Đúng 67 năm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm ngày 14-9-1958
14.09.2025
Nhân Tuấn Trương
Tập quán quốc tế cho rằng sự im lặng của quốc gia trước một vấn đề có liên quan buộc quốc gia phải lên tiếng, thì sự im lặng của quốc gia được xem là sự đồng thuận.
Hôm nay là đúng 67 năm ngày Công hàm này được công bố trước quốc tế. Công hàm này được lưu chiểu tại văn phòng TTK LHQ, cùng với các tuyên bố của TQ về lãnh hải năm 1958, cũng như các bộ luật 1992, 1996, 1998, 2000, 2002… của TQ liên quan đến hải phận EEZ, vùng lãnh hải, hệ thống đường cơ sở… trên các vùng lãnh thổ của TQ.
Về tên gọi, “Công hàm 1958” là ngôn từ phổ cập tiếng Việt để chỉ một văn bản ngoại giao chứa đựng một thông điệp của một quốc gia gởi đến một quốc gia khác.
“Văn kiện” ngày 14-9-1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tên với danh nghĩa “Thủ tướng chính phủ nước VNDCCH”, gởi trực tiếp đến “đồng chí Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa”. “Văn kiện” 14-9-1958 như vậy chứa đựng một thông điệp của nước VNDCCH đến nước CHNDTH. Người ta gọi đó là “công hàm” là điều hợp lý.
Về hiệu lực Công hàm 1958. Hôm qua tôi có đặt giả thuyết rằng “nếu công hàm này không hiện hữu”. Tức là ông Phạm Văn Đồng chưa bao giờ viết và gởi đến Chu Ân Lai bất kỳ thông điệp nào để đáp từ Tuyên bố ngày 4-9-1958 của TQ về Lãnh hải. Thì kết quả vẫn là VN bị ràng buộc về pháp lý ở những điều mà TQ đã ghi trong Tuyên bố 4-9-1958.
Tập quán quốc tế cho rằng sự im lặng của quốc gia trước một vấn đề có liên quan buộc quốc gia phải lên tiếng, thì sự im lặng của quốc gia được xem là sự đồng thuận.
VN đã “im lặng” về tuyên bố lãnh hải 12 hải lý trên các đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của TQ. Điều này hàm ý rằng VN đã mặc nhiên đồng thuận, không chỉ về lãnh hải 12 hải lý trên các đảo của TQ, mà còn mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Trở lại nội hàm của “yêu nước”. Yêu nước, vào thời chiến người ta mỗi người có cách riêng để đóng góp vào công cuộc giữ nước. Có người cầm súng, có người cầm cày, có người cầm dụng cụ trong nhà máy… Mỗi người tận tụy làm đúng công việc của mình, đó là yêu nước. Nhưng trong thời bình thì “yêu nước” sẽ thể hiện ra sao ? Làm thế nào người VN có thể “giữ nước”, bảo vệ đất nước trong trường hợp Hoàng Sa và Trường Sa?
Dĩ nhiên đây là công chuyện của học giả, của những nhà chuyên môn về lịch sử, về pháp lý.
Câu hỏi là, đã 50 năm sau ngày thống nhứt đất nước. Học giả, chuyên gia, luật gia… của Việt Nam đã có những đóng góp nào trong công cuộc bảo vệ đất nước (tại Trường Sa) và giành lại lãnh thổ (Hoàng Sa)?
Câu hỏi hơi bị khó vì học giả, chuyên gia VN nào giờ làm việc dưới “cây gậy chỉ đường” của đảng. Đến nay hầu như chưa có một tác phẩm nào của học giả VN xã hội chủ nghĩa có thể thuyết phục được dư luận thế giới. Những lập luận có thể thuyết phục được thì lại xuất phát từ “chính quyền Ngụy VNCH”.
Những ngày qua ta đã thấy dân VN thể hiện tình yêu nước như thế nào, trong hai ngày lễ lớn 30-4 và 2-9. Nói cả nước lên đồng cũng đúng lắm. Đảng CSVN ăn mừng ngày thống nhứt và ngày quốc khánh bằng sự chà đạp lên lịch sử, đặc biệt nhục mạ di sản của VNCH đến mức tận cùng, mặc dầu thực thể chính trị này đã chết 50 năm và nó không còn cách nào để sống lại.
Hôm nay tôi đăng lại những dòng chữ và các hình ảnh, bản đồ, văn kiện… từ một bản dịch tiếng Việt của một bài nghiên cứu từ Bejing Review (link dẫn lại bên dưới comment).
Bài nghiên cứu này đã đưa ra những bằng chứng pháp lý và lịch sử để chứng minh rằng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền của Trung quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TQ gọi lần lượt là Tây sa và Nam sa).
Đây là gì nếu không phải là một cách “xâm lược mềm” của TQ, làm tổn hại đến chủ quyền lãnh thổ của VN ?
Câu hỏi đặt ra là, học giả, chuyên gia VNXHCN có thể phản biện lại những điều trong bài nghiên cứu này, như là một cách “bảo vệ lãnh thổ” trong thời bình hay không?
*******
Trong một thời gian rất dài phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ từ thời xa xưa của Trung Quốc, thông qua các bản tuyên bố và công hàm của họ, hay trên báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của họ.
Vào ngày 15 tháng Sáu, 1956 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Lý Chí Mẫn, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Nhân dịp này Ung Văn Khiêm nói với Lý Chí Mẫn rằng “theo tư liệu Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa về mặt lịch sử thuộc về lãnh thổ Trung Quốc”. Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi đón tiếp, đã trích dẫn chính xác tư liệu Việt Nam và chỉ ra rõ rằng “xét theo lịch sử, hai quần đảo này đã thuộc về Trung Quốc vào thời triều đại nhà Tống.”
Trong bản Tuyên bố vào ngày 4 tháng Chín năm 1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chiều rộng hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và tuyên bố rất rõ ràng “điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, bao gồm… Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc.”
Vào ngày 6 tháng Chín năm 1958, báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, đăng trang trọng trên trang nhất nội dung chi tiết bản tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Tờ báo viết: “Vào ngày 4 tháng Chín, 1958 Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận của Trung Quốc. Bản tuyên bố quy định chiều rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý (hơn 22 km). Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục Trung Quốc và các đảo duyên hải của Trung Quốc, cũng như Đài Loan và những đảo xung quanh, Quần đảo Bành Hồ, Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc ở ngoài biển khơi cách xa đại lục và các đảo duyên hải của Trung Quốc.”
Vào ngày 14 tháng Chín cùng năm, trong công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng long trọng tuyên bố “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.” và “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy”. Bức công hàm của Phạm Văn Đồng chứng minh rõ ràng Chính phủ Việt Nam đã công nhận Quần đảo Tây Sa và Quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong bản tuyên bố vào ngày 9 tháng Năm năm 1965 về việc Chính phủ Mỹ chỉ định “khu vực chiến đấu” cho lực lượng Mỹ tại Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sự chỉ định ấy là “mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc gia láng giềng” vì “Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson coi toàn thể nước Việt Nam và vùng biển kế cận mà trải dài độ 100 dặm từ bờ biển Việt Nam và một phần hải phận của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa tại Quần đảo Tây Sa là “khu vực chiến đấu” của lực lượng vũ trang Mỹ”. Ở đây một lần nữa Chính phủ Việt Nam rõ ràng công nhận Quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.
Khi tường thuật những vụ xâm nhập của nước ngoài vào Quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng công nhận những đảo này thuộc về Trung Quốc. Chẳng hạn, vào ngày 13 tháng Năm, 1969 báo Nhân Dân tường thuật rằng “vào ngày 10 tháng Năm máy bay quân đội Mỹ đã xâm phạm không phận của Trung Quốc trên Đảo Vĩnh Hưng (1) và Đảo Đông Đạo (2) thuộc Quần đảo Tây Sa của Tỉnh Quảng Đông”. Báo chí Việt Nam đã đăng nhiều bài tường thuật tương tự.
Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới do Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung. Một trường hợp khác, bài học tựa đề “Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” trong sách giáo khoa địa lý dành cho học sinh lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản vào năm 1974 viết một đoạn như sau: “Chuỗi quần đảo từ Quần đảo Nam sa và Tây Sa đến Đảo Hải Nam, Đảo Đài Loan, Quần đảo Bành Hồ và Quần đảo Chu San… hình dạng như cây cung và tạo thành một Vạn Lý Trường Thành bảo vệ đại lục Trung Quốc.”
Việt Nam nhấn mạnh một cách nghiêm túc rõ ràng rằng để xác lập chủ quyền lãnh thổ cần thiết phải đưa ra “những tài liệu nhà nước chính thức” và “những văn kiện có giá trị pháp lý”. Những điều chúng tôi đã trích dẫn ở trên chính xác là “những tài liệu nhà nước chính thức” và “những văn kiện có giá trị pháp lý” của Việt Nam. Điều này chứng minh rõ ràng từ trước cho đến năm 1974 Chính phủ Việt Nam đã công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Giờ đây, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và tráo trở từ bỏ lập trường công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc ban đầu của họ và theo luật quốc tế đây là điều tuyệt đối không thể nào cho phép.
______________
Nguồn:
Bài viết trên Facebook Nhân Tuấn Trương
https://www.facebook.com/share/p/1APH4jQ4Sm/?mibextid=wwXIfr
......
⤑