cách cơ chế như thế nào?   - HSP: Nghe cái vấn đề cải cách cơ chế của ổng thì cũng nhiều người bàn đấy. Có phải là cải cách cái “thể chế chính trị” không hay là cải cách thể chế một cách chung chung? Mà cải cách thể chế chính trị thật tức là phải cải cách hệ thống, là hệ thống Cộng sản, hệ thống Mác - Lê nin. Cải cách hệ thống thật sự thì phải bỏ cái chủ nghĩa Mác - Lê nin, bỏ được CS thì thành một nước dân chủ văn minh như các nước bình thường! Nhưng tôi nghĩ nói như thế thì ông Nguyễn Tấn Dũng cũng chưa thể làm được, không thể làm được, vì muốn làm được thì dũng khí cá nhân rồi phải có tổ chức, mà bao quanh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện nay chả có một lực lượng nào có thể tin cậy được, hoặc cùng là một cánh tham nhũng, cũng phi dân chủ đàn áp biểu tình. Còn có một cánh không nhỏ đảng viên có tiến bộ, người ta gọi là cánh “cải lương”, cũng hy vọng vào ông ấy, nay cũng mất lòng tin với ông Dũng rồi nên không có lực lượng nào đáng tin cậy đứng đằng sau Thủ tướng cả, vậy thì cá nhân Thủ tướng dẫu có những thiện ý cũng không có cái bối cảnh để mà triển khai.   Nhưng quan trọng nhất là bên cạnh vẫn có một thằng Tàu rất to, ta công nhận là Tàu hiện nay cũng không phải là mạnh đâu, nó cũng đang có rất nhiều khó khăn nội bộ, nhưng sức mạnh của nó vẫn đủ để kiềm chế VN, bởi VN hiện nay đang nằm trong tay nó rồi mọi thứ nằm trong ống tay áo của nó rồi! Dù đồng ý rằng TRUNG QUỐC không hề mạnh như chúng ta tưởng nhưng trong tình trạng yếu nó vẫn đủ sức kiềm chế VN! Ví dụ ông Dũng đòi cải cách thể chế mà bỏ cái CNCS này đi để khỏi có tình trạng hai đảng làm việc với nhau để quyết định số phận đất nước thì Tàu nó sẽ hủy ngay cái “chỗ” (nhân vật) đó. Nếu ông Dũng muốn thành Putin, bỏ cái Trung Cộng đi mà đi với nhân dân thì mới có một Putin thật, mới thoát Trung hoàn toàn, nhưng ở VN trong những điều kiện cụ thể hiện nay thì làm sao làm được như vậy? Thế nên những câu “cải cách thể chế” của ông Dũng cũng không ra ngoài cái quy luật chung (của ông) là chỉ nói thế chứ không làm được. - TQT: như vậy Thủ tướng có thể thoát Trung được không để nhân dân đứng sau Thủ tướng thưa Tiến sĩ? - HSP: thì tôi vừa nói rồi, nếu quả thật Thủ tướng mà muốn thoát Trung thật, không có ôm ấp một cái hữu nghị viển vông, nhân dân sẽ đứng sau ông ngay. Nhưng mà ông cũng chỉ nói thế chứ làm thì không làm, ví dụ ông nói là chống Tàu thì tại sao những người biểu tình yêu nước thôi ông lại bắt, ông lại không cho biểu tình diễu hành? Hiện ông là Thủ tướng ông điều khiển chứ ai nữa, dù Tổng bí thư thì đang nắm bí thư tổng quân ủy, thì thôi ông Dũng chưa tác động được vào mạng quân đội, nhưng ông vẫn đang điều hành chính phủ…, nhưng vừa nói xong thì ông làm ngược lại, thế thì có ai tin nữa? Mặc dù chúng ta rất là rộng lòng, sẵn sàng chờ đón những thay đổi nên ai nói lời nói tốt thì ta cũng muốn động viên ngay, thế nhưng một lần bất tín vạn sự bất tin, bất quá tam thì đâu có tin được? Đến cụ Vĩnh cũng là người rất rộng lòng nhưng cũng không thể tin nổi. - TQT: Xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Hà Sĩ Phu đã có những ý kiến rất thẳng thắn và quan tâm đến tình hình đất nước. T.Q.T. – H.S.P. nguồn: boxitvn.blogspot.com
......

Bạo loạn đám đông và bạo lực nhà nước

Để xảy ra cuộc bạo loạn kéo dài suốt hai ngày, trên phạm vi rộng từ Bắc vào Nam, gây thiệt hại lớn về chính trị, kinh tế, xã hội nhưng những địa chỉ có trách nhiệm đã hồn nhiên đứng ngoài cuộc, không mảy may chịu trách nhiệm, không nghiêm túc nhìn vào thực chất vụ việc. Để rồi người dân phải gánh hậu quả là những cuộc biểu tình chính đáng, ôn hòa của người dân yêu nước càng bị đàn áp phi pháp, tàn bạo. Rồi ông tướng công an Hoàng Kông Tư quen mặt lại nói trong cuộc họp báo của Chính phủ rằng: Cuộc bạo loạn xảy ra là do tổ chức phản động có tên Việt Tân kích động, xúi giục thì dư luận đã bị dẫn dắt đi quá xa sự thật. Bản chất vụ việc càng bị che khuất. Trách nhiệm của công an trong vụ bạo loạn không những càng lu mờ mà vai trò của công an càng được đề cao, dùi cui của công an càng được vung lên trước nguy cơ “tổ chức phản động có tên Việt Tân”. Và người dân yêu nước càng bị đặt trong vòng ngắm của công an, càng được công an “chăm sóc” kỹ càng, chặt chẽ hơn. Quyền con người, quyền công dân của người dân càng bị ngang nhiên xâm phạm!   I. Thực chất cuộc bạo loạn Những gì diễn ra trong cuộc bạo loạn của đám đông hung hãn mặc sức đập phá các doanh nghiệp nước ngoài diễn ra suốt hai ngày 13 và 14 tháng Năm, năm 2014 ở khu tam giác kinh tế Bình Dương – Đồng Nai – Sài Gòn, nơi tập trung các doanh nghiệp nước ngoài đông nhất, lớn nhất, làm ăn hiệu quả nhất trong các khu công nghiệp ở Việt Nam, có thể nhận rõ hai điều quan trọng: (1) Đó là cuộc bạo loạn chính trị   Cuộc bạo loạn có tổ chức, có chỉ huy, có mục đích rõ ràng. Mượn cớ biểu tình chống Trung Quốc, kích động đám đông đi đập phá các doanh nghiệp có chủ Trung Quốc đầu tư nhưng đã đập phá tất cả doanh nghiệp nước ngoài. Trong 460 doanh nghiệp nước ngoài ở Bình Dương bị đập phá chỉ có 2 doanh nghiệp Trung Quốc và vài doanh nghiệp liên doanh với Trung Quốc.   Có mặt trong đám đông đập phá đương nhiên phần lớn đều là thành phần bất hảo. Hôi của diễn ra là đương nhiên, là hệ quả. Trong đám đông bạo loạn, hôi của chỉ là mượn bão bẻ măng, theo đóm ăn tàn, ăn theo bạo loạn chính trị. Còn những kẻ núp trong bóng tối phát động cuộc bạo loạn có mục đích chính trị rất rõ ràng:   - Đánh phá kinh tế. Gây bất ổn xã hội. Làm xấu môi trường đầu tư, gây bất an và thiệt hại lớn cho nhà đầu tư nước ngoài. Xua đuổi nhà đầu tư đã vào Việt Nam phải rời bỏ Việt Nam và đe dọa để không có nhà đầu tư mới nào dám đến Việt Nam nữa.   - Tạo cho chính quyền vốn đã mất lòng dân, đang lo đối phó với sức mạnh nhân dân có cớ lập lờ đánh lận con đen, đánh đồng biểu tình yêu nước với bạo loạn phá phách để ngăn cản và thẳng tay đàn áp những cuộc biểu tình yêu nước chính đáng, lành mạnh và vô cùng cần thiết của người dân.   - Điều quan trọng nữa là, bạo loạn là dịp thử việc, đo mức độ tin cậy đối với những kẻ đã bán linh hồn cho thế lực nước ngoài muốn khuất phục, nô dịch Việt Nam, là cuộc tập dượt của lực lượng tại chỗ trong mưu đồ đánh phá, thôn tính Việt Nam.   Chưa thực sự xâm lược Việt Nam bằng sức mạnh quân sự, mới xâm lược bằng đưa giàn khoan vào lãnh thổ Việt Nam ngoài Biển Đông, họ đã huy động được lực lượng hung hãn, mạnh mẽ như vậy. Sau này, khi có sự biến lớn hơn như Trung Quốc phát động chiến tranh, kéo đại quân tràn vào nước ta thì đội quân được mua bằng tiền bạc này cùng với đội quân người Hoa hùng hậu, những tráng đinh Trung Quốc đã được huấn luyện quân sự, đã được nạp tư tưởng bành trướng Đại Hán, đang mang danh người lao động tại những công trình do Trung Quốc thi công, đang là công dân tại những làng Trung Quốc rải khắp trên đất nước Việt Nam được phát động nổi loạn đánh phá từ phía sau, từ trong lòng xã hội Việt Nam phối hợp với đại quân đánh phá từ ngoài vào sẽ là sự bảo đảm chắc thắng cho họ. (2) Công an bỏ trống địa bàn cho đám đông bạo loạn Người dân yêu nước trong tay chỉ có tờ giấy viết hàng chữ đậm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam” đi biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc xâm lược thì bị công an đến chặn cửa ngăn không cho ra khỏi nhà từ tối hôm trước. Ở nơi diễn ra biểu tình ôn hòa của lòng yêu nước thì công an chìm nổi cùng các lực lượng ngăn chặn, chống phá biểu tình do công an chỉ huy đông gấp nhiều lần người biểu tình. Công an hành xử như xã hội đen, không cần biết đến pháp luật và quyền con người, quyền công dân, hành hung, bắt cóc người biểu tình ôn hòa ngang nhiên giữa ban ngày, giữa đám đông. Công an huy động sức mạnh bạo lực nhà nước cùng bạo lực xã hội đen đã dập tắt nhiều cuộc biểu tình yêu nước từ khi biểu tình chưa kịp nổ ra.   Cuộc biểu tình hiếm hoi diễn ra được thì người biểu tình bị công an kiểm soát chặt chẽ, bị bao vây, chia cắt thành những nhóm nhỏ bé, lẻ loi, lọt thỏm giữa vòng vây đông đặc của công an chìm nổi và những tổ chức công cụ của công an. Quy mô cuộc biểu tình vì thế đều nhỏ bé đến thảm hại. Lòng yêu nước và khí phách Việt Nam bị đàn áp, bị lăng nhục. Sức mạnh Việt Nam bị vùi dập, bị thủ tiêu. Cuộc biểu tình không đạt được mục đích, không còn giá trị tinh thần và sức mạnh chính trị.   Nhưng cuộc bạo loạn của những kẻ miệng gào thét, tay vung gậy gỗ, côn sắt đập phá doanh nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai, Sài Gòn diễn ra suốt hai ngày như ở nơi không có chính quyền, không gặp bất cứ sự ngăn chặn nào của chính quyền, của công an. Như có sự chỉ huy thống nhất, ở tất cả những nơi bạo loạn xảy ra, công an đã bỏ trống địa bàn, nhường địa bàn cho lực lượng bạo loạn.   Điều quá bất thường là ngày thường đủ sắc áo công an, dân phòng rải đầy đường. Chỉ một người dân đi xe máy không đội mũ bảo hộ vừa xuất hiện ở bất kỳ đoạn đường nào, lập tức có dùi cui của công an vung lên. Người dân nghèo bán hàng rong kiếm sống vừa đẩy xe trái cây vào phố liền bị đám dân phòng xúm vào bắt xe, đánh người. Nay hàng trăm người bạo loạn, ầm ầm kéo đi trên đường lớn, tràn từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác mà không thấy một bóng công an, dân phòng. Sức mạnh bạo loạn được phát huy hết công suất. Chỉ riêng ở Bình Dương, trong tổng số 700 doanh nghiệp nước ngoài có tới 460 doanh nghiệp bị đập phá tan hoang đã cho thấy sức mạnh bạo loạn lan nhanh và cường độ lớn như thế nào. Không một nhà đầu tư nào, dù không phải người Trung Quốc cũng không dám xuất hiện đối thoại với đám đông bạo loạn hung hãn không được kiểm soát. Nhiều người vội bỏ doanh nghiệp, bỏ cơ ngơi trốn ra sân bay về nước cho thấy cuộc bạo loạn gây hoảng loạn cho nhà đầu tư nước ngoài như thế nào. II. Mặt trận thứ hai đánh phá trong nội địa phối hợp với mặt trận thứ nhất xâm lược ngoài Biển Đông Bạo loạn xảy ra là do công an sơ hở, non kém nghiệp vụ ư? Chắc chắn là không phải. Do công an bị bất ngờ, đối phó không kịp ư? Càng không phải. Một đất nước chưa đến trăm triệu dân mà có bộ máy công an mật vụ khổng lồ, với vài trăm tướng lĩnh, vài triệu công an được biệt đãi, được quyền đứng trên pháp luật đã trở thành đội kiêu binh gây biết bao bất an, gây biết bao án mạng và án oan cho người dân. Bộ máy công an khổng lồ được trang bị kỹ thuật hiện đại nhất, có nghiệp vụ tài giỏi, có kinh nghiệm và thành tích đầy mình đã đánh sập từ trong trứng nước tất cả những ý đồ phủ nhận nhà nước cộng sản dù nhỏ nhất. Với mật độ công an dày đặc trong cuộc sống, giám sát đến từng người dân, giám sát từng phương tiện thông tin liên lạc cá nhân mà để xảy ra vụ Bình Dương ngày 13 và 14 tháng Năm, 2014 là điều vô cùng bất thường.   Tôi lại nhớ đến những chuyến thăm viếng con thoi khi công khai, khi bí mật, công khai thì ít, bí mật thì nhiều, từ Bộ trưởng cho đến các quan chức Bộ Công an hai nước Việt Nam, Trung Quốc.   Tôi lại nhớ đến bản Tuyên bố chung tám điểm do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ký với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011 tại Bắc Kinh. Điểm thứ tư của Tuyên bố chung có sáu việc thì việc thứ năm là: “Đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh;... Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp;... tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình”.   Một đất nước độc lập, có chủ quyền, thi hành pháp luật và an ninh, hoạt động của công an, tòa án hoàn toàn là công việc nội bộ của mỗi nước, là bí mật quốc gia mà lại “đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh” là đã giao việc cơ mật của quốc gia, giao an ninh của đất nước cho nước ngoài can thiệp rồi, là nước nhỏ đã tự nguyện nhận là phiên thuộc của nước lớn trong việc an ninh, nội trị rồi!   Văn bản ký kết chia sẻ việc an ninh nội trị của đất nước với một nước đang quyết liệt chống phá, thâu tóm đất nước mình trắng trợn, độc ác trên tất cả các mặt đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến đất đai, lãnh thổ thì văn bản ký kết đó thực sự là bản hợp đồng mang lợi ích đất nước ra đánh đổi lấy lợi ích của đảng cầm quyền rồi. Ở phạm vi quốc gia đã có bản hợp đồng bất lợi cho đất nước như vậy thì ở phạm vi cá nhân làm sao tránh được những bản hợp đồng không thành văn của những quan tham mang lợi ích ích đất nước đánh đổi lấy lợi ích riêng của quan tham.   Từ những cuộc bạo loạn vừa qua có thể thấy rằng thế lực đang chống phá, khuất phục Việt Nam đã thực hiện rất thành công trong việc mở mặt trận thứ hai ngay trong lòng xã hội Việt Nam đánh phá làm suy yếu, cô lập Việt Nam, phối hợp với mặt trận thứ nhất do giàn khoan HD981 mở ra ngoài Biển Đông. Mở mặt trận thứ nhất ngoài Biển Đông hoàn toàn do thế lực bên ngoài. Nhưng chỉ có thế lực bên ngoài thì không thể mở được mặt trận thứ hai trong nội địa.   III. Bạo loạn tạo cớ để bạo lực nhà nước càng hướng vào nhân dân   Làm suy yếu Việt Nam để Việt Nam trở thành chư hầu của Trung Quốc, suốt hơn nửa thế kỷ qua Trung Quốc bền bỉ thực hiện hai việc cổ điển nhưng đầy hiệu quả là đánh phá kinh tế Việt Nam và đánh phá đội ngũ quan chức nhà nước Việt Nam, những người quyết định sự thành bại của đất nước Việt Nam.   Trung Quốc đánh phá kinh tế Việt Nam đã được nhiều bài viết, nhiều người chỉ ra, mọi người đầu thấy rõ. Từ đánh phá nhỏ nhen, ti tiện, hạ đẳng như lùng mua móng trâu giá cao, diệt nguồn sức kéo trong nông nghiệp. Mua rắn, kích thích người dân tận diệt rắn để chuột sinh sản tàn phá mùa màng. Đến đánh phá lớn rất công nghiệp, rất hiện đại như bỏ thầu giá thấp, trúng thầu những công trình xây dựng công nghiệp lớn để nhà thầu Trung Quốc xuất khẩu vật tư, thiết bị chất lượng kém và xuất khẩu lao động phổ thông, xuất khẩu cả tội phạm hình sự sang Việt Nam. Rồi thi công dây dưa, cầm chừng đòi trượt giá, đội giá vừa đẩy giá thầu lên cao vừa kéo dài như vô tận thời gian thi công, kìm hãm tiến độ phát triển cả nền công nghiệp Việt Nam. Điện khí hóa là tiêu chí đầu tiên của công nghiệp hóa. Điện lực phải đi đầu trong công nghiệp hóa và nguồn điện quyết định sự phát triển kinh tế và xã hội nhưng đời sống kinh tế và đời sống xã hội Việt Nam suốt mấy chục năm qua luôn thiếu điện vì hầu hết các công trình xây dựng nhà máy phát điện đều bị các quan tham Việt Nam giao cho các nhà thầu Trung Quốc thâu tóm.   Nhiều người đã chỉ ra ngón đòn độc ác, thâm hiểm của Trung Quốc đánh vào kinh tế Việt Nam. Nhưng ngón đòn đánh vào con người, đánh vào quan chức Việt Nam chưa được chỉ ra đúng mức độ nguy hại của nó. Trung Quốc đánh vào con người, đánh vào đội ngũ quan chức Việt Nam đầu tiên bằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa lừa bịp. Đã vất bỏ chủ nghĩa xã hội từ lâu nhưng Trung Quốc vẫn duy trì Đảng Cộng sản, vẫn núp dưới tên xã hội chủ nghĩa bịp bợm để thực hiện chủ nghĩa tư bản hoang dã dưới sự chuyên chính của Đảng Cộng sản, tước đoạt mọi quyền con người, quyền công dân, quyền tư hữu đất đai của người dân nhằm hiện đại hóa nhanh nhất và quan chức của Đảng có đặc quyền, đặc lợi cướp đoạt tài nguyên đất nước, bóc lột nhân dân, vơ vét bổng lộc, làm giàu nhanh nhất. Núp dưới cái tên cộng sản, cái tên xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc cũng giăng ra cái bẫy ý thức hệ để nô dịch các nước cộng sản đàn em. Và tháng Chín năm 1990 ở Thành Đô, cái bẫy đó đã sập xuống Đảng Cộng sản Việt Nam.   Một nhóm nhỏ những người có quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam vì đặc quyền đặc lợi do thể chế độc tài đảng trị dành cho họ, họ cố chống lại xu thế dân chủ hóa tất yếu của thời đại, của dòng chảy lịch sử, cố duy trì sự độc tài đảng trị. Nhưng trước sự sụp đổ của cả hệ thống cộng sản thế giới, họ trở nên nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng, trống trải, mong manh và nguy khốn vội len lén sang Thành Đô, ký kết những văn bản liên minh với Trung Quốc thực chất là chấp nhận phụ thuộc vào Trung Quốc để duy trì sự tồn tại của Đảng Cộng sản, duy trì chủ nghĩa xã hội phản con người, phản tự nhiên, tự chui vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc.   Từ đó, mỗi cam kết, mỗi thỏa thuận, mỗi tuyên bố chung, mỗi hiệp định, mỗi hợp đồng kinh tế mà quan chức của Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam ký với Trung Quốc là thêm một thiệt thòi, mất mát của đất nước Việt Nam, là thêm một lần quan chức Việt Nam gục ngã trước những đòn đánh phá hiểm độc của Trung Quốc, là sợi dây trói buộc Việt Nam với Trung Quốc càng thít chặt hơn, Việt Nam càng phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn. Chỉ nêu vài dẫn chứng: Năm 1999, ký hiệp định biên giới Việt - Trung, Việt Nam phải cắt cho Trung Quốc hàng ngàn kilomet vuông đất đai thiêng liêng của tổ tiên.     Năm 2001, Tuyên bố chung do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh ký với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân, Việt Nam phải giao mảnh đất chiến lược Tây Nguyên cho Trung Quốc vào lập lãnh địa riêng khai thác bô xít, rước về cho dân tộc Việt Nam cái họa vô cùng nguy hại về an ninh, môi trường, gây cho kinh tế Việt Nam bệnh chảy máu mất nguồn vốn lớn của nền kinh tế đất nước từ năm này qua năm khác để nhận lấy thua lỗ kéo dài, gây mất lòng tin của người dân với chính quyền, gây chia rẽ, ly tán trong nội bộ dân tộc Việt Nam. Hàng loạt quan chức vì lợi ích cá nhân cố sống cố chết bảo vệ dự án bô xít Tây Nguyên chỉ mang lợi lộc cho Trung Quốc mà gây đại họa cho dân tộc Việt Nam.   Những hợp đồng cho Trung Quốc thuê hơn ba trăm ngàn hecta rừng đầu nguồn trong nửa thế kỷ với giá rẻ như cho không thực sự là những hợp đồng quan chức Việt Nam bán mình cho Trung Quốc. Rồi 90 phần trăm công trình xây dựng công nghiệp đều lọt vào tay nhà thầu Trung Quốc để các nhà thầu Trung Quốc dùng chính các công trình trúng thầu đó đánh phá kinh tế, chống phá tiến trình công nghiệp hóa của Việt Nam. Mục tiêu Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đến năm 2020, Việt Nam trở thành nước công nghiệp hóa không thể thực hiện được là do sự chống phá hiểm độc này.   Các đòn Trung Quốc đánh phá kinh tế Việt Nam cũng là đòn đánh phá con người quan chức Việt Nam. Các quan chức có gục ngã thì các đòn kinh tế mới được thực hiện. Dự án bô xít Tây Nguyên là đòn kinh tế nặng nề gây thiệt hại rộng lớn, kéo dài cũng là đòn đánh vào đội ngũ quan chức rộng lớn từ cấp cao nhất. Vụ bạo loạn đánh phá các doanh nghiệp nước ngoài tuy chỉ diễn ra trong hai ngày giữa tháng Năm 2014 cũng gây thiệt hại kinh tế không kém gì vụ bô xít.   Đã chui vào bẫy ý thức hệ của Trung Quốc thì đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Đến nay dự án bô xít đã thất bại thảm hại, càng thực hiện, càng thua lỗ, càng nguy khốn nhưng vẫn không thể bỏ. Thất bại, thua lỗ thảm hại nhưng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đều không dám chỉ ra cội nguồn đại họa của dự án bô xít Tây Nguyên. Cũng như cơ quan công an không thể tìm ra thủ phạm đích thực của vụ bạo loạn. Không lôi ra được thủ phạm đích thực của bạo loạn thì đành lôi Việt Tân ra thế mạng! Ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang không hề giết bà Hoan mà công an còn làm ra được bản án ông Chấn tự nhận đã giết bà Hoan thì mấy người không phải Việt Tân phải tự nhận Việt Tân chỉ là chuyện nhỏ.   Trong cuộc họp báo tổ chức ở Hà Nội sau cuộc bạo loạn Hà Tĩnh, Bình Dương nửa tháng, tôi lại thấy ông tướng Hoàng Kông Tư quen mặt. Lại thấy và quen mặt vì đầu tháng 11 năm 2010, chỉ sau hai ngày công an xông vào khách sạn ở Sài Gòn bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ với tang chứng tởm lợm là hai bao cao su tanh tưởi trong sọt rác phòng tiến sĩ Vũ thuê thì ông trung tướng, thủ trưởng cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an Hoàng Kông Tư cùng ông trung tướng thứ trưởng Bộ Công an Tô Lâm liền chủ trì cuộc họp báo ở Hà Nội để ông trung tướng Hoàng Kông Tư với vẻ mặt nghiêm trọng, với cách nói tự tin thông báo rằng: Ông Cù Huy Hà Vũ tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý đòi lật đổ chế độ, thực hiện đa nguyên đa đảng! Trong cuộc họp báo về vụ bạo loạn, ông tướng Hoàng Kông Tư vẫn với vẻ mặt đầy nghiêm trọng nhưng trong cách nói tôi nhận ra có chút lượn lờ, vòng vo, chung chung và không còn nhiều tự tin khi ông nói rằng: Có sự kích động, xúi giục của kẻ địch mà công an đã phát hiện, bắt giữ để điều tra làm rõ theo qui định của pháp luật. Tổ chức phản động có tên Việt Tân đã kích động, xúi giục! Vì cái bẫy ý thức hệ, các quan chức của Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đều không dám đả động đến những hành động thù địch, những tội ác của Trung Quốc đối với Việt Nam. Suốt mấy chục năm nay, Trung Quốc quyết liệt đánh phá Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Lấn chiếm đất ở biên giới. Xua quân tràn vào Việt Nam, gài thuốc nổ phá sập từ cái giếng nước, bắn giết hàng vạn người dân Việt Nam. Đánh cướp quần đảo Hoàng Sa, bãi đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Bắn giết dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam. Cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Trắng trợn xâm lược Việt Nam bằng đưa giàn khoan 981 và hơn trăm tàu hộ tống, cả tàu dân sự và tàu quân sự vào biển Việt Nam. Nhưng ông Tổng Bí thư Đảng Cộng sản thì nín thở, không dám ho he. Còn ông tướng đứng đầu lực lượng giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam vẫn nhắm mắt ngợi ca kẻ đang cướp đất cướp biển Việt Nam, đang giết dân Việt Nam: Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể các mặt đang phát triển tốt đẹp!   Ông Tổng Bí thư Đảng, ông Đại tướng ủy viên Bộ Chính trị còn không dám đả động đến ông bạn vàng ý thức hệ của Đảng thì mấy ông tướng công an làm sao dám chỉ ra kẻ giấu mặt chỉ huy cuộc bạo loạn vừa rồi là tình báo Hoa Nam. Thôi, cứ buộc Việt Tân tội kích động bạo loạn là tiện nhất, vẹn cả đôi đường. Vừa tránh không động chạm đến ông bạn Thành Đô bốn tốt, mười sáu chữ vàng của Đảng. Vừa đẹp ý Đảng, lại có cớ mang công cụ bạo lực nhà nước ra ứng xử với biểu tình yêu nước như ứng xử với Việt Tân, cứ thẳng tay đàn áp như đàn áp cuộc biểu tình chính đáng của người dân Hà Nội, Sài Gòn ngày 18 tháng 5, năm 2014. Và những cuộc biểu tình của khí phách, của ý chí bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của người dân Việt Nam đã bị bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp quyết liệt, tàn bạo! P. Đ. T.   Nguồn: Bauxite Việt Nam
......

Hoàng Sa - dữ kiện lịch sử từ wikileaks

Hoàng Sa - những diễn biến lịch sử theo các tài liệu của wikileaks lại các điện tín mà Wikileaks đã lưu trữ và công bố trên trang của họ [1], mình có thể liệt kê các biến cố quan trọng theo tình tự thời gian: 1) Ngày 11 tháng Một năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) bất thình lình tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Ngày 16 tháng Một năm 1974, tàu Lý Thường Kiệt (HQ-16) ra Hoàng Sa để kiểm sát thì phát hiện có hai "tàu cá" của Trung Quốc ở đó. Chiều ngày 16 tháng Một năm 1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc thay mặt chính phủ VNCH chính thức lên tiếng lên án thái độ phi pháp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc về việc tuyên bố sai sự thật và việc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam bất hợp pháp. Ngoại trưởng Bắc liệt kê những bằng chứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của VNCH: - Vua Gia Long năm 1802 đã hình thành quân đội kiểm soát quần đảo Hoàng Sa theo tài liệu của Đại Nam Nhất Thống Chí. - Vua Minh Mạng năm 1834, trình điều Huế đã có bản đồ Hoàng Sa trong Hoàng Việt Địa Du. - Thời Pháp thuộc đã có sắc luật 156/SC vào ngày 16 tháng Sáu năm 1932 ấn định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của tỉnh Thừa Thiên. - Vua Bảo Đại một lần nữa ra quyết định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của Thừa Thiên vào 30 tháng Ba năm 1938. - Toàn quyền Đông Dương một lần nữa xác định quyền quản lý Hoàng Sa thuộc chính phủ bảo hộ vào ngày 5 tháng Năm 1939. - Dưới thời đệ nhất VNCH, sắc lệnh 174-NK vào năm 1961 quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Định Hải, Hoà Vang, Quảng Nam thay vì Thừa Thiên. - Dưới thời đệ nhị VNCH, sắc lệnh 079-BNV quyết định Định Hải sáp nhập với Hoà Long thuộc Hoà Vang. - Phái đoàn Việt Nam tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam và không có bất cứ quốc gia nào trong 51 nước tham dự đã phản đối. [2] "Đại Nam nhất thống toàn đồ” vẽ năm 1838 triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. 2) Ngày 18 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc với vai trò thành viên dự khuyết của nước VNCH gởi thư đến chủ tịch LHQ Gonzalo J. Facio về thông tin đã được phát thanh vào chiều 16 tháng Một năm 1974 [3]. 3) Ngày 19 tháng Một năm 1974, hải quân VNCH và hải quân CHNDTH đụng độ tại Hoàng Sa. Báo Hoà Bình, một tờ báo độc lập của nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích cộng sản Bắc Việt hoàn toàn im lặng trong khi họ rêu rao việc đấu tranh cho độc lập và trọn vẹn lãnh thổ [4]. 4) Ngày 20 tháng Một năm 1974, đại diện VNCH gởi thư cho chủ tịch LHQ thỉnh cầu triệu tập cuộc họp khẩn cấp để giàn xử việc CHNDTH cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và phía VNCH hiểu được tình trạng có thể thiếu sự ủng hộ của các thành viên của hội đồng bảo an LHQ [5] và bức thư này đã được ký nhận [6]. 5) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận việc phía VNCH đã kêu gọi hội đồng bảo an LHQ triệu tập cuộc họp khẩn cấp [7]. 6) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cho biết đã gặp phía VNCH và đại diện VNCH nhận thấy sẽ có những khó khăn để tìm 9 phiếu ủng hộ từ hội đồng bảo an LHQ nhưng phía VNCH cho biết họ sẽ làm việc với phía Anh, Pháp, Indonesia và Úc cũng trong ngày [8]. 7) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cũng đã chuyển thư thỉnh cầu của phía VNCH đến tổng thư ký LHQ Kurt Waldheim [9]. 8) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía VNCH và VNCH cho biết họ xác nhận cần tiến hành cuộc họp khẩn cấp với hội đồng bảo an LHQ và cần 3 ngày để sắp xếp nhân sự có mặt ở New York. Facio cũng cho biết chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, ông bắt đầu làm việc với từng đại diện của hội đồng bảo an LHQ, bắt đầu với Trung Quốc và sẽ cho phía VNCH biết tình hình vào sáng 22 tháng Một năm 1974 [10]. 9) Chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía CHNDTH và cho biết phía CHNDTH rất giận dữ và họ xác định chuyện Hoàng Sa là chuyện nội bộ của Trung Quốc và việc ông chủ tịch làm việc với các thành viên hội đồng bảo an LHQ để đưa đến cuộc họp khẩn này có thể dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia Trung Quốc. [11] 10) Cũng trong chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, theo Kissinger, đại sứ Phương (của VNCH) đã gọi cho Hummel [12] và Stearns [13]. Phương cho biết dù nhận thấy những điểm bất lợi của vụ họp khẩn này của hội đồng bảo an LHQ nhưng VNCH không có chọn lựa nào khác trong tình thế này. Hummel và Stearns cho biết họ e ngại rằng phía Trung Quốc sẽ đưa ra một phiên bản khác và lật ngược thành chuyện VNCH đã khiêu khích và xâm chiếm và sự vụ sẽ trở nên rắc rối và bất lợi cho phía VNCH. Họ cũng cho biết, trong tình trạng này, sự từ chối khiếu nại của VNCH sẽ có hại cho VNCH [14]. 11) Cũng trong ngày 21 tháng Một năm 1974, Kissinger đánh giá tình thế bất lợi của VNCH do thành viên của hội đồng bảo an LHQ có những thay đổi: Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ tốt với VNCH. VNCH cần 9 phiếu thuận (trong 15 phiếu) trong tình trạng gấp rút này e rất khó thành [15]. 12) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Phillipines cho biết quan điểm của họ về vụ Hoàng Sa là "thái độ xâm lấn của Trung Quốc là kết quả của việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam". Sự vụ này cho thấy Philippines nên tiếp tục duy trì căn cứ của Hoa Kỳ tại Phillipines. Phillipines cũng nhận định sự vụ này nhắm vào phía VNCH khiến Hà Nội ắt đã vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, Hà Nội có lẽ cũng đã nhận ra rằng sự mất mát Hoàng Sa là sự mất mác không thể lấy lại được [16]. 13) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Mã Lai yêu cầu cho biết thêm chi tiết về sự vụ và nghi ngờ rằng đây là một trong những bước đầu tiên Trung Quốc kiểm soát tất cả các đảo trong khu vực mà họ đã công bố chủ quyền [17]. 14) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Liên Xô cho biết nhận định của họ về sự vụ cần được giải quyết giữa các phía liên can (VNCH, CHNDTH và Phillpines). Theo Liên Xô, bắc Việt (VNDCCH) chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của họ ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Trifonov, sự vụ này diễn ra do VNCH muốn hợp tác với Mỹ để khai thác dầu hoả [18]. 15) Ngày 22 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio liên lạc với phía VNCH và đánh giá tình hình. Ông cho rằng VNCH đang nằm trong thế bất lợi để có thể có đủ phiếu thuận. Theo thẩm định của ông, Phiếu thuận: Úc, Áo, Anh, Mỹ và Costa Rica Phiếu chống: Beylorussia, Trung Quốc, Indonesia, Iraq và Liên Xô Phiếu trắng: Careroon, Pháp, Kenya, Maritania và Peru [19]. 16) Ngày 23 tháng Một năm 1974, phía Indonesia xác nhận quan điểm của họ là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc theo hội nghị San Francisco 1951. Tuy nhiên, đại diện Indonesia từ dối xác định vị thế của họ trước cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [20]. 17) Ngày 23 tháng Một năm 1974, đại sứ Martin cho biết vì thiếu mối quan hệ ngoại giữa VNCH và Peru cho nên Peru sẽ chọn phiếu trắng trong cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [21]. 18) Ngày 23 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc kêu gọi SEATO áp dụng điều khoản 4 của hiệp định Manila và kêu gọi các quốc gia trong hiệp hội SEATO có những động thái cần thiết [22]. 19) Ngày 23 tháng Một năm 1974, theo Kissinger thì chính phủ Hoa Kỳ đã nhận được tuyên bố phía Indonesia cho rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và được quốc tế công nhận [23]. 20) Ngày 23 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ đã xác nhận phổ biến bức thư của đại sứ VNCH Nguyễn Hữu Chi, đại diện VNCH như thành viên dự khuyết của hội đồng bảo an LHQ trình bày sự vụ Hoàng Sa [24]. 21) Ngày 23 tháng Một năm 1974, Kissinger chuyển gởi thông tin đến phía VNCH về việc Costa Rica xác định ủng hộ VNCH. Tuy nhiên tình thế vẫn rất bất lợi cho phía VNCH vì chỉ có 5 phiếu thuận, 5 phiếu trắng và 5 phiếu chống [25]. 22) Ngày 24 tháng Một năm 1974, Kissinger cho biết phản ứng của SEATO với sự vụ VNCH kêu gọi ngày 23 tháng Một năm 1974 là "tiêu cực" (negative) và Hoa Kỳ rất ngờ vực khả năng của SEATO [26]. 23) Ngày 25 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi thông điệp qua đại sứ thường trực Nguyễn Hữu Chi về việc phía VNCH rút thỉnh cầu kêu gọi cuộc họp khẩn cấp dựa theo quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng mong mỏi hội đồng bảo an LHQ ghi nhận trường hợp này và xử lý sao cho thích hợp [27]. 24) Ngày 25 tháng Một năm 1974, chính phủ Pháp xác nhận việc Pháp dự định bỏ phiếu trắng là không đúng sự thật. Tuy nhiên, đại diện chính phủ Pháp cho rằng sự vụ rất phức tạp và ngay lúc này họ không thể chọn ủng hộ bên nào. Pháp muốn biết quan điểm cụ thể của Hoa Kỳ như thế nào [28]. --------------------------------------- Nhận định cá nhân: - Sự việc xảy ra nhằm lúc có những điểm bất lợi cho VNCH vì hội đồng bảo an LHQ vừa thay đổi thành viên thường trực. Trong đó, Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ mật thiết với VNCH. Byelorussia thuộc USSR thì việc ủng hộ VNCH là việc không thể. - Chính phủ VNCH đã cố gắng hết sức để vận động cả hội đồng bảo an LHQ lẫn tổ chức SEATO nhưng SEATO không mang lại kết quả nào tích cực. - Liên Xô dù đang va chạm với Trung Quốc nhưng không muốn ủng hộ VNCH và cũng không muốn ra mặt đối chọi với Trung Quốc trong việc ra phiếu thuận cho VNCH. - Indonesia và China bắt đầu quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng bị ngưng vào năm 1967 vì biến cố Gestok năm 1965 tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia luôn luôn xác định Hoàng Sa là của Trung Quốc và cho đến phút chót, vị trí bỏ phiếu chống VNCH của Indonesia vẫn không thay đổi mặc dù theo dư luận chung của quốc tế, quần đảo Hoàng Sa thời điểm này vẫn thuộc dạng "dispute" (tranh chấp). Indonesia đã tạo thêm bất lợi cho VNCH. - Pháp có thái độ mập mờ về việc ủng hộ VNCH với chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mặc dù trong thời Pháp thuộc, Pháp đã nhiều lần xác định cơ quan hành chánh cho Hoàng Sa. Sự quyết định chậm trễ và mập mờ của Pháp đã góp phần vào việc VNCH phải huỷ bỏ cuộc họp khẩn cấp về sự vụ Hoàng Sa. - Nếu Ấn Độ và Sudan vẫn còn là thành viên thường trực của hội đồng bảo an LHQ và Indonesia và Pháp có động thái tích cực và chính xác hơn thì có lẽ VNCH đã có thể chiếm 9 phiếu thuận trên 15 phiếu và sự vụ đã được khép lại. - Hội đồng bảo an LHQ và phía Hoa Kỳ đã làm việc rốt ráo và có những đóng góp ý kiến có giá trị vì nếu VNCH không nắm tình hình mà lao vào cuộc biểu quyết và bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Phía VNCH và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút đơn thỉnh cầu và đó là một quyết định đúng đắn vì nếu VNCH bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Sau 1975, chính phủ VNDCCH chưa bao giờ đưa sự vụ Hoàng Sa ra LHQ. Cho đến ngày nay, Hoàng Sa đã trở thành căn cứ và thuộc đơn vị hành chánh "Tam Sa" nhưng chính phủ CHXHCNVN chưa bao bao giờ có bất cứ động thái rốt ráo và quyết liệt nào cả. Chú thích: [1] wikileaks.org [2] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00752_b.html [3] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00175_b.html [4] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00859_b.html [5] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00188_b.html [6] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012722_b.html [7] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012732_b.html [8] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00190_b.html [9] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00192_b.html [10] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00194_b.html [11] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00203_b.html [12] Hummel, Arthur William, Jr. trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [13] Stearns, Monteagle, phó trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [14] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013405_b.html [15] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013407_b.html [16] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MANILA00775_b.html [17] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974KUALA00310_b.html [18] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MOSCOW01036_b.html [19] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00219_b.html [20] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974JAKART00961_b.html [21] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01039_b.html [22] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974BANGKO01283_b.html [23] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE014788_b.html [24] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00233_b.html [25] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015338_b.html [26] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015405_b.html [27] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01040_b.html [28] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974PARIS02298_b.html Nguồn: https://www.facebook.com/notes/773727779316198/  
......

CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974.  Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây. 1.-  TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển.  Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.  Riêng  quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:  3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý.  Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.  Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.  Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.)  Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau: (1)   Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc. . . . . . . . . . . . . . . (4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).  Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.  Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].  Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay. 2.-   CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam.  Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.  Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.  Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”  Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường.  Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt.  Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I.  Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai.  Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.  3.-  TRUNG QUỐC BIỆN MINH Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện. Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc.  Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng. Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.  Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”  Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược]. Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5.  Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai...  Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975.  Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.” 4.-   CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.  Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.  Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...” Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình.  Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy.  Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy. 5.-  HIỂU CÁCH NÀO? Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.  Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.    Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”  Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài.  Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?  Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam.  Khi  cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài?  (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao - danlambaovn.blogspot.com) Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).  Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ.  Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng.  Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.  Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản.  Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.  Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết. Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau.  Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.  Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm.  Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc. 6.-  LIÊN MINH QUÂN SỰ? Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc.  Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn. Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.) Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức ...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)   Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới.  Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi.  Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)?  Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.  Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa.  Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?  Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước.  Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai.  Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng. Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc.  Trung Quốc dư biết điều đó.  Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra.  Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm.  Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước ... 7.-   PHẢI QUYẾT ĐỊNH Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài.  Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình. Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.  Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm.  Phạm Văn Đồng đã chết.  Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.  Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.  Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.  Có hai cách giải thể: Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết.  Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen. Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông? Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản.  Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.  Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.  Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.  Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN  theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi.  Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 5-6-2014)
......

Thỏa thuận Thành Đô – bước lùi lịch sử thảm họa

Phát triển quan hệ không thù địch, hơn thế nữa còn phải thân thiện với các nước láng giềng, là một chính sách đúng đắn của mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình công lý. Chính sách láng giềng thân thiện lại cần được ưu tiên hơn, khi láng giềng là một cường quốc. Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau hơn một thập kỷ chiến tranh và xung đột biên giới là việc cần làm. Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990): Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng, cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9) (Nguồn hình : Bùi Tín). Thế nhưng cái cách mà Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc thì thật không bình thường. Không chỉ như vậy, nội dung bình thường hóa quan hệ mà Việt nam cố gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa thuận Thành Đô (4/9/1990), là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không chỉ bất lợi, mà ngày càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo cấp số nhân cùng với thời gian mà chính những người tham gia đàm phán Thỏa thuận Thành Đô đã không lường trước được. Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày ký Thỏa thuận Thành Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam nguy hiểm đến nỗi mà ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám thể hiện, hoặc cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng trong sâu xa tâm khảm, đều cảm thấy hối tiếc. BA SAI LẦM 1. Sự hoảng hốt lịch sử Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo sợ sự sụp đổ thể chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột biến kẻ thù truyền kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục đánh chiếm biên giới Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi vào Hiến pháp 1980 là kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Còn đại diện phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng. Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là việc cần làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một thỏa thuận bất lợi cho Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến nỗi mà chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn khoăn. 2. Ảo tưởng về chế độ Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về chế độ xã hội chủ nghĩa. Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để các nhà lãnh đạo Việt Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội đồng loạt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù bên ngoài, mà do chính các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính nguyên tắc, quyết định sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các lỗi hệ thống đó thì phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng chiến chống ngoại xâm – mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt nghiên cứu lý luận. 3. Nhầm lẫn về Trung Quốc Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là nhận thức không nhất quán về Trung Quốc. Trung Quốc công khai tham vọng xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc gây ra cho Việt Nam những tổn thất to lớn trong Hiệp định Genève. Trung Quốc phá hoại cản trở Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ nghĩa”, từng “anh em bè bạn”, nhưng năm 1979 Trung Quốc đã ngang ngược mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung Quốc liên tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam. Vô vàn cay đắng thâm thù từ Trung Quốc, làm sao mà các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, trong thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại có thể cả tin rằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương được dòng máu bá quyền Tần Thủy Hoàng - Mao Trạch Đông, để Việt Nam và Trung Quốc lại là “anh em”, cùng chống kẻ thù ý thức hệ? BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA I. Lệ thuộc về chính trị Thỏa thuận Thành Đô gây ra những hậu quả thảm họa to lớn mà chính những người ký Thỏa thuận đã không ngờ tới. Từ Thỏa thuận Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ thuộc chính trị hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc tiến hành một chính sách bắt Việt Nam dần phụ thuộc chính trị rất thâm hiểm, tập trung trên mấy phương diện sau. 1. Gây ảnh hưởng về nhân sự lãnh đạo Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo là nhân tố nguy hiểm số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay giảm ảnh hưởng của tất cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung Quốc. Sự can thiệp vào công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung Quốc rất trực diện, thô bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông Phạm Bình Minh (con trai của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Quốc không chấp nhận. Gần đây Lễ tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường phủ bóng tối. 2. Gây ảnh hưởng về chính sách song phương và đối ngoại Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng hợp với các thế mạnh về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh khóe thâm độc gian xảo, Trung Quốc gây áp lực lên các cuộc đàm phán song phương và chi phối lên quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam. Việt Nam đã phải nhượng bộ cho Trung Quốc trong Hiệp định biên giới đất liền năm 1999, cũng như trong thỏa thuận phân chia đường biên giới trên biển năm 2000. Việt Nam không dám công khai ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mặc dù Việt Nam được lợi từ vụ kiện này. Việt Nam không thân mật đến mức liên minh với các nước lớn bởi e dè Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố không liên minh với ai để chống nước thứ ba thực chất là để thanh minh với Trung Quốc. 3. Gây ảnh hưởng về kinh tế Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng sức mạnh kinh tế, Trung Quốc quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu các dự án kinh tế chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc. Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế, tiến đến lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính trị, bắt lệ thuộc về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa Việt Nam, bắt Việt Nam không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc. II. Lệ thuộc về kinh tế Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc toàn diện. Sự phụ thuộc toàn diện của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc thể hiện qua mấy điểm chủ chốt sau đây. 1. Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng tiêu dùng, khắp nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc. Cay đắng hơn đến các mặt hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả trứng, trái cam, củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng bị hàng Trung Quốc lấn át. Để biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa mạnh hơn nữa, Trung Quốc thúc đẩy mở cửa biên giới để hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích cho phép buôn lậu qua biên giới những mặt hàng có lợi cho Trung Quốc. Đi xa hơn, Trung Quốc thiết lập mạng lưới đại lý phân phối hàng hóa và đưa cả người Trung Quốc sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam. Việt Nam thực sự đã trở thành một thị trường thuộc địa hàng hóa của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán hai chiều, Việt Nam còn kém vị thế một tỉnh của Trung Quốc. Bởi lẽ một tỉnh của Trung Quốc còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh khác của Trung Quốc, còn Việt Nam thì chỉ thuàn túy mua, mà không bán lại được cho Trung Quốc máy móc thiết bị công nghệ. 2. Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án xương sống trụ cột của Việt Nam Trong đấu thầu xây dựng các công trình kinh tế chủ chốt của Việt Nam, Trung Quốc là nước thắng thầu nhiều nhất. Trung Quốc tiến hành một chiến lược giản đơn với chủ trương chào thầu thấp để thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá thầu lên, khiến cho chi phí xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt hơn cả giá chào thầu ban đầu của các đối tác khác. Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành rất đắt, nhưng Việt Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ lạc hậu, năng thuất thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và môi trường. Sản phẩm làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng. Tất cả các công trình mà nhà thầu Trung Quốc tham gia xây dựng, không có công trình nào có chất lượng đảm bảo như của các nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả kinh tế rất thấp. 3. Trung Quốc khai thác thu mua nhiều tài nguyên khoáng sản của Việt Nam Với chính sách “Dùng của người, để dành của nhà” Trung Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập trung vào các nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh. Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc nên càng bị Trung Quốc tận thu hết công suất. Việt Nam không phải là nước có nhiều khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản tiềm năng chủ chốt của Việt Nam đều bị Trung Quốc thâu tóm. Trung Quốc là khách hàng lớn của Việt Nam về than. Hai dự án lớn về bôxít ở Tây Nguyên cũng nhường thầu xây dựng trọn gói cho Trung Quốc, và sẽ bán nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Dự án thép ở Vũng Áng cũng bị Trung Quốc mua lại. Riêng dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác khai thác được,Trung Quốc trắng trợn mang giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam để tự khai thác. Thâm hiểm ngang ngược đến thế là cùng. 4. Trung Quốc đầu tư kinh doanh hầu khắp các huyện tỉnh thành Việt Nam Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc hại, chất lượng tồi, giá thành rẻ, Trung Quốc ồ ạt đầu tư khắp các huyện tỉnh thành của Việt Nam. Đi xa hơn Trung Quốc lập các công ty, cửa hàng đại lý thương mại khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người Hoa khắp cả nước Việt Nam. Bằng cách này Trung Quốc đã hình thành một mạng lưới kinh tế riêng của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt Nam, cả hàng hóa lẫn con người. III. An ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa như bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an ninh quốc gia sau đây. 1. Đội quân người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam Trung Quốc đã rất thành công trong việc đưa người lao động đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt Nam, lấy vợ đẻ con, lập nên nhan nhản các làng phố người Hoa. Đây là mối hiểm họa bậc nhất cho an ninh guốc gia. 2. Mạng lưới gián điệp dày đặc Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi, với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà trong mọi đối phó ứng xử với Việt Nam. 3. Nguy cơ bị đánh sập nền kinh tế Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung Quốc thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Quốc xẩy ra. 4. Các cơ sở quốc phòng của Trung Quốc trên đất Việt Nam Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự, cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là hoàn toàn thực tế. Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự bằng dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc huy động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99 năm. Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung Quốc. VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh năm 1887. Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 và tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không hành động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa. Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất nguy hiểm. NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận Thành Đô. Đó là điều chắc chắn. Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là cùng thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Quốc là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm. Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc vận dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Quốc, dù có được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào. Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do độc đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh em, là cùng chung mục đích lý tưởng. Mục đích của Trung Quốc là bá chủ thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua. Không có tương đồng thể chế, không có tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi của giới lãnh đạo Trung Quốc. Lời phát biểu tại Philippines ngày 21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Quốc. III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc phải cương quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung Quốc sẽ mất đi. Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ở Đông Âu sau 40 năm. Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân tộc. Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc. Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm. Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng cứ làm. Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt tiêu phạm trù Dân tộc. VI. Cách mạng thể chế Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu quả nhất. Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian. Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”. V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh, hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một mình một đường không giống ai, không phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập chính mình. Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Khăng khăng duy trì một thể chế lạc lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với thế giới văn minh dân chủ hiện đại. V. T. D. http://boxitvn.blogspot.de/2014/06/thoa-thuan-thanh-o-buoc-lui-lich-su.html
......

Tuyên bố ngày 8/6 của các Hội đoàn Dân sự về Công đoàn Độc lập Việt Nam

  Công đoàn độc lập phải là tổ chức xã hội do chính công nhân thành lập, thật sự hướng đến công nhân, lấy công nhân làm trung tâm và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mỗi công nhân trong từng nhà máy, xí nghiệp. Công đoàn độc lập không thể là một tổ chức hữu danh vô thực như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) và các cấp công đoàn cơ sở của hệ thống nhà nước, khi các tổ chức này đã chỉ được biết đến như một khâu trung gian hưởng thụ 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp mà chưa hề đồng thuận với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm. Về mặt pháp lý, bất kỳ cuộc đình công nào cũng phải có sự chấp thuận của TLĐLĐVN. Nhưng thực tế đã minh chứng một sự thật quá chua chát là TLĐLĐVN chưa bao giờ lãnh đạo, tổ chức hoặc hỗ trợ bất kỳ vụ đình công nào. Tất cả các cuộc đình công ở Việt Nam đều mang tính tự phát nhưng đều bị xem là bất hợp pháp. Thậm chí các cuộc đình công phản đối hành động xâm lăng của Trung Quốc đã vượt tầm kiểm soát như đã xảy ra trong tháng qua. Trong các vụ biểu tình của công nhân ở Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh các tổ chức của TLĐLĐVN, được mang danh là đại diện của công nhân, đã hoàn toàn vô dụng và để cho những kẻ xấu lợi dụng gây bạo loạn làm hoen ố hình ảnh công nhân Việt Nam nói riêng và Việt Nam nói chung. Nếu có công đoàn độc lập do chính công nhân lập ra, thì chắc chắn sự việc đáng tiếc như vậy đã không xảy ra. Quyền lên tiếng Quyền được lên tiếng để tự bảo vệ những lợi ích của mình trước giới chủ và trước những chính sách bất hợp lý của Nhà nước về thuê và sử dụng lao động là quá cấp thiết đối với hầu hết 5 triệu công nhân Việt Nam! Quyền được tự thành lập một tổ chức công đoàn độc lập của công nhân càng trở nên bức bách trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích tham tàn ở đất nước này đẩy vào tình thế suy thoái và khủng hoảng trong suốt gần 7 năm qua. Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Tại nhiều nhà máy và xí nghiệp, công nhân phải làm việc ít nhất 10 giờ mỗi ngày và sáu ngày một tuần, nhưng mức thu nhập hoàn toàn không đủ sống. Tình trạng thảm thương đó vẫn tiếp tục tăng tiến bất chấp Việt Nam đã có cơ hội tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007, nhưng đã chỉ trở thành cơ hội để hố phân hóa giữa 5% số người có thu nhập cao nhất với 5% người nghèo nhất ước tính lên đến ít nhất 60-70 lần. Một khi đã không thể biểu diễn được lòng thành và khả năng nâng cao mức sống và quyền lợi cho công nhân sau WTO, không có gì bảo đảm là các chính sách của Nhà nước và doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam sẽ làm cho đời sống người công nhân đỡ khốn khổ hơn nếu nhà nước này được chấp nhận tham gia vào cơ chế thương mại Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian tới. Phải thành lập Công đoàn độc lập Truyền thống quan tâm đến chính sách an sinh xã hội và quyền lợi người lao động của những quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất trong TPP là Hoa Kỳ và Nhật Bản đã khiến Nhà nước Việt Nam phải đối diện với một điều kiện bất khả kháng: muốn vào TPP, Việt Nam phải chấp nhận mô hình Công đoàn độc lập. Những tổ chức nghiệp đoàn lao động có ảnh hưởng nhất ở Hoa Kỳ như  American Federation of Labor and Congress of Industrial Organizations, Communications Workers of America, International Brotherhood of Teamsters và International Brotherhood of Electrical Workers đều đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Việt Nam gia nhập hiệp định TPP, nếu nhà nước này không thỏa mãn điều kiện hình thành Công đoàn độc lập, không thực hiện những cải cách quan trọng về luật lao động và tự do dân sự, không trả tự do vô điều kiện do cho hàng loạt nhà hoạt động công đoàn độc lập như Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương… đã bị bắt giam và bị xử tù. Chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam, đồng thanh tuyên bố ủng hộ hoàn toàn: 1.     Công đoàn độc lập do chính công dân Việt Nam thành lập và điều hành. 2.     Giới thiệu người tham gia và kêu gọi công nhân gia nhập hội viên. 3.     Vận động các quốc gia và các tổ chức quốc tế ủng hộ và bảo vệ. Đại diện các tổ chức XHDS Việt Nam ký tên: 1.  Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải 2.  Cao Đài: Ông Hứa Phi, Bà Bạch Phụng 3.  Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế 4.  Con Đường Việt Nam: Ông Hoàng Văn Dũng 5.  Công Giáo: Lm. Đinh Hữu Thoại 6.  Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A 7.  Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ 8.  Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Kỹ sư Trương Minh Nguyệt, Ls. Nguyễn Bắc Truyển 9.  Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài, Ký giả Trương Minh Đức 10.  Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng 11.  Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi 12.  Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Bà Dương Thị Tân, Cô Huỳnh Thục Vy 13.  Khối 8406: Lm Phan Văn Lợi 14.  Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm, Ông Lê Văn Sóc 15.  Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống: Tu sĩ Lê Minh Triết 16. Phong Trào Liên Đới Dân Oan: Bà Trần Ngọc Anh 17.  Tăng Đoàn PGVNTN: HT. Thích Không Tánh 18.  Tin Lành: MS Nguyễn Hoàng Hoa, MS Nguyễn Mạnh Hùng Nguồn: http://fvpoc.org/2014/06/08/tuyen-bo-ngay-86-cua-cac-hoi-doan-dan-su-ve-...
......

Đại Hội Công Giáo Việt Nam kỳ thứ 38

Phóng sự bằng hình: Ngày Chủ Nhật, 08.06.2014: Ngày thứ Hai, 09.06.2014:   Lời chào mừng Đại Hội Công Giáo Việt Nam lần thứ 38 tại Haßfurt, 7.6. - 9.6.2014 Kính thưa Đức Giám Mục Dr. Franz Josef Overbeck, Kính thưa tham dự viên Đại Hội Công Giáo Việt Nam kỳ thứ 38, Kính thưa quý vị, Anh chị em trong Chúa Kitô thân mến, cuối tuần này chúng ta bắt đầu Đại Hội Công Giáo Việt Nam lần thứ 38 tại Haßfurt. Tôi rất vui và lấy  làm vinh dự được gửi đến quý vị lời chào mừng. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm tốt để tổ chức Đại Hội, bởi vì vào dịp lễ Hiện Xuống chúng ta tưởng niệm lại biến cố Thiên Chúa gửi Thánh Linh đến các Tông Đồ, để các vị này nói và hiểu nhiều thứ tiếng. Từ ngày này các ngài đã đi rao giảng về những việc làm của Chúa Giêsu. Bởi thế lễ Hiện Xuống được coi là ngày Sinh Nhật của Giáo Hội. Mừng lễ Hiện Xuống còn có ý nghĩa là đức tin Kitô giáo không phụ  thuộc vào ngôn ngữ và lằn ranh biên giới, song con người hợp nhất với nhau không phân biệt chủng tộc. Đại Hội Công Giáo Việt Nam lần thứ 38 ở Haßfurt là bằng chứng hùng hồn cho sự hợp thông trong đức tin này. Nhìn vào tình hình người Kitô hữu trên toàn cầu tôi rất lấy làm lo âu. Hơn một trăm triệu  tín đồ hiện đang là nạn nhân của những vụ bắt bớ, theo phỏng đoán của tổ chức giúp đỡ liên tôn giáo “Open Doors”. Năm ngoái, với lý do “có ý đồ lật đổ chính quyền”, người Kitô-giáo Việt Nam đã bị bắt bớ và giam cầm. Trong bài tường trình vào tháng sáu năm 2013 Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc đã lên tiếng chỉ trích về sự “kiểm soát chặt chẽ tất cả những hoạt động tôn giáo” ở Việt Nam. Lễ Hiện Xuống tạo nên phép lạ cảm thông vượt qua mọi ranh giới. Con người có thể sống đức tin và công khai tuyên xưng đức tin là quyền căn bản phải được tôn trọng và bảo vệ, không phải chỉ từ năm 1948 khi Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời. Với vai trò Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao tôi luôn tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo, bởi đó là QUYỀN, chứ không phải là đặc ân. Mùa Hiện Xuống mời gọi chúng ta can đảm từ bỏ con đường cũ, để bước đi trên những con đường mới, tới tha nhân và tạo liên đới. Trong ý nguyện này tôi xin kính chúc quý vị tham dự viên Đại Hội Công Giáo năm nay những buổi thảo luận đầy xúc tích và những gặp gỡ sâu đậm. Kính chào thân ái Prof. Dr. Maria Böhmer (Minh Hoài chuyễn ngữ) ------------------------------------------------------Thủ Tướng Tiểu Bang Bayern           Horst Seehofer Lời chào mừng Đại Hội Công Giáo Việt Nam 2014 tại Hassfurt, từ mùng 07. đến mùng 09. tháng sáu năm 2014 Kính thưa toàn thể quý vị tham dự viên, Tôi xin được gửi lời chào mừng nồng nhiệt đến Đại Hội Công Giáo Việt Nam 2014 ! Năm ngoái, khi Đức Giám Mục Gebhard Fürst trở về lại Đức sau hai tuần viếng thăm Việt Nam, đã có nhận định: Giáo Hội Việt Nam là một giáo hội „có đức tin mạnh mẽ, trẻ trung và đầy sức sống“. Qua đó Ngài đã nhắc đến Niềm Hy Vọng mà cố Tổng Giám Mục Sài Gòn, sau này là Đức Hồng-Y Tòa Thánh Francois Xavier Nguyễn Văn Thuận đã tin tưởng vào. Trong thời gian ngồi tù 13 năm ngay trên quê hương, Ngài đã chuyển được ra ngoài những bài cầu nguyện mà sau này được in thành sách mang  tên „Đường Hy Vọng“. Hy vọng lớn nhất của cố Hồng-Y Nguyễn Văn Thuận là tự do tôn giáo ở Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh. Thật là một điều tốt đẹp khi người Việt, mặc dù đã tìm được cho mình một cuộc sống mới ở Đức, song vẫn gắn bó mật thiết với quê hương. Đường đời của họ thật đặc biệt: Khi qua đây hoàn toàn tay trắng, vậy mà họ đã nhanh chóng hội nhập. Với tính siêng năng và tinh thần kỷ luật họ đã tạo nên một đời sống sung túc cho bản thân và cho đất nước chúng ta. Vì thế người Việt ở Đức được khâm phục . Niềm tin đã giúp rất nhiều cho những người Kitô hữu Việt Nam. „Công giáo“ có nghĩa là „hoàn vũ“. Mỗi người tín hữu tự cho mình là thành viên của Giáo Hội hoàn vũ và nhìn thấy trong các tín hữu khác anh, chị, em của mình. Tôi càng vui mừng hơn vì Đại Hội lần này diễn ra ở tiểu bang Bayern: Haßfurt sẽ giới thiệu cho các quan khách thấy những nét đẹp nhất của thành phố mình, và xin được hân hoan chào mừng các tham dự viên của Đại Hội Công Giáo Việt Nam. Thủ Tướng Tiểu Bang Bayern (Minh Hoài chuyễn ngữ)  
......

Từ Thiên An Môn đến Bắc Phong Sinh

Hai mươi lăm năm đã trôi qua, kể từ cái đêm 3/6 và suốt ngày 4/6/1989 khi quân đội theo lệnh lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc đàn áp đẫm máu phong trào đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn. Xe tăng cán nát tất cả, từ xe đạp đến xương thịt, đến sọ não sinh viên. Nhiều cựu lãnh tụ sinh viên, dù còn trong nước hay đang sống lưu vong, vẫn không quên được hình ảnh các bạn học của họ bị sát hại.   Hà Tiểu Thanh, khi ấy là một học sinh Trung Học, kể lại rằng sau cuộc thảm sát, cô quay lại trường với một băng đen tưởng niệm những người bạn đã khuất trên tay áo. Cô đã bật khóc khi bị nhà trường buộc cô phải tháo băng đen xuống. Sau này, cô tâm sự trong một cuốn sách: “tôi đã nghĩ rằng mọi việc xem như đã chấm dứt… Song, bằng cách nào đó chính vào ngày 4 tháng 6 các hạt giống dân chủ đã được gieo trong tim tôi, và nỗi khát khao tự do và nhân quyền đã ấp ủ. Như vậy hóa ra đó không phải là một sự kết thúc, mà là một sự khởi đầu khác”.   Ngô Nhĩ Khai Hy, một lãnh tụ sinh viên nổi tiếng vào lúc ấy và là nhân vật thứ hai trong danh sách bị Bắc Kinh truy nã. Khai Hy kể lại rằng anh đã được nhiều người dân ủng hộ, che dấu, giúp anh thành công vượt qua biên giới trốn ra nước ngoài. Lúc ấy, có cả một mạng lưới ở Hồng Kông đã tìm cách giúp đỡ cho các sinh viên như Khai Hy thoát khỏi sự truy nã gắt gao của giới lãnh đạo Trung Quốc. Ngô Nhĩ Khai Hy xuất thân từ một gia đình trí thức gốc Duy Ngô Nhĩ (tức Tân Cương cũ bị Trung Quốc xâm lấn). Cho đến nay, anh vẫn không chấp nhận việc bị áp bức bởi một chế độ độc tài và vẫn không thể sống an nhàn khi nghĩ đến những người đã chết trong vụ thảm sát ấy.   Nhân nhắc đến cuộc vượt thoát của những cựu lãnh tụ sinh viên Thiên An Môn, người ta không khỏi bồi hồi nhớ lại những cái chết ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh chỉ mới hai tháng trước.Ngày 18/4 năm 2014 đã có những người Duy Ngô Nhĩ tị nạn, tuyệt vọng tự sát tại cửa khẩu Quảng Ninh. Hình ảnh thi thể của họ bị vất nằm ngổn ngang trên những chiếc xe lôi đã đem đến cho chúng ta cái cảm giác bất nhẫn, thương tâm. Có người dường như còn chưa chết, tay bấu chặt vào thành xe; cho thấy rõ công an Việt Nam và công an Trung Quốc cố tình làm ngơ mặc cho họ chết dần. Tất cả quang cảnh trên cùng thái độ giải giao lập tức những người còn sống - toàn phụ nữ và trẻ em - cho công an Trung Quốc, đã cho thế giới thấy sự tuân phục đối với Bắc Kinh, sự vô nhân đạo và yếu kém của một nước chủ nhà. Ngoài việc trao trả ngay những người tị nạn đáng thương kia cho công an Trung Quốc, nhà nước còn chỉ đạo không được dùng chữ Tân Cương khi nói về nhóm người tị nạn này, để tránh nhắc đến quê hương của họ, nơi đang bị Trung Cộng xâm lấn và đàn áp.   Họ không thể là nhóm người khủng bố hay bạo động khi dẫn theo cả vợ, con gái cùng con nhỏ. Nhưng khi biết là sẽ bị trao trả lại cho công an Trung Quốc, những con người tuyệt vọng này đã giật súng kháng cự, gây ra cái chết cho hai sĩ quan biên phòng, và đưa đến cái kết quả đau thương sau đó - hai người Duy Ngô Nhĩ tự bắn vào mình tự sát và ba người khác đã nhảy lầu tự tử! Điều gì đã làm cho những người Duy Ngô Nhĩ này chọn cái chết thay vì để cho công an Trung Quốc dẫn độ về quê hương của họ? Duy Ngô Nhĩ hay còn gọi là Uighur, là một dân tộc từng sống và làm chủ đất nước Tân Cương. Dân tộc này xưa kia đã từng thống trị vùng Trung Á hơn một ngàn năm, còn gọi là Đế Chế Duy Ngô Nhĩ. Trong quá trình lịch sử vùng Trung Á, dân tộc Duy Ngô Nhĩ đã để lại dấu ấn sâu sắc, đậm nét về cả văn hóa và truyền thống trong các sắc dân sinh sống tại đây. Các nhà thám hiểm Âu Châu, Âu Mỹ và Nhật Bản đã từng kinh ngạc trước những tác phẩm giá trị và một nền văn minh phát triển của dân tộc Duy Ngô Nhĩ. Tuy nhiên, một quốc gia với một lịch sử lẫy lừng và một nền văn hoá lâu đời không có gì bảo đảm là dân tộc đó không bị đồng hóa. Duy Ngô Nhĩ đã tuột dốc nhanh chóng sau khi bị nhà Thanh xâm lược. Từ đó, họ đã luôn bị các triều đại Trung Hoa nhiều lần tiêu diệt đẫm máu để ngăn ngừa sự trỗi dậy giành độc lập của họ.   Thi sĩ Abduhalik Uyghur, người xứ Turpan, có chân trong phong trào cách mạng đã viết bài thơ mang tên Oyghan “Hãy Thức Dậy”. Bài thơ nhằm đánh thức dân tộc Duy Ngô Nhĩ trước nguy cơ bị Hán hoá, bị tiêu diệt bởi người Trung Hoa. Ông viết: “Này người Duy Ngô Nhĩ khốn khổ, vùng dậy! / Ngủ thế đủ quá rồi / Giờ này bạn chẳng còn gì cả…”. Ông kêu gọi đồng bào, những người anh em cùng chiến hào hãy thức tỉnh để tự cứu mình, cứu lấy đất nước trước khi quá trễ. Abduhalik Uyghur bị một lãnh chúa người Hán xử tử hình năm 32 tuổi vì tội “làm dấy lên tư tưởng dân tộc” của người Duy Ngô Nhĩ trong các tác phẩm của ông.   Ngày nay, Tân Cương cũng như Tây Tạng đều bị Trung Quốc chiếm đóng dưới danh nghĩa “tự trị”. Tân Cương là vùng đất giàu tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, kim loại và Uranium. Mỗi năm Tân Cương đã cung ứng một số lượng dầu thô khổng lồ đứng vào hàng thứ hai cho Trung Quốc. Chiếm Tân Cương, Bắc Kinh cho thực hiện mưu đồ bành trướng dần dần bằng cách cho di dân ồ ạt đến nơi này, biến dân bản địa trở thành nhóm dân thiểu số. Nhiều cuộc xung đột đẩm máu đã xảy ra giữa người Hán và người Duy Ngô Nhĩ, đến nỗi Bắc kinh có lúc đã huy động đến 10 ngàn cảnh sát có vũ trang và xe bọc thép đến để đàn áp 1 cuộc biểu tình. Tiếp sau những lần xung đột, là hàng trăm bản án tử hình dành cho người Duy Ngô Nhĩ. Cũng theo tin từ BBC, trong suốt mười năm qua, nhiều nhân vật nổi của cộng đồng Duy Ngô Nhĩ đã bị Trung Quốc bắt giam, hoặc truy đuổi khiến họ phải trốn ra nước ngoài tị nạn.   Những người Duy Ngô Nhĩ ở bước đường cùng đã đi qua cửa ngõ Việt Nam để tìm một con đường sống với thế giới bên ngoài, nhưng ước mơ của họ đã lụi tàn ngay ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh, trên một đất nước vẫn tự hào rằng lòng nhân ái là đạo lý ngàn đời của dân tộc. Đó là chưa kể từ năm 1986 cho đến nay, tức từ khi có chính sách  mở cửa ra với thế giới tự do, Việt Nam đã và đang nhận biết bao nhiêu khoản tiền viện trợ nhân đạo của thế giới hàng năm. Đặc biệt là nỗ lực cứu đói sau 10 năm (1975 đến 1985) xây dựng khuôn mẫu xã hội XHCN thuần tuý.   Số phận của những người Duy Ngô Nhĩ 2 tháng trước cũng nhắc nhở chúng ta về thân phận người tị nạn Việt trong quá khứ. Hơn ba mươi năm về trước, cả thế giới đã rúng động về làn sóng người tị nạn Việt Nam. Rúng động vì sự ra đi bất chấp hiểm nguy, bất chấp mạng sống của họ; không biết có bao nhiêu con tàu mong manh đã biến mất trên biển đông đầy sóng gió!   Một dạo các ngư phủ Thái Lan khi ra khơi đã hãi hùng vội quay tàu trở về đất liền khi phải chứng kiến những thi thể của người Việt tị nạn bị vướng vào lưới cá. Tuy nhiên, thế giới lúc đó đã mở rộng vòng tay nhân ái đối với người Việt, như họ đã mở rộng vòng tay đối với những sinh viên Thiên An Môn. Những chiếc thuyền xác xơ vì cướp biển, những khuôn mặt sợ hãi, tuyệt vọng, thất thần sau đoạn đường dài xuyên qua Cam bốt đã được chào đón bằng vòng tay nhân hậu, nồng ấm của các nước tây phương, ngay đến cả những đất nước xa xôi nhỏ bé như như Israel và New Zealand. Riêng quốc gia Thụy Sĩ, ngày đó đặc biệt đã ghé vai gánh cái gánh nặng của nhân loại bằng cách chỉ nhận riêng những gia đình có con em bị bệnh tâm thần.   Đối với mọi loại người tỵ nạn, nhà cầm quyền Việt Nam, nay đã vào làm thành viên Hội Đồng Nhân Quyền LHQ, họ có biết các quyền của những người tỵ nạn này không? Tại sao nhẫn tâm để những người đàn ông Duy Ngô Nhĩ bị giết chết trên đất Việt Nam và nhẫn tâm hơn nữa là đẩy vợ con họ trở vào bàn tay tàn ác của công an Trung Quốc? Như vậy họ có khác gì những tên hải tặc Thái trên biển, và những tên cướp Miên trên bộ gần 4 thập kỷ trước? Chưa kể dân tộc Việt hiện nay cũng đang trong nguy cơ bị Trung Quốc xâm chiếm như dân tộc Duy Ngô Nhĩ.   Nhìn những sự nhẫn tâm của những kẻ cầm quyền đối với người tỵ nạn Việt Nam sau 1975 đến các sinh viên Trung Quốc tỵ nạn sau biến cố Thiên An Môn 1989, đến những người Duy Ngô Nhĩ tỵ nạn năm 2014, liệu khi các lãnh tụ CSTQ và CSVN cùng gia đình họ chạy ra nước ngoài xin tỵ nạn như đã thấy ở các nước cựu độc tài, chính phủ các nước tự do có ghi nhớ cách hành xử vô nhân đạo của họ hôm nay không?  
......

Không hiểu nổi chế độ CSVN

Có những sự việc và phát ngôn mình không thể nào hiểu nổi. Đó là nói lịch sự, chứ nói thẳng thừng thì chắc nặng nề lắm và khó coi trên mặt chữ. Tất cả có lẽ nói lên sự lúng túng hoặc bất đồng quan điểm trong giới cầm quyền VN về cách đối phó với kẻ thù. Cũng có thể nói những điều khó hiểu này bất bình thường vì nó thể hiện một rối loạn tâm lí hoặc rối loạn suy nghĩ ở những người có trách nhiệm. Khi được phóng viên AP hỏi tại sao Chính phủ không cho người dân biểu tình trước đại sứ quán Tàu, viên phát ngôn của Bộ Ngoại giao VN nói: “[…] Còn thông tin tại sao Chính phủ không cho người dân biểu tình. Xin khẳng định thông tin đó không có cơ sở. Người dân VN có quyền biểu thị yêu nước theo quy định của pháp luật.” Không biết nói ra câu này viên phát ngôn có cảm thấy xấu hổ không nhỉ? Qui định của pháp luật là gì trong khi Quốc hội chưa thông qua luật biểu tình? Sự thật rành rành là khi người dân xuống đường phản đối hành động xâm lược của Tàu thì bị các lực lượng cảnh sát và an ninh trấn áp một cách … tận tình. Trong khi đó báo chí VN hồ hởi đưa tin các nhóm sinh viên và người Việt ở nước ngoài biểu tình chống Tàu. Thái độ của chính quyền VN chưa hẳn là “khôn nhà dại chợ”, nhưng có thể xem là double standard – lưỡng chuẩn, một chuẩn dành cho người Việt trong nước và một chuẩn dành cho người Việt ở nước ngoài.   Còn Phùng đại tướng thì nói "Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng". Thế thì những chiếc tàu cá của ngư dân VN bị tàu của kẻ thù đâm vào cho chìm và gây thương tích và tử vong thì có phải là “đang phát triển tốt đẹp”? Chẳng lẽ phát triển tốt đẹp bằng cái giá máu và mạng sống của ngư dân Việt Nam? Thật khó chấp nhận phát biểu này.   Báo chí VN dùng cụm từ “vô nhân đạo” để chỉ hành động tàu của Tàu đâm vào tàu cá VN. Nhưng tôi lấn cấn cụm từ “vô nhân đạo”. Theo tôi hiểu nhân đạo là tình thương yêu đồng loại và tôn trọng giá trị đạo đức và phẩm giá con người. Bọn Tàu cộng xâm phạm lãnh hải VN là quân cướp. Quân cướp không thể nào có “nhân đạo”. Vậy thì kì vọng vào lòng nhân của quân cướp Tàu cộng chẳng khác gì van xin vào lòng nhân từ kẻ sát nhân. Không thể gọi hành động đâm vào tàu VN là “vô nhân đạo”; phải gọi đó là “thói côn đồ”, quân ác ôn, quân thú tính. Phải gọi đúng tên đúng việc như thế, chứ không có chuyện nhân đạo hay vô nhân đạo ở đây. Thật chẳng biết nói gì khi báo chí VN có vẻ tự hào về những chuyến luồn lách và trốn chạy của tàu cảnh sát biển VN. Có lẽ buồn, nhưng cũng tức giận. Thuở đời nay tàu mình chạy trốn trên vùng biển của mình thì có gì là đáng tự hào?! Bọn cướp nó chẳng những nhởn nhơ mà còn truy đuổi tàu chấp pháp của mình. Thế có phải là nhục không? Phải nói là rất đau khi đọc những bản tin như thế. Đau chứ chẳng có gì đáng tự hào cả. Càng đau hơn khi Nhà nước hô hào và khuyến khích ngư dân bám biển trong khi họ chẳng được ai bảo vệ. Ở nước ngoài, mỗi khi nơi nào có biến động, chính quyền có nhiệm vụ cảnh báo công dân mình không nên ghé qua những nơi đó. Còn đằng này chính quyền VN khuyến khích ngư dân đi vào vùng nguy hiểm. Điều đáng khâm phục là ngư dân VN vẫn ra khơi dù biết rằng những chuyến đi như thế là rất nguy hiểm. Đến khi bị kẻ thù phá hoại và gây tử vong thì cũng chẳng ai quan tâm. Đúng là “mang con bỏ chợ”. Có chăng là vài dòng chữ tuyên dương trên báo chí. Mạng sống và danh dự của người Việt thấp như thế chăng? Không biết có chính quyền nào trên thế giới (ngoại trừ VN) làm như thế với công dân mình. Đúng là có những điều mình không hiểu nổi. Không hiểu tại sao cho đến nay sau hơn 1 tháng Tàu cộng xâm lược biển ta mà chẳng có một lãnh đạo nào điều trần trước quốc dân. Không hiểu nổi tại sao chính quyền không cho người dân phản đối quân xâm lược. Không hiểu nổi trong khi tình hình căng thẳng và chết chóc trên biển Đông mà vẫn có vị tướng tuyên bố rằng tình hình tốt đẹp. Không hiểu nổi tại sao mình chạy trốn ngay trên vùng biển của mình, và mình lấy đó làm niềm tự hào. Không hiểu nổi khi người ta kì vọng lòng nhân đạo của quân cướp biển và quân thảo khấu. Có thể nói tất cả những khó hiểu trên là những nghịch lí bất thường trong một xã hội và thể chế cũng bất thường chẳng kém.   Theo Blog Ba Sàm
......

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Hậu quả đi dây Trung – Mỹ : Ai là kẻ thù số một ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á 2014 và sự nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam   http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/06/20140605-ctm-...   Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á IISS (hay còn gọi là Đối thoại Shangri-La) lần thứ 13 được tổ chức tại Singapore từ ngày 30/5 đến ngày 1/6 năm nay có sự tham dự của 450 đại biểu, gồm các quan chức quân sự cấp cao, các chuyên gia an ninh, và bộ trưởng quốc phòng các nước, Mỹ, Nhật Bản, Anh, Malaysia, Indonesia, Australia, Việt Nam, Singapore, Pháp, New Zealand… Theo các nhà phân tích, việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam làm nóng diễn đàn Shangri-La năm nay.   Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe là diễn giả chính tại lễ khai mại diễn đàn hôm 30/5, đã cam kết ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á trong nỗ lực nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Sáng 31/5/2014, tại Hội nghị đối thoại Quốc phòng an ninh châu Á (Shangri La 2014), tướng Phùng Quang Thanh có bài phát biểu bày tỏ quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Nội dung bài phát biểu đó là gì và đã được dư luận phản ứng ra sao mời quý thính giả theo dõi phân tích của nhà báo Phạm Chí Dũng với phóng viên Trần Quang Thành của đài Chân Trời Mới. *** -       Trần Quang Thành : Xin chào nhà báo Phạm Chí Dũng, hôm nay lại gặp nhau để bàn về tình hình đất nước. Thưa nhà báo PHẠM CHÍ DŨNG , trong hội nghị Sangrila vừa rồi đã để lại điều gì ấn tượng nhất, đáng quan tâm nhất thưa nhà báo? -       Phạm Chí Dũng : Ấn tượng nhất là lời phát biểu của Đại tướng Phùng Quang Thanh. -       TQT: Tại sao lại quan tâm về lời phát biểu của ông ta? -       PCD : Trong khi tình hình nước sôi lửa bỏng Trung Quốc xâm lấn Việt nam đã cận kề, ông đại tướng vẫn cho rằng chưa có gì là  biến động cả, mọi chuyện vẫn tốt đẹp, Việt Nam và Trung Quốc vẫn là bạn. Ngay cả ông Đặng Ngọc Tùng chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam còn phải nêu rằng đây là một bài học cho tất cả những ai mơ hồ về 16 chữ vàng và 4 tốt, trong khi một đại tướng nắm trọng trách toàn bộ lực lượng quân đội Việt Nam mà lại phát biểu như thế thì người ta quá thất vọng. Và rõ ràng là ông Phùng Quang Thanh, mặc dù có tần suất xuất hiện trên báo chí, công luận ít thôi,nhưng lần xuất hiện này lại gây thất vọng rất lớn và có lẽ làm giảm sút đáng kể uy tín của ông không chỉ trong dư luận trong nước mà cả trên chính trường quốc tế. -       TQT : Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì bảo là Việt Nam đang chuẩn bị sẵn sàng mọi tư liệu,mọi chứng cứ để kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, hoặc là để phanh phui những hành động xâm lược của Trung Quốc. Thế giữa ông thủ tướng và ông đại tướng có gì là mâu thuẫn nhau không thưa nhà báo? -       PCD : Cả hai ông đều là tướng, nhưng họ có mâu thuẫn và bất nhất với nhau. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có một lời tuyên bố tương đối kiên quyết và được dư luận đánh giá là lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ thủ tướng, ông đã dám có can đảm để nói thẳng ra một điều là “không có tình hữu nghị viển vông”. Tôi đặc biệt chú ý tới tính từ “viển vông” mà ông dùng, đó là một tính từ không nằm trong các văn bản của nhà nước. Trong khi đó văn bản đọc tại hội nghị Shangri-la của Đại tướng Phùng Quang Thanh nghe nói đã được Bộ Chínhtrị duyệt từng câu từng chữ, và ngay cả cách đọc của ông cũng không được thuyết phục vì nó hơi bị vấp váp. Như vậy giữa hai vị tướng này đã có sự mâu thuẫn về mặt quan điểm đường lối, đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, và tôi cho đó không phải là một điềm lành đối với Việt Nam. -       TQT : Như vậy phải chăng trong Bộ Chính trị đã có sự rạn nứt ? -       PCD : Tôi nghĩ là rạn nứt thì đã từ lâu rồi. Người ta khác nhau về quan điểm đối ngoại và đặc biệt là khác nhau về quan điểm đi dây như thế nào giữa Trung Quốc và Mỹ. Việc đó đã xuất hiện vào tháng 5 năm 2013 khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh giữa ông Tập Cận Bình và phía Hoa kỳ là tổng thống Barack Obama tại Phòng Bầu dục ở Washington, và sau đó đến chuyến đi của ông Trương Tấn Sang thì người ta rộ lên những lời đồn đoán về một sự khác biệt nào đó, một sự khác biệt khá lớn. Nhưng chỉ đến gần đây khi mà xảy ra sự kiệngiàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm lược lãnh hải Việt nam thì tất cả những mâu thuẫn mới bộc lộ ra và làm người ta thấy nhiều khác biệt về quan điểm. Tôi cho rằng rất cần trong lúc này phải có một sự đồng nguyên trong Bộ Chính trị, trên tinh thần dân tộc và cần phải có một Hội nghị Diên Hồng để các vị tướng có thể nói với nhau về làm cách nào để bảo vệ đất nước, bảo vệ cho chính gia đình và cho chính họ. Nhưng rất đáng tiếc là cho tới nay họ vẫn lúng túng và tất cả dường như vẫn đang chờ đợi nhau. Người ta nói rằng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đưa ra những lời tuyên bố thẳng thừng, kiên quyết như vậy, nhưng ông ta vẫn phải chờ Bộ Chính trị, Bộ Chính trị lại chờ vào ông Nguyễn Tấn Dũng, tất cả vẫn đang chờ nhau trong khi  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đang chờ kết quả chuyến đi của ông Phạm Bình Minh Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, còn ông Phạm Bình Minh chắc chắn phải chờ ông John Kerry là ngoại trưởng Mỹ. Nhưng chuyến đi sắp tới của ông Phạm Bình Minh cũng không suôn sẻ lắm vì ông Phạm Bình Minh lại còn phải chờ Bộ Chính trị, còn cho đến giờ Bộ Chính trị Việt Namlại đang chờ những động thái của phía Mỹ. Trong khi đó về phía Mỹ, Tổng thống Obama lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ đã đưa ra lời tuyên bố cứng rắn với TrungQuốc về chuyện khả năng Mỹ có thể đưa binh lực tới khu vực Biển Đông để giải quyết những xung đột vũ trang có thể phát sinh tại khu vực và cũng là để bảo đảm cho những lợi ích của người Mỹ về vấn đề tự do hàng hải, an ninh hàng hải ở khu vực Biển Đông. Đó là một động thái khá kiên quyết về phía Mỹ theo một lối mở mà như tư lệnh của quân đội Mỹ ở châu Á Thái Bình Dương - ông Locklear -đã tuyên bố, đã bắn tiếng trên Reuters là phía Mỹ có thể xây dựng một đối tác chiến lược với phía Việt Nam. Mà trở thành đối tác chiến lược thì anh có thể hình dung nó cần thiết với Việt Nam thế nào rồi, bởi vì trước đây ông Trương Tấn Sang chưa thể hy vọng việc trở thành một đối tác chiến lược mà chỉ là đối tác toàn diện mà thôi. Đối tác chiến lược ở đây phải nói tới là chiến lược về an ninh và về quốc phòng, đó chính là điều mà người Việt Nam cần nhất hiện nay, hơn cả Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái bình dương (TTP). Chỉ có đối tác chiến lược đầy đủ với Hoa kỳ mới có thể tạo ra một hàng rào chắn, một lá chắn đủ mạnh, đủ xung lực, đủ hỏa lực để ngăn chặn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Các động thái gây hấn của Trung Quốc là không chỉ ở Biển Đông mà còn ở biên giới phía Bắc, đó là điều cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Nếu như Việt Nam không thể đạt được điều đó thì có thể nói là không có một điều gì, không có một con người nào, không có tài sản của một quan chức nào ở Việt Nam có thể an toàn. -       TQT: Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam hiện nay dường như có những mâu thuẫn trống đánh xuôi kèn thổi ngược: ông Nguyễn Tấn Dũng chờ Bộ Chính trị, Bộ Chính trị lại chờ ông Nguyễn Tấn Dũng. Thế thì phải chăng có một sự chờ một điều gì khác nữa, đó là chờ vào phương Bắc ? -       PCD : (cười) … Điều đó tôi chưa nói ra. Đó chính là một sự chờ đợi ngấm ngầm. Nhưng có điều là tôi thực sự không biết chắc là ai đang chờ đợi “phương Bắc”, và nếu có những người chờ phương Bắc thì họ đang chờ đợi điều gì?Có lẽ nào họ chờ đợi một sự bạo động mới như ở Đồng Nai, Bình dương hay một số nơi nào đó khác chăng? Đó chính là một ẩn số, một câu hỏi rất khúc mắc mà người dân Việt Nam đang rất muốn biết,nhưng cho tới nay chưa ai giải thích rõ ràng rằng lực lượng nào đủ mạnh, tôi xin nhấn mạnh là “đủ mạnh”, đứng sau lưng giật dây bạo động ở Bình Dương và ĐồngNai. Nếu theo cách tuyên truyền giải thích của một số cơ quan nhà nước về ba “đối tượng” mà người ta cho rằng có sự giật dây của Việt Tân và cung cấp tiền bạc của Việt tân để tạo ra cuộc xuống đường của hàng chục ngàn công nhân ở Bình Dươngvà Đồng Nai, thì điều đó quá nguy hiểm đối với nhà nước. Bởi vì chỉ có ba con người mà có thể tạo ra một cuộc bạo động lớn như vậy thì với ba chục hoặc ba trăm người của Việt Tân từ hải ngoại mà về Việt Nam thì sẽ như thế nào? Lý lẽ đó không thuyết phục và dư luận hiện nay vẫn còn đang rất hoài nghi rằng có một lực lượng nào đủ lớn, đủ sâu để có thể chi phối một việc như vậy. Người ta cũng nghi ngờ rằng việc đó có bàn tay của tình báo Hoa Nam Trung Quốc đã tạo ra những cơn kích động sâu rộng có thể gây ra những mầm mống nội loạn ở Việt Nam. Và nếu mầm mống nội loạn ấy đủ lớn thì chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra, đó là lúc mà thể chế chính trị Việt Nam phân hóa sâu sắc và có thể tan rã bởi những động thái giật dây của tình báo phương Bắc.Lúc đó người phương Bắc sẽ tràn vào phương Nam theo những kịch bản đã từng xảy ra không biết bao nhiêu lần trong lịch sử. -       TQT : Quay trở lại vấn đề Hội nghị Shangri-la, ông đánh giá thế nào về những khác biệt trong hội nghị này? Quốc tế thì rất quan tâm, rất lo ngại cho Việt Nam, ví dụ như thủ tướng Nhật, nhưng Việt Nam thì lủng củng với nhau như vậy thì liệu chúng ta giải quyết vấn đề Biển Đông như thế nào? -       PCD : Tôi không ngạc nhiên về thái độ lủng củng hay là bất nhất, chần chừ của phía Việt Nam, vì điều đó diễn ra từ lâu rồi, đặc biệt là trong mối quan hệ “anh em môi răng” với phương Bắc. Nhưng điều quá khó khăn với họ là thế này: hiện nay phương Bắc không còn là gây hấn thuần túy mà đã là một mối họa xâm lăng, giàn khoan 981 là một trong những bước đi đầu tiên của Trung Quốc để tạo ra một nền tảng trong chiến lược gây hấn khiêu khích và xâm lấn dài hạn đối với Việt Nam trong tương lai không xa. Mối họa đã rất cận kề. Người ta cũng đã thấy là người Mỹ đưa tay ra. Người Mỹ đưa tay ra vì lợi ích của họ ở khu vực Biển Đông, đó là giao thương hàng hải và tất cả những gì mà họ coi là mặt quân sự có thể chi phối được khu vực, không chỉ là khu vực Nam Á mà cả Đông Á nữa. Trong lúc đó Việt Namcần phải tận dụng cơ hội này, khi mà ông Locklear Tư lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái bình Dương ra tuyên bố về khả năng Mỹ và Việt Nam có thể có quan hệ đối tác chiến lược. Tôi cho rằng nhà nước Việt Nam phải bắt nhịp ngay cái tần số và cơ hội đó. Nhưng Hội nghị Shangri-la đã chứng tỏ bản lĩnh quá yếu kém của phía Việt Nam. Hoàn toàn không đạt yêu cầu khi đưa một ông bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra để chỉ nói những câu văn vẻ không có nghĩa gì hết, gây phản cảm rất lớn trong dư luận, cho thấy một vị thế quá yếu kém của Việt Nam trên chính trường quốc tế. Điều đó gây ra hậu quả là quốc tế họ coi thường Việt Nam, họ đánh giá Việt Nam là chỉ có lời nói mà không có hành động, mà nếu như chỉ có lời nói mà không có hành động thì khi xảy ra chiến tranh với Trung Quốc thì quân đội ViệtNam sẽ đánh nhau như thế nào đây với một vị đại tướng nói không nên lời? Đó là điều quá rõ. Trong khi đó, phía Mỹ đã chủ động đưa ra đề xuất thành lập một khối đồng minh quân sự Đông Á bao gồm người Mỹ, người Nhật Bản, người Philippines và tất nhiên cả Việt Nam. Tôi cho đây là một cơ hội cuối cùng của Việt Nam. Nếu nhà nước Việt nam không biết tận dụng cơ hội này thì không biết đến bao giờ người Mỹ mới đưa ra cơ hội lần thứ hai, và chắc chắn là trong năm nay sẽ chưa có một hiệp định TTP nào cả, cũng không có vũ khí sát thương nào hết, và sẽ không có bất kỳ một ân hạn nào đối với Việt nam trong việc giải quyết những lợi ích giữa hai quốc gia Mỹ – Việt. -       TQT : Việt Nam chủ yếu là mua vũ khí của Nga để phòng thủ đất nước. Việt Nam có hai đồng minh chiến lược không lồ là ông Trung Quốc và ông Nga, nhưng vừa rồi khi mà xảy ra vấn đề Biển Đông thì ông Putin lại đứng bên ông chủ tịch Tập Cận Bình. Vậy nhà báo PHẠM CHÍ DŨNG bình luận thế nào về cái ông đồng minh chiến lược Nga ? -       PCD : Tôi cho rằng ít nhất về vũ khí và khí tài quân sự Việt Namnhập từ Nga thì chất lượng của vũ khí và khí tài quân sự đó đã không còn bảo đảm nếu xảy ra một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Thực tế thì Việt Nam nhập khẩu đến 90% vũ khí và khí tài quân sự từ Nga.Chẳng hạn đó là các hệ xe tăng họ T, trước đây là T-34, rồi đến T-54, T-55, sau này là T-72 đến T-90, cũng như một số máy bay SU hay là MIC, hay là tên lửa…,nhưng tất cả những vũ khí như vậy về chất lượng không thể bằng Trung Quốcđược. Trong khi đó người Trung Quốcnhập khẩu những vũ khí tối tân hơn hẳn từ Nga, họ có những tàu ngầm rất lớn mà chất lượng quân sự cao hơn hẳn những gì mà Nga bán cho Việt Nam. Như vậy hình ảnh mà Pu-tin đứng cạnh Tập Cận Bình với một hợp đồng khí đốt lên tới hơn 400 tỷ USD trong dài hạn cho thấy chắc chắn là giữa người Nga là ông Putin đã có một thỏa thuận, và thực sự họ là một đồng minh trên một mặt trận đối trọng với người Mỹ. Việt Nam chỉ là một mắt xích nhỏ trong tất cả những mối quan hệ này thôi. Theo tính toán của Bắc Kinh và Moscow thì sự kết hợp của hai lực lượng này có thể trở thành một siêu cường, và Bắc Kinh đặc biệt mong muốn điều đó, vì Bắc Kinh cho tới giờ chỉ có thể coi là một cường quốc chứ chưa thể gọi là một siêu cường. Nhưng một cường quốc như Trung Quốcvẫn còn khá nhiều vấn đề bổ khuyết, nhất là vấn đề kinh tế và nội chính, nên ông Tập Cận Bình và bộ sậu của ông ta chắc chắn là muốn có một quan hệ sâu sắc hơn với Moscow, bất chấp cuộc chiến từng xảy ra giữa hai quốc gia vào những năm 1960. -       TQT : Nhìn lại vấn đề Việt Nam trong vòng cả tháng qua,điều gì ông cảm thấy lo lắng nhất và điều gì ông thấy tin tưởng và lạc quan nhất ? -       PCD : Điều lo lắng nhất cũng trở nên bình thường nhất, vì tôi không ngạc nhiên về những gì đã xảy ra ở Việt Nam. Sự lo lắng nhất đến từ những yếu kém của nhà nước Việt Nam mà chúng ta vẫn thường gọi là thái độ nhu nhược. Bất kỳ khi nào trong lịch sử ViệtNam diễn ra hiểm họa ngoại xâm thì gần như đều xảy ra những dao động trong nội bộ Việt Nam. Lần này mới chỉ một giàn khoan 981 mà dường như mọi chuyện đã rối tung lên, thì nếu như có thêm vài cáigiàn khoan nữa hoặc có thêm một ít động thái quân sự xâm lược khiêu khích và gia tăng vũ trang từ phía Trung Quốc thì không hiểu mọi chuyện sẽ thế nào? Đó là điều đáng lo lắng nhất, nhưng theo tôi cũng trở nên bình thường vì chúng ta hoàn toàn không ngạc nhiên về tất cả những gì đã diễn ra từ trước đến nay trong nội bộ Việt Nam. Còn điều đáng lạc quan nhất thì thế này, chính ra tôi đã nêu ra với anh TRẦN QUANG THÀNH trong vài bài phỏng vấn trước rằng người Việt Nam chúng ta phải cám ơn Trung Quốc vì họ đã tạo ra sự kiện giàn khoan 981, nhưng họ đã không tính toán kỹ, họ không nghĩ rằng giàn khoan 981 mà đứng phía sau là toàn bộ Bắc Kinh đã tạo ra một sự kích động lớn như thế, làm cho những người theo chủ thuyết ngả sang phương Tây đã dứt khoát, quyết đoán hơn, và dường như đang có một làn sóng chạy về phương Tây vì đó là lối thoát duy nhất. Đó chính là tín hiệu lạc quan nhất, và tôi cho là đó cũng là lối thoát của dân tộc Việt Nam, vì cho tới nay chúng ta cần phải xác định rằng ai là bạn và ai không phải là bạn – là kẻ thù. Từ trước tới giờ Trung Quốc được coi là đối tác chiến lược lớn nhất của Việt Nam trong số hàng chục đối tác chiến lược mà Việt Nam đã thiết lập, nhiều đến mức mà người ta cho rằng Việt Nam đã bị lạm phát đối tác chiến lược. Vài năm trước khi xảy ra làn sóng đối tác chiến lược của Việt Nam với các nước, đã có nhiều ý kiến nêu rằng quá nhiều đối tác chiến lược thì khi xảy ra tình trạng khó khăn với Việt Namthì như bị gây áp lực quân sự, chẳng hạn từ Trung Quốc, thì các đối tác chiến lược khác sẽ không có trách nhiệm gì cả, họ xem đó là vấn đề riêng tư của Việt Nammà thôi, tức sẽ không có một nguồn lực tập trung để giải quyết vấn đề Việt Nam khi mà nguồn lực đó bị dàn trải quá nhiều. Bây giờ hiện thực đó đang xảy ra sờ sờ trước mắt khi mà Trung Quốc gây ra áp lực với Việt Nam, bởi trong những ngày đầu tiên Việt Nam hầu như không được sự lên tiếng ủng hộ nào từ cộng đồng quốc tế. Họ thờ ơ, thậm chí trên kênh CNN toàn là những người đại diện ngoại giao của Trung Quốc phát biểu chứ không phải là đại diện ngoại giao của Việt Nam. Mãi sau này đại diện ngoại giao của Việt Nam mới có cơ hội trên CNN, nhưng đã quá muộn. Đã đến lúc cần phải xem lại ai là thù, ai là bạn. Và thay vì xác định Mỹ là kẻ thù số một theo truyền thống trước đây của lịch sử chính trị Việt Nam thì hãy nên xem lại rằng kẻ thù đó còn ở quá xa, và từ 40 năm qua kẻ thù số một đó chưa từng làm cái gì xấu xa đối với Việt Nam. Ngược lại trong mười năm qua Việt Nam được lợi quá nhiều về kinh tế khi xuất siêu 15-16 tỷ USD vào thị trường Mỹ, trong khi nhập siêu 23-24 tỷ USD từ thị trường Trung Quốc. Vậy thì bất lợi nằm ở đâu, lợi ích nằm ở chỗ nào? Ai xâm lược Việt Nam, ai không xâm lược Việt Nam? Ai chìa tay ra đối với Việt Nam? Phải xem lại điều đó để thấy rằng Hoa Kỳ và phương Tây là lối thoát không chỉ với giới chính khách Việt Nam mà còn đối với cả dân tộc Việt Namtrong tương lai. -       TQT : Xin cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng về cuộc hội luận hôm nay. http://radiochantroimoi.com/tieng-noi-da-nguyen/nha-bao-pham-chi-dung-ho...
......

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như sau: - Thực chất của công hàm đó là “công khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”. - Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (hình bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một “công thư”, coi văn bản này “không có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”! - Vì vậy. để hủy bỏ được công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”. Đấy là những kết luận dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn kẽ.   1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?   2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào? Mọi người đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.   - Muốn bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam là một” thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước mắt. - Tóm lại là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã chốt được tính pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất “bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế vào!). Kiểu chống đỡ lúng túng này chỉ bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ.   - Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn Đồng - Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung, ích nước lợi nhà như vậy không? Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát Cộng!   3/ Thoát Cộng được lợi những gì? Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực chất nhất. Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì? - Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược. - Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm 1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú Trọng… - Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra sức mạnh? Trái lại, chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực chất.   4/ Thoát Cộng dễ hay khó? - Sẽ quá khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống? - Nhưng không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước tiên tiến thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy, về vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm chứ, sao lại không? Quả bóng cứu dân cứu nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người cầm quyền biết xử lý thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…   H.S.P. (2-6-2014) Nguồn: http://boxitvn.blogspot.com/2014/06/thao-luan-ve-giai-phap-lay-lai-hoang...
......

Buổi nói chuyện của ông Võ Đại Tôn với giới trẻ Việt Nam tại Bad Homburg, Đức quốc

Tuổi Trẻ Việt Nam và Cội Nguồn Dân Tộc   „Die Füße eines Menschen sollten in seiner Heimat verwurzelt sein. Mit seinen Augen aber sollte er die Welt überblicken.“ (Bàn chân của con người nên cắm rễ trên quê hương. Với cặp mắt thì con người nên nhìn thấy cả thế giới) George de Santayana Bad Homburg v.d. Höhe - Germany (31.5.2014)   “Hôm nay xin quý vị cho phép tôi được tâm sự với con cháu của chúng ta. Đó là bổn phận và trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ, để xây dựng một thế hệ tương lai cho Tổ Quốc Việt Nam. Chúng ta lìa xa tổ quốc đã 39 năm rồi; và sắp đến ngày tại nước Đức này chúng ta kỷ niệm 35 năm chiếc tàu Cap Anamur đón rước, hỗ trợ cho những người vượt biển ra đi đến định cư tại nước Đức. Có những người con của quý vị sinh ra tại nước Đức này. Quý vị đã đổ mồ hôi lao động; tìm đủ mọi phương cách để mưu sinh, ngôn ngữ bất đồng, đôi khi tuổi già sức yếu… chỉ có một mục đích duy nhất là làm thế nào tìm ra miếng cơm, manh áo để nuôi cho con mình học thành tài; và quý vị đã không có đủ thời gian để dạy dỗ cho con cháu mình về cội nguồn của dân tộc. Ngày hôm nay, sau 35 năm con của quý vị đã có thể trở thành bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, khoa học gia, chính trị gia…. Cái sự thành đạt bác sĩ, kỹ sư, giáo sư…, chuyện đó có thời cơ, có bản lãnh, có thời gian thì sẽ học được, nhưng học LÀM NGƯỜI VIỆT NAM mới là điều vô cùng khó khăn, mà chúng ta không có đủ thời gìờ để truyền đạt tâm tư đó cho thế hệ mai sau. Rồi đây con cháu của chúng ta sống tại Hoa Kỳ, tại Úc Châu, tại Âu Châu, tại khắp nơi trên thế giới này sẽ trở thành những người Mỹ, những người Úc, những người Pháp. những người Đức…tuy trong dòng máu vẫn còn dòng máu của Việt Nam. Vì thế chúng ta gánh vác trên vai hai bổn phận: Bổn phận phục vụ cho đất nước đã cưu mang chúng ta và bổn phận phục vụ cho “thế hệ tương lai” của dân tộc. Đó là lý do mà ngày hôm nay tôi xin phép quý vị cho tôi được thưa chuyện cùng với các con, các cháu của tôi. Tôi muốn thay quý vị được tâm tình với các con, các cháu như một người bạn….” Đây là lời mở đầu buổi nói chuyện của ông Võ Đại Tôn với giới trẻ Việt Nam tại Bürgerhaus Kirdorf / Bad Homburg vào ngày thứ bảy, 31.5,2014. Trong cử tọa có sự hiện diện khoảng 150 đồng bào  và các tổ chức và hội đoàn như: Hội NVTN Cộng Sản tại Frankfurt, Köln, Mannheim, Odenwald, Liên Hội NVTN tại CHLB Đức, VOVINAM, đảng Dân Tộc, Linh-Thao, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam hải ngoại, Hội Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Tự Do Đức … Ngoài phần tâm sự của diễn giả còn có mục văn nghệ Quê Hương và Tuổi Trẻ. Chương trình kéo dài từ 15:00 giờ đến 24:00 giờ     Sau nghi thức khai mạc với Quốc Ca Đức, Quốc Ca Việt Nam và một phút Mặc Niệm do anh Trịnh Đỗ Tôn Vinh điều hợp, 2 cô sinh-viên Mimi Trần Thị Thanh Tâm và Loulou Trần Thị Anh Tú, đại diện cho Ban Tổ Chức chào mừng quan khách bằng Anh ngữ. Hai cô tự giới thiệu mình thuộc nhóm Sinh viên trẻ, rất thiếu kinh nghiệm trong vấn đề tổ chức; mặc dù vậy hai cô cùng các bạn khác đã mạnh dạn “lên chương trình” buổi Hội luận này với sự hỗ trợ của Ba Mẹ, các cô và các thân hữu. Hai cô thay mặt cử tọa cám ơn diễn giả Võ Đại Tôn, mặc dù đã lớn tuổi, nhưng đã không từ chối lời mời của các cháu, tới đây tâm tình với giới trẻ, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam đang xảy ra việc Tầu Cộng ỷ thế nước lớn uy hiếp nước nhỏ, xâm lấn chủ quyền “Lãnh thổ, Lãnh hải và Biển Đảo Việt Nam” để thực hiện giấc mơ “Bành Trướng” vào vùng Đông Nam Á. . Hai cô cũng cám ơn cử tọa, các Bác, các cô chú, các Ban Nhạc Frankfurt và Odenwald, các ca và nhạc sĩ đã phụ giúp dưới nhiều hình thức cho buổi tổ chức này thành công.   Mimi Trần Thị Thanh Tâm và Loulou Trần Thị Anh Tú   Trước khi vào phần thuyết trình, ca sĩ Thu Sương (Paris) và anh Trịnh Đỗ Tôn Vinh mời cử tọa cùng đồng ca bài “Bài ca Tuổi Trẻ” của Phan Văn Hưng. Phần giới thiệu về diễn giả đã được 3 em học sinh Jonathan Hưng, Valentin Nam và Immanuel Tân đọc bằng Việt ngữ và Đức ngữ. Ông Võ Đại Tôn đã nói chuyện với giới trẻ bằng Việt ngữ, Anh ngữ và Pháp ngữ. Ông ví số phận của người giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại giống như một nhánh cây khô, nhưng nếu để nhánh cây này vào nước thì nó sẽ đâm rễ, mọc lá và trổ hoa. Hoa này theo diễn giả Võ Đại Tôn tượng trưng cho TỰ DO và DÂN CHỦ. Với một bông hoa trên tay diễn giả nói: “Hôm nay tôi muốn tặng bông hoa này cho một tham dự viên nhỏ tuổi nhất trong hội trường này là cháu Immanuel Tân”.   Jonathan Hưng, Immanuel Tân và Valentin Nam Ông khuyên giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại cần phải ghi nhớ 5 điều: 1) Học tiếng Việt Nam 2) Học lịch sử Việt Nam 3) Biết về nguồn gốc gia đình Việt Nam mình (Tại sao cha mẹ mình sống ở hải ngoại ? …) 4) Theo dõi tin tức nói về Việt Nam 5) Sống nhân hậu   Trong bài nói chuyện ông Võ Đại Tôn cho biết là từ năm 1976 đã có những tổ chức đấu tranh chống Cộng Sản ở hải ngoại, chẳng hạn như ở Âu Châu có tổ chức của ông Trần Văn Bá, ở Mỹ Châu thì có ông Hoàng Cơ Minh và ở Úc Châu thì có tổ chức mà diễn giả là chủ tịch. Ông còn cho biết, ông là người đầu tiên về lại quốc nội vào năm 1981; bị bắt và bị tù biệt giam hơn 10 năm ở trại tù Thanh Liệt, Hà Nội. Ông Trần Văn Bá về năm 1984 và bị xử tử. Ông Hoàng Cơ Minh về năm 1987 và đã hy sinh mạng sống. Phần thảo luận thật sôi nổi với các câu hỏi gửi đến diễn giả như:   Làm thế nào để Chú sống còn trong tù? Trong tù Chú có đọc kinh cầu nguyện không? Khi Chú đi tù 10 năm về con trai Chú ra sao? Làm gì để giúp cho Việt Nam? ….. Các câu hỏi đều được diễn giả trả lời thỏa đáng trong tinh thần thân mật, rất chân tình và gần gũi với người trẻ. Đêm văn nghệ sau phần giải lao được bắt đầu với bài: “Triệu con tim” (Trúc Hồ) do Tốp ca trẻ Frankfurt trình bày. Ban Văn Vũ “Điểm Sáng“ với những điệu vũ, trình diễn võ thuật Vovinam trông thật đẹp mắt. Ngoài ra còn có các bài đơn ca, song ca do các bạn trẻ đầy nhiệt huyết đóng góp. Buổi sinh hoạt với ông Võ Đại Tôn cùng giới trẻ Việt Nam kết thúc trong tâm tình:   “Từ khắp những phương trời và muôn lối đi trong đời, gặp nhau trong tâm hồn Việt Nam sáng ngời. Mồ hôi trên cánh đồng, Mẹ ru trên núi sông, tình quê hương ta ôm ấp trong lòng. Chúng ta là bước người xông pha. Chúng ta là những lớp phù sa. Chúng ta là ngọn đuốc bùng to. Chúng ta là TỰ DO. Bạn hỡi, hành trang ta mang trong ta: Một khối óc, một tấm lòng, một giấc mơ.” (Phan Văn Hưng) Minh Hoài
......

Kỷ niệm 35 năm ngày con tàu CAP ANAMUR ra khơi cứu người vượt biển

Nhân kỷ niệm 35 năm ngày con tàu CAP ANAMUR ra khơi cứu người vượt biển, Đại hội CAP ANAMUR sẽ được Ủy BAN CAP ANAMUR e.V ,  Grünhelme  e.V và Hội Người Việt Tỵ Nạn CS Hamburg e.V  tổ chức vào ngày thứ Bảy, 09.08.2014 tại cảng Hamburg. Warum wir uns noch einmal in Hamburg treffen wollen? Und dann auch noch am 9. August 2014! 14 Uhr an den Landungsbrücken in der Freien und Hansestadt HAMBURG Die Flucht von hunderttausenden Vietnamesen über das Südchinesische Meer war wie eine Tsunami-Katastrophe, nur noch schlimmer. Diese Menschen setzten damals ihre eigene Sicherheit aufs Spiel, um einem Regime zu entfliehen, das sie nicht so leben lassen wollte, wie sie es sich vorstellten und wünschten. In Deutschland und Frankreich und auch anderen Ländern Europas sind damals Menschen bereit gewesen, diesem Massen-Ertrinken im Süd-Chinesische Meer nicht nur als passive Zuschauer am Fernsehschirm beobachtend beizuwohnen, sondern sich aktiv dagegenzustellen. Die Deutschen haben sich damals am weitesten aus dem Fenster gehängt. Bis zehn Millionen Spender haben das Schiff Cap Anamur und die nächsten drei schiff bis 1986 unterstützt, so dass diese Aktion damals eine der deutschen Gesellschaft war. Die Bürger sind vorangegangen, die Politik und die Regierungen kamen hinterher. Aber am Ende war es eine wunderbare Gemeinschaftsaktion. Unendliche viele meiner Mitbürger haben dabei mitgeholfen. Einige waren besonders prominent und wichtig: der unvergessliche Schriftsteller Heinrich Böll, der deutsche Fernsehmoderator Franz Alt, der Niedersachsen Ministerpräsident Ernst Albrecht, der deutsche Kabarettist Dieter Hildebrandt. Meine Vietnamesen, wie ich sie alle später immer wieder nennen durfte, haben uns Deutsche dann noch mit einem unerwarteten Geschenk belohnt. Sie wurden für die deutsche Gesellschaft ganz wertvoll, sie wurden geradezu die Lieblinge der Nation. Als die Vietnamesen bei der Enthüllung des Gedenksteins an den Landungsbrücken in Hamburg die deutsche Nationalhymne sangen, sah ich, wie Wolfgang Schäuble, damals Bundesinnenminister, sich die Tränen aus den Augen wischen musste. Wir wollen diese wunderbare Gelegenheit noch einmal feiern. Am 9. August 2014 - 35 Jahre nach dem wir mit dem Schiff um 15.23 Uhr aus dem japanischen Hafen ausgelaufen sind, wollen wir den eigenen Mitbürgern danken für eine der schönsten lebensrettenden Aktionen in der deutschen Nachkriegsgeschichte. Hamburg, so können wir dem Ersten Bürgermeister Olaf Scholz versprechen, wird am 9. August 2014 im Meer von jungen und alten Vietnamesinnen und Vietnamesen versinken, die alle dorthin kommen, um das Danke an die deutschen Gesellschaft und die deutsche - Bundes- und Länderregierungen zu sagen. Dr. Rupert Neudeck (27.04.2014) Gründer von Cap Anamur und den Grünhelmen e.V.   ______________________________________________________ CHƯƠNG TRÌNH TỔNG QUÁT    1)Tại cảng Hamburg - Landungsbrücken (trước tượng đài thuyền nhân) Với sự hiện diện của nhiều chính trị gia và yếu nhân từ Liên bang và các tiểu bang,phái đoàn trung tâm ASIA và đài truyền hình SBTN (từ Hoa Kỳ), phái đoàn xây dựng Viện Bảo Tàng thuyền nhân từ (Canada),Đại diện Liên Hội Người Việt TNCS Canada.      13:30 : Múa lân chào đón quan khách      14:00 : Khai mạc                         Diễn văn của các chính trị gia, các yếu nhân Đức Hồi tưởng về những hoạt động cứu người của một thành viên Cap Anamur (Đức) Quá trình và kinh nghiệm hội nhập của một thuyền nhân VN thế hệ thứ hai.                 Vài tiết mục văn nghệ xem kẽ      16:00: Chấm dứt  2) Tại hội trường: với sự hiện diện của Ts.Rupert Neudeck và các yếu nhân Đức, Việt, phái đoàn trung tâm ASIA và đài truyền hình SBTN (từ Hoa Kỳ), phái đoàn xây dựng Viện Bảo Tàng thuyền nhân, đại diện Liên Hội Người Việt TNCS đến từ Canada. Và Ms Roman Siewert, người đã đón nhận, săn sóc 3.555 người Việt tại Haus Nazareth.        18:00: Khai mạc chương trình văn nghệ, với sự ủng hộ, tham gia của: Ban Văn Vũ ĐIỂM SÁNG Ban Văn Nghệ Hội NVTNCS tại Mönchengladbach Ban Văn Nghệ Hội NVTNCS tại Hamburg Nhiều giọng hát thân thương từ vài nơi trên Đức Quốc Ban nhạc trẻ CÁT BỤI / Live Show…. Và tiếng hát nổi tiếng, rất dễ thương đến từ trung tâm Asia.    Địa điểm : Helmut-Schmidt-Universität Universität der Bundeswehr Hamburg Holstenhofweg 85 22043 Hamburg
......

Làm cách nào xóa mối nhục bán nước?

Các “đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên một thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Quốc (viết tắt, Trung Cộng). Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện, không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn. Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!” Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền! Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước. Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới. Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại. Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa” và “Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm. Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958! Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không? Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng. Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn. Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị. Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan.” Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước, Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng.” Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung.” Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan.” Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Hội đồng Liên tôn Việt Nam lên tiếng việc công an trại giam khủng bố Mục sư Nguyễn Công Chính

Hôm nay, Hội đồng Liên tôn Việt Nam đã chính thức lên tiếng về việc công an trại giam An Phước, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương khủng bố tù nhân lương tâm Mục sư Nguyễn Công Chính. Tình trạng ngược đãi các tù nhân lương tâm xảy ra đối với tất cả những người này mà không có tổ chức nào bảo vệ họ. Trong tư cách là các chức sắc tôn giáo của Hội đồng Liên tôn Việt Nam, 14 vị ký tên dưới đây đã lên tiếng tố cáo những hành động vi phạm pháp luật của công an trong các trại giam tại Việt Nam. Tù nhân lương tâm Mục sư Nguyễn Công Chính   HỘI ĐỒNG LIÊN TÔN VIỆT NAM BẢN LÊN TIẾNG (V/v Công an Trại giam khủng bố Tù nhân lương tâm Mục sư Nguyễn Công Chính) Kính gởi: - Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc; - Ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nước CHXHCNVN; - Ông Trần Đại Quang, bộ trưởng Bộ Công an. Hội đồng Liên tôn Việt Nam được biết trong thời gian gần đây, tình trạng công an có hành vi đàn áp, khủng bố tù nhân, đặc biệt tù nhân lương tâm, ngày càng thường xuyên hơn và xảy ra nhiều nơi hơn. Sau đây là thêm một bằng chứng mới: Ngày 21-5-2014, sau chuyến đi thăm nuôi về, bà Trần Thị Hồng, phu nhân của Mục sư Nguyễn Công Chính, đã cho chúng tôi hay: Mục sư Chính, đang thụ án 11 năm tù bất công tại trại giam An Phước, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, tiếp tục bị khủng bố dưới hình thức đấu tố trước tập thể tù nhân. Nguyên nhân là vì Ông đã cùng một số anh em tù nhân sắc tộc viết đơn yêu cầu cải thiện chế độ sinh hoạt nhà tù như: ăn uống đảm bảo sức khỏe tù nhân, mở cửa phòng giam thay đổi không khí, dẹp bỏ những qui định khắc khe, những cuộc hành hung vô cớ… Đơn này cũng được một số tù nhân chuyển ra ngoài như lời kêu cứu nhưng không may bị phát giác. Công an bèn tra tấn ép buộc một số người quay lại tố cáo Mục sư Chính như kẻ chủ mưu lôi kéo họ. Ngày 17 tháng 5 năm 2014 vừa qua, công an trại giam đã đưa Mục sư Chính ra đấu tố trước tập thể nhằm trừng phạt chính ông đồng thời răn đe những ai có ý định phản đối chính sách đàn áp ngược đãi người tù. Mục sư Chính cho vợ biết: tại cuộc đấu tố, những tù nhân khuất phục công an đã có nhiều lời nói, hành động nhục mạ, vu khống, thêu dệt nhằm bêu xấu thanh danh và khủng bố tinh thần Ông. Bà Trần Thị Hồng còn cho biết thêm: không chỉ lần này mà từ ngày Mục sư Chính bị bắt đến nay, công an đã liên tục sách nhiễu đàn áp ông ở trong trại tù. Điển hình là: - Ngày 18-5-2012, lúc 5g sáng, trong lúc ông đang cầu nguyện, 15 công an quản giáo trại T20 Gia Lai đã cầm gậy cao su, roi điện, bình xịt hơi cay, chó nghiệp vụ kéo xuống phòng giam đánh đập không cho Ông cầu nguyện. - Ngày 19-8-2013, Đại úy Đinh Ngọc Quỳnh, Thiếu tá Hoàng Đức Giang lại xúi giục tù nhân đánh đập Mục sư Chính tại Khu A, phân trại số 2, trại giam An Phước. Ngoài ra, công an điều tra và cơ quan tố tụng còn có những vi phạm nghiêm trọng như sau: - Trong thời gian điều tra, họ đã biệt giam Mục sư Nguyễn Công Chính 7 tháng không cho gặp người thân (vợ, con). Sau khi kết thúc điều tra, họ tiếp tục biệt giam ông 20 tháng nữa. - Ngày 26-3-2012 Tòa án tỉnh Gia Lai xét xử Mục sư Chính nhưng không hề có sự tham gia của luật sư và gia đình Mục sư. - Đến hôm nay, Mục sư Chính bị tù hơn 3 năm nhưng bản thân Ông vẫn không nhận được kết luận điều tra của Công an và bản án của Tòa theo như quy định của pháp luật.   Từ những sự việc trên cũng như qua nhiều chứng từ khác, Hội đồng Liên tôn nhận thấy: 1- Thời gian qua, những hành động vi phạm pháp luật như hành hung, tra tấn, đối xử khắc nghiệt với tù nhân ngày càng xảy ra nhiều hơn ở các trại giam trực thuộc Bộ công an. Chủ thể vi phạm là các công an quản lý, quản giáo và các tù nhân bị công an mua chuộc hay ép buộc. 2- Những hành vi khủng bố tinh thần và thể xác nhắm vào các tù nhân dám đứng lên đấu tranh chống lại những bất công hay những tù nhân lương tâm không chịu nhận tội, tất cả đều là những hình thức trả thù. 3- Hiện tượng tham nhũng cắt xén chế độ ăn uống, sinh hoạt của tù nhân cũng như hiện tượng đòi hối lộ tù nhân để được đối xử dễ thở hơn đang diễn ra ngày càng lộ liễu trắng trợn.     Do đó, Hội đồng Liên tôn chúng tôi tuyên bố:. 1- Cực lực phản đối các hành vi khủng bố, trấn áp tù nhân, nhất là tù nhân lương tâm vốn đang xảy ra ở nhiều trại giam thuộc Bộ công an. Điển hình là trường hợp Mục sư Nguyễn Công Chính ở trại giam An Phước, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. 2- Mạnh mẽ yêu cầu Nhà cầm quyền điều tra hiện tượng cán bộ, công an trại giam thoái hóa, biến chất về đạo đức và nghĩa vụ; có biện pháp chấm dứt những hành động (và có thể là chủ trương) vi phạm pháp luật Việt Nam lẫn các Công ước quốc tế về quyền con người. 3- Nhanh chóng khắc phục những hậu quả do tệ nạn tham nhũng gây ra trong trại giam. Sớm cải thiện chế độ sinh hoạt trong nhà tù thật sự tôn trọng quyền con người của các tù nhân theo đúng luật pháp quốc tế và tiêu chuẩn văn minh của nhân loại. Xử lý nghiêm những con người lợi dụng chức quyền để sách nhiễu tù nhân. Làm tại Việt Nam, ngày 29 tháng 05 năm 2014 HỘI ĐỒNG LIÊN TÔN VIỆT NAM - Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593) - Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật giáo (đt: 0165.6789.881) - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820) - Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân, Cao Đài giáo (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, Cao Đài giáo (đt: 0988.477.719) - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Tin Lành (đt: 0949.275.827) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Tin Lành (đt: 0906.342.908) - Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082) - Ông Tống Văn Chính, PGHH (đt: 0163.574.5430) - Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Tin Lành (đt: 0162.838.7716) nguồn: chuacuuthe.com
......

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam

Giống như bao nhiêu lần trước, cứ mỗi khi Hà Nội có đủ bạo dạn để phản đối mạnh bước chân xâm lấn của Trung Quốc thì Bắc Kinh lại lôi ra cái túi gấm cố hữu. Vào ngày 20/5/2014, để đáp lại các phản đối ồ ạt quanh việc Trung Cộng kéo giàn khoan 981 vào thềm lục địa Việt Nam, ông Lưu Hồng Dương, đại sứ Trung Quốc ở Indonesia đã tuyên bố trên báo Indonesia Jakarta Post rằng: “Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai. Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Thật vậy, trong hiện tình Biển Đông và trong suốt bao năm qua, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản để Trung Cộng khẳng định cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ tại Biển Đông. Công hàm này còn làm khựng lại các ý định trong vùng Đông Nam Á muốn hợp tác với Việt Nam đem Trung Cộng ra tòa án quốc tế. Vì ngày nào chính nước chủ nhà còn thừa nhận Biển Đông thuộc Trung Cộng, thì việc kéo Việt Nam nhập bọn chỉ làm cho các lý cớ kiện tụng của họ yếu đi mà thôi.   Bắc Kinh biết rõ công hàm Phạm Văn Đồng là khúc xương khó nuốt của Hà Nội. Và càng nhìn Hà Nội loay hoay tránh né khúc xương đó, Bắc Kinh càng khai dụng để lấn tới. Cho đến nay, giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn loay hoay tránh né bằng 2 cách rất vô ích sau đây: Cách thứ nhất là cãi chày cãi cối qua miệng các quan chức như cựu trưởng ban biên giới Lê Công Phụng, cựu trưởng ban biên giới Trần Công Trục, và gần đây nhất là Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, vào ngày 23/5/2014. Lập luận của Ban Tuyên Giáo Trung Ương là: vì các chữ Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc tới trong bức công hàm nên không hề có chuyện thừa nhận 2 quần đảo đó là của Tàu. Hoặc bức công hàm chỉ thừa nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc tính từ bờ thôi chứ không nói tính từ bờ nào. Đây là kiểu lý luận coi tất cả dân Việt Nam là người mù chữ. Nếu lý luận này đem ra trước quốc tế thì lại càng là trò diễu dở và làm lùn thêm mức uy tín vốn đã thấp của Hà Nội. Vì công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 tệ hơn thế nhiều. Nó thừa nhận nguyên cả vùng biển mà Trung Cộng tuyên bố chỉ 10 ngày trước là hải phận Tàu và còn ghi rõ Việt Nam "ghi nhận", "tán thành", và hứa sẽ "tôn trọng". Đó chính là đường lưỡi bò 9 vạch. Vùng biển này không chỉ bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn bao luôn từ 70% đến 90% toàn vùng Biển Đông, tùy theo cách tính. Nguyên văn cốt lõi của bức công hàm Phạm Văn Đồng là: "Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc. (*) Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển." Công luận quốc tế biết đọc và đã đọc trọn vẹn cả tuyên bố ngày 4/9/1958 của Bắc Kinh và công hàm ngày 14/9/1958 của Hà Nội. Vì vậy, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN phải bỏ hẳn những cố gắng vặn vẹo ý nghĩa văn bản này một cách vô ích. Chỉ có con đường duy nhất là phủ nhận giá trị của toàn bộ bản công hàm Phạm Văn Đồng. Cách thứ nhì là chỉ nói riêng với người Việt Nam. Nhà cầm quyền nay đã đưa ra đủ loại biện minh, như lý do gởi bản công hàm là vì thời điểm đó "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc”; như bản công hàm đó "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao"; như bản công hàm đó không có giá trị pháp lý vì 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa; như công hàm đó không có giá trị vì "chưa được Quốc hội thông qua" cũng như “Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”; v.v.... Tất cả các luận điểm đó là một bước tiến dài nếu nhìn lại các tuyên bố của thời trước và ngay sau 1975 của các lãnh đạo cao nhất đảng CSVN, như "Trung Quốc chỉ giữ các đảo giùm ta", hoặc "chẳng thà để Trung Quốc giữ còn hơn để các đảo nằm trong tay chính quyền ngụy",.... Nhưng các bước tiến đó vẫn hoàn toàn vô ích đối với chủ quyền đất nước ngày nào mà nhà cầm quyền Việt Nam chưa dám nói công khai những luận điểm đó trước thế giới. Nói cách khác, đã đến lúc giới lãnh đạo CSVN đừng làm việc vừa thừa thãi vừa kỳ cục là cứ cố gắng thuyết phục người Việt Nam rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trên mọi bình diện lịch sử, pháp lý, v.v... Tại sao cứ đòi tranh luận và thuyết phục những người ĐÃ đồng ý rồi. Có người Việt Nam nào còn ngờ vực điều đó đâu! Trong khi khối người cần nghe những điều đó một cách chính thức từ miệng nhà nước Việt Nam là thế giới bên ngoài, đặc biệt là các đầu lãnh tại Bắc Kinh, chứ không phải người Việt Nam! Hiển nhiên ai cũng biết Hà Nội tránh né là vì đang lo sợ phản ứng của Bắc kinh một khi họ công khai phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng. Nhưng ngược lại, việc phủ nhận đó sẽ mở rộng con đường đưa Bắc kinh ra trước các tòa án quốc tế; mở rộng cửa cho các chính sách khác của Việt Nam để đối phó với đại họa Bắc Thuộc; chấm dứt cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ngay trong nội bộ giới lãnh đạo đảng CSVN; và đặc biệt là ngưng vĩnh viễn cảnh trói tay các chiến sĩ Việt Nam làm bia bắn cho hải quân Tàu như thời Trường Sa 1988. Không ai có thể làm công việc phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng thay cho các lãnh tụ đảng và nhà nước CSVN được, vì họ thừa nhận là chủ thể tiếp nối chính phủ VNDCCH từ thời ông Phạm Văn Đồng và cũng tự nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất tại Việt Nam hiện nay. Cửa sổ cơ hội cho lãnh đạo đảng CSVN chuyển hướng cũng không còn nhiều. Với vận tốc xâm lấn từ ngoài khơi đến sâu trong đất liền và tràn lan trên cả nước hiện nay, lằn mức "không cưỡng bánh xe xâm lược được nữa" đang đến rất gần.   Vấn đề còn lại là lãnh đạo đảng CSVN đã đủ can đảm để loại bỏ những kẻ thề thốt "không ăn ở hai lòng với Trung Quốc" ra khỏi hàng ngũ chưa? Đã nhận ra sự dại dột và từ giã chính sách "thà mất nước chứ không mất đảng" chưa? Vì một khi nước vừa mất thì kẻ mà Bắc Kinh truy diệt đầu tiên chắc chắn là đảng. (*) Bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc: DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA (Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958) The People's Republic of China hereby announces: (1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China. (2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands. (3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea. Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China. (4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China. Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country. Source: * Bộ Ngoại Giao Trung Quốc http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm * Trong sách giáo khoa tại HongKong: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải (Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958) Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố: (1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. (2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc. (3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
......

ĐỐI DIỆN QUÂN THÙ PHÚ

Nữ hào kiệt Trần Thị Hài biểu tình trước cửa Đại sứ quán Trung Cộng, Hà Nội, 2007   Bắc biên địa, hận cũ chẳng nguôi ngoai Đông lãnh hải, lại giở trò lếu láo. Kéo dàn khoan ỷ thế nghênh ngang, Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo! Than ôi! Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam Quan, Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải đảo! Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng công ước rạch ròi, Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày ngổ ngáo. Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền không súng không gươm , Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân chẳng giày chẳng áo! Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà chúng giết như giết lợn giết bò, Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà chúng bắn như bắn cò bắn sáo! Niềm uất hận chất kín gầm trời, Biển tang thương đỏ tươi màu máu! Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li, Để mẹ nhớ con canh dài áo não! Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma, “Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn cáo! Thế mới hay, Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên, Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo. “Không có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn, Chẳng có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo” Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn, Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo! Từ xưa: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” “Giang sơn mất thì nhà tan cửa nát” Cho nên: Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than, Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo! Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan, Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ? Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành chó thành dê, Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn hóa rồng hóa hổ. Hỡi quân thù! Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn, Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo! Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha, Khẩu Phật tâm xà nên ló mặt mo vênh váo! Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ rung cây, Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm trói báo! Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như Nguyệt, Bạch Đằng, Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành Ngô Quyền, Hưng Đạo. Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín khúc hào hùng, Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn mây vời vợi. Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng, Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ! Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn năm, Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn thuờ. Anh em ơi! Giặc đã đến rồi! Giặc đã đến rồi! Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác. Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang, Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất. “Đánh cho để răng đen, Đánh cho luôn dài tóc”. Đống Đa gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi, Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn tanh mũi cọc. Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo toàn hải phận, biên cương, Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất ngọn rau, tấc đất. Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn, Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục! Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt cát quê hương, Dù xương trắng chất đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc. Hỡi anh em! Vung tay lên, trăm triệu chung lòng! Trước giặc thù, một còn một mất! KHA TIỆM LY Nguồn: thanhminhhn.blogtiengviet.net  
......

Kịch bản chiến tranh Việt-Trung

Ông Carl Thayer cho rằng các cuộc đối đầu liên tiếp trên biển có thể gây ra thiệt hại về nhân mạng Giáo sư Carl Thayer, từ Học viện Quốc phòng Úc, cho rằng một cuộc xung đột vũ trang giữa Việt Nam và Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ khác với cuộc chiến biên giới năm 1979. Trả lời phỏng vấn BBC ngày 22/5, ông cho rằng cuộc chiến sẽ 'kết thúc rất nhanh', với nhiều bất lợi nghiêng về phía Việt Nam. BBC: Theo ông thì căng thẳng hiện nay có leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang hay không, và nếu điều đó xảy ra, hai bên sẽ triển khai những lực lượng gì cho cuộc chiến? Giáo sư Carl Thayer: Hiện nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc đối đầu trên biển được cả hai phía tính toán rất kỹ. Trung Quốc sẽ tiếp tục ngăn chặn tàu của Việt Nam tiếp cận giàn khoan, trong lúc Việt Nam tiếp tục duy trì sự hiện diện và tuyên truyền bằng nhiều ngôn ngữ để yêu cầu Trung Quốc rút lui. Các chuyên gia mà tôi gặp gần đây cho rằng những cuộc đối đầu liên tiếp trên biển hiện nay có thể dẫn đến thiệt hại về nhân mạng hoặc khiến tàu của một bên nào đó bị chìm. Một cuộc giao tranh theo tôi là khó xảy ra, nhưng nếu có, thì cuộc chiến đó sẽ không chỉ diễn ra trên một mặt trận như 1979. "Khó có khả năng Nga sẽ đứng ra để tiếp tế vũ khí và phụ tùng cho Việt Nam vì không muốn gây hấn với Trung Quốc" Năm 1979, Trung Quốc đã chủ trương không sử dụng không quân vì e ngại trước hệ thống phòng không rất mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, một cuộc giao tranh trong năm 2014 sẽ diễn ra trên nhiều mặt trận, với sự tham gia của không quân, hải quân, bộ binh cho đến tàu ngầm và sẽ kết thúc rất nhanh. Hiện nay, các hạm đội của Việt Nam chủ yếu tập trung ở Nha Trang và Đà Nẵng. Trung Quốc có thể tấn công các cứ điểm này rất nhanh chóng bằng thủy lôi, bằng không quân hoặc tên lửa hành trình từ chiến hạm và tiêu diệt hoàn toàn các hạm đội cũng như các cơ sở hậu cần của Việt Nam. Đây là một yếu tố rất quan trọng. Vì nếu bị hư hại, tàu của Việt Nam có thể lui về cảng, thế nhưng nếu mất cảng, các chiến hạm sẽ không thể được tiếp nhiên liệu và sẽ trở thành vô giá trị. Bên cạnh đó, một cuộc chiến kéo dài cũng khiến Việt Nam phải đứng trước câu hỏi là lấy nguồn tiếp tế vũ khí ở đâu? Việt Nam hiện có bao nhiêu nước sẵn sàng cung cấp những khí tài hiện đại cho họ?   Khó có khả năng Nga sẽ đứng ra để tiếp tế vũ khí và phụ tùng cho Việt Nam vì không muốn gây hấn với Trung Quốc. Thậm chí nếu Nga muốn giúp thì cũng đã quá trễ. Việc Trung Quốc tăng ngân sách quân sự khiến nhiều nước trong khu vực lo ngại BBC: Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ phản ứng thế nào nếu một cuộc chiến xảy ra, thưa ông? Giáo sư Carl Thayer: Việt Nam đang sở hữu hệ thống tên lửa hành trình rất mạnh, có thể bắn đến tận đảo Hải Nam hoặc đảo Phú Lâm. Nếu một cuộc giao tranh xảy ra,câu hỏi hàng đầu của các nước này là làm sao ngăn Trung Quốc tiếp tục tấn công Việt Nam mà không phải đánh Trung Quốc? Trên lý thuyết, các nước có thể lập một phòng tuyến nhằm cô lập đường hàng hải của Trung Quốc. Trừ khi Trung Quốc muốn phải đối đầu với cả hải quân của Nhật và Hoa Kỳ, các đường cung cấp dầu khí trên biển của họ sẽ bị chặn. Và đây là điểm yếu mà các học giả Trung Quốc gọi là "thế tiến thoái lưỡng nan ở Malacca". Không chỉ riêng eo biển Malacca mà cả eo biển Hormuz cũng là một điểm yếu của Trung Quốc. Tuy nhiên để duy trì một vùng cách ly như vậy sẽ rất khó khăn và cần đến sự tham gia của hải quân từ nhiều nước. Nhật Bản cũng có thể sử dụng hải quân để khống chế không cho các hạm đội của Trung Quốc tiếp tục tấn công Việt Nam. Tất nhiên, đây chỉ hoàn toàn là giả thiết vì đến nay hải quân Nhật Bản vẫn chỉ được sử dụng cho mục đích tự vệ. Tôi vẫn cho rằng Nhật Bản sẽ rất thận trọng trước các động thái gây hấn của Trung Quốc. Giáo sư Carl Thayer cho rằng giàn khoan của Trung Quốc không phải để thăm dò dầu khí BBC: Hiện Trung Quốc đang phải chi rất nhiều tiền để giữ cho giàn khoan hoạt động ở vị trí hiện nay, một số tin nói là hàng trăm nghìn đôla một ngày, có tin nói là cả triệu đôla một ngày. Nhưng Việt Nam nói những hoạt động thăm dò trước đây của họ cho thấy không có dầu ở đó. Bên cạnh đó, Trung Quốc và Nga vừa ký với nhau một thỏa thuận khí đốt. Theo ông vì sao Trung Quốc lại chọn đặt giàn khoan ở vị trí hiện nay?   Giáo sư Carl Thayer: Trước hết thỏa thuận khí đốt Nga-Trung là vấn đề dài hạn. Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng thiếu nhiên liệu ngày một nghiêm trọng. Khi có mặt ở Hà Nội vào thời điểm tranh chấp xung quanh giàn khoan mới bắt đầu, tôi đã nói chuyện với một số nhà ngoại giao nước ngoài. Họ nói rằng các đồng nghiệp của họ ở Bắc Kinh cho biết khi được yêu cầu tiến vào khu vực lô 142 - 143, Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) ban đầu đã từ chối với lý do quá tốn kém. Tuy nhiên cuối cùng CNOOC vẫn nhận được lệnh phải tiến vào đó và được thông báo là hoạt động thăm dò dầu khí chỉ là phụ. Trung Quốc đã dự phòng phương án tháo gỡ căng thẳng bằng cách tuyên bố sẽ chỉ đặt giàn khoan ở vị trí này từ ngày 2/5 đến ngày 15/8. Tuy nhiên điều mà chúng ta chưa nghĩ đến là khi giàn khoan này thôi hoạt động và rời đi, Trung Quốc có thể đưa một giàn khác nhỏ hơn để thế chỗ dưới sự canh gác chặt chẽ. "Có thể nói rằng hành động đưa giàn khoan vào Biển Đông là để đánh dấu chủ quyền." Bên cạnh đó, thời điểm mà Trung Quốc tuyên bố sẽ rút lui giàn khoan vào tháng Tám có thể chỉ đơn thuần là do để tránh mùa bão thường xảy ra từ tháng Chín - Mười trong khu vực. Trung Quốc rõ ràng là đang phải chi rất nhiều, không chỉ cho giàn khoan đắt tiền của họ, mà còn cho cả hơn một trăm tàu đang hoạt động quanh đó - quy mô chưa từng thấy từ sau Đệ nhị Thế chiến. Điều này cho thấy đây không chỉ đơn thuần là hoạt động thăm dò dầu khí. Một nhà phân tích nói với tôi rằng dầu khí tập trung chủ yếu ở phía nam của Biển Đông. Tuy nhiên với nhu cầu hiện nay của Trung Quốc, những mỏ này sẽ cạn rất nhanh. Trung Quốc đã phải trải qua bao nhiêu phiền phức như hiện nay, chỉ để khai thác những nguồn nhiên liệu rất có hạn như thế, rõ ràng không phải là một cách huy động vốn hiệu quả. Từ đó có thể thấy điều này là nhằm một mục đích khác. Tôi nghĩ là chúng ta đã không thấy hết được tính nghiêm trọng của việc thành lập Thành phố Tam Sa và đồn trú quân ở đó, cũng như ban hành luật đánh bắt trên các vùng biển quanh đảo Hoàng Sa và Phú Lâm. Trung Quốc đang muốn có một điểm tựa vững chắc ở phía bắc Biển Đông để từ đó tiếp tục tiến về phía nam. Trong thời gian tới, chúng ta có thể sẽ thấy Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Hải Nam.   Có thể nói rằng hành động đưa giàn khoan vào Biển Đông là để đánh dấu chủ quyền.   Căng thẳng sẽ hạ nhiệt sau khi Việt Nam bồi thường cho Trung Quốc và gửi phái đoàn ngoại giao sang Bắc Kinh? BBC:Trung Quốc nói sẽ chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí vào tháng Tám. Tuy nhiên ông có cho rằng Bắc Kinh sẽ thay đổi kế hoạch vì ngại Việt Nam sẽ nhân đó để tuyên bố chiến thắng trong tranh chấp lần này không? Giáo sư Carl Thayer: Hiện chúng ta đang chứng kiến một sự đối đầu được tính toán rất kỹ lưỡng. Trung Quốc vẫn khẳng định chủ quyền của mình và Việt Nam vẫn kiên quyết phản đối. Từ khi tranh chấp xung quanh vấn đề giàn khoan xảy ra, Việt Nam đã đề nghị thiết lập một đường dây nóng với Trung Quốc và bị Bắc Kinh từ chối. Phía Việt Nam cũng đã hai lần đề nghị Bắc Kinh cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc, nhưng cũng bị từ chối. Các cuộc bạo động nhằm vào Trung Quốc lại càng làm cho vấn đề thêm rắc rối. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng sau khi Việt Nam đã giải quyết xong hậu quả của các cuộc bạo động, bồi thường cho Trung Quốc và giúp các doanh nghiệp Trung Quốc quay trở lại sản xuất, Bắc Kinh sẽ sớm đón tiếp các phái đoàn cấp cao của Việt Nam. "Từ khi tranh chấp xung quanh vấn đề giàn khoan xảy ra, Việt Nam đã đề nghị thiết lập một đường dây nóng với Trung Quốc và bị Bắc Kinh từ chối" Trong 4 năm qua, đã có hai phái đoàn đặc biệt như vậy được cử sang Trung Quốc để giải quyết xung đột trên Biển Đông và mỗi lần như vậy, căng thẳng đều được tháo ngòi. Có thể là ngày 15/8 tới đây, Trung Quốc sẽ rút giàn khoan, tuyên bố là đã hoàn tất mục tiêu, trong khi Việt Nam tuyên bố đã giữ vững lập trường chống đối của mình. Tuy nhiên câu hỏi ở đây là Trung Quốc có mang một giàn khoan nhỏ hơn tới để thay thế cho giàn khoan hiện nay hay không? Nếu điều đó xảy ra, Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện của mình, và Việt Nam sẽ khó thay đổi điều đó vì mỗi lần họ tìm cách tiếp cận, tàu của Trung Quốc sẽ quay trở lại. Thế nhưng quan hệ giữa hai nước đã rất tốt và việc tìm một lối ra cho căng thẳng hiện nay sẽ phục vụ cho lợi ích của cả hai bên. Trung Quốc đang muốn xây dựng đường nối miền nam nước này với các nước ASEAN, và tuyến đường đó sé đi xuyên qua Việt Nam. Đó là chưa kể những quan hệ hợp tác của hai nước trong nhiều lĩnh vực khác. Trung Quốc cũng sẽ không muốn đẩy Việt Nam về phía Hoa Kỳ hoặc tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Philippines và ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc ở đó. Liệu Việt Nam có thể lấy Philippines làm trung gian để thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ?   BBC: Ông nghĩ như thế nào về chuyến đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Philippines vừa qua? Ông có nghĩ là Việt Nam đang muốn sử dụng các đồng minh của Hoa Kỳ làm trung gian để liên kết với Hoa Kỳ hay không? Giáo sư Carl Thayer: Đó là một câu hỏi thú vị. Trước chuyến thăm của ông Dũng thì quan hệ Việt Nam - Philippines vẫn đang tiến triển khá tốt. Tuy nhiên cả hai nước, đặc biệt là Philippines, đều là những nước yếu trong khu vực. Cả hai đã lên kế hoạch cho hải quân diễn tập chung, nhưng kế hoạch này đã bị hủy bỏ trước sự phản đối của Trung Quốc. Tuy nhiên bây giờ cả hai đang đối mặt với cuộc chơi hoàn toàn khác. Hành động của Trung Quốc hiện nay là chưa có tiền lệ và rất đáng lo ngại. Việt Nam đã làm việc với ASEAN và việc tăng cường quan hệ với Philippines giữa lúc nước này đang thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ có thể sẽ giúp cả hai nước củng cố về an ninh.   Việt Nam có thể khuyến khích Hoa Kỳ tăng cường hiện diện và sử dụng Philippines làm trung gian với Hoa Kỳ nếu cảm thấy một mối quan hệ trực tiếp là quá khó. "Hành động của Trung Quốc hiện nay là chưa có tiền lệ và rất đáng lo ngại" Chính sách của Việt Nam có ba không, đó là không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không tham gia liên minh quân sự và không cùng với một nước chống lại nước thứ ba. Chính sách đó vẫn không thay đổi. Vấn đề ở đây là không có tàu nào của Hoa Kỳ, dù mạnh đến đâu, có thể đẩy lùi giàn khoan của Trung Quốc và vì vậy, để bảo vệ lợi ích của mình, Việt Nam cần cùng với Philippines mở ra một mặt trận mới để Philippines, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, có hành động chống lại Trung Quốc. Hiện cũng có tin nói rằng Việt Nam có thể có hành động pháp lý với Trung Quốc, theo như thông tin mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra, dù không rõ chi tiết. Điều này có thể sẽ củng cố cho lập trường pháp lý của Philippines hiện nay trong đơn kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Nếu Trung Quốc thua kiện thì đường chín đoạn của họ sẽ bị tuyên là bất hợp pháp. Luật pháp quốc tế quy định phán quyết của tòa phải được thi hành ngay lập tức, không được kháng lại. Trung Quốc có thể sẽ phản đối nhưng điều đó đồng nghĩa với việc họ bị cô lập vì đó là một quyết định của quốc tế. Một quyết định như vậy cũng sẽ giúp các bên có yêu sách khẳng định chủ quyền của mình trên biển, ở những nơi mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của họ, nhưng luật pháp quốc tế lại không xem như vậy. Washington đã thỏa hiệp với Hà Nội về nhân quyền?   BBC: Lập trường của Washington là Hà Nội cần có một quan điểm chính trị cởi mở hơn và tôn trọng nhân quyền. Thế nhưng đối với Hoa Kỳ, căng thẳng hiện nay cũng là mối đe dọa đến ổn định trong khu vực và tự do hàng hải. Liệu Washington có chủ động thỏa hiệp hay không? Hay họ sẽ đợi sự thỏa hiệp từ Hà Nội? Giáo sư Carl Thayer: Hoa Kỳ không chỉ là một, mà chúng ta có chính quyền Obama và Quốc hội. Và theo ý kiến của tôi, chính quyền Obama đã thỏa hiệp với Hà Nội rồi. Chúng ta còn nhớ trước khi Chủ tịch Trương Tấn Sang sang thăm Hoa Kỳ, các chính trị gia cao cấp của Hoa Kỳ đã đề nghị Hà Nội phải có tiến triển về nhân quyền. Bất chấp những lời kêu gọi này, Việt Nam lại thực hiện thêm nhiều vụ bắt giữ khác. Ông Sang sau đó vẫn sang Hoa Kỳ và mang về hiệp định đối tác toàn diện. "Tôi cho rằng cuối cùng thì những lợi ích mang tính chiến lược vẫn sẽ được đặt lên trên nhân quyền" Các báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về nhân quyền, mặc dù nhận định rằng nhân quyền tại Việt Nam vẫn đang tiến triển một cách không đồng đều, nhưng cũng ghi nhận ngày càng có nhiều nhà thờ được phép hoạt động hơn.   Các nhà ngoại giao tôi gặp ở Hà Nội cũng cho rằng nhân quyền tại Việt Nam vẫn tiến triển và Hà Nội đang từng bước đáp ứng các chỉ tiêu do Hoa Kỳ đề ra. Như vậy, chúng ta thấy là chính quyền Obama thì cho rằng Việt Nam đang đáp ứng yêu cầu của Hoa Kỳ, trong khi Quốc hội lại dựa trên hàng loạt vụ bắt bớ các blogger và nhà bất đồng chính kiến gần đây để bác bỏ điều đó. Tuy nhiên tôi cho rằng cuối cùng thì những lợi ích mang tính chiến lược vẫn sẽ được đặt lên trên nhân quyền. Hành động của Trung Quốc, mặc dù ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam, nhưng cũng đe dọa đến sự ổn định trong khu vực. Điều này buộc Hoa Kỳ phải lựa chọn và tôi nghĩ rằng nhân quyền sẽ bị xem là thứ yếu. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese
......

Ai đứng sau các vụ bạo động nhân danh công nhân chống Tàu?

Cho đến nay chưa có bằng chứng nào đủ để có thể kết luận chính xác ai là thủ phạm chính trong việc biến các cuộc biểu tình ôn hoà chống Tàu Cộng xâm lược của công nhân Bình Dương, Hà Tĩnh thành những vụ bạo động, đốt phá, hôi của, thậm chí giết người nhắm vào các công nhân người Hoa và một số xí nghiệp có chủ Á Châu. Có những dư luận xầm xì đổ qua đổ lại cho một trong bốn tác nhân chính trong diễn biến này:   1- Giới công nhân; 2- Những thành phần bị nhà nước CSVN gọi là thế lực thù địch với CSVN; 3- Đảng CSVN và nhà nước của họ; 4- Bắc kinh Thử phân tích xem mỗi thành phần trên được gì, mất gì qua các vụ bạo động trên để xem ai thủ lợi nhiều nhất thì thành phần đó có xác xuất cao nhất là thủ phạm. Do thành phần công nhân gây ra? Thoạt tiên về mặt biểu kiến, thành phần này là tác nhân tự nhiên nhất. Họ là người đứng ra xuống đường biểu tình, thể hiện tinh thần yêu nước tự nhiên của người Việt. Và khi đã xuống đường được rồi, trong lúc khí thế hừng hực, sự dồn nén chịu đựng bấy lâu dễ bùng phát thành cơn thịnh nộ không kiểm soát được. Công nhân cùng với nông dân là hai giai cấp đã bị/được đảng CSVN cho ăn bánh vẽ, hứa hẹn một thiên đường trong đó họ sẽ được làm chủ, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, khiến họ đã hết lòng đổ mồ hôi xương máu làm bàn đạp cho đảng CSVN cướp chính quyền. Ấy vậy mà ngày hôm nay dưới chế độ CS, họ là hai giai cấp thiệt thòi nhất, kẻ bị mất đất mất nhà, người bị chủ nhân ngoại quốc và tư bản đỏ bóc lột hà hiếp, thậm chí bị đánh đập, đi vệ sinh cá nhân cũng bị làm khó dễ. Cho nên sự bùng nổ của những cơn cuồng nộ, nếu quả là thế, có thể hiểu được. Nhưng nếu đó là sự cuồng nộ mất tự chế, thường nó không chỉ dừng lại ở các xí nghiệp mà thôi mà nó sẽ nhân đó mà lan ra ngoài tạo ra những biến loạn xã hội để có cơ hội làm thay đổi cuộc sống cơ hàn của giới bần cùng, như thường thấy trong các biến loạn tại nhiều nơi trên thế giới. Ta đã không thấy một chỉ dấu nào cho thấy bạo động muốn lan ra các lãnh vực khác. Hơn thế nữa, những nhân chứng tại hiện trường và ngay cả chính công an CSVN đều xác nhận những kẻ kích động bạo động đập phá không phải là công nhân mà lã những kẻ từ nơi khác ở xa kéo đến. Trong khi đó, giới công nhân chỉ đứng nhìn, thậm chí có người còn can ngăn bạo động. Bởi vì người công nhân trên thực tế là người sẽ bị thiệt hại nhiều nhất khi bạo động phá nát các xí nghiệp. Dù tệ hại đến đâu thì các xí nghiệp đó vẫn là nơi sinh kế của họ trong thời buổi kinh tế vô cùng khó khăn hiện nay. Và hậu quả ngay trước mắt là các xí nghiệp liên hệ đã tạm đóng cửa vô hạn định khiến công nhân giờ đây phải nghỉ dài hạn không lương chẳng khác chi thất nghiêp. Cho nên lập luận bạo động là do sự cuồng nộ mất tự chế của công nhân là lập luận không thuyết phục được mấy ai. Do thành phần thù nghịch với chế độ CSVN gây ra? Từ phía nhà cầm quyền CSVN đã có những ý đồ đổ lỗi cho các "thế lực thù địch" muốn kích động bạo loạn để phá sự ổn định của chế độ. CSVN luôn tuyên truyền rằng các thế lực phản động thù địch luôn tìm đủ mọi cách để vận động biểu tình thật đông rồi gây bạo loạn vượt khỏi tầm kiểm soát của bộ máy công an bảo vệ chế độ, với hy vọng từ đó làm một cuộc cách mạng lật đổ chế độ. Sự tức giận của người dân trước sự xâm lược của Bắc Kinh là cơ hội để các thế lực thù địch này khai thác kích động nổi dậy. Câu hỏi đặt ra là nếu quả như thế thì tại sao sự kích động bạo động lại chỉ xẩy ra tại các xí nghiệp với thành phần công nhân? Tại sao lại không làm chuyện dễ hơn, là kích động giới nông dân, đặc biệt là bà con dân oan, vốn thứ nhất đã mất hết nhà đất nên vô cùng uất hận, thứ hai đã từng có kinh nghiệm xuống đường đối đầu với công an không còn sợ hãi nữa, và thứ ba quan tâm của họ đã vượt sang lãnh vực dân chủ nhân quyền chứ không còn chỉ giới hạn trong quan tâm quyền lợi riêng của họ. Ngoài ra nếu điểm mặt hết tất cả các thành phần đối kháng với chế độ từ trong ra ngoài nước, từ những nhóm xã hội dân sự cho đến các tổ chức chính trị, trong đó có Việt Tân, ta thấy không có ai cổ xuý việc đấu tranh bạo động cả, vì tất cả đều hiểu rõ dân Việt không muốn có bạo động chiến tranh giữa người Việt với nhau, và không thể lấy sở đoản của mình (không có công cụ bạo lực trong tay) mà đấu với sở trường của đối phương (một chế độ vốn đặt sự sinh tồn của mình trên cột trụ bạo lực chuyên nghiệp trấn áp là công an và quân đội). Trong chủ trương đấu tranh bất bạo động có cổ xuý việc biểu tình thật đông đấy, nhưng đông không có nghĩa là bạo động vì sẽ tạo cơ hội cho bộ máy bạo lực của giới cầm quyền CS trấn áp tiêu diệt thẳng tay sớm. Cho nên những toan tính đổ lỗi cho các thành phần chống đối CSVN khó mà thuyết phục được ai, nhất là khi chính những thành phần này lại lên tiếng trước cả nhà nước và công an để phản đối các hành vi bạo động, kêu gọi bà con bình tĩnh biểu tình ôn hoà. Bởi vì, họ hiểu rõ hơn ai hết trên cương vị của những người đấu tranh đứng về phía nhân dân chống độc tài, những hành vi bạo động phá hoại khủng bố sẽ chỉ làm tổn hại người dân trước tiên, làm mất đi chính nghĩa mình đang xiển dương. Do đảng CSVN gây ra? Giới cầm quyền CSVN bị thiệt hại gì khi bạo động xẩy ra? Thứ nhất, họ sẽ gặp khó khăn hơn khi giải quyết các vấn nạn kinh tế. Giới đầu tư quốc tế cảm thấy bất ổn trong không khí bạo động làm thiệt hại doanh nghiệp sản xuất, sẽ rút về hay giảm đầu tư, làm thất nghiệp gia tăng. Thứ hai, trong một khoảng thời gian ngắn, nhà nước CSVN để lại ấn tượng họ đã mất kiểm soát tình hình, không chận nổi quần chúng bạo loạn. Nhưng bên cạnh đó, họ được những gì? Thứ nhất, gián tiếp biểu thị cho Tàu cộng sự phản kháng dữ dội của dân Việt đối với Tàu cộng, trong khí vẫn có thể chối với ông thầy Bắc Kinh của họ rằng: “Em không chủ trương chống mạnh như vậy”, và có lý cớ để xin Bắc Kinh nhẹ tay: “Thầy cần em dẹp loạn, em vẫn có thể làm tốt được, nhưng xin Thầy đừng làm khó thêm cho em, thầy làm quá, dân nó càng nổi loạn, càng khó kiểm soát”. Thứ hai, cùng là CS nên Hà Nội biết rõ các đòn phép của Bắc Kinh. Họ phải chuẩn bị tình huống bị Thầy cho ăn đòn thật, phải chuẩn bị đường thủ. Cụ thể họ phải tính đường giảm bớt đạo quân thứ năm của Tàu Cộng mà họ đã trót dại để xâm nhập vào Việt Nam dưới vỏ bọc công nhân. Hà Nội cho bạo động đối với công nhân Tàu để áp lực công nhân Tàu rút bớt về nước. Kết quả như ta đang thấy, một số tàu thủy của Hoa Lục đang đón vài ngàn công nhân Tàu và gia đình họ hồi hương. Cảnh này nhắc nhiều người liên tưởng đến hiện tượng đuổi Hoa Kiều ra khỏi nước hồi cuối thập niên 70, ngay trước cuộc chiến tranh Biên Giới 1979.   Thứ ba, việc bạo động đó là cơ hội rất tốt để CSVN tuyên truyền, đổ hết tội cho các thế lực phản động, để chuẩn bị dư luận thuận lợi cho việc thẳng tay đàn áp. Ta đang thấy 1 youtube của Ban Tuyên Giáo, dư luận viên phổ biến trên mạng gọi những người biểu tình chống Tàu cộng mà không đem theo cờ đỏ hay đòi thả người yêu nước, là những kẻ nội phản muốn lợi dụng tình trạng dầu sôi lửa bỏng hiện nay để kích động bạo loạn lật đổ chính quyền, và đáng bị trừng trị. Cũng qua đó CSVN có thể hoá giải những lời kêu gọi đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm, và dễ biện minh việc họ vẫn phải nắm vị thế độc quyền lãnh đạo nhân danh nhu cầu giữ ổn định bên trong để đối phó với bên ngoài. Họ cho chỉ thị tấn công vào cả các doanh nghiệp không phải của Hoa Lục cũng nhằm làm hình ảnh của kẻ kích động bạo động càng xấu hơn, tức những kẻ đã mất hẳn mọi lý cớ yêu nước chống xâm lược, mà chỉ còn là một đám phá hoại. Nếu bạo động chỉ giới hạn nhắm vào các doanh nghiệp từ Hoa Lục, thì khi thẳng tay đàn áp, CSVN sẽ dễ bị mang tiếng đứng về phía Tàu cộng xâm lược, hèn với giặc ác với dân, khó mà có thể giành lấy ngọn cờ dân tộc trong trường hợp thầy Bắc Kinh thẳng tay trừng phạt đàn em Hà Nội. Do Bắc Kinh gây ra? Bắc Kinh được lợi gì? Thứ nhất, kinh tế Việt Nam có thể bị thiệt hại nhiều qua vụ bạo động, đặc biệt nếu các hãng xưởng ngoại quốc đồng loạt kéo nhau ra khỏi Việt Nam. Điều này phù hợp với chính sách từ trước đến nay của Bắc Kinh là luôn ngầm phá hoại nền kinh tế Việt Nam bằng nhiều cách để giữ Việt Nam ở thế yếu, và nông dân ta thường là nạn nhân trực tiếp. Việt Nam hiện nay đang là nơi thu hút các doanh nghiệp quốc tế chuyển đầu tư vào từ Hoa Lục vì giá lao động rẻ hơn, nên Bắc Kinh chắc hẳn có nhu cầu tạo sự bất ổn trong môi trường đầu tư tại Việt Nam. Thứ hai, Bắc Kinh có thêm lý cớ để can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Đó là lý cớ bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của người Tàu tại Việt Nam, theo cách của Putin đối với Crimea và Ukraina. Động thái đầu tiên là Bắc Kinh đem tàu thuyền vào Việt Nam để di tản một vài bộ phận trong khối nhiều ngàn công nhân Tàu trên khắp nước ta cho mục tiêu tuyên truyền cho bước kế tiếp. Thứ ba, Bắc Kinh tạo hình ảnh trước thế giới dân Tàu là nạn nhân của người Việt Nam. Chính người Việt mới là những kẻ quá khích, bạo động, xâm phạm sinh mạng và quyền lợi doanh nghiệp Tàu trước, và luôn cả các doanh nghiệp nước khác, nên họ sẽ có lý do chính đáng để trừng phạt. Cái hại mà Bắc Kinh chấp nhận là vài doanh nghiệp gốc Hoa Lục bị đập phá, vài người dân Tàu bị thương vong do chính chỉ thị từ Bắc Kinh gây ra. Nhưng nếu nhìn loại chiến thuật quân sự "biển người" thí quân của Bắc Kinh xưa nay, thì sinh mạng vài người dân Tàu xấu số đối với lãnh đạo Trung Cộng là con số không. Như trên, ta thấy CSVN và CS Tàu được lợi nhiều hơn hại trong vụ kích động bạo động vừa qua. Xác suất một trong hai thành phần này là thủ phạm đằng sau các bạo động rất cao. Đây là hai tác nhân có đủ điều kiện nhất để điều động những đoàn xe máy mang bảng số 36, tức đã di chuyển từ trước, từ Thanh Hoá xuống tận Bình Dương, để hành sự. Hai tác nhân này cũng đủ điều kiện nhất để ra lệnh cho các doanh nghiệp Tàu cho phép công nhân nghỉ một ngày ăn lương để đi biểu tình chống xâm lược Tàu; và ra lệnh cho công an, bình thường rất nhặm lẹ mạnh mẽ dẹp chặn bạo loạn, bỗng nhiên trở nên rất thụ động và chậm chạp để cho mấy đợt bạo động diễn ra. Sau đó chỉ vài ngày, công an lại trở lại bản chất vô cùng hữu hiệu trong việc ngăn chặn, bắt bớ những người biểu tình yêu nước ngày 18/5 vừa qua. Vậy ai là thủ phạm? CSVN, CS Tàu trực tiếp, hay CS Tàu xử dụng tay sai cật ruột trong cung đình Bắc Bộ Phủ Hà Nội? Hy vọng với thời gian sẽ lộ ra nhiều chi tiết hơn. Nhưng một điều gần như chắc chắn là các thành phần bị chế độ gọi là nội phản, tức những người dân chống Tàu thực sự, sắp phải đối diện những đợt càn quét truy bức rất tận tình của đảng và nhà nước CSVN.
......

Thông Cáo Báo Chí: Đảng Việt Tân sẽ tiếp tục tiến hành Đấu Tranh Bất Bạo Động

  THÔNG CÁO BÁO CHÍ      Đảng Việt Tân sẽ tiếp tục tiến hành Đấu Tranh Bất Bạo Động   Trong bài viết “Phản đối đâu chỉ là yêu nước cực đoan” của ký giả BBC Bill Hayton đề cập về những cuộc biểu tình chống giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong các ngày qua tại Việt Nam, có đề cập đến vai trò của đảng Việt Tân trong biến cố ở Bình Dương. Tuy cách viết của ký giả Bill Hayton dựa trên ý kiến của một số người, nhưng qua những gì mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam công bố, các bạo động tại Bình Dương có rất nhiều nghi vấn do sự dàn dựng của bộ máy công an, để đổ trách nhiệm bạo hành cho giới đấu tranh dân chủ.   Trong suốt nhiều thập niên qua, không chỉ người Việt Nam mà cả thế giới đều đã thấy quá rõ ai là những kẻ chuyên cậy dựa vào các biện pháp bạo hành và khủng bố một cách có hệ thống, từ những cảnh công an đánh chết người ngay trên đường phố đến những cảnh dân chết với thương tích đầy mình trong các đồn công an. Hơn thế nữa, trong các vụ bạo động vừa qua, càng lúc càng có nhiều bằng chứng cho thấy công an đã cố tình làm ngơ để sự việc xảy ra và cố tình trì hoãn gần cả một ngày sau mới kéo đến. Nay họ lại bắt gần cả ngàn công nhân để gọi là "điều tra". Trong khi đó, lực lượng dân chủ Việt Nam, bao gồm cả Đảng Việt Tân, từ lâu đã nhận thức và tiến hành phương thức Đấu Tranh Bất Bạo Động vì đây là con đường duy nhất để không bước vào đấu trường bạo động mà chế độ độc tài có ưu thế tuyệt đối; Đây là con đường cần thiết để tiết kiệm xương máu và tránh các đổ vỡ, hầu bảo vệ khả năng phục hồi của đất nước sau khi thoát độc tài; Và đây là con đường văn minh, nhân bản của con người ở thế kỷ 21. Đã đến lúc giới lãnh đạo đảng CSVN ngưng trò đóng kịch kệch cỡm, vì các nhóm bạo động đang nằm ngay trong hàng ngũ công an và thành phần côn đồ do họ thuê mướn. Hãy thả ngay gần một ngàn công nhân vô can đang bị bắt giữ chỉ để đánh lạc hướng dư luận và che đậy cho nhóm bạo hành thật.   Ngày 18 tháng 5 năm 2014 Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 470-0845 Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài - Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ - Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước
......

Berlin: Người Việt tị nạn tại Đức biểu tình chống Trung cộng xâm lăng Việt Nam

Vào lúc 12 giờ ngày thứ Sáu, 16.5.2014, một cuộc biểu tình của người Việt tị nạn tại Đức chống hành vi xâm phạm chủ quyềnViệt Nam của bá quyền Bắc Kinh qua việc đưa dàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế VN đưọc diễn ra trước Sứ quán Trung cộng tại Berlin. Dù là ngày thứ Sáu trong tuần nhưng cũng đã quy tụ hơn 80 đồng bào tại Berlin, Hamburg, Bremen,... tham dự. Trong này có những đồng bào đã tham dự biểu tình trước đó tại Postdamer Platz và đặc biệt có sự tham dự của ông bà Võ Đại Tôn, đến từ Úc châu, nhân chuyến đi thăm đồng bào tại Âu Châu trong tháng này.   Với dàn cờ vàng tung bay trước gió, các Biểu ngử dàn dọc dài theo cây cầu Jannowitzbrücke đối diện ĐSQ Trung cộng với các nội dung bằng tiếng Đức, Việt, Hoa: Trung quốc quốc cút khỏi VN; Trung quốc phải tôn trọng Chủ quyền lãnh thổ và Lãnh Hải, Độc lập của VN; HS - TS là của VN; Trung quốc phải tôn trọng luật biển của LHQ; Dàn khoan phải dời khỏi VN;... Truyền đơn cũng được phân phát đến người Đức qua lại. Có người Đức tìm đến BTC để hỏi lý do Biểu tình.... Sau nghi thức chào cờ, mặc niệm khai mạc, cụ Nguyễn đình Tâm đã nói lên mục đích của cuộc biểu tình và lên án hành động xâm lược của TQ cùng tội ác tay sai ban nước của tập đoàn lãnh đạo CSVN.  Phát biểu trước cuộc biểu tình, bằng Viêt ngữ và Anh ngữ ông Võ Đại Tôn hùng hồn lên án hành động xâm lấn của TQ. Ông khẳng định dân tộc VN sẽ cương quyết bảo vệ Biển đảo VN đến cùng và cực lực lên án hành đông bá quyền của Trung cộng tại biển Đông và tập đoàn  lãnh đạo CSVN. Bằng Đức ngữ, các ông Trần Văn Các và Phạm Công Hoàng đã nói lên bối cảnh của sự kiện xâm phạm chủ quyền VN của Trung cộng và kêu gọi tẩy chay hàng hóa của Trung quốc  cho đến khi nào Bắc Kinh chấm dứt hành động khiêu khích dân tộc VN. Phát biểu trước cuộc biểu tình còn có ông Nguyễn Đình Phúc, đại diện hội NVTNCS tại Hamburg và ông Nguyễn Duy Tân, một đồng bào tại Berlin cũng đã lên án bá quyền Trung cộng và lãnh đạo Việt cộng bán nước. Xen kẻ những phát biểu là những bản nhạc đấu tranh và những dòng thơ gợi lên lòng tự hào của dân tộc Việt Nam trước giặc Tàu phương Bắc. Ông Phạm Công Hoàng và ông Trần Văn Các, thay mặt đoàn biểu tình đại diện BTC đã đến trước cổng Sứ quán Trung cộng để trao kháng thư. Trước khi cuộc biểu tình chấm dứt, Ông Nguyễn Đình Tâm, đại diện BTC đã ghi nhận sự đóng góp vào việc chung, cụ thể là tham dự cuộc biểu tình, góp phần của những người con dân Việt vào việc chung khi đất nước đang trong cơn nguy biến.   Cuộc biểu tình chấm dứt lúc 14 giờ cùng ngày.   Hình ảnh quang cảnh cuộc biểu tình: Cụ Nguyễn Đình Tâm Ông Võ Đại Tôn Trao Kháng Thư  
......

Chống Nội Thù Hay Chống Ngoại Xâm Trước?

Trước hết, hãy cùng định nghĩa “nội thù” là gì, là ai? Nội thù của dân tộc Việt Nam chính là những cá nhân, tập đoàn hay hệ thống cai trị nào đã khiến cho người dân phải sống trong nơm nớp lo sợ, bị tước đi quyền sống căn bản của mình, hủy hoại tiềm năng vươn lên của dân tộc, đẩy xã hội tha hóa tới mức bất công, tệ nạn, tham nhũng tràn lan, và đưa đất nước tới họa diệt vong bởi chiến tranh hoặc nạn ngoại xâm. Câu hỏi “chống nội thù hay ngoại xâm trước” được đặt ra trong hoàn cảnh ngặt nghèo của đất nước ta hiện nay vì chính chế độ độc tài đương quyền là đầu mối cho ngoại xâm, khi họ đã:   • Bán rẻ lương tâm với Bắc Triều để tìm đồng minh chiến lược trong cuộc chiến “nồi da xáo thịt” Bắc-Nam/Quốc-Cộng trước năm 1975 (1945-1975), và bây giờ để duy trì quyền lực độc tôn trên đất nước. Lãnh đạo chế độ đã dâng hiến biển, đảo Tổ Tiên cho giặc, Hán hóa đất nước và tỏ ra nhu nhược trước những gây hấn của kẻ thù. • Ngăn chặn sức bật cứu nước của toàn dân khi trấn áp các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, và bỏ tù người yêu nước. Chưa kể đến tội họ đã hủy hoại mọi tiềm năng chiến đấu của dân tộc sau gần 4 thập niên bần cùng hóa đất nước trong một chủ thuyết ngoại lai, phi nhân và ngu xuẩn. Nhưng nếu chúng ta dồn nỗ lực để dẹp sạch “nội thù”, thì liệu có tạo ra hoàn cảnh thuận lợi cho ngoại xâm tiến tới? tạo cơ hội cho những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc trong guồng máy hiện tại “cõng rắn cắn gà nhà”? Đợi dẹp xong nội thù thì có thể ngoại xâm đã thực hiện được mưu đồ ăn cướp bán phần hay toàn phần trên các vùng thuộc chủ quyền đất nước?   Do vậy, thực tế nhất là chúng ta phải làm cả hai việc song song: 1. Toàn dân “phất cờ khởi nghĩa” - không chờ đợi sự “cho phép” hay “lãnh đạo chống xâm lược” vốn chẳng hề có của những nhân vật “đỉnh cao” vẫn đang nhắm mắt bịt tai trước nhu cầu của đất nước và nguyện vọng của người dân. 2. Với chính nghĩa sáng ngời của dân tộc, những người thực tâm yêu nước trong hàng ngũ cầm quyền hiện nay sẽ bước về phía nhân dân để cùng bảo vệ quê hương. Trong khí thế sôi sục của toàn dân trước họa xâm lăng hiện nay, thành phần nào đi ngược với lòng dân chắc chắn sẽ bị đào thải. 3. Đây là cơ hội bằng vàng cho một thể chế đã có quá nhiều sai phạm có cơ hội sửa sai, chuộc lỗi, tái tạo lại tư duy cũng như cách hành xử để được cùng đồng hành với dân tộc. Mong là nguy cơ ngoại xâm và tinh thần bất khuất, độ lượng của dân tộc có thể “cảm hóa” được những người lầm đường, lạc lối, để họ biết tôn trọng quyền biểu tình của nhân dân, thả hết các tù nhân lương tâm, thành khẩn chung sức, chung lòng với toàn dân trong công cuộc cứu quốc cấp bách này. Cũng có người âu lo rằng nếu toàn dân cùng với chế độ hiện nay “bắt tay” chống quân xâm lược và sau đó dân tộc Việt Nam chiến thắng, rồi những kẻ cầm quyền và hệ thống cai trị độc tài hiện nay sẽ lại vin vào “hào quang chiến thắng” của toàn dân để áp đặt tiếp thể chế toàn trị của họ lên đất nước, nhất là trong tay của họ vẫn còn công an và quân đội, thì sao? Trước hết, như đã đề nghị ở trên, dân tộc chúng ta không hề muốn "bắt tay" với những kẻ thân Tàu đang ngồi ở ghế cai trị và nay đang lo chống đỡ cho Bắc Kinh. Dân tộc chỉ đón nhận những người còn lòng yêu nước và đặt vận mạng đất nước lên trên hết. Hơn thế nữa, nỗi âu lo nêu trên, trong thực tế sẽ không còn, nhất là ở thời điểm hiện nay! Cuộc đấu tranh của dân tộc để giành lại quyền làm chủ đất nước trong nhiều thập niên qua, kinh nghiệm của thế giới, và với các phương tiện truyền thông hiện đại, dân tộc chúng ta đã trông thấy rất rõ con đường phải đi; chính họa xâm lược và tình trạng tụt dốc thê thảm của dân tộc so với thế giới đã đánh thức cả nước về: • Hiểm họa độc tài – dù dưới hình thức nào đi chăng nữa. • Nhu cầu dân chủ hóa và canh tân đất nước. • Hiểm họa ngoại xâm và Hán hóa - sẽ luôn chờ chực nếu Việt Nam không có dân chủ. Từ những ý thức này, mọi thành phần dân tộc - kể cả hàng ngũ đảng viên Cộng sản - sẽ không để yên cho độc tài ngự trị. Đặc biệt, trong nỗ lực chung vai sát cánh để chống ngoại xâm, đại khối dân tộc sẽ phải đứng chung về một phía, để lằn ranh giữa dân tộc và thiểu số độc tài bán nước, cơ hội chủ nghĩa trở nên rất rõ, rất đậm. Đây chính là cơ hội để toàn dân sàng lọc: Thiểu số nào manh tâm lợi dụng lòng yêu nước để thực hiện tham vọng quyền lực của riêng mình sẽ bị lật tẩy và đào thải./. 10 tháng 5, 2014 Ts Trần Diệu Chân
......

Khắp nước biểu tình chống Trung Quốc

Sáng hôm nay Chủ Nhật ngày 11 tháng 5. 2014, người dân quan tâm đến việc Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam biết rằng sẽ có biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn để chống lại hành động xâm lược này. Được biết hàng ngàn người đã âm thầm chờ đợi để sáng hôm nay biểu lộ lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ qua hành động biểu tình chống Trung Quốc lần đầu tiên trên ba miền đất nước. Tại Hà Nội vào lúc 8 giờ hàng trăm người dân đã tập trung đông đảo tại công viên Lenin và cùng nhau tiến tới trước Đại sứ quán Trung Quốc. Trên tay họ là những biểu ngữ chống Trung Quốc bằng nhiều câu chữ khác nhau. Anh Nguyễn Đức Quốc, từ Lăng Cô, Huế ra Hà Nội hai ngày trước đây cho biết: “Bây giờ mọi người đang dần dần đổ về tại công viên Lenin cũng được ba bốn trăm người rồi theo thông báo thì lúc 9 giờ mới bắt đầu. Công an đứng chung quanh rất nhiều nhưng chưa thấy hàng rào. An ninh cầm máy quay phim quay người tham gia biểu tình rất đông. Đồng bào các nơi đổ vể rất đông có Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đang tập trung lại.” Sài Gòn Biểu tình chống Trung Quốc Xâm lược Đà Nẵng bất ngờ biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Không khí biểu tình rực lửa tại Hà Nội     Chị Nga một khuôn mặt bất đồng chính kiến nổi tiếng cho chúng tôi biết cụ thể: “Hôm nay người dân Việt Nam có xuống đường để phản đối Trung Quốc xâm lược trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng an ninh mật vụ cùng lực lượng dư luận viên từng đàn áp các cuộc biểu tình trước đây cũng có mặt. Hôm nay được huy động thêm bộ đội thanh niên sinh viên cầm biểu ngữ cờ đỏ sao vàng để chống Trung Quốc.” Không riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài gòn, thành phố tiêu biểu của miền trung là Đà Nẵng cũng có biểu tình chống Trung Quốc, Anh Nguyễn Văn Thạnh có mặt từ sớm tại công viên 2 tháng 9 cho biết: “Hôm nay chắc cũng trên trăm người. Anh chị em đến thể hiện chính kiến củ mình đố với hành vi xâm lược của Trung Quốc có rất nhiều khẩu hiệu và an ninh cũng như lực lượng chức năng không làm khó dễ gì anh em họ chỉ thực hiện chức năng của họ. Bây giờ sau khi làm lễ các anh linh liệt sĩ anh em sẽ tập trung tuần hành đến Hội đồng Nhân dân thành phố.”   Ở Đà Nẵng không biết chắc chắn số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tại Thp.HCM thì người ta đoán chừng con số có thể lên tới it nhất hai ngàn người sẽ có mặt tại Nhà Hát lớn thành phố và Nhà văn hóa Thanh Niên gần khu vực Hồ Con Rùa. Tại Nhà hát lớn thành phố từ 8 giờ đã có vài chục người tập trung và 30 phút sau đã lên đến vài trăm người. Có một trở ngại cho người biểu tình giống như tại Hà Nội trước đây đã làm.  Đó là một dàn nhạc đã được mang tới trước nhà hát thành phố.   Không biết đây là sự sắp đặt hay chỉ vô tình nhưng ông Lê Công Giàu một thành viên trong nhóm người kêu gọi biểu tình cho biết: “Bây giờ đang tập họp trước nhà hát lớn nhưng chưa đông lắm chỉ vài trăm người. Có một dàn nhạc trước nhà hát theo tôi nghĩ thì nó vẫn chơi hàng tuần lát nữa mình sẽ nói với họ. Tôi nghĩ lần này nhà nước sẽ không cản trở đâu.” Tuy nhiên khác với sự yên ắng tại các nơi, nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế không được tự do tập trung người biểu tình như những khu vực khác. Lúc 8 giờ một số an ninh, dân phòng cùng với cảnh sát giao thông đã bao vây DCCT. Những khuôn mặt trước đây từng đàn áp dân oan cũng có mặt như muốn cảnh cáo những người biểu tình sáng nay. Chị Trần Ngọc Anh, một trong hàng chục dân oan chuẩn bị tham gia biểu tình cho biết:   “Đúng rồi đang bị bao vây và bây giờ bắt đầu xuất phát. Chúng nó bao vây thì kệ nó mình cứ ra chứ biết sao bây giờ? Những khuôn mặt mà chúng tôi thường bị cưỡng chế bắt lên xe gặp tụi tôi biết chứ. Chúng tôi là dân oan chúng tôi biết tụi nó chứ.” Bùng nổ Đến 9 giờ 30 sáng tại Hà Nội người biểu tình tập trung rất đông đảo con số đã lên đến hơn hai ngàn người.   Những khuôn mặt từng biểu tình chống Trung Quốc trước đây gần như đầy đủ. Có rất nhiều an ninh, dư luận viên, dân phòng trà trộn vào nhưng tất cả đều hướng về Đại sứ quán Trung Quốc để tỏ thái độ chống đối sự xâm lược của Bắc Kinh và không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra trong đoàn người biểu tình. Blogger Khúc Thừa Sơn cho biết: Từ chuyện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển Đông thì người dân Việt Nam đều xuống đường để chống đối. Không những tại Hà nội mà người dân cả nước đều cùng chung một tiếng nói. Chưa bao giờ thấy người dân Việt Nam đoàn kết một lòng như thế này. Mọi người đang diễu hành trên đường rất là khí thế tập trung đầy đủ các nhân sĩ trí thức đủ mọi thành phần. Hình ảnh cho thấy hàng trăm dân phòng đứng sau những hàng rào dã chiến mang băng đỏ đứng nhìn nhưng không có một sự cố nào xảy ra.   Nhà báo tự do JB. Nguyễn Hữu Vinh ghi nhận: Đoàn biểu tình đã từ sứ quán Trung Quốc ra đến bờ hồ. Khí thế người dân hết sức hừng hực và mạnh mẽ. Khá nhiều người không thể đếm hết được nhưng tôi nghĩ phải hơn nghìn người. Hôm nay công an khá mềm mại hòa nhã không đến nỗi làm những trò bẩn như các cuộc biểu tình trước đây. Tại Đà Nẵng do con số người tham gia biểu tình ít ỏi hơn và không khí biểu tình cũng êm dịu hơn so với Hà Nội và ThP-HCM. Hơn trăm người đã giải tán vào lúc 10 giờ sáng sau khi tuần hành tới UBND thành phố. Không có ghi nhận rắc rối nào xảy ra. Anh Nguyễn Văn Thạnh cho biết: Tình hình phản đối đã xong bây giờ đã giải tán rồi ạ. Tuy nhiên nhìn chung cuộc biểu tình lớn và đa dạng, quan trọng nhất đã diễn ra tại thành phố HCM. Lúc 9 giờ 30 sáng nhà thơ Đỗ Trung Quân thuật lại: Sáng nay rất nhiều đoàn, do đó ai nhập vào đoàn nào thì chỉ biết đoàn đó. Đoàn của chúng tôi vừa mới ra Lãnh sự quán Trung Quốc xong và một nhóm khác rẽ ra. Bây giờ tôi thấy một nhóm lớn tập trung rất đông tại Nhà hát thành phố. Thực ra tình hình cài răng lược đã xảy ra. Tôi cho là khí thế hừng hực và một điều đáng ghi nhận là lực lượng an ninh giữ trật tự khá tốt cho đoàn biểu tình. Hai nữa họ không phá sóng điện thoại như mọi lần ở khu vực nhạy cảm và cũng chưa xảy ra va chạm gì cho tới giờ này. Hiện tại tôi đang đứng trước nhà hát thành phố và tôi cho rằng người tham dự biểu tình hôm nay có thể hơn ba ngàn người. Nhóm biểu tình "quốc doanh"!   Trước nhà hát lớn thành phố nơi một nhóm nhân sĩ tổ chức biểu tình đã có một sự cố nhỏ đó là sự không đồng thuận giữa ban tổ chức cuộc biểu tình và Thành đoàn. Theo lời kể lại của ông Huỳnh Kim Báu thì có sự phá rối âm thanh khi ông Huỳnh Tấm Mẫm phát biểu. Cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn được Thành đoàn cho một số rất lớn thanh niên tham gia nhưng các phát biểu của họ làm người dân phẫn nộ. Các ngôn từ như “Việt Nam muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc” hay “Việt Nam luôn kiểm chế”, “người dân đứng sau chính phủ” hay “sống và làm việc theo pháp luật”…đã bị la hét chống đối và cuộc biểu tình đôi lúc tưởng có thể vỡ ra nhưng cuối cùng không có gì đáng tiếc xảy ra.   Ông Huỳnh Kim Báu một thành viên tổ chức thuật lại sự việc này:   Bọn quốc doanh, cái đoàn thanh niên nó cướp diễn đàn nó đem khẩu hiệu của nó ra kêu gọi “bình tĩnh, hòa khí” tùm lum hết thì tụi anh chiếm lại diễn đàn để hô đúng khẩu hiệu của tụi anh. Cái thứ hai là hai mươi tổ chức xã hội dân sự tại số 4 Duy Tân thì lực lượng khoảng 2 ngàn người còn lực lượng bên này tổ chức thành đoàn thì khoảng 1.000 người. Bây giờ anh đang tham gia cuộc biểu tình của 3 ngàn người của quần chúng nhân dân tự phát đang đi trên đường Võ Thị Sáu dự kiến sẽ kéo đến Lãnh sự quán Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ bị nó ngăn. Ông Huỳnh Tấn Mẫm, người có phát biểu trước Nhà Hát lớn hôm nay thuật lại: Thấy rõ ràng là họ muốn phá nhưng phá không được. Thành đoàn thì nó không phối hợp nhưng nó có mặt nó cố ý phá. Không biết từ phía công an hay phía Thành đoàn nhưng rõ ràng là vào giờ chót thì nó lại có phá rối đối với một số anh em phát biểu, có sự giằng co chỗ đó. Mình thấy khí thế quần chúng rất là dữ dội, nhìn chung rất tốt, khí thế quần chúng đang lên quyết tâm phản đối Trung Quốc rất mạnh mẽ. Lúc 10 giờ 30 hơn năm ngàn người đã tập trung biểu tình tại nhiều địa điểm của thành phố HCM. Từng đoàn người kéo ngang Lãnh sự quán Trung Quốc, Nhà văn hóa Thanh Niên ở số 4 Duy Tân và trên các con đường như Võ Thị Sáu, Đồng Khởi cùng vài con đường khác cho thấy khí thế của người dân đã bùng dậy không còn bị kềm chế như trước đây. Trong tất cả các đoàn biểu tình đều có an ninh và thành đoàn thanh niên trà trộn cái răng lược. Người biểu tình đều biết nhưng không cần chú ý và không gây đụng chạm. Những biểu ngữ của nhà nước ghi các dòng chữ như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước, không lợi dụng xuyên tạc và kích động bạo lực” chen với một rừng biểu ngữ cầm tay tuy nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của nhân dân và các tổ chức dân sự.   Từ Hà Nội Luật sư Hà Huy Sơn có mặt trong đoàn biểu tình cho biết nhận xét của ông: Trước hết cuộc biểu tình này là thành công và theo quan sát của tôi thì cuộc biểu tình này được nhà nước ủng hộ. Tôi cho rằng đây là dịp thức tỉnh cái nhận thức của người dân vể vấn đề chủ quyền cũng như bày tỏ quan điểm trước các vấn đề xã hội của đất nước. Con số người dân tham gia biểu tình vượt trội thành phần nhà nước tại thành phố HCM đã làm các cuộc biểu tình mang một ý nghĩa rất lớn. Những nhân vật bất đồng chính kiến tham dự biểu tình nói với đài Á Châu Tự do họ tin rằng nhân dân sẽ thức tỉnh trước dã tâm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sau những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa của ngày hôm nay. Nguồn: rfa.org Hình Internet tổng hợp:   Người biểu tình tại Hà Nội căng tấm băng rôn: “Thủ tướng Đức chỉ cho Tập cận Bình bản đồ TQ không có Hoàng sa Trướng sa” Khu vực chợ Bến Thành Khu vực nhà thờ Đức Bà Hai hình ảnh biểu tình trái ngược Đây là cuộc biểu tình quốc doanh để chụp hình  đăng báo của nhà cầm quyền tại Sài Gòn:  
......

Đức quốc: Người Việt biểu tình chống Trung Quốc xâm lược

Đáp lời sông núi đang thôi thúc kêu gọi, ngày 10.05.2014, Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại CHLB Đức cùng phối hợp với  Ủy Ban Điều Hợp Công Tác Đấu Tranh tại CHLB Đức đã tổ chức và mời gọi đông đảo đồng bào tụ về trước Tổng lãnh sự quán Trung cộng tại thành phố Frankfurt, trung tâm tài chính của châu Âu, để tham dự cuộc biểu tình phản đối hành vi xâm lược của bá quyền Bắc Kinh đã cho kéo dàn khoan ngang nhiên vào tận lãnh hải của Việt Nam để hoạt động thăm dò, và còn xấc xược bất chấp công pháp quốc tế.   Cuộc biểu tình bắt đầu lúc 12 giờ trưa bằng nghi thức chào cờ Đức, Việt và mặc niệm. Sau đó đại diện các tổ chức hội đoàn như: Liên Hội NVTN tại CHLBĐ, ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh,Ủy Ban Điều Hợp Công Tác Đấu Tranh tại CHLBĐ, ông Nguyễn Thanh Văn,Hội Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Tự do tại Đức, bà Phương Thị Phi Nga,HNVTNCS Ruhrgebiet, các anh Vũ Duy Minh Khoa, Nguyễn Trần Xuân Phong,HNVTNCS tại Köln, ông Nguyễn Hữu Dõng,Liên Minh Cộng Hòa Việt Nam, ông Vũ Duy Toại,HNVTNCS tại Saarbrücken, ông Tạ Văn Khánh,HNVTNCS tại Nürnberg, ông Bùi Văn Tân,CĐNVTNCS tại Odenwald, ông Lê Trung Ưng,HNVTNCS tại Frankfurt, ông Võ Hùng Sơn,HNVTD tại Krefeld, ông Lê Thanh Vân,Đảng Dân Tộc, ông Trần Phước Thiện, đã lần lược phát biểu trước cuộc biểu tình nói lên cho người dân Đức địa phương biết lý do có cuộc biểu tình hôm nay cũng như bày tỏ sự căm phẩn của mình và tố cáo âm mưu và hành vi xâm lược Việt nam của Trung cộng. Đồng thời cũng tố cáo hành động bán nước của tập đoàn lãnh đạo CSVN, những Lê Chiêu Thống thời nay của VN. Muốn cứu nước thì không còn cách nào ngoài việc gở bỏ chế độ độc tài CSVN hiện nay.   Với một khí thế bừng bừng,  những khẩu hiệu bằng tiếng Đức, Việt và Hoa đã được hô vang  với nội dung: Trung quốc hãy cút khỏi biển Đông, Trung quốc không được đụng tới VN, Đã đảo bọn bành trướng Trung quốc, Trung Quốc phải tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Trung quốc hãy ngưng ngay hành động hung hăng chống lại Việt Nam.  Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam,…   Xen lẫn hô khẩu hiệu những bài hát đấu tranh rực lửa. Trong đoàn người tham dự biểu tình người ta thấy ngoài số đồng bào tại Frankfurt và đồng bào đến từ các tỉnh xa khác như Köln, Krefeld, Stuttgart, Nürnberg, Saarland, Mannheim, Neustadt, Witten,…còn có sự tham dự của nhiều người trẻ, nhóm Điểm Sáng, đảng Dân Tộc, đảng Việt Tân và một số nhân sĩ trí thức tại Đức như Võ sư trưởng Vovinam Nguyễn Văn Nhàn, TS. Dương Hồng Ân, Bs. Trần Huê thuộc Nhóm Diễn Đàn 21,…   Sau khi chấm dứt cuộc biểu tình trước TLS Trung cộng, đoàn biểu tình diễn hành đến Roßmarkt. Trên lộ trình diễn hành đoàn biểu tình đi ngang qua lãnh sự quán CSVN. Ngang đây đoàn biểu tình đã không quên hô to những khẩu hiệu đã đảo tập đoàn lãnh đạo Hà Nội buôn dân bán nước. Cơn mưa chiều cũng bắt đầu kéo tới, nhưng không vì vậy mà làm bớt khí thế của đoàn diễn hành với những khẩu hiệu vang dội. Tại Roßmarkt, Trung tâm thành phố Frankfurt, đoàn biểu tình đã một lần nữa trình bày cho người dân bản xứ biết về bối cảnh của vấn đề. Lên án và tố cáo trước dư luận thế giới hành động bá quyền này của Trung quốc. Khẳng định các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt nam, mà Trung quốc đã cậy thế nước lớn cưỡng chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19 tháng Giêng năm 1974 và một số đảo của VN thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng Ba năm 1988. Kêu gọi các quốc gia yêu chuộng dân chủ, hòa bình, công lý, văn minh tiến bộ trên thế giới giúp nhân dân Việt Nam, trong việc đòi lại hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.   Cuộc Mít Tin tại Roßmarkt chấm dứt vào lúc 16 giờ cùng ngày.  
......

Hà Nội: Biểu tình chống TQ đã diễn ra trước sứ quán TQ chiều nay 09-05-2014

17 giờ ngày 09.05.2014: Biểu tình tại ĐSQ Trung quốc ở Hà Nội http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/05/20140509-ctm-...   Mời xem phim - https://www.youtube.com/watch?v=LHKRDr92PpQ Bức xúc trước việc nhà cầm quyền Bắc Kinh, đứng đầu là Tập Cận Bình đã điều giàn khoan khổng lồ cắm sâu vào lòng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, nhiều người dân Hà Nội đã kéo đến Đại sứ quán Trung Quốc, 46 Hoàng Diệu, HN để biểu tình phản đối. Ý đồ xâm lược Việt Nam của bọn bành trướng Bắc Kinh đã hoàn  toàn bộc lộ! Và Việt Nam đã thực sự bị xâm lược! Từ nay, Biển Đông ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Cả một dải biển trời lồng lộng đẹp tươi, đầy cá và tài nguyên có thể rơi vào tay giặc bất kể lúc nào! Trường Sa bị đe dọa! Lý Sơn có thể trở thành bàn đạp để tiến vào đất liền. Toàn bộ Miền Trung và Tây Nguyên, những công trình kiên cố do người Trung Quốc xây dựng và kiếm soát với hàng vạn nhân công trá hình sẽ có thể bất ngờ làm nội ứng, đón tiếp các cuộc đổ bộ.   Tổ Quốc  thực sự lâm nguy! Đoàn biểu tình biểu lộ lòng căm phẫn và thái độ kiên quyết chống xâm lược, buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan phi pháp ra khỏi vùng biển Việt Nam. Đồng thời yêu cầu nhà nước Việt Nam phải có biện pháp mạnh mẽ thích đáng để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.   Những người biểu tình đã hô vang các khẩu hiệu: -Đả đảo Trung Quốc xâm lược! -Đả đảo “đường lưỡi bò” phi pháp! - Trung Quốc cút khỏi Biển Đông! - Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam! Cuộc biểu tình diễn ra trước cửa Đại sứ quán Trung quốc, 46 Hoàng Diệu, HN, trong giờ tan tầm rất đông người qua lại.  Sau đó, những người biểu tình tự giải tán. Nhận được thông tin, phóng viên Trần Quang Thành đã liên lạc với Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện để tim hiểu thêm sự việc. Mời quý thính giả theo dõi sau đây:  http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/05/20140509-ctm-... radiochantroimoi.com
......

Đức quốc: Tháng Tư Đen 2014 tại Frankfurt

Đền bù cho thời tiết giá buốt năm trước, cuộc biểu tình kỷ niệm 39 năm ngày mất miền Nam vào tay cộng sản năm nay đã diễn vào ngày 26.04.2014 trước tòa lãnh sự Cộng Sản Việt Nam tại thành phố Frankfurt dưới ánh nắng xuân ấm áp do Hội Người Việt Tị Nạn tại Frankfurt và Vùng Phụ Cận phối hợp với Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại CHLB Đức  tổ chức.   Tham dự cuộc biểu tình ngoài số đồng bào tại Frankfurt và vùng phụ cận còn có đông đảo đồng bào đến từ các tiểu bang trên khắp nước Đức và đại diện các hội đoàn, tổ chức, đảng phái như Hội NVTNCS Hamburg, Bremen, Krefeld, Köln, Mönchengladbach, München, Nürnberg, Odenwald, Stuttgart, Neustadt,  Witten, Hội Thanh niên vùng Rheinruhr, Tổ chức Sinh Hoạt NVTNtại CHLB Đức, Ủy Ban điều Hợp Công Tác, đảng Thăng Tiến, đảng Dân Tộc, đảng Việt Tân,…     Chương trình bắt đầu vào lúc 12 giờ 30 bằng nghi thức chào cờ Đức - Việt và mặc niệm tưởng nhớ đến hàng triệu nạn nhân của chế độ CSVN.  Ông Võ Hùng Sơn, Hội trưởng Hội NVTNCS tại Frankfurt đã khai mạc bằng bài diễn văn ngắn nhắc lại biến cố đau thương cho cả nước đúng 39 năm trước, khi miền Nam tự do mất vào tay khối cộng sản. ĐCSVN sau đó đã tiến hành những chính sách trả thù miền Nam và đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ đã biến một miền Nam Việt Nam trù phú thành thành một nơi đói nghèo như Bắc Hàn. Chính sách ngu dốt đó đã đẩy hàng triệu người ra khỏi đất nước khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ thây nơi rừng sâu, trên biển cả. Nhưng điều đáng nói hơn cả là thái độ khiếp nhược của lãnh đạo ĐCSVN trước tham vọng sát nhập Việt Nam vào đất Tàu của nhà cầm quyền TC. Họ đã để TC ngang nhiên xâm phạm hải phận Việt Nam  ở biển Đông như vào chỗ không người, để TC khai thác bauxite ở Tây Nguyên, rừng đầu nguồn và nhiều nơi khác gây nguy hại trầm trọng đến an ninh quốc gia. ĐCSVN cũng đã cắt nhượng nhiều phần lãnh thổ Việt Nam cho TC để đổi lấy sự đỡ đầu, giữ chặt quyền lực. Ngoài ra, sự can đảm đứng lên và chấp nhận hy sinh của những người  dân tại quốc nội trong những năm qua đã được mọi người tuyên dương.   Tiếp theo diễn văn khai mạc là những phát biểu của đại diện các hội đoàn, đoàn thể nội dung xoay quanh việc tưởng niệm nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản và tố cáo tội ác của họ. Hầu hết biểu ngữ nói lên khát vọng tự do dân chủ cho đất nước, tố cáo tội ác của ĐCSVN, đòi trả tự do cho những người yêu nước đang bị giam cầm và tham vọng bành trước của Bắc Kinh. Bác sĩ Trần Văn Tích, chủ tịch Liên Hội NVTN tại CHLB Đức đã tỏ ra lạc quan khi nói rằng chúng ta sẽ không còn nhiều lần để đi biểu tình tưởng niệm 30 tháng 4 nữa vì chế độ CSVN đã sắp đến hồi cáo chung. Sau những bài phát biểu là những tiếng hô „Đả đảo ĐCSVN buôn dân bán nước!", „Tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam" và những bài hát cộng đồng vang dội một góc phố.   Anh Trịnh Đỗ Tôn Vinh đã đảm nhận phần tiếng Đức. Anh nói cho người Đức hiểu rõ mục đích của buổi biểu tình. Anh kể rằng lãnh sự quán CSVN đã yêu cầu cảnh sát không cho người biểu tình đứng trước LSQ chụp hình. Và anh đã đáp lại cảnh sát, rằng các công dân Đức có quyền tự do đi lại trong một quốc gia tự do như Đức. Anh cũng chỉ mọi người xem trang nhất một tờ báo địa phương Kreuznacher Rundschau đã đăng nguyên lá cờ vàng với dòng chữ: „Chúng tôi còn sống đây!“. Phần phát biểu và điều hợp của anh Vinh đã được nhiều tràng pháo tay tán thưởng như ca sĩ Thu Sương.   Ông Mathias Hüser, một nhà đấu tranh chống cộng sản người Đức từ nhiều thập niên đã góp mặt cùng buổi biểu tình. Ông bày tỏ sự đồng tình với những đòi hỏi xác đáng của cộng đồng người Việt tại Đức liên quan đến nhân quyền và dân chủ. Ông kể rằng đã từng tham gia nhiều lần tương tự như thế với cộng đồng người Tây Tạng. Đặc biệt, người nữ ca sĩ  Thu Sương từ Paris sang đã góp mặt với những bài ca thiết tha và rực lửa đấu tranh của Việt Khang, Nguyệt Ánh. Chỉ cũng đã góp phần điều hợp buổi biểu tình và hướng dẫn mọi người giơ cao tay, nắm tay nhau và hô khẩu hiệu thật to. Ban tổ chức đã chu đáo trong việc cung cấp những ổ bánh mì thịt ngon miệng và nước uống. Buổi biểu tình cũng đã được trực tiếp truyền thanh vào các diễn đàn trên internet như Paltalk. ****** 14 giờ 30 phần một chấm dứt, mọi người đã sắp thành hàng dưới sự hướng dẫn của BTC và dẫn đường của cảnh sát để tuần hành trên đoạn đường gần 2 cây số để đến quảng trường Hauptwache trong phố chính. Rừng cờ vàng và biểu ngữ, cộng thêm những tiếng hô khẩu hiệu đã nhận được nhiều cảm tình của người đi đường, biểu hiện bằng những tiếng còi xe, những ngón tay cái giơ lên và vui vẻ nhận những tờ thông tin về mục đích buổi biểu tình do BTC phát. *********** Đến Hauptwache, đoàn đã dựng cờ, biểu ngữ cho người đi đường hiểu rõ tình trạng tồi tệ của Việt Nam sau gần 40 năm sống dưới chế độ cộng sản. Đoàn Bremen đã diễn lại cảnh công an đàn áp dân lành hiện đang xảy ra hàng ngày hàng giờ trên đất nước và đang gây căm phẫn tột độ cho mọi thành phần dân chúng. Nhờ Internet và đặc biệt là Facebook, những vụ „dân tự tử trong đồn công an“ đã được nhanh chóng phác giác và đã đẩy công an vào tình trạng bị dân càng ngày càng khinh thường và oán ghét. Màn hoạt cảnh „Tàu lạ bắn giết ngư dân Việt Nam trên biển Đông“ đã được các thanh niên quanh nhóm „Điểm Sáng“ ở vùng Darmstadt chuẩn bị khá công công phu với hình ảnh biển Đông, lưới cá, thuyền đánh cá, biểu ngữ màu đen bằng tiếng Đức kêu cứu „Nguồn sống ngư dân Việt Nam đã bị tước mất“, bảng SOS, cảnh ngư dân nằm chết… đã gây sự chú ý đặc biệt cho khán giả. Vào phần cuối, ca sĩ Thu Sương đã mang đến cho khán giả Đức một sự ngạc nhiên lý thú khi chị trình bày bài „Anh là ai?“ của nhạc sĩ Việt Khang bằng tiếng Đức. Dĩ nhiên với giọng ca điêu luyện, truyền cảm và ánh mắt thiết tha cố hữu của chị. ********** Khoảng 18giờ, phần mít tinh tại Hauptwache chấm dứt, đoàn biểu tình di chuyển về hội trường nhà thờ Lioba cách đó khoảng 20 phút lái xe để dùng bửa cơm chiều do Hội NVTNCS tại Frankfurt chuẩn bị để sau đó là phần hội thảo và văn nghệ đấu tranh.   Cơm nóng với thịt kho tàu, dưa chua, trà nóng, cà phê và nước uống được mời miễn phí tùy lòng hảo tâm đóng góp. Các loại chè, bánh bao, bánh tét, bánh xu xê,… với giá ủng hộ.   Buổi sinh hoạt chấm dứt khoảng 22 giờ cùng ngày. Nguyễn Phan Photo by Nguyễn Phan & Trungduong Tnguyen
......

Căn bệnh sợ ’chính trị’ của người Việt

Người Việt lâu nay vốn sợ chính trị. Nói chuyện với bạn bè trên FB, mình vẫn hay bắt gặp những câu đại loại như: "Thôi, nói chuyện khác đi, đụng tới ba cái chính trị nhức đầu lắm" hoặc "Rảnh quá ha, để thời gian đó làm chuyện khác có ích hơn...". Các trang Web giải trí bao giờ cũng đông lượng truy cập hơn hẳn các trang chính trị. Các ngôi sao ca nhạc, hài kịch biếng ăn, cảm cúm... hoặc tậu nhà, mua xe là có hàng vạn người theo dõi, nhưng diễn biến chính trị của đất nước thì rất ít người quan tâm. Thế nhưng đây là đặc điểm của các nước có nền dân trí thấp. Ngày xưa các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vẫn hay than vãn về sự vô tâm của dân mình. Ngày nay nhiều người vẫn hay tỏ vẻ thương hại trước sự ngu ngơ, khờ dại của dân Bắc Hàn, nhưng đâu biết rằng dân các nước phát triển nhìn mình cũng thế. Họ cũng nghĩ dân Việt Nam quá tội nghiệp, chẳng biết gì đến quyền của mình. Chính trị là một khái niệm dễ gây dị ứng. Nó được hiểu như là một lĩnh vực khô khan, gây nhức đầu, chóng mặt, bất an... Không chỉ người lao động kiêng nói chính trị mà ngay cả giới trí thức cũng tránh xa nó như tránh hủi. Nói chính trị, làm chính trị, tham vọng chính trị... luôn được dùng với hàm ý mỉa mai. Nó dường như là độc quyền của giới lãnh đạo và người dân chỉ được biết đến chính trị khi nào Đảng cần biến các nghị quyết của Đảng thành "hành động cách mạng". Thực chất chính trị gần gũi với người dân như cơm ăn nước uống hàng ngày. Chỉ có điều họ không nhận thức được điều này. "Giá xăng, giá điện,giá sữa...tăng liên tục là do đâu?" Chính là do độc quyền kinh tế. Phanh phui vấn nạn này sẽ lòi ra các nhóm lợi ích. Là một vấn đề chính trị. Cuối tháng nghe con cái xin tiền đóng học phí, bảo hiểm, quỹ lớp, sách giáo khoa, học thêm... Là vấn đề thuộc về ngân sách dành cho giáo dục. Cũng chính trị. Vào bệnh viện bị chặt chém không thương tiếc tiền khám chữa bệnh...Lỗi cơ chế. Cũng chính trị. Thế nhưng con người ta chỉ cảm thấy hơi thở của chính trị nóng rực bên tai mỗi khi có việc động chạm đến cửa quan. Chầu chực chờ đợi, bị khất hẹn lần lửa, bị lừa phỉnh, mất tiền vì nạn hối lộ tham ô... lúc đó họ mới thấy mình dại, chẳng biết gì về chính trị, về cách thức tổ chức của bộ máy nhà nước để ai nói sao nghe vậy, chẳng khác một con lừa. Nói đến "dân chủ" người Việt chỉ biết đến một khái niệm mơ hồ là người dân làm chủ đất nước mình. Người ta không biết biểu hiện cụ thể của nó như thế nào. Cũng như người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn... đâu biết đến cuộc sống tiện nghi nên chỉ một "nắm xôi" đôi khi cũng đủ để thỏa mãn. Họ đâu biết là nếu nước có dân chủ thực sự, họ sẽ tận hưởng được nhiều cái sung sướng như thế nào. Trước tiên là lá phiếu của họ có thể quyết định đến các ông tai to mặt lớn mà họ vẫn nghĩ là đang nắm quyền sinh sát vận mệnh của họ. Nếu như dân các nước phát triển bằng mọi cách phải gởi cho được lá phiếu mình đi thì người Việt lại mang tư tưởng: "Không có mợ, chợ vẫn đông", việc mình có hay không tham gia bầu cử cũng chẳng ảnh hưởng gì đến sinh mệnh đất nước.   Dân chủ sẽ thúc đẩy kinh tế tạo ra thặng dư khiến phúc lợi xã hội lớn. Con cái họ đến trường sẽ được thầy cô giáo dục chu đáo. Vào bệnh viện, các bác sĩ sẽ săn đón, lễ phép chứ không đụng một chút là chửi như tát nước vào mặt. Ra đường gặp anh CA cũng được chào hỏi, thưa gửi đàng hoàng chứ không phải là thái độ hách dịch, lỗ mãng... Về già họ cũng sẽ được chăm lo đầy đủ về vật chất, sức khỏe chứ không phải bị bỏ mặc cho đến ngày ra nghĩa trang hoặc lò thiêu.   Quyền con người là một trong những quyền căn bản được phổ cập toàn thế giới nhưng rất ít người Việt hiểu và biết bảo vệ quyền của mình. Rốt cuộc thì không chỉ người lao động mà ngay cả giới trí thức vẫn bị các cơ quan công quyền chèn ép. Thế nhưng họ vẫn thờ ơ với các vụ việc vi phạm nhân quyền như CA đánh chết dân, tòa án xử oan người vô tội... Bởi họ nghĩ đơn thuần rằng những việc ấy còn lâu mới liên quan đến họ. Vậy nên có một nhà báo nữ than vãn rằng, viết về nhân quyền rất mất công nhưng lượng người đọc rất ít. Phần đông vẫn nghĩ rằng đó là một vấn đề xa xôi chẳng thiết thân chút nào. Chỉ đến khi ngay chính bản thân mình hoặc gia đình mình bị vi phạm trầm trọng họ mới kêu cứu và gặp phải sự ghẻ lạnh của dư luận lúc đó mới thấm thía sự vô tình của mình. Người Việt hải ngoại quan tâm đến các vấn đề chính trị trong nước không phải như ý kiến thô thiển của một số dư luận viên thường bôi nhọ: "mong muốn một ngày về nước cai trị trên đầu trên cổ người dân". Nó đơn thuần cũng giống như người dân Bắc Triều Tiên sống ở nước ngoài thấy cái cách của Kim Jong Un trị nước mà tức mình không thể không lên tiếng. Họ hoàn toàn không có ý định chấp chính và cũng không vì tương lai của các thế hệ mai sau của mình. Họ chỉ đơn giản là "Người trong một nước phải thương nhau cùng". Chỉ có người Việt ở nước ngoài mới thấy rõ "nhà dột từ nóc như thế nào" bởi vì họ đang sống trong những nóc nhà vững chãi. Do vậy những bài viết của họ trên FB không phải vì những tham vọng chính trị và cũng chẳng phải vì họ quá rảnh. Mỗi bài viết thường lấy đi rất nhiều thời gian quý báu của họ mà thời gian ở các nước công nghiệp luôn luôn được đong đếm bằng tiền. Thế nhưng họ vẫn viết vẫn nói, những bài viết đôi lúc thấm đẫm nước mắt. Chỉ vì họ không muốn đồng bào mình mãi mãi làm kiếp con lừa. Ấy vậy mà họ vẫn nhận được cái thái độ nghi kỵ từ chính bạn bè mình trong nước. Nhiều người vẫn luôn quan niệm "Gặp thời thế ,thế thời phải thế để biện hộ cho thái độ 'ngậm miệng ăn tiền'". Không những thế họ còn lên tiếng công kích những người có tiếng nói phản biện mạnh mẽ. Mặc dù những tiếng nói ấy có tác động rất tích cực vào chuyển biến xã hội mà ngay chính họ cũng được hưởng lợi. Dù không nói ra nhưng thâm tâm mình hơi buồn với loại người này. Bởi vì nhiều khi vì sự an toàn bản thân, một cái like trên FB cũng chẳng dám click vào tức là họ đã đẩy sự nguy hiểm cho người khác, đẩy người khác vào chốn lao tù. Trong khi với nhận thức của một kẻ có học họ không thể không biết nguồn gốc của các vấn đề xã hội phát xuất từ đâu. Như vậy, chừng nào người Việt vẫn sợ chính trị, vẫn chưa biết quyền của mình thì chừng đó họ vẫn còn bị đè đầu, cưỡi cổ, lá phiếu của họ vẫn chẳng hơn gì một tấm giấy đi vệ sinh. Họ vẫn để những ông nghị như Hoàng Hữu Phước làm đại diện cho họ, vẫn để những bà bộ trưởng như Nguyễn Thị Kim Tiến nắm trong tay vấn đề sức khỏe của họ. Cũng chỉ vì họ chưa biết rằng ngòi bút đôi khi sắc hơn lưỡi kiếm. Và mọi chính thể độc tài đều rất sợ tiếng nói chính trị của người dân. Không ai có thể cởi trói cho mình bằng chính mình. Nhưng suy cho cùng không phải ai cũng hiểu được điều này. Bởi nếu không thế nước đã chẳng phải HÈN như bây giờ. Dương Hoài Linh   nguồn: https://www.facebook.com/linh.duong.
......

Có phải Việt Tân đứng sau các cuộc nổi dậy gần đây của người dân?

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/04/20140419-ctm-...   Thưa quí thính giả, trong thời gian gần đây, nhà cầm quyền Việt Nam cho phát tán rộng rãi trên mạng Internet - đặc biệt là tại các trang mà mọi người đều cho là của công an dựng lên - một bài viết có tên là "Tại sao Việt Tân tập trung bôi nhọ hình ảnh của lực lượng công an". Bài này bao gồm khá nhiều điều về đảng Việt Tân nhưng có lẽ tập trung vào hai điểm chính, là Việt Tân kích động đồng bào trong nước chống công an; và Việt Tân là lực lượng đứng phía sau một số nhà dân chủ cho mục tiêu tương tự. Để hiểu rõ hơn về các cáo buộc này, chúng tôi là Thanh Lan có cơ hội phỏng vấn Ts. Nguyễn Quốc Quân, ủy viên Trung ương Đảng Việt Tân.   Thanh Lan: Xin chào ông Nguyễn Quốc Quân. Không biết ông đã có cơ hội đọc bài viết đang phát tán trên mạng với tựa đề "Tại sao Việt Tân tập trung bôi nhọ hình ảnh của lực lượng công an" chưa ạ? Ts. Nguyễn Quốc Quân: Vâng, tôi đã có đọc bài đó.   Thanh Lan: Các chi tiết trong bài về hoạt động và trụ sở của Việt Tân có chính xác không, thưa ông? Ts. Nguyễn Quốc Quân: Thưa chị, có thể nói là hoàn toàn sai lạc; và nó thể hiện khá rõ mức độ coi thường của công an đối với óc phán đoán của người dân Việt Nam. Tuy vậy, chúng ta cũng không loại trừ đây là cái bẫy của họ để chúng ta vô tình cung cấp dữ kiện thật cho họ. Thanh Lan: Ông có chắc đây là sản phẩm của công an không?   Ts. Nguyễn Quốc Quân: Chắc 100% thì không, nhưng từ các chi tiết về những người bị công an bắt giữ, đến các luận điểm trong bài,... rồi đến các trang mạng tung ra đầu tiên và các nơi chuyển tải tiếp đều cho thấy rất rõ là khó phủ nhận bàn tay công an trong loạt bài này. Bài mà chị đề cập chỉ là một phần trong loạt bài họ tung ra đợt này, thưa chị. Thanh Lan: Có lẽ cáo buộc lớn nhất trong bài là họ khẳng định rằng Việt Tân xúi giục bà con dân oan chống lại công an. Có đúng thế không, thưa ông? Ts. Nguyễn Quốc Quân: Giới đấu tranh kinh nghiệm khi đọc báo lề phải, trước tiên họ sẽ không hỏi "tin đó có thật không?", mà họ sẽ hỏi "công an đăng tin này với mục đích gì?". Phải nói ngay rằng, đây là thủ thuật rất tinh ranh của giới lãnh đạo Việt Nam để chuyển hướng dư luận ra khỏi nguyên nhân cốt lõi của các cuộc đối đầu giữa dân chúng và công an; đặc biệt là vụ xảy ra ở Bắc Sơn, Hà Tĩnh vừa qua, ngay trước khi công an tung ra loạt bài này. Cốt lõi thứ nhất chính là các quan chức CSVN đang cần nhanh tay nhét đầy hồ bao bằng cách cướp ngày, cướp trắng đất đai và các phương tiện kiếm sống của người dân. Cốt lõi thứ hai là sự tàn bạo, lạm dụng quyền lực, và vô cùng tùy tiện của công an khi người dân đã quá cùng kiệt. Cả hai điều đó đã đẩy người dân tới chỗ phải chống lại công an và các quan chức vừa tham vừa ác; nếu không thì bà con sẽ chết đói... chẳng cần ai xúi giục họ cả.   Chính vì hệ thống cai trị không muốn đụng đến vấn đề đó, và cũng không muốn chấm dứt hai tệ nạn cốt lõi đó nên họ cố chuyển hướng dư luận sang chỗ khác. Riêng đảng Việt Tân thì vẫn luôn nỗ lực quảng bá và cố gắng thuyết phục nhiều thành phần dân tộc, chứ không riêng gì bà con dân oan, là hãy tận dụng phương cách đấu tranh bất bạo động mà nhiều dân tộc đã tiến hành và đã thành công. Do đó mà Ban Tuyên Giáo Trung Ương đã chỉ thị cho họ bằng cách pha trộn các dữ kiện thật với nhiều điều ngụy tạo để vẽ lên bức tranh hung dữ, bạo động về bà con tại Bắc Sơn. Xin nhắc lại, chính công an là những kẻ khởi đầu toàn bộ sự việc và sau cùng cũng kéo một lực lượng đông đảo đến trấn áp bà con rất nặng nề. Nếu phải nói đến sự bạo hành và bạo động thì quả thật công an là kẻ bạo hành từ đầu đến cuối và bạo hành rất tàn bạo.   Thanh Lan: Trong bài cũng có chi tiết có vẻ như công an khá bực mình về các bài vở của đảng Việt Tân nói về tướng công an Phạm Quí Ngọ vừa mới từ trần vài tháng trước. Việt Tân đã viết những gì về chuyện này, thưa ông? Ts. Nguyễn Quốc Quân: Thưa chị, chúng tôi chỉ nêu lên những điểm rất nghịch lý quanh cái chết mờ ám này ngay sau khi ông Dương Chí Dũng xác nhận là đã nộp hàng triệu đô-la cho ông Phạm Quí Ngọ để chạy án. Sau đó lập tức họ thản nhiên đóng vụ việc này lại mà không điều tra vì ông Ngọ đã chết; và điều đó cũng không ổn khi mọi người thấy rằng những người liên hệ vẫn còn đang sống, và số tiền nộp vào tay ông Ngọ sau đó còn đi lên tới đâu nữa? Rõ ràng là ông Ngọ không thuộc ngành tòa án mà chỉ là người trung gian hưởng hoa hồng mà thôi. Tất cả những thắc mắc đó đều quá hiển nhiên, ai cũng phải thắc mắc và tự đặt dấu hỏi rất lớn đối với bất kỳ chính phủ nào thực sự muốn duy trì công lý và diệt trừ tham nhũng. Nhưng những thắc mắc đó cũng rất khó chịu cho những người muốn ém nhẹm toàn bộ sự việc. Chỉ có thế thôi, thưa chị. Chúng ta cũng đừng quên rằng vụ Bầu Kiên lại đang s sờ trước mặt, đang ám ảnh họ... Thanh Lan: Và xin hỏi ông câu chót. Bài viết liệt kê rất nhiều người đã và đang đấu tranh đều thuộc đảng Việt Tân hoặc được Việt Tân hỗ trợ, từ Ls. Lê Quốc Quân, nhà báo Trương Duy Nhất, Phương Uyên, đến Võ Viết Diễn, Ls. Lê Công Định , v.v... Đúng sai thế nào, thưa ông?   Ts. Nguyễn Quốc Quân: Tôi tin là có hai chủ đích của những kẻ tung bài này ra, và đó cũng là thủ thuật họ dùng khá lâu rồi. Thứ nhất là để bẫy các tổ chức đấu tranh vô tình lên tiếng giải thích để công an kiểm chứng các mối quan hệ; và thứ hai, là để khích tướng tạo chia rẽ, tạo khoảng cách trong lực lượng dân chủ. Vì vậy, ở đây tôi chỉ muốn trình bày tổng quát là chúng tôi cũng như các tổ chức đấu tranh khác, luôn sẵn sàng tiếp tay, ủng hộ mọi cá nhân, mọi hội, nhóm khác nhau đang muốn tạo những đổi thay tích cực cho đất nước bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động, tháo gỡ độc tài và đặt nền tảng dân chủ cho đất nước đi lên. Chúng tôi, và tôi tin rằng mọi người yêu dân chủ, đều quí trọng những người Việt can đảm, yêu nước nồng nàn và chấp nhận nhiều hy sinh ấy. Chủ quyền đất nước và phẩm giá của cả dân tộc cũng tùy thuộc vào tất cả những sự can đảm này.   Bất cứ điều gì có thể làm được để đùm bọc, bảo vệ hay tiếp tay với những người yêu nước này, chúng tôi đều cố gắng hết sức mình, không phân biệt họ là ai, thuộc hội hay nhóm nào cả.   Thanh Lan: Xin cám ơn ông Nguyễn Quốc Quân.   Nguồn: RadioCTM _________________ Tại sao Việt Tân tập trung bôi nhọ hình ảnh của lực lượng Công an Posted on Tháng Tư 2, 2014 by nhandanvietnamhttps://nhandanvietnam.wordpress.com/2014/04/02/tai-sao-viet-tan-tap-tru...   Thời gian qua, Công an Việt Nam là đối tượng được tổ chức bán nước Việt Tân tập trung huy động tối đa nguồn nhân lực để bôi nhọ, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, vai trò của lực lượng trọng yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Xâu chuỗi sự kiện, bạn đọc có thể dễ dang nhận ra âm mưu gây chia rẽ giữa quần chúng với lực lượng trọng yếu này, kích động sự đối lập giữa lòng yêu nước của “dân oan”, “rận chủ” và lòng yêu nước của “lực lượng Công an” từ đấy quy kết bản chất của chế độ, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên đa đảng. Có thể kể đến các sự kiện: sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ; kích động biểu tình gây rối tại Hà Nội, xét xử một số nhà rận chủ, con đẻ của Việt Tân như Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất, Nguyễn Phương Uyên… được Việt Tân xuyên tạc, nhào nặn theo một khuôn mẫu đã trở thành công nghệ chống phá Việt Nam. Ngay lập tức, hàng loạt trang bờ lốc xanh, bờ lốc vàng trích tin đăng tải cùng nội dung để… cổ súy và kiếm sống.   Đã có nhiều thông tin về bản chất thật sự của tổ chức phản động mang danh nghĩa “canh tân đất nước” này. Điển hình như, trụ sở chính của “đảng” lại không dám đặt ở California, nơi có hơn nửa triệu người Việt đang sinh sống, mà chui lủi tuốt lên tận phía bắc TP Seattle, bang Oregon, một nơi khỉ ho cò gáy bởi lẽ người Việt ở California chẳng ai lạ gì những trò bịp bợm của cái nhóm “hỗn độn” này. Sở dĩ, Việt Tân lại không thiện chí với Công an Việt Nam vì những lý do sau:   Thứ nhất, mục đích của Việt Tân đối lập với chức năng, nhiệm vụ của Công an. Không nằm ngoài mục tiêu lật đổ chế độ, Việt Tân là đứa con lai quái thai thời hậu chiến có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các thế lực bên ngoài. Mặc nhiên rằng, những nội dung được Việt Tân đưa ra để núp bóng hoạt động là những tiếng sủa đi sủa lại như mật ngọt rót vào tai. Tuy vậy, với bản chất cách mạng, Công an Việt Nam vẫn là lực lượng trung thành, trọng yếu bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho nhân dân. Thứ hai, những chiêu trò của Việt Tân bị Công an Việt Nam phát giác từ sớm hoặc vô hiệu hóa hoàn toàn. Mang tiếng là tổ chức đấu tranh “bất bạo động”, tuy vậy Việt Tân tập hợp đầy đủ các công nghệ chống phá như phim trường Holywood, từ việc cử người về nước tiến hành khủng bố, phá hoại, lừa đảo, gây sức ép ngoại giao…Tuy vậy, nó nhanh chóng bị lực lượng Công an phát giác và vô hiệu hóa. Thứ ba, thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng lớn mạnh đã vô hiệu hóa những nỗ lực chống phá yếu ớt của Việt Tân. Sự ổn định chính trị và những thành tựu đất nước chính là đáp án cho những lời xuyên tạc, bịa đặt của Việt Tân. Không những vậy, đấy là cơ sở để hạn chế sự hỗ trợ, dung túng từ các thế lực bên ngoài, sự hậu thuẫn của các tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam. Phạm vi hoạt động của Việt Tân ngày càng bị thu hẹp, cơ sở xã hội không còn, không biết tổ chức này lấy đâu ra thực lực để tiến hành “canh tân”.   Thứ tư, nhiều thành viên của Việt Tân vi phạm pháp luật Việt Nam đã bị chính lực lượng Công an truy tố, đưa ra tòa xét xử. Điển hình như Ủy viên TW Việt Tân Nguyễn Quốc Quân, Võ Viết Dziễn, Lê Công Định… đã khai nhận hoàn toàn sự chỉ đạo, hỗ trợ của Việt Tân cho các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước.   Phải chăng vì những lý do trên, thời gian qua Việt Tân tích cực tập trung vào lực lượng Công an để xuyên tạc, bôi nhọ? Theo: TIẾNG DÂN
......

Chúng ta đương mất nước từng phần vào tay giới cầm quyền Trung Quốc

TQ tuồn đủ mọi hàng hóa rẻ tiền vào lũng đoạn thị trường nước ta, bóp nghẹt mọi sản phẩm của ta; họ thực hiện mọi thủ đoạn thâu tóm kinh tế nước ta đồng thời phái thương nhân vào phá hoại kinh tế của ta; về chính trị, họ cũng chi phối phía ta; về quân sự, họ không ngừng lấn, cướp biển đảo của ta, bắt tàu cá, tịch thu tài sản, đánh thuyền viên, đâm hỏng tàu, bắn ngư dân, phá mọi hoạt động của ta trong thềm lục địa của mình, báo chí của họ luôn đe dọa dùng vũ lực với ta. Mọi sự việc nêu trên, những ai quan tâm theo dõi đều đã biết cả.   Tình hình còn nguy hiểm và bức xúc hơn là chúng ta đương mất nước từng phần vào tay những nhà cầm quyền TQ, và sẽ mất nữa:   Trước đây họ đã mua được hàng ngàn ha rừng biên giới, một đoạn bãi biển Đà Nẵng, người Việt Nam không ai vào được. Thế là mất chủ quyền, cũng là mất một phần đất nước vào tay TQ. Vài năm gần đây, họ đổ tiền vào đầu tư bất động sản, địa ốc, những nơi ấy họ đã xây nhà hay chưa cũng là lãnh địa của họ rồi.   Họ chi 40 triệu đôla mua hơn 6 triệu cổ phiếu của Công ty Vinacafe Biên Hòa, trở thành cổ đông lớn thứ 2 của công ty. Họ tăng cường mua cổ phần của nhiều công ty nước ta, đến một lúc họ mua được 51% cổ phần, sẽ biến thành công ty của TQ, những mảnh đất mà các công ty này tọa lạc sẽ nghiễm nhiên trở thành đất của TQ. Tập đoàn Yulun, Giang Tô xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm tại Vụ Bản, Nam Định chiếm 80.000 m2 đất. Lấy Tập đoàn dệt may Việt Nam làm bình phong, TQ dự kiến xây dựng nhà máy dệt tại huyện Nghĩa Hưng chiếm diện tích khoảng 1.500 ha.   Theo một người dân Kỳ Anh nói: “Người TQ hầu như đã làm chủ thức tế huyện Kỳ Anh”. Họ xây dựng tường cao tốc dọc phía Đông đường quốc lộ suốt từ Kỳ Anh qua Cẩm Xuyên đến chân Đèo Ngang, phía trong bức tường ra biển, họ là gì trong đó không ai biết được. Họ thuê cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Họ được Đài Loan nhượng dự án khu kinh tế Formosa bao gồm cả cảng Vũng Áng chiếm một diện tích rất rộng, riêng cảng là 3.300 ha. Cảng Vũng Áng là điểm cực kỳ xung yếu, nó là yết hầu của miền Trung, TQ làm chủ, khi họ trở mặt, họ có thể khống chế đường giao thông của ta cả trên bộ lẫn trên biển, chia cắt nước ta làm 2 phần. Cửa Việt và Vũng Áng, họ cấm người ra vào, có thể họ đương xây dựng thành căn cứ quân sự. Tóm lại, những nơi mà TQ thuê, mua, đầu tư đã trở thành lãnh địa của TQ. Người Việt Nam, công an, chính quyền địa phương không được vào, ngay cả công trường nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân do TQ thầu đương xây dựng, phó Giám đốc công an tỉnh Bình Thuận cũng không được vào. Thế là tất cả những nơi nói trên, ta mất chủ quyền, chẳng phải là mất nước từng phần là gì? Những nơi TQ thuê, mua, đầu tư họ đều đưa người của họ sang làm. TQ trúng thầu 90% công trình trọng điểm của nước ta. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của nước ta, họ đưa ồ ạt lao động phổ thông vào. Thế là họ vừa thực hiện được mục đích di dân vừa bố trí được đội quân thứ 5 hàng vạn người rải khắp nước ta. Rất nhiều người trong số họ lấy vợ Việt Nam, sau thời hạn 50, 70 năm sẽ có hàng trăm “làng TQ” trong nước ta. Cứ đà này, sớm muộn nước ta sẽ trở thành “thuộc quốc” hoặc “thuộc địa kiểu mới” của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Đại Hán! Vì đâu nên nỗi? Phải nói thẳng ra đây là trách nhiệm của các cấp nắm quyền của ta từ dưới lên trên.   Hoặc do mê muội bởi “16 chữ, 4 tốt”, “cùng ý thức hệ”, mà không thấy được giới cầm quyền TQ miệng thì nói “hữu nghị”, nhưng hành động thì ác độc, đầu óc thì thâm hiểm, nên tạo cho họ mọi sự dễ dàng. Làm gì có “cùng chung ý thức hệ”? Từ khi Đặng Tiểu Bình nói: “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì họ đã đi theo con đường TBCN rồi, dù vẫn nêu xây dựng CNXH đặc sắc TQ. Còn ở nước ta, tuy tên nước vẫn là XHCN, nhưng trong nội dung có gì là XHCN đâu!? Hoặc do không tiếp thụ được ý chí quật cường của cha ông, nên tự ty, tự cho mình là nước nhỏ, quân yếu, nhân nhượng họ cho yên, vẫn giữ được quyền, được ghế. Hoặc quá sợ họ đánh, nên họ đề xuất gì, yêu cầu gì đều chấp nhận; họ sai trái, vi phạm luật pháp của ta, không dám xử lý. Hoặc có vị “ăn xôi chùa ngọng miệng”, quyền ký thì ký, quyền bỏ qua thì bỏ qua, để mặc họ muốn gì cũng được. Hoặc chỉ thấy tiền, cho thuê, bán, cho đầu tư, cấp dự án, thì được tiền, tiền cho ngân sách đồng thời cho cả cá nhân, cho nhóm lợi ích, bất chấp sự nguy hại cho đất nước, đúng là “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Phải làm gì? 1. Nhân dân kêu gọi những ai trong bộ máy cầm quyền còn tâm huyết với dân tộc, với Tổ quốc hãy đấu tranh thực hiện dân chủ, quay lại với dân, dựa vào sức mạnh của dân ngăn chặn mối nguy cho đất nước. 2. Các tổ chức, các lực lượng yêu nước liên kết nhau thành sức mạnh đấu tranh quyết liệt loại bỏ những hình bóng của loại Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, ủng hộ người có thực đức, thực tài xuất hiện cùng nhau giữ độc lập, tự chủ và đưa đất nước tiến lên. Xây dựng tuyến đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội là chuốc họa.   Tôi rất tâm dắc với suy nghĩ của bạn Hoàng Mai về con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội, cho rằng: “Mục đích trước mắt của tuyến đường này là để hàng hóa TQ xâm nhập Việt Nam một cách nhanh hơn, rẻ hơn, qua đó nhằm bóp chết nền sản xuất của Việt Nam, cũng là để vơ vết tài nguyên của Việt Nam một cách nhanh hơn…”. Tôi nghĩ, đến một thời cơ nào đó, TQ xuất quân đánh ta thì chính con đường cao tốc này cho phép bộ đội cơ giới của họ tiến rất nhanh đến Hà Nội. Từ xưa đến nay, các thế hệ cầm quyền TQ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta và tiến xuống bá chiếm Đông Nam Á. Đồng ý với bạn Hoàng Mai, tôi cho rằng con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội lợi cho ta thì ít, lợi cho TQ thì nhiều. Trong khi tài chính của ta đương rất khó khăn, nợ nước ngoài đã chồng chất mà vay để chi một khoản tiền khổng lồ 896 triệu đôla cho con đường cao tốc này thì thật là phi lý. Là con nợ của TQ, sau này không chỉ phải trả bằng tiền mà còn phải trả họ bằng nhiều thứ khác theo đòi hỏi của họ. N.T.V http://xuandienhannom.blogspot.de/2014/04/nguyen-trong-vinh-chung-ta-ang...
......

Chúng ta cần nhớ đến họ, dù họ là những người bé nhỏ

Chúng ta nhắc nhiều đến các nhà đấu tranh cho nền dân chủ, những tù nhân lương tâm đã và đang bị tù đày. Thế nhưng hình như cũng vẫn một căn bệnh là chúng ta thường nhắc đến những người "tai to, mặt lớn" và nổi tiếng là chính. Còn có những người đang âm thầm chịu những bản án bất công, đau khổ và hi sinh không chỉ một người, thì chúng ta lại ít nhắc đến họ. Mà thậm chí nhiều khi những cống hiến, hi sinh của họ còn lớn lao hơn những người được điển hình hóa, được nhắc nhở đến thường xuyên và được đấu tranh đình đám. Chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn Khác với những người vừa bị bắt, thậm chí là chưa bị bắt đã có cả những phong trào đấu tranh và lên tiếng, thì ngược lại nhiều trường hợp hình như bị bỏ quên? Tôi thấy chẳng hạn như mấy trường hợp sau. Những năm qua, trường hợp chị Võ Thị Thu Thủy, Phó Chủ tịch HĐMV Tam Tòa, người đang chịu bản án 5 năm tù giam vì "rải truyền đơn chống nhà nước" hầu như ít khi được nhắc đến. Chị là người hết sức kiên cường đấu tranh và chịu đựng nhiều gian nan.   Hai mẹ con là Đặng Ngọc Minh và Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị kết án với 17 Thanh niên Công giáo ở Vinh. Ngày 9/1/2013, Tòa án tại TP Vinh đã tuyên hai người như sau: - Nguyễn Đặng Minh Mẫn 8 năm tù giam và 5 năm quản chế. - Đặng Ngọc Minh 3 năm tù giam, 2 năm quản chế. Và từ đó đến nay, chúng ta ít nghe đến họ. Bà Đặng Ngọc Minh   Bà Võ Thị Thu Thủy Nguồn: https://www.facebook.com/azznexin?hc_location=timeline
......

Pages