Nhục mà không biết là nhục

Luân Lê Những tấm biển cảnh báo bằng tiếng Việt về vấn đề trộm cắp, ăn uống và vứt rác, được ghi ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Gồm: Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Lào và Singapore. Việc những quốc gia này cảnh báo “văn hoá” trộm cắp đồ, tham ăn tục uống, xả rác vô tội vạ như thời ăn lông ở lỗ, bằng những tấm bảng ghi bằng tiếng Việt vì họ phát hiện ra những thói hư tật xấu (phạm pháp) này phổ biến ở người Việt. Và họ cảnh báo chung dành cho người Việt chứ không theo lý luận “người Việt có người thế này người thế kia” để bao biện hoặc bào chữa. Họ thấy các hành vi phổ biến ở cộng đồng người nói tiếng Việt tại nước họ, họ cảnh báo chung như vậy cho người nói tiếng này. Cũng như vậy, khi tôi nói tới thói hư tật xấu như tham ăn tục uống, thô lỗ, ăn to nói lớn và có tính hung dữ, khéo léo giả tạo...của người miền Bắc là nói tới cái phổ biến chung của cộng đồng người tại vùng địa lý này. Nó nổi bật lên, và nó được nhận thấy. Cái phổ biến là cái được phản ánh chứ không bàn tới những cái riêng biệt hoặc ít ỏi vì nó không có tính đại diện. Người nước ngoài họ cảnh báo chung cho tình trạng phổ biến của người Việt về các hành vi xấu đó, họ không cần phải biết ai là người này và ai là người kia, họ cảnh báo về hành vi phổ biến được thực hiện ở chủng người Việt trên lãnh thổ quốc gia họ. Thế nên, nói tới đặc tính người miền Bắc, đừng có phản biện bằng cách lý luận “ở đâu cũng có người này người kia”, nó không phải lập luận của người có tư duy và nhận thức. Vì nó khác gì mấy tên tham nhũng suốt ngay ra rả nói thể chế chính trị nào mà chẳng có tham nhũng, nhưng cái khác nhau cơ bản là tỷ lệ 99% tham nhũng ở nước này với 1% tham nhũng ở nước khác và quan trọng hơn nữa là cơ chế (cách thức tổ chức quyền lực nhà nước) để không cho phép quan chức thực hiện tham nhũng dễ dàng và khi bị phát hiện thì không một ai có thể trốn chạy hay bị xuê xoa xem nhẹ. Và nó là cách hữu hiệu để phân biệt giữa một nền chính trị là độc tài hay dân chủ, tự do. Khi biết thói hư tật xấu phổ biến của cộng đồng người mình để sửa thì còn cơ hội tốt hơn lên, nếu không thế giới họ khinh bỉ và ghẻ lạnh vẫn nhơn nhơn không biết nhục, lại còn tự hào vỗ ngực bề dày văn hiến với văn vật. Nền văn hiến nào mà không duy giữ và không biết sửa đổi thì đều có tính tha hoá và hủ bại cả. Tự hào nỗi gì với những dòng chữ tiếng Việt bằng cách an ủi “xã hội nào chả có người này người kia” kiểu AQ như vậy. Lỗ Tấn nói chớ có bao giờ sai về vấn đề này - lụn bại về văn hoá là dẫn tới sụp đổ mọi thứ.  
......

“Cải cách thể chế”, nhưng cải cách “thể chế” nào?

nguyenvandai’s blog Báo Vietnamnet có giới thiệu bài viết về thể chế và các mô hình phát triển của Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Trước bài viết này của Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng đã có nhiều nhà nghiên cứu khác có những bài viết về chủ đề này như: GS-TSKH Nguyễn Quang Thái,Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Việt Nam VIDERI. —————– Nhưng tất cả các nhà nghiên cứu đều chỉ nêu lên những bất cập trong vấn đề chính sách, luật pháp, quản lý, điều hành nền kinh tế,… và họ kêu gọi cần phải cải cách thể chế, mà ở đây là thể chế về kinh tế. Chưa có nhà nghiên cứu nào ở Việt Nam dám nói thẳng thắn là cần phải cải cách về thể chế chính trị, cái gốc của mọi vấn đề. “Thể chế” là một danh từ chung, trong đó gồm thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Nói đến cải cách “thể chế” tức là phải cải cách cả thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Trong đó thể chế chính trị là cái gốc, nó đóng vai trò quyết định đến thể chế kinh tế. Tức là thể chế chính trị nào thì sinh ra thể chế kinh tế như vậy. Theo quan niệm của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF):Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ… Nghiên cứu của Simon Anholt(2008) cho rằng, thể chế bao gồm ba yếu tố: luật pháp, bộ máy nhà nước, phương thức điều hành đất nước. Ở các quốc gia Tư bản phát triển thì giá trị phổ biến về thể chế là dân chủ, tam quyền phân lập, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế…Những giá trị này có tính bền vững. Cho dù những nước này đã nổ ra hàng chục cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhưng không những đã không phá hủy những giá trị bền vững ấy mà còn làm cho những giá trị phổ biến ấy ngày càng hoàn thiện hơn. Ở Việt Nam, nói đến cải cách thể chế thì trước hết phải tiến hành song song đồng thời cải cách cả thể chế chính trị và cải cách thể chế kinh tế. Trong đó cải cách thể chế chính trị phải được ưu tiên và là trọng tâm. Vậy cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam là gì? Tức là từ chế độ độc đảng với “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giai cấp” chuyển sang nền chính trị dân chủ đa đảng, tam quyền phân lập, thượng tôn pháp luật chính là đổi mới thể chế chính trị. Trong đó đa đảng đối lập là thành tố bắt buộc phải có trong thể chế chính trị dân chủ. Không có đa đảng đối lập, không bao giờ có dân chủ. Bởi khi có đa đảng đối lập, các đảng phái phải tập chung được sức lực, trí tuệ cao nhất để đưa ra các chính sách kinh tế đúng đắn nhất, phù hợp nhất để đa số Nhân dân lựa chọn và quyết định thông các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Chỉ có một thể chế chính trị tự do, dân chủ và công bằng mới sinh ra các chính sách, pháp luật, qui định,… về kinh tế tốt nhất làm  bệ phóng giúp cho Việt Nam cất cánh và phát triển. Tức là có thể chế chính trị dân chủ thì tất yếu sẽ có thể chế kinh tế tốt và tiến bộ. Trong bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, ông Dũng cho rằng việc lựa chọn mô hình thể chế nào thì phải dựa vào nền văn hóa. Sau khi so sánh nước Mỹ, nước Úc, nước Canada, nước New Zealand với nước Anh, ông Dũng cho rằng những nước này đều đã rất thành công khi áp dụng mô hình thể chế của Anh cho đất nước mình vì họ từng là thuộc địa của Anh và có văn hóa tương đồng với nước Anh. Vì người Anh đã không chỉ xuất khẩu thể chế, mà còn di dân và xuất khẩu văn hóa tới những nước trên. Ông Dũng cũng đưa ví dụ về mô hình thể chế của nhà nước phúc lợi. Các nhà nước phúc lợi Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Phần lan, Na Uy…) là mô hình thể chế có thể được coi là thịnh vượng và tốt đẹp nhất đang tồn tại trên thế giới hiện nay. Ở các nước này, người dân sinh ra đã được nhà nước chăm lo đầy đủ về mọi mặt. Cuộc sống của họ hết sức an toàn, đầy đủ và hạnh phúc. Và ông Dũng kết luận rằng: Lý do mà mô hình thể chế tốt đẹp lại không thể nhân rộng ra được ngoài vùng Bắc Âu là vì các khu vực khác thiếu nền tảng văn hóa của Bắc Âu. Cuối cùng ông Dũng đưa ra mô hình thể chế được hầu hết các nước Đông Bắc Á lựa chọn là nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state). Mô hình thể chế này đã đưa lại sự phát triển kỳ điệu cho cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan và gần đây là cả Trung Quốc. Sự thành công của các nước này cho thấy mô hình nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp với nền tảng văn hóa của các nước Đông Bắc Á.” Ts Nguyễn Sĩ Dũng kết luận rằng mô hình nhà nước kiến tạo là phù hợp với Việt Nam. Và đây là những nét đặc trưng của nhà nước kiến tạo phát triển được tác giả Chalmers Johnson đưa ra là: Một bộ máy hành chính gọn nhẹ, nhưng tinh hoa và hiệu quả. Bộ máy hành chính được trao quyền đầy đủ để đưa ra những sáng kiến và vận hành hiệu quả. Nhà nước thông qua các thiết chế tài chính và các hướng dẫn hành chính để can thiệp vào thị trường. Có Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp như một thiết chế mạnh điều phối chính sách phát triển công nghiệp. Cũng nghiên cứu về nhà nước kiến tạo phát triển, tác giả Adrian Leftwith lại đưa ra những đặc điểm sau đây: Một tầng lớp công chức hành chính tinh hoa hộ trợ cho nhà nước. Các chính sách phát triển chịu ảnh hưởng của tầng lớp công chức ưu tú này. Nhà nước có tính độc lập, tự chủ cao trước các nhóm lợi ích và luôn luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết. Nhà nước điều phối kinh tế thông qua một số thiết chế chuyên biệt (ví dụ như Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp) có thực quyền. Xã hội dân sự yếu, chính quyền mạnh và kiểm soát xã hội dân sự rất chặt chẽ, đặc biệt là trong thời kỳ đầu. Nhà nước ít chịu ảnh hưởng bởi các lợi ích kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong thời kỳ đầu. Các quyền dân sự bị hạn chế, đặc biệt là trong thời kỳ đầu. Nhà nước mang tính chuyên chế cao, nhưng lại có được sự chính danh và sự ủng hộ của dân chúng cao nhờ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao và sự phân phối thu nhập tương đối công bằng. Đây là các đặc trưng của nhà nước kiến tạo được áp dụng ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan ở thời kỳ đầu khi nền chính trị dân chủ còn bị hạn chế. Nhưng trong quá trình bùng nổ về phát triển kinh tế thì các quốc gia nêu trên đã nhanh chóng tiến hành cải cách về chính trị, thúc đẩy xã hội dân sự phát triển. Và cuối cùng các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đã thành công cả về chính trị, kinh tế và xã hội phát triển hài hòa. Nhân dân được hưởng trọn vẹn thành quả của sự phát triển đó cả về các quyền tự do về chính trị và sự thịnh vượng về kinh tế. Nhưng Việt Nam đã mất hơn 40 năm cho cơ hội phát triển theo mô hình nhà nước kiến tạo theo cách mà Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đã làm. Ngày nay, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam và tình hình thế giới đã thay đổi rất nhiều. Việc cạnh tranh về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao,… trên trong khu vực và trên thế giới diễn ra quyết liệt và thay đổi rất nhanh chóng. Việc áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo, tức là vẫn duy trì hạn chế hay tước đoạt các quyền tự do, dân chủ, quyền phát triển xã hội dân sự của Nhân dân Việt Nam là không còn phù hợp và không thể chấp nhận được. Bởi vậy, con đường duy nhất cho Việt Nam phát triển đó là phải cải cách song hành cả thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Trong đó cải cách chính trị chuyển từ thể chế chính trị độc đảng sang thể chế chính trị dân chủ đa đảng đóng vai trò then chốt và quyết định./.  
......

Trung Cộng phải thờ Mao hay Ðặng

Ngô Nhân Dụng -  Người Việt| Tập Cận Bình đạo diễn thành công vở tuồng Bắc Kinh phô bày lực lượng quân sự Trung Quốc trong ngày Quốc Khánh. Nhìn cảnh 15 ngàn binh sĩ cùng xe tăng, máy bay, hỏa tiễn, vân vân diễn hành trên đại lộ Trường An ít nhất những lãnh tụ như Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào cũng tự an ủi được rằng “giải phóng quân” Trung Hoa ngày nay đã hùng mạnh hơn đám quân nhếch nhác kềnh càng kéo sang đánh cướp nước Việt Nam năm 1979 rồi lếch thếch kéo về. Cuộc diễn binh của Cộng Sản Trung Quốc hoành tráng không thua gì những đại lễ mà ba đời Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Kim Jong Un vẫn tổ chức hàng năm ở Bình Nhưỡng. Nó cũng nằm trong cùng một truyền thống bắt đầu từ thời Hitler và Stalin: Biểu dương sức mạnh quân sự không những làm các nước láng giềng sợ hãi mà còn nhắm đe dọa dân chúng trong nước đừng tính chuyện “mưu phản.” Cộng Sản Trung Quốc bây giờ có thể tự hào họ đang “qua mặt Liên Xô” về tuổi thọ. Khi Liên Xô sụp đổ các sử gia bàn rằng một chế độ độc tài nắm quyền được 70 năm là “hết xí quách” vì những mâu thuẫn nội bộ. Trung Cộng cho thấy sau 70 năm họ vẫn vững mạnh. Nhưng so sánh như vậy là không công bằng đối với các ông Stalin cho tới Brezhnev, Andropov và Gorbachev. Bởi vì suốt 70 năm ở nước Nga chỉ có một chế độ Cộng Sản cai trị. Còn ở Trung Quốc thì khác, có ít nhất hai chế độ khác nhau. Chế độ Mao Trạch Đông bắt đầu năm 1949 gọi đúng tên là Cộng Sản chỉ sống được 30 năm, đến 1978 thì đã cáo chung. Đặng Tiểu Bình làm cách mạng “đổi mới,” Cộng Sản biến thái dần dần thành tư bản sơ khai dọ dẫm. Đạo hùng binh diễn hành ngày 1 Tháng Mười gây ấn tượng thán phục trên hàng tỉ dân chúng Trung Hoa thực ra đã thành hình nhờ sức mạnh kinh tế đạt được sau khi nước Tàu quay ngược chiều, rẽ qua con đường tư bản hóa của Đặng Tiểu Bình. Trong cuộc chiến tranh biên giới Trung Việt năm 1979 người ta thấy một đám “giải phóng quân Trung Quốc” èo uột hơn nhiều. Đáng lẽ Tập Cận Bình phải tuyên dương 40 năm dân Trung Hoa đi theo Đặng Tiểu Bình chứ không nên nhắc đến những ngày họ sống với Mao Trạch Đông. Nhật báo South China Morning Post mới kể chuyện thành phố Bạch Câu (白沟) ở tỉnh Hà Bắc, là “thủ đô túi xách tay” của Trung Quốc kể từ khi “đổi mới” với những cái túi “giống hệt” đồ  Louis Vuitton hay Gucci mà giá chỉ có 100 đồng nguyên, bằng $14. Trung tâm thương mại túi và va li ở đây có 10.000 cửa hàng, với 216 cái thang cuốn tự động. Năm 1960, mười một năm sau khi Mao Trạch Đông thiết lập chế độ Cộng Sản, dân Bạch Câu sống với khẩu phần mỗi ngày được ăn 90 gram ngũ cốc, không phải chỉ là gạo. Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Mao, ai muốn đổi một củ khoai lấy cái muỗng muối của người hàng xóm cũng bị cấm. Họ phải dùng tay làm dấu hiệu với nhau cho đến khi “thuận mua vừa bán,” sau đó vẫn phải lén lút “giao hàng” ở một chỗ thật xa mà không cần gặp mặt: Anh để củ khoai ở đầu cầu em sẽ bày cái lá cây đựng muối ở bờ ao! Những dữ kiện trên, phóng viên tờ báo Morning Post ở Hồng Kông ghi chép lại trong “viện bảo tàng” (bác vật viện) kinh tế bao cấp của thị xã. Một chế độ cai trị khiến toàn dân nghèo đói như vậy, có đáng đem tàu bay, hỏa tiễn ra tuyên dương hay không? Quân đội Trung Quốc bây giờ mạnh được là nhờ kinh tế đã phát triển theo đường hướng tư bản thế kỷ 19. Bắc Kinh khoe khoang rằng họ đã “giúp 750 triệu người” thoát khỏi cảnh nghèo đói. Khoe như thế là một cách chứng tỏ rằng nếu cứ theo ông Mao Trạch Đông thì nước Tàu vẫn còn 750 triệu người dân nghèo đói! Bây giờ, dân chúng Bạch Câu có thể kiếm lợi tức bình quân $10.000 mỗi năm. Nhờ sức lao động rẻ tiền của dân Trung Quốc và mãi lực cao của người tiêu thụ các nước tư bản Mỹ và Âu Châu nên các lãnh tụ Trung Nam Hải mới xây dựng được đạo quân mới đem ra biểu diễn. Nhưng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đang đến thời ngưng trệ. Giáo sư kinh tế học Bùi Mẫn Hân (Pei Minxin, 裴敏欣) mới nhận xét rằng chế độ Cộng Sản ở nước Tàu đang bắt đầu đi xuống vì kinh tế không tiến thêm được. Bởi vì trong 40 năm qua kinh tế Trung Cộng dựa trên một lực lượng lao động trẻ và rẻ tiền, nhờ mở cửa cho thị trường hoạt động, một chương trình đô thị hóa cấp tốc, xây dựng hạ tầng cơ sở khắp nơi, và nhờ vào kinh tế toàn cầu hóa sau khi khối Xô Viết tan rã. Mấy yếu tố này đang biến mất hoặc hết hiệu lực. Richard Koo, kinh tế gia đứng đầu của Viện Nghiên Cứu Nomura, nhìn thấy ba trở ngại lớn của kinh tế Trung Quốc: Dân càng ngày càng già; thiếu khả năng phát minh, sáng tạo để gia tăng năng suất lao động, và không còn được các nước Mỹ và Tây phương lỏng tay hỗ trợ nữa. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng biết như vậy. Tập Cận Bình đã hô hào cải tổ cơ cấu từ bốn năm nay, giảm bớt khu vực quốc doanh và tăng vai trò chủ động của thị trường. Nhưng cho tới nay họ chưa nhích được một bước trên con đường cải tổ. Vì lý do chính trị. Cho thị trường đóng vai chủ động nghĩa là giảm vai trò của đảng và nhà nước Cộng Sản. Tập Cận Bình muốn làm ngược lại: Bảo vệ quyền hành của đảng Cộng Sản. Vì vậy, “năng suất toàn diện” (total factor productivity) của nền kinh tế Trung Quốc gia tăng từ năm 1978 đến nay đã bắt đầu xuống dốc. Hai chục năm đầu, năng suất lên rất nhanh, giản dị chỉ vì hàng trăm triệu người bắt đầu “làm việc thật” và hàng trăm tỷ đô la vốn đầu tư đổ vào. Nhưng năng suất đó không thể tăng lên mãi. Trước đây, “total factor productivity” của kinh tế Trung Quốc tăng với tỷ lệ 3,5% mỗi năm; từ năm 2008 đã tụt xuống chỉ còn tăng với tốc độ 1,5%.Và từ năm 2011 đến 2014 năng suất đó đã giảm tới dưới số không. XEM THÊM: Cuộc khủng hoảng sắp tới của chế độ độc đảng Trung Quốc Ông Tập Cận Bình cứ nói hoài đến “70 năm” xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Nhưng thực ra sau 30 năm đầu tàn phá của Mao Trạch Đông nhờ được nối tiếp với 40 năm tư bản hóa của Đặng Tiểu Bình nên kinh tế Trung Quốc mới tiến được như bây giờ. Năm 2016, một quận ở tỉnh Hà Nam đã dựng pho tượng Mao Trạch Đông, cao 40 mét. Cứ xây tượng là tha hồ rút ruột! Nhưng dân chúng phản đối quá cuối cùng đã phải phá cả pho tượng thiếp vàng đi! Khi được học trò hỏi về công việc phải làm nếu cầm quyền, Đức Khổng Tử bảo rằng: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hĩ.” Tức là “Lo cho kinh tế đủ ăn, quân đội đủ mạnh, và được dân tin tưởng.” Trong ba yếu tố đó, Khổng Tử coi lòng tin của dân là quan trọng nhất. Nhờ đi theo Đặng Tiểu Bình, Cộng Sản Trung Quốc đã lo được việc “túc thực.” Bây giờ đang lo túc binh. Lòng dân Trung Quốc còn tín nhiệm đảng Cộng Sản nếu kinh tế còn phát triển. Như một người dân Trung Hoa nói với nhà báo: “Ít nhất, bây giờ tôi không lo chết đói!” Nhưng khi nào kinh tế Trung Quốc khựng lại rồi suy thoái thì yếu tố “dân tín”cũng hao mòn. Khi đó người dân lục địa Trung Hoa sẽ nhìn qua Hong Kong và Đài Loan, sẽ thấy rằng chỉ có một chế độ tôn trọng quyền tự do của con người mới bảo đảm được đời sống kinh tế bền vững. Giáo Sư Bùi Mẫn Hân tiên đoán tới ngày 1 Tháng Mười, 2049, thì sẽ không còn đảng Cộng Sản làm lễ Quốc Khánh nữa! Ngô Nhân Dụng  
......

Quyền lực và quyền lợi

Đỗ Ngà| Nguyên tắc để đảm quyền lợi không bị tước đoạt thì trên tay anh phải có quyền lực. Mà để có quyền lực thì phải có cơ chế để đảm bảo quyền lực được thực thi. Trong một thể chế dân chủ, tính khoa học của nó thể hiện ở chỗ là nhà nước đã trao quyền lực cho dân và đồng thời lập ra cơ chế để đảm bảo quyền lực đó được thể hiện. Chỉ vậy thôi, nhà nước chỉ trao quyền lực cho dân không ban phát quyền lợi, quyền lợi của dân có được là họ dùng quyền lực mà họ có được để đòi hỏi. Đây là một nguyên tắc đảm bảo công bằng, theo tôi nghĩ là nó rất khoa học. Quyền lực nhân dân thể hiện ở quyền ứng cử, quyền bầu cử, quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền tự do ngôn luận và quyền lập đảng vv.. Khi người dân có thực quyền thì thông qua các quyền đó họ tự đòi hỏi quyền lợi cho mình và từ đó sự công bằng xã hội sẽ đến như là một điều tất yếu. Sự phân bố quyền lực Nhà nước – Nhân dân nếu quanh quẩn ở mức 50% – 50% là cách phân bố khoa học, đó là nhân tố cơ bản để đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Khi anh không có quyền lực trong tay thì quyền lợi của anh đang có rất dễ bị tước đoạt, nguyên tắc này ai cũng hiểu. Ở nhà nước độc tài CS thì tỷ lệ phân chia quyền lực giữa Nhà nước và Nhân dân là 100% – 0%, nên các quyền lợi mà dân có được là một thứ quyền lợi được ban phát rất mong manh và dễ bị tước đoạt. Khi quan hệ nhà nước và nhân dân mất cân đối quyền lực quá nhiều, thì phía quyền lực mạnh hơn sẽ phát sinh lòng tham và hành động dùng quyền lực nhà nước để tước đoạt quyền lợi của phía không quyền lực như là một điều hiển nhiên. Chính vì vậy mà nhà nước CSVN luôn và sẽ mãi mãi là một nhà nước cướp bóc, hà hiếp, bóc lột nhân dân. Mất cân đối quyền lực và bất công xã hội nó là cặp phạm trù nguyên nhân kết quả. Chính vì thế, với nhà nước độc tài Cộng Sản mà đòi hỏi sự công bằng là một điều hoang tưởng. Ngày 30/09/2019 trên tờ báo Quân đội Nhân Dân có bài viết “Đồng chí Trương Thị Mai: Cần đảm bảo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân trong việc tham gia giám sát chính quyền”. Ý của bà này là muốn lên báo PR rằng, đảng luôn muốn đảm bảo quyền lợi cho dân. Một suy nghĩ rặt chất phong kiến quan chức xem mình như cha mẹ và xem dân như con cái. Bà này nói vậy để mị dân chứ thực chất không bao giờ có chuyện lợi ích của người dân được đảm bảo. Quyền lực là thành trì bảo vệ quyền lợi, không có thành trì thì quyền lợi sẽ bị tước đoạt. Và thực tế, hình ảnh xã hội Việt Nam hiện nay đã chứng minh tất cả./.  
......

70 năm một thể chế tai họa

Nguyen Ngoc Chu| 1. Nhân dân Trung quốc là một dân tộc lớn, tài năng. Nhân dân Trung quốc sẽ xây dựng được một nước Trung quốc giàu có hùng mạnh. Đó là điều không bàn cãi. Nhưng 70 năm từ khi thể chế của Mao Trạch Đông lên cầm quyền, đất nước Trung hoa đã trải qua những biến động lớn, mà nhân dân Trung quốc gặp tai họa nhiều hơn hạnh phúc. Nói về thành tựu kinh tế, hiển nhiên sau 70 năm nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa đã có được những thành quả nhất định. Từ một nước có thu nhập bình quân đầu người khoảng 700 USD vào năm 1949 đứng dưới mức trung bình thế giới, thì năm 2018 đạt mức khoảng 10 000 USD, đứng thứ 75 trên thế giới. Nhờ vào lượng dân số đông nhất thế giới lên đến 1 350 triệu người, mà tổng GDP của Trung quốc vượt qua Nhật Bản chiếm vị trí thứ hai thế giới sau Mỹ. Về khoa học kỹ thuật và quân sự, Trung quốc cũng có những bước tiến đáng kể. Năm 1964 Trung quốc thử thành công bom hạt nhân lọt vào các quốc gia sở hữu vũ khí nhiệt hạch sau Mỹ, Liên xô, Anh, Pháp. Năm 2003 Trung quốc phóng được tàu Thần Châu 5 - lần đầu tiên đưa được người lên vũ trụ. Các thành quả trên có được là do nhiều nhân tố. Nhưng có hai nhân tố quyết định là do tiến bộ xã hội và tài năng của người dân Trung quốc. Song hành với các thành quả là những điều bất hạnh to lớn mà người dân Trung quốc phải hứng chịu. Thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của Trung quốc không vượt được các cường quốc Nhật, Đức, Anh, Pháp. Nhưng dân số đông nhất thế giới là nhân tố quyết định để nhà cầm quyền Trung quốc nuôi ảo vọng thống trị thế giới, toan vượt mặt cả Nga, Mỹ. Chính ảo vọng thống trị thế giới của Trung quốc đã đẩy Trung quốc vào một trạng thái dốc sức. Dốc sức cho trang bị quân đội. Dốc sức cho bành trướng ra ngoài. Bành trướng về kinh tế. Bành trướng về quân sự. Bành trướng về lãnh thổ. Ảo vọng thống trị thế giới của các nhà cầm quyền Trung quốc có từ ngàn xưa. Nhưng đến thời cộng sản của Mao Trạch Đông thì trở thành ngông cuồng chưa từng có trong lịch sử. Muốn nhanh chóng thống trị thế giới, Mao Trạch Đông nuôi giấc mộng “đại nhảy vọt” làm xơ xác đời sống người dân Trung quốc. Muốn thâu tóm quyền lực, Mao Trạch Đông tiến hành cải cách ruộng đất và cách mạng văn hóa - đến mức thủ tiêu cả hàng chục triệu sinh mạng, đẩy năm trăm triệu nhân dân Trung quốc vào hoàn cảnh khổ cực, bị đấu tố điêu đứng. Muốn thống trị thế giới, Mao Trạch Đông từ bỏ Liên Xô để thành lập liên minh do Trung quốc cầm đầu. Muốn thống trị thế giới phải bành trướng lãnh thổ, trước hết là các nước láng giềng, đến mức gây chiến chiếm đất với Ấn Độ, Liên xô và Việt Nam. Tư tưởng Đại Hán đã choán hết lục phủ ngũ tạng, bốc lên đầu các nhà cầm quyền Trung quốc Cộng sản, đến mức muốn hủy diệt các dân tộc khác. Bởi thế mà có nạn diệt chủng gần 3 triệu người dân Campuchia. Bởi thế mà cả triệu người Duy Ngô Nhĩ đang bị giam cầm và bị bí mật thủ tiêu. Bởi thế mà nhân dân Tây Tạng đang bị truy sát. Bởi thế mà có cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979. Không chỉ các dân tộc khác Hoa, mà chính người Hoa cũng là nạn nhân đau đớn của thể chế Mao Trạch Đông. Thủ tiêu không chỉ người dân, thủ tiêu cả “đồng chí thân cận”. Thảm họa Thiên An Môn, biểu tình ở Hong Kong. Tất cả đã phản ánh sự không sống cùng trời với thể chế Mao. 2. Sau nhân dân Trung quốc, ảo vọng thống trị thế giới của nhà cầm quyền Trung quốc mang đến nhiều tai họa cho nhân loại. Trước hết là tai họa trực tiếp cho nhân dân các quốc gia có biên giới chung với Trung quốc. Mà trong số đó Việt Nam là một nạn nhân đau đớn. Sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ngày 01/10/1949, sau 70 năm nhìn lại – là tai họa to lớn cho nhân dân Việt Nam. 3. Giá mà không có nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa! Đây không chỉ là mong ước của người Việt mà là của người Hoa đại lục, người Hoa Hong Kong, người Hoa Đài Loan, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng… Đây là mong ước của tất cả các dân tộc khát khao tự do dân chủ. Ai mà đoán biết được vĩ đại hùng cường như Liên Xô lại tan biến trong phút chốc? Nhân dân Trung quốc đã mong muốn thì tất sẽ thành hiện thực. Ngày mà thể chế Mao Trạch Đông dựng lên bị sụp đổ sẽ không còn xa nữa. Độc tài toàn trị và tham vọng thống trị thế giới là hai lưỡi của một chiếc kéo cắt cổ thể chế Cộng hòa Nhân dân Trung hoa.  
......

Tôi sẽ cố bám lấy đất nước tôi

nguyenlanthang’s blog Tôi có khá nhiều bạn bè, họ hàng, người thân bỏ ra nước ngoài sinh sống. Từ những người bạn hoạt động xã hội vì lý do chính trị, cho đến những người bình thường khác, chỉ vì mưu sinh mà phải từ bỏ nơi này. Chạy trốn khỏi sự nguy hiểm là phản ứng rất tự nhiên của con người. Không chống lại được điều gì đó thì bỏ chạy là giải pháp cá nhân hợp lý, không có gì phải đáng chê trách. Nhưng khi cả một đất nước phải tìm cách bỏ chạy, thì đó là vấn đề rất nghiêm trọng rồi. Tôi nhớ hồi những thuyền nhân bỏ chạy khỏi Việt Nam, có người bình luận chua chát rằng: cái cột điện mà có chân thì nó cũng phải bỏ chạy. Nay thì không chỉ “Bên thua cuộc” miền Nam bỏ chạy, mà cả nước bỏ chạy. Phong trào bỏ chạy lan rộng, từ những giai cấp trung lưu tìm kiếm thẻ xanh bằng đầu tư, cho đến học sinh sinh viên tìm kiếm học bổng du học, và cả những lao động tự do khắp các miền quê Việt Nam tìm lối bán mình sang tận Lào. Trớ trêu là cả những dư luận viên từng chống những người hoạt động xã hội rất dữ dội, nay bỏ gia đình sang lao động ở Nhật. Rồi mới đây nữa có một vụ động trời được khui ra. Đó là việc đoàn ngoại giao của bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sang thăm chính thức Hàn Quốc từ năm 2018 có đến 9 người vứt cả hộ chiếu để trốn ở lại. Nhục quốc thể không để đâu cho hết! Tôi là người từng có cơ hội bỏ chạy, nhưng rồi đã quay lại để đối mặt với những vấn đề của đất nước này. Có một lần hồi năm 2016, khi mò mẫm ở miền Trung đi làm phóng sự về thảm hoạ Formosa trên tàu cá của ngư dân, ông chủ tàu tên là Sơn hỏi tôi: em làm thế được bao nhiêu tiền? Mang tâm thế là một phóng viên tự do đi làm phim giúp ngư dân tố cáo thảm hoạ môi trường, quả thật lúc đó tôi cũng hơi bối rối vì câu hỏi rất thẳng thừng này. Nhưng nếu ai đã từng biết cuộc đời vất vả của ngư dân trên biển, thì chắc sẽ thấu hiểu và thông cảm với câu hỏi có phần sỗ sàng đó. Để có thể ra khơi đánh cá, một người chủ tàu phải lo từng đồng một trước chuyến đi. Nào thì lỉnh kỉnh những gạo, dầu, mì tôm, rau củ, nước mắm, bột nêm. Nào thì dầu máy, đá xay ướp cá. Tất cả đều phải đầu tư bằng tiền mặt, nhằm lo điều kiện sinh hoạt và lao động cho cả chục con người trên biển. Ấy là chưa kể những khoản tiền rất lớn để đầu tư tầu bè, trang bị máy móc, lưới vó… Hỏi sao ngư dân câu đầu tiên nằm lòng trước mọi việc là họ phải nghĩ đến tiền. Chuyến đi năm đó, sau 5 ngày vất vả lênh đênh trên biển, cá thì ít, tàu lại gặp thời tiết không thuận lợi và phải quay vào bờ sớm. Số cá, ghẹ bắt được trên tàu tôi nhớ bán được có mỗi 34 triệu 500 ngàn. Bình thường trước đây, mỗi chuyến đi một tàu cá có thể kiếm được trên dưới 100 triệu hoặc hơn. Nhưng từ khi thảm hoạ môi trường biển Formosa xảy ra thì mọi chuyện bắt đầu khác đi. Chuyến này sau khi trừ đi tiền dầu máy và nhu yếu phẩm đã mua khoảng 25 triệu, 11 người trên tàu chia nhau chưa đến 10 triệu còn lại. Số tiền này dân biển thường gọi là tiền đi bạn, là tiền chủ tàu sau khi bán cá và trừ đi chi phí sẽ chia cho anh em làm việc trên tàu. Tôi tạm biệt những người ngư phủ và dứt khoát không nhận một đồng “đi bạn” nào từ ông Sơn chủ tàu. Đến năm sau, tôi nghe nói ông ấy đã phải bán tàu để trang trải nợ ngân hàng gần 2 tỷ và bỏ đi làm công việc khác. Còn hơn chục thanh niên ngư phủ dày dạn kinh nghiệm đi biển hồi đó chắc cũng phải đi lang thang làm thuê làm mướn ở xứ người hết cả rồi. Buồn vô hạn! Rút cuộc thì sau vài trận đi biển với ngư dân như thế, tôi cũng có được mấy phóng sự về thảm hoạ Formosa, về những mất mát của đất nước này. Có người sau khi xem phim xong tâm sự: Em xem xong bưng mặt khóc hu hu giữa công ty… Nhưng có lẽ cũng chẳng tác dụng gì nhiều, vì bây giờ ngày ngày mọi người vẫn bỏ đi. Không bỏ đi sao được khi cuộc sống ngày càng khó khăn. Khi những người dân phải đối mặt hằng ngày với khói bụi ô nhiễm, với vấn nạn xã hội khắp nơi. Khi những tiếng nói phản kháng yếu ớt tiếp tục bị đàn áp, bỏ tù. Có đôi lúc chính tôi cũng hoang mang vì những gì xảy đến quanh ta. Những lúc như vậy, có một bài hát rất hay của ông Nguyễn Đình Toàn đã làm dịu đi nỗi day dứt ấy, và nâng đỡ tinh thần của tôi rất nhiều. Nguyễn Đình Toàn viết: <<<…Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi, bằng sức người vô hạn. Bằng sức người đầu đội trăm tấn bom, Tim mang nghìn dấu đạn. Tôi đã đổ mồ hôi, đổ máu tươi. Để mong ở lại đây. Dù thế nào cũng ở lại đây. Nhưng đất đã đỏ, vì bị nung bằng những lời dối trá. Người bám vào lửa đã đốt cháy tay. Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng cay đắng. Người lừa nhau, trời đất còn bưng mặt thảm thương…>>> Nhưng rồi kết thúc bài hát, ông ấy viết: <<<…Tôi đã bám lấy đất nước tôi, bằng sức người đã kiệt bằng sức người đã tả tơi ước mơ, tay chân dường rũ liệt. Tôi cố đợi ngày Việt Nam tái sinh, trong sông biển yêu thương. Cho dẫu lòng đã bạc lòng mong…>>> Vâng, tôi sẽ cố bám lấy đất nước tôi, để làm tất cả những gì mong ngày mảnh đất này tái sinh, để không còn ai nữa phải bỏ đi khỏi quê hương này. Yêu thương tất cả! nguyenlanthang’s blog  
......

Hai nhà hoạt động Việt ‘tạm lánh’ ở Thái Lan: Kiên định dù ‘sống trong cảnh giác’

Nhà hoạt động Lê Mỹ Hạnh và Đoàn Huy Chương trong phỏng vấn với RFA ở Thái Lan năm 2019 Ben Ngo - RFA| Trong cuộc phỏng vấn video hôm 26/9 tại một địa điểm nằm bên ngoài Bangkok, hai nhà hoạt động đang tạm lánh ở Thái Lan nói với phóng viên RFA rằng họ “vẫn kiên định về con đường đấu tranh dân chủ, cho dù đang phải sống trong cảnh giác nơi xứ người”. Ước tính tại Thái Lan hiện đang có khoảng 150 người Việt thuộc giới đấu tranh, nhà hoạt động dân chủ, blogger… sống trong cảnh “tạm lánh” do bị chính quyền Việt Nam trấn áp, đe dọa bỏ tù. Hôm 26/9, RFA đã có dịp trò chuyện với hai gương mặt nổi bật chịu công khai lên tiếng về tình cảnh của họ tại Thái Lan. Đó là ông Đoàn Huy Chương, nhà hoạt động công đoàn, từng mãn hạn hai bản án tổng cộng 8 năm rưỡi tù ở Việt Nam vì ông có các hoạt động đòi hỏi quyền lợi cho công nhân và cô Lê Mỹ Hạnh, nhà hoạt động từng bị “tấn công” hồi năm 2017. Mở đầu cuộc phỏng vấn, nói về lý do chọn Thái Lan để tạm lánh, ông Đoàn Huy Chương chia sẻ: “Cách đây hai năm, tôi quyết định tìm đường đến Thái Lan qua ngả đường bộ vì thời điểm đó, chính quyền đã câu lưu bố tôi để tạo áp lực bắt tôi. Đến giờ, sau hơn hai năm ở Thái, tôi nhận thấy quyết định này là đúng đắn. Đã là người Việt thì không ai muốn rời bỏ quê hương của mình cả, nhất là vào những dịp Tết mà mình vẫn đang lưu lạc ở xứ người thì thấy trong lòng rất trống trải, đau buồn. Nhưng tôi cũng như các anh chị em khác trong giới đấu tranh, vì hoàn cảnh và sự an nguy của mình mà đành phải tìm đường đi tỵ nạn chính trị, nếu không muốn tiếp tục nhận thêm án tù.” Cô Lê Mỹ Hạnh nói: “Cách đây bảy tháng, tôi gấp rút lên đường đi qua Thái Lan lánh nạn. Vì tôi tiên liệu, ở thời điểm đó, nếu còn ở Việt Nam thì tôi sẽ bị bắt vì cáo buộc liên quan đến vụ án của ông Michael Phương Minh Nguyễn và có thể phải đối mặt với bản án lên đến 10 năm tù. Trước đó, an ninh Việt Nam đã liên tục gây sức ép, ập vào nhà tôi.” Nhà hoạt động Đoàn Huy Chương đang chơi đàn trong một căn phòng trọ ở Thái Lan Photo: RFA Đề cập về cuộc sống tại Thái Lan, ông Huy Chương nói: “Nỗi lo thường trực của chúng tôi là an ninh với các nguy cơ là mình có thể bị bắt cóc, bị gây tai nạn.... Nhưng đó là những nguy cơ mà một nhà đấu tranh dân chủ phải chấp nhận và tìm cách vượt qua.” Cô Mỹ Hạnh bổ sung: “Đã qua đây thì điều quan trọng nhất với tôi là phải học cách thích nghi để tồn tại, hòa nhập với người dân nước sở tại. Theo như tôi thấy, người Việt ở Thái vẫn chịu sự kỳ thị nhất định do cách hành xử và sinh hoạt. Do vậy mà tôi luôn cố gắng học nói tiếng Thái, sống hòa đồng.” “Một trong các thử thách là do mình đang tạm lánh nên không thể làm việc, phải sống nhờ sự trợ giúp của những người đi trước hoặc những người muốn giúp cho phong trào đấu tranh. Bên cạnh đó, người đang lánh nạn thì bao giờ cũng có tâm trạng bất an, phải đề cao cảnh giác, hết sức tỉnh táo trong mọi tình huống, tuyệt đối không tiếp đón ai tại nhà trọ. Khi có người lạ xuất hiện tại khu vực của mình thì phải lập tức tìm hiểu mục đích của họ. Việc đảm bảo kết nối với những nhà đấu tranh khác ở đây rất quan trọng. Mỗi khi dự định đi gặp ai hoặc làm gì, tôi đều báo cho người mà tôi tin tưởng biết để đề phòng bất trắc.” Trả lời về cáo buộc mình qua Thái Lan để tìm đường đi Mỹ, ông Huy Chương cho biết: “Nói thật là trước đây, tôi đã từng bỏ qua hai cơ hội đi Mỹ trong các lần ra tù hồi năm 2008 và 2017. Trong một lần qua Thái Lan dự một khóa huấn luyện, tôi từng được đề nghị làm hồ sơ đi Mỹ nếu đồng ý. Thời điểm đó rất dễ đi cho các cựu tù nhân lương tâm. Lần sau thì người của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh tiếng nhưng tôi từ chối vì muốn ở lại Việt Nam. Mãi đến hai năm trước, nhận thấy hoàn cảnh không phép, tôi mới đành tìm đường quay lại Thái Lan và ở lại đây cho đến nay.” Trong buổi phỏng vấn, cô Mỹ Hạnh chia sẻ tâm sự: “Nếu so với các nhà hoạt động khác, tôi là người mới bước vào con đường đấu tranh, kể từ lần tham gia biểu tình chống Formosa hồi năm 2016 và thấy mình cần lên tiếng trước tình trạng bất công, thiếu dân chủ trong xã hội. Trước đó, tôi có người nhà nắm giữ chức vụ trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Là một người phụ nữ đang sống cảnh tạm lánh xa nhà thì có những hạn chế nhất định, nhất là việc khó chu toàn trách nhiệm với con cái đang còn ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tôi còn có chút nỗi niềm là gia đình phản đối những việc tôi đang làm và có khuynh hướng cô lập tôi. Các con tôi ở quê nhà cũng đang bị rầy rà, bị gây khó dễ.” Tâm tình về công cuộc đấu tranh, ông Huy Chương nói: “Dù gặp nhiều trở ngại hay bị điều tiếng vì thể hiện quan điểm phản đối người Việt ở hải ngoại gửi tiền về giúp cho người ở quốc nội, tôi chưa bao giờ nản. Tôi kiên định với mục tiêu đấu tranh cho đến khi nào thể chế độc tài ở Việt Nam bị gạt qua một bên. Một con én có thể không làm nên mùa xuân nhưng nhiều con én thì có thể. Mục tiêu sau cùng của tôi cũng như của nhiều anh em khác là muốn đất nước phát triển, dân chủ và người Việt dù đi đến đâu cũng được tôn trọng.” Nhà hoạt động Lê Mỹ Hạnh khi còn ở Việt Nam Courtesy of FB Lê Mỹ Hạnh Cô Lê Mỹ Hạnh tiếp lời: “Tôi mong muốn mình góp phần tạo được sự chuyển biến về nhận thức của người dân để thay đổi thể chế. Và theo tôi, dân chủ là một quá trình đòi hỏi sự cố gắng không chỉ của riêng tôi hoặc bất kỳ nhà hoạt động nào, mà cần sự tiếp sức, đồng lòng của cả người ở hải ngoại và quốc nội.” Kết thúc cuộc phỏng vấn, cả Huy Chương lẫn cô Lê Mỹ Hạnh đều nói với RFA rằng họ “tuy hiện đang lưu lạc khỏi Việt Nam nhưng chúng tôi luôn muốn có cơ hội quay trở về khi đất nước có dân chủ”. Về ông Đoàn Huy Chương, báo Thời Nay, một ấn phẩm của báo Nhân Dân hồi tháng 8/2019 viết: “Ông Chương từng gia nhập một tổ chức phản động ở Mỹ do Nguyễn Công Bằng khởi xướng; năm 2006 anh ta bị bắt và tòa án nhân dân tuyên án 18 tháng tù vì có hành vi “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân”. Ra tù, Đoàn Huy Chương vẫn chứng nào tật ấy, đến năm 2010 lại bị bắt, bị xét xử về tội gây rối trật tự, an ninh và đã phải nhận án 7 năm tù giam. Năm 2017, Đoàn Huy Chương mãn hạn tù, và vừa hung hăng tuyên bố tiếp tục “đấu tranh” vừa chuồn sang Thái Lan cầu cạnh xin xỏ Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên Hợp Quốc giúp định cư ở nước thứ ba…” Về cô Lê Mỹ Hạnh, trang Hội Cờ Đỏ hồi tháng 6/2019 viết: “Mới đây trên trang Facebook cá nhân của Lê Mỹ Hạnh có bình luận trong chuyên mục hỏi đáp có viết: “Đảng đóng vai trò gì về việc phòng chống tham nhũng?”, ”Không có đảng thì làm đ** gì có tham nhũng mà chống”. Đây là những ngôn từ hết sức ngông cuồng, thô tục, thiếu văn hóa của kẻ bất mãn nhằm chia rẽ lòng dân với Đảng, hạ thấp uy tín cán bộ đảng viên và cơ quan của Đảng và nhà nước ta...”  
......

Phải xử bà CTQH Kim Ngân thế nào cho đúng luật?

LS Lê Công Định| Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép được quy định tại Điều 349 của Bộ Luật hình sự 2015 (có hiệu lực ngày 01/01/2018) như sau: "1. Người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với từ 05 người đến 10 người; d) Có tính chất chuyên nghiệp; đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Đối với 11 người trở lên; b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; c) Làm chết người. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm." Như vậy, các yếu tố pháp lý được mô tả trong tội phạm bao gồm như sau: Khách thể: Xâm phạm an ninh đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam. Chủ thể: Là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu thể chế chính trị của Việt Nam là một nhà nước pháp quyền và dân chủ gấp triệu lần phương Tây, thì sự việc 9 người vượt biên trái phép sang Hàn Quốc sau khi "đi nhờ" chuyên cơ của phái đoàn Quốc hội Việt Nam phải bị khởi tố hình sự, cả vụ án lẫn bị can. Người đứng đầu trong chuyến đi đó tuy không có lỗi cố ý, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự vì liên quan đến vụ án, và nếu không bị khởi tố bị can, thì phải chịu trách nhiệm về chính trị là từ chức hoặc bị bãi miễn khỏi chức vụ đang đảm nhiệm. FB Lê Công Định Nguồn ảnh Fb Việt Tân  
......

Những ‘món nợ’ của một tân Phó Đề Đốc

Đại tá Huấn trong lễ khánh thành tượng Lone Sailor, Guam, 30-4-2019 (The Guam Daily Post). Mạnh Kim – VOA| Bài báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman đề ngày 20-5-1975 với hình cậu thiếu niên Nguyễn Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà binh. Con đường binh nghiệp đã giúp ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên đạt đến cấp bậc Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ… Thiếu tá Huấn (thứ hai, phải sang) trong những ngày làm việc tại Iraq. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Năm 1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại học Okahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các bằng thạc sĩ tại ba đại học: Đại học Southern Methodist, Đại học Purdue và Đại học Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên chiến đấu cơ. Năm 1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn đăng ký vào quân ngũ. Năm 1993, ông trở thành sĩ quan Hải quân trừ bị. Trong thời gian này, ông làm việc thêm ở Bộ Năng lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt chuyên nghiên cứu kỹ thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ Bộ Năng lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng… Một trong những bằng sáng chế của ông Huấn. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Năm 1993, internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website. Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn được mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải quân. Tiếng nói của anh thiếu úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network warfare”. Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm thiếu tá Huấn được đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6-2-2006. “Cách đây 44 năm, tôi là một trong những người tỵ nạn, lòng lo lắng cho một tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây. Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng… Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày 30-4-2019 đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial). Ông có một sứ mạng khác trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời ông bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông đã chọn binh nghiệp, vì quân đội mới là hình ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tỵ nạn như ông, một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền. “Món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ lớn nhất đối với ông Huấn. Có một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân, để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình. Câu chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh điều đó vì câu chuyện đã trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên cường của bố và mẹ ông trước họng súng của đặc công Cộng Sản. Hơn 50 năm trôi qua, ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến. Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út mà mẹ bế trên tay, khi họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên đã thỏa thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không bao giờ có thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng không thể quên cảnh đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi thể vừa bị thảm sát man rợ. Gia đình cố Đại tá Nguyễn Tuấn (tất cả đều bị sát hại, trừ ông Nguyễn Từ Huấn-đứng giữa; ảnh chụp năm 1967). (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) Rồi có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ 9 tuổi duy nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một vết đạn, từ vụ thảm sát trước đó, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó cũng là lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã không chết. Vài giờ của một thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu thân 1968 đã trở thành cơn ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã, thay vì đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn nghèo khó, ông Huấn đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn, một cách ngạo nghễ. Nước mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn đến giờ vẫn còn lưu trong đầu. Ông đã trả được “món nợ” cho lương tri, cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành. Tháng 10-2019 tới đây, lễ thăng chức Phó Đề đốc cho ông Nguyễn Từ Huấn sẽ được tổ chức tại Washington DC. Với kinh nghiệm cùng sự tận tụy, tân Phó Đề đốc Huấn còn sẽ đảm nhận một chức vụ mới: Tham mưu phó Bộ tư lệnh hải dương hệ thống Hải quân (Naval Sea Systems Command-NAVSEA), đặc trách an ninh mạng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại có thêm một nhân vật đáng để tự hào. Ông đã trả hết nợ chưa? Chắc là chưa – ông nói. Làm thế nào tôi có thể yên tâm thản nhiên nhìn Trung Quốc đe dọa quê hương mình từng ngày từng giờ mà không chút xót xa lo nghĩ? – ông Huấn tâm sự. Ông còn ôm nặng một món nợ lớn khác: “nợ” mình là người Việt Nam.  
......

Khi đế chế sụp đổ vì miếng thịt l…ợn

Tân Phong Web Việt Tân Đó không phải là lời nói giỡn. Miếng thịt lợn đang là mối quan tâm hàng đầu ở đất nước đông dân nhất thế giới và được coi đó là “nhiệm vụ chính trị trọng đại”, theo như lời của ông Phó Thủ Tướng Trung Quốc Hồ Xuân Hoa phát biểu, khi mà việc thiếu hụt trầm trọng nguồn cung trong nước khiến giá thịt lợn tăng cao chóng mặt. Giá thịt lợn đã tăng hơn 50% ở nhiều nơi và sẽ còn có thể tăng 100% vào dịp cuối năm Tết cổ truyền. Đây là nguồn protein chủ yếu không thể thiếu trong bữa cơm người Trung Quốc. Đoạn video clip tràn lan trên mạng xã hội mấy ngày qua là hình ảnh những người dân Trung Quốc đang giành nhau quyết liệt miếng thịt lợn được trợ giá. Quang cảnh thật hỗn loạn khi hàng chục người bám chặt vào miếng thịt, quyết không buông tay, la hét kinh hoàng. Một đoạn video khác cho thấy một người đàn ông ăn cắp miếng thịt lợn và nhét vào túi quần khiến người ta liên tưởng tới những gì diễn ra ở Venezuela mới đây. Nguyên nhân của việc khủng hoảng thịt lợn thì nhiều. Dịch tả lợn được cho là nguyên nhân trực tiếp khiến cho đàn lợn ở Trung Quốc mất đến 200 triệu con. Nguyên nhân thứ hai là vấn đề qui hoạch chăn nuôi trước đó vì các lo ngại về vấn đề môi trường cũng là tác nhân quan trọng. Tất nhiên, không thể không kể đến là quyết định cấm nhập đậu tương từ Mỹ của chính phủ – nguyên liệu đầu vào thiết yếu, cơ bản nhất cho ngành sản xuất thức ăn gia súc và sản xuất thực phẩm nội địa – đã khiến cho giá thức ăn gia súc cũng như nhiều mặt hàng thực phẩm khác có sử dụng đậu tương tăng nhanh chóng mặt. Giá cả thực phẩm nói chung đã tăng trung bình 20 – 30%. Quyết định mới đây của chính phủ mở các kho dự trữ thịt đông lạnh trung ương để cung ứng 10.000 tấn thịt lợn cho thị trường nhằm mục đích “bình ổn giá”, cùng với việc quay trở lại chế độ tem phiếu nhằm hạn chế người dân mua tích trữ tuy rằng có thể giảm bớt cơn tăng giá tạm thời nhưng lại gây ra một hậu quả khác nghiêm trọng hơn là tâm lý bất an của người dân Trung Quốc. Nếu như ông Tập Cận Bình thấu hiểu hơn tính cách của dân tộc mình và chứng kiến những cảnh tượng giành giựt nhau từng miếng thịt, ông ta có lẽ sẽ phải thay đổi lại chính sách thương mại với người Mỹ ngay trước khi quá muộn. Người Trung Quốc coi trọng miếng ăn hơn tất cả. Không hề ngoa ngôn khi nói rằng đối với đại đa số dân Trung Quốc thì “lý tưởng cách mạng, đường lối chính sách của đảng” chẳng là gì so với một miếng thịt l…ợn. Nhìn quyết tâm sống mái với nhau để giành miếng thịt không khác gì bầy thú hoang, hẳn bạn phải công nhận điều đó. Một nhà lãnh đạo Trung Quốc tự tin nói đại ý rằng “Người Mỹ không thể chịu đựng được tổn thất do chiến tranh thương mại lâu dài, còn người Trung Quốc thì có thể ăn cỏ cả năm mà không phàn nàn”. Ông ta đã hoàn toàn chủ quan “duy ý chí” và sai lầm tệ hại. Điều đó có thể đúng ở thời kỳ Mao Trạch Đông, vì chẳng có miếng thịt lợn nào ở quần hàng giảm giá mà tranh nhau. Còn bây giờ là năm 2019, người dân Trung Quốc có thể vẫn sẵn lòng học thuộc “trước tác Tập Cận Bình” và ca ngợi ông ta như Phật Thánh nhưng với điều kiện họ phải có thịt lợn để ăn. Còn khi không có thịt, mọi chuyện sẽ tồi tệ hơn cả bộ phim “xác sống” của Hollywood. Bạn có tin lời tôi nói không? Có thể lấy hai ví dụ sau để xem xét: Một là sự kiện sữa trẻ em bị trộn Melamine năm 2008 – loại độc chất gây hủy hoại chức năng gan và thận của trẻ nhỏ được 22 nhà sản xuất sữa Trung Quốc trong đó có cả các tập đoàn thực phẩm lớn như Sanlu (Tập đoàn Tam Lộc), Mengniu, Yili, và Yashili, chủ động cho vào thành phần vì nó làm tăng hàm lượng đạm sữa theo kết quả xét nghiệm, đã khiến cho hơn 53.000 trẻ nhiễm độc, 12.800 trẻ nhập viện và 4 trẻ tử vong – khi vụ việc bị phát giác đã dấy lên một làn sóng lo ngại về chất lượng thực phẩm nội địa và đặc biệt là sữa cho trẻ em. Sau vụ này một làn sóng cư dân Trung Quốc đại lục đã tràn sang tất cả các quầy hàng ở Đài Loan, Hong Kong, Macau, Nhật Bản, Singapore… để mua vét sạch từng hộp sữa trẻ em khiến cho chính quyền các nước sở tại khốn khổ trong việc hạn chế khách du lịch Trung Quốc mua hết loại sữa này. Hai là vào năm 2011 khi xảy ra sự kiện sóng thần ở Tohoku, Nhật Bản khiến cho nhà máy điện nguyên tử Fukushima hư hỏng, bị rò rỉ phóng xạ ra ngoài môi trường nước biển. Hay tin, người dân Trung Quốc đã ngay lập tức lao vào các cửa hàng thực phẩm tranh cướp nhau mua hết sạch muối ăn ở đây để về dự trữ trong kho. Có người đã mua hàng chục tấn để đầu cơ bán lại vì tin rằng giá “muối sạch” sẽ tăng cao. Không có gì ngạc nhiên khi tình trạng giá lương thực tăng vọt và thịt lợn khan hiếm, đắt đỏ này kéo dài cho đến Tết Nguyên đán, những quan chức Trung Quốc sẽ được tận mắt trông thấy cơn giận dữ của người dân và hỗn loạn kinh hoàng ở những cửa hàng thực phẩm như thế nào. Mà cũng đúng thôi, nếu một siêu cường đặt mục tiêu lãnh đạo thế giới vào năm 2045 mà lại không đảm bảo nổi miếng thịt l…ợn cho người dân thì có lẽ quả là điều mỉa mai. Thậm chí, tính chính danh của đảng Cộng Sản Trung Quốc có lẽ phải xem xét lại. Tin tôi đi, đối với Trung Quốc, mọi chuyện có thể xảy ra, và không ai biết trước gì ở ngày mai cả. Nếu vào năm 2023, người ta nói rằng cả một đế chế “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” vĩ đại sụp đổ vì một miếng thịt l…ợn thì điều đó cũng hoàn toàn có thể xảy ra. Một quốc gia mà ở đó người dân hoàn toàn không còn đức tin, sự kiềm chế tối thiểu bản năng và hoàn toàn vắng bóng các giá trị văn hóa nhân văn thì những điều tồi tệ nhất có thể sẽ xảy ra chỉ một sớm, một chiều. Tân Phong  
......

Bao giờ đất nước đứng lên?

Tân Phong – Web Việt Tân Từ Hong Kong Hôm 21 tháng Chín, 2019, cuộc đấu tranh của những thanh thiếu niên Hong Kong bước sang ngày thứ 105. Mạng xã hội lan truyền đoạn phỏng vấn một thanh niên trẻ Hong Kong lý do mà anh tham gia cuộc biểu tình lịch sử này. Câu trả lời của anh thực sự xúc động lòng người. “…Tôi sẵn lòng hy sinh mạng sống của mình vì cuộc đấu tranh này. Đơn giản vì đây là xứ sở của chúng tôi. Tại sao chúng tôi không đấu tranh vì nó? Tại sao chúng tôi không chiến đấu cho xứ sở của mình? Hãy nhìn xung quanh đây, những thanh niên này, tất cả họ sẽ trở thành nô lệ. Năm 2047 sẽ tới và họ khi đó đã ở tuổi trung niên, tất cả sẽ là nô lệ” Cho đến bây giờ, cuộc đấu tranh của người Hong Kong đã cuốn hút hầu như toàn bộ người dân Hong Kong tham gia và ủng hộ, bất kể tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, giai cấp. Đỉnh điểm của cuộc biểu tình vào ngày 17 tháng Sáu, 2019 có tới hơn 2 triệu người đã xuống đường. Kéo dài suốt hơn ba tháng qua, liên tục các cuộc biểu tình như những đợt triều dâng không ngơi nghỉ. Cuộc sống ở Hong Kong đã thay đổi hoàn toàn. Học sinh bãi khóa, thày cô giáo xuống đường cùng học sinh, sinh viên. Giới luật sư, bác sĩ, công nhân, kỹ sư,… tổ chức biểu tình, đình công luân phiên. Xã hội Hong Kong đã được chuyển biến nhanh chóng một cách kỳ lạ để thích ứng cho một đấu tranh trường kỳ. Hàng trăm những tổ chức, đội nhóm bí mật phụ trách các công tác hậu cần, kinh tài, truyền thông, vận động quốc tế, địch vận, y tế… cho đến tuyến đầu các cuộc biểu tình là những thanh niên dũng cảm không hề sợ hãi. Hãy đọc “tuyên ngôn” của họ trong cuộc đấu tranh này để hiểu rằng họ sẵn lòng hy sinh cho Tự Do. “…Vì những giọt nước mắt của chúng ta rơi trên mảnh đất này. Vì những nỗi thống khổ của chúng ta trong cảnh hỗn loạn này. Chúng ta ngẩng cao đầu cất tiếng hát hào hùng. Hy vọng để Tự Do sẽ mọc rễ ở đây. Vì nỗi sợ hãi hiện ra trong đầu. Vì hy vọng mà chúng ta tiến lên. Chúng ta đi trong máu của những người đã hy sinh. Hãy để Tự Do tỏa sáng ở Hong Kong… – Glory to Hong Kong.” Bất chấp đàn áp ngày một tàn bạo dã man hơn của lực lượng hắc cảnh, côn đồ từ Trung Quốc đại lục, máu đã đổ, hàng trăm thương vong và khoảng 1.300 người bị bắt giữ, Hong Kong vẫn biểu tình kiên cường, mạnh mẽ, uyển chuyển đúng như phương châm của họ “BE WATER”. Nhìn những thanh niên còn rất trẻ bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị trói giật khuỷu tay, nhưng tất cả ánh mắt, thần thái gương mặt đều toát lên sức mạnh đức tin đến kinh ngạc, điềm nhiên như không. Họ không hề run sợ. Tất cả đều là những tông đồ sẵn sàng bước lên đoạn đầu đài – sẵn sàng chết cho Tự Do. Một dân tộc như thế, một cộng đồng như thế thì không một sức mạnh đen tối nào có thể khuất phục. Dân tộc đó, cộng đồng đó xứng đáng có được Tự Do, Thịnh Vượng. … nhìn về Việt Nam Hôm qua, 21 tháng Chín, 2019, hàng trăm thanh niên Việt Nam xếp hàng dài trước các cửa hàng Bitexco để chờ mua những đôi giày mới Adidas hiệu Yeezy Boost 350 V2 Cloud White có giá gần chục triệu đồng/đôi. Họ đã phải xếp lượt đăng ký từ 4-5 ngày trước đó. Cách đây không lâu, khi những chiếc điện thoại iPhone XS đầu tiên được bán ở iPhone Store tại Singapore, những đoàn người Việt cũng xếp hàng qua đêm để dành mua. Hầu hết những người trẻ ở đây đều ăn mặc rất thời thượng, những “set” đồ trị giá hàng ngàn Mỹ kim, hầu hết chỉ cắm cúi vào màn hình những chiếc smartphone đắt tiền chơi game hoặc ngó nghiêng với điệu bộ thất thần, đờ đẫn. Có thể dễ dàng biết họ xuất thân từ những gia đình có kinh tế rất khá giả, giàu có ở Việt Nam. Những hình ảnh này thật trái ngược với các thanh niên ở Hong Kong. Giới trẻ Việt Nam đa phần đều không quan tâm tới chính trị, sự hiểu biết về xã hội và luật pháp nông cạn một cách đáng kinh ngạc. Tuy vậy, họ thường thích thể hiện tình yêu đất nước bằng cách cổ vũ nhiệt thành những trận cầu của đội tuyển quốc gia, tổ chức đua xe và hò hét điên cuồng “Việt Nam vô địch”. Họ cũng rất quan tâm đến những thần tượng Kpop và cuồng loạn đón chào, khóc lóc, ôm hôn cái… ghế ngồi của thần tượng khi có thể. Nhưng nếu để nói về những vấn đề về chính trị, về xã hội, môi trường thì họ hờ hững kỳ lạ. Tất nhiên, không phải tất cả đều như thế. Nhưng số người trẻ quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội là thiểu số. Quan điểm phổ biến rằng hãy lo cho cái “nồi cơm” của nhà mình trước và mọi việc đã có đảng và nhà nước lo. Họ chấp nhận thực tế rằng tất cả quan chức của bộ máy nhà nước đều tham nhũng và hãy “khôn ngoan” lựa chọn phe nhóm nào mạnh nhất để “theo đóm ăn tàn”. Tính thực dụng đến bỉ tiện của những thế hệ thấm nhuần “đạo đức cách mạng” đã được di truyền cho những thế hệ sau một cách triệt để. Đã hơn hai tháng qua, Trung Quốc cho tàu Hải Dương 8 cùng hạm đội hộ tống xuống bãi cạn Tư Chính thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để thăm dò trữ lượng dầu khí và chuẩn bị lắp đặt giàn khoan ngay trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam. Vào đúng ngày 2 tháng Chín, 2019, Trung Quốc đã bắn thẳng vào giàn khoan DK1/18 gây thương vong cho lực lượng hải quân đóng trú tại đây. Thiếu tá Nguyễn Xuân Tài, quê Quảng Bình hy sinh nhưng nhà cầm quyền hèn hạ đến mức không dám công bố mà lấy lý do chiến sĩ bị “nhồi máu cơ tim”. Trước áp lực của Trung Quốc và rủi ro xung đột vũ trang này, Repsol đã chính thức từ bỏ các dự án liên doanh với Việt Nam. Toàn bộ hệ thống chính trị Việt Nam tê liệt. Ngoài mấy lời phản đối, đề nghị, gửi công hàm ngoại giao rồi… câm nín. Đội quân có lực lượng lớn nhất Đông Nam Á, với hơn 400 tướng lĩnh, kinh phí để nuôi hàng năm lên tới 30% GDP quốc gia thực sự là đồ phế vật. Không một quan chức chính phủ, đảng, quân đội nào đứng lên lên án kẻ xâm lược. Sự hèn hạ, vô liêm sỉ của giới chức cầm quyền CSVN đã tới cùng cực. Ngày 21 tháng Chín, 2019 đã gần một tháng kể từ thảm họa cháy nhà máy Rạng Đông gây ra tình trạng phơi nhiễm thủy ngân diện rộng trên địa bàn Hà Nội khiến hàng trăm người nhiễm độc và hàng ngàn hộ gia đình đứng trước rủi ro cao về ô nhiễm nghiêm trọng nhưng nhà cầm quyền không có bất cứ động thái hay giải pháp nào bảo vệ sức khỏe người dân ngoài những phát ngôn sáo rỗng, ngụy biện quẩn quanh và dối trá. Kỳ lạ hơn nữa, những cư dân ở khu vực bị phơi nhiễm độc chất cũng không có động tác nào kiến nghị, đấu tranh cho quyền lợi cho chính họ ngoài việc… chuyển nhà đi nơi khác ở. Thử hỏi, ngay cả những vấn đề liên quan chính sức khỏe, tính mạng của họ mà không màng tới, không có hành động nào để tự mình bảo vệ thì quả thực không còn gì để nói. Họ xứng đáng thân phận của nô lệ? Điều gì đã biến những con người này thành giống loài bàng quan, vô tri tới mức không còn cả bản năng sinh tồn trước những mối nguy hiển hiện? Cũng hôm 21 tháng Chín, 2019, đi qua vùng cửa sông Bạch Đằng, nhìn dòng sông mênh mông mải miết chảy ra biển Đông, cúi đầu nghe tiếng sóng tưởng nghe ngàn vạn tiếng quân reo từ quá khứ hào hùng của cha ông mà thấy lòng uất nghẹn. Cả một dải non sông gấm vóc, “bản dư đồ ông cha nhọc khó” mấy ngàn năm đang bị dẫm đạp, bị ô nhục vì những kẻ cầm quyền đang tâm mãi quốc cầu vinh. Cả một dân tộc trong cơn mê sảng, lặn ngụp trong vũng lầy không lối thoát. Ngước mắt nhìn lên thấy một vầng thái dương đỏ như cục máu bầm mà tự hỏi “Bao giờ đất nước đứng lên?” Tân Phong  
......

Hậu quả từ một chính sách

Đỗ Ngà| Ngày 18/05/2019. Trên báo Vnexpress có bài “Vì sao tội phạm ma tuý quốc tế chọn Việt Nam để tập kết hàng?”. Trong bài có đoạn clip mô tả về đường dây buôn bán hàng tấn ma túy đá. Cũng trong bài này, phóng viên có đặt câu hỏi với với ông đại tá Vũ Văn Hậu – Cục phó Cảnh sát điều tra về tội phạm ma tuý, Bộ Công an rằng, tại sao tội phạm quốc tế chọn Việt Nam tập kết mà túy? Và câu trả lời của ông này theo tôi là rất buồn cười. Ông ta nói dài nhưng nói gọn lại thì có 3 ý thế này: Thứ nhất, đó là do biên giới Việt Nam có địa hình đồi núi; thứ nhì TP. HCM là thành phố năng động nên hút nhiều ma túy; và thứ 3 là do chính sách hải quan thông thoáng tạo kẽ hở cho ma túy lọt vào. Biên giới là vùng đồi núi thì hầu như nước nào cũng có. Còn nói về năng động thì TP.HCM chẳng là gì so với nhiều thành phố khác trên thế giới như Singapore, HongKong, Tokyo, Seoul vv… Vả lại chuyện năng động và chuyện tiêu thụ ma túy cao chẳng có mối liên hệ gì cả. Và cuối cùng là, chính sách thông thoáng không có nghĩa là có kẽ hở. Thông thoáng là thủ tục nhanh gọn, nhưng việc kiểm hàng kỹ và đúng trách nhiệm thì chẳng có hàng lậu nào có thể lọt qua cả. Còn việc ma túy lọt qua là bởi yếu tố con người, là do nhân viên hải quan hoặc không làm tròn trách nhiệm hoặc tiếp tay cho tội phạm. Ông đại tá công an này đã đổ thừa để phủi trách nhiệm cho ngành ông ta, cho đảng của ông ta mà thôi. Chuyện đổ thừa này nó tựa như trước đây, chính quyền CS đã đổ thừa rằng “tệ nạn xã hội cao là do mặt trái của cơ chế thị trường” vậy. Kinh tế Việt Nam rất kém, thu nhập đầu người chỉ có 2.400 đô mỗi người/năm. Một con số rất thấp so với những nước có mức trung bình. Bình quân đã thấp, mà tài sản quốc gia chỉ tập trung vào túi quan chức, túi những doanh nghiệp sân sau, và những túi của đám doanh nghiệp lừa đảo dựa hơi chính quyền như Alibaba. Đất nước nghèo, mà sự chênh lệch giàu nghèo vô cùng lớn thì tất nhiên đa phần người dân là rất nghèo khổ. Bần cùng thì ắt sinh đạo tặc, nước nghèo ắt tệ nạn tăng là điều tất yếu. Vì vậy tệ nạn ma túy trong giới bình dân sẽ tăng là đương nhiên. Giáo dục thất bại dẫn đến đạo đức xã hội ngày một xuống thấp, tỷ lệ lớp trẻ sa ngã ngày càng cao. Người ta nói, ở Việt Nam muốn chơi ma túy không bao giờ sợ thiếu ma túy mà chỉ sợ thiếu tiền. Ma túy ở Việt Nam có đủ để cung cấp cho mọi giới từ thượng vàng đến hại cám. Nếu có ít tiền thì chắt cóp mua tép ma túy loại rẻ tiền cùng ống tiêm chích choác ở những xó xỉnh như khu nhà hoang, gầm cầu vv.. Còn giàu thì chơi ma túy đá đắt tiền và kèm theo đó là những hoạt động trụy lạc mang tính bầy đàn tại những nơi sang trọng như ở các biệt thự hay ở khách sạn 4 sao, 5 sao vv… Mới sáng nay, sáng ngày 22/09/2019 công an Đồng Nai đã phát hiện ổ ma túy gồm 150 con nghiện chơi ma túy đá tại bar Ozone trong khách sạn Central Park, TP Biên Hòa. Kinh khủng! Như vậy qua đây chúng ta thấy gì? Kinh tế yếu và giáo dục kém của Việt Nam đã góp một phần trong việc gia tăng người nghiện, điều đó dẫn tới Việt Nam là một thị trường tiêu thụ ma túy đầy tiềm năng với bọn tội phạm ma túy. Đó chính là 1 trong những lý do mà bọn tội phạm ma túy quốc tế chọn Việt Nam làm nơi tập kết ma túy. Và thực tế, ma túy bây giờ được sản xuất và buôn bán ở Việt Nam đã được tính bằng đơn vị là tấn chứ không phải là tính bằng đơn vị bánh (khoảng 350 gram), hoặc ký như trước đây nữa. Thị trường tiềm năng chỉ là một nguyên nhân, còn nguyên nhân quan trọng nhất là ở đâu? Chắc mọi người vẫn chưa quên vụ phát hiện xưởng sản xuất ma túy vào 10/09 mới đây. Nhóm người Trung Quốc là những nhân vật chính trong vụ này. Chỉ một nhóm thôi, chúng phát triển như những doanh nghiệp lớn vậy, lập cơ sở khắp nơi như ở Kon Tum, Bình Dương, Bình Định, Ninh Thuận, và Sài Gòn. Với tang vật đến 13 tấn ma túy và 20 tấn thiết bị nhưng bọn này được miễn tội hình sự và chỉ bị phạt hành chính cho có. Có thể khẳng định rằng, với chính sách này của ĐCS thì Người Trung Quốc sẽ đóng vai trò là cái phiễu để tội phạm quốc tế rót ma túy vào Việt Nam. Với sự ưu ái của ĐCS dành cho người mang quốc tịch Tàu Cộng Sản như vậy, nhiều người đã nghĩ rằng, chỉ có nguồn ma túy từ Trung Quốc mới hoành hành Việt Nam. Nghĩ thế là đúng nhưng chưa đủ. Chính sách ưu tiên tội phạm Tàu như thế tất nhiên sẽ được tội phạm quốc tế tận dụng một cách triệt để. Tận dụng bằng cách nào? Đó là, bọn tội phạm quốc tế sẽ thuê người Trung Quốc đứng ra hoạt động buôn lậu và sản xuất ma túy tại Việt Nam. Khi bị bắt, những người này chỉ bị phạt hành chính và trả về Trung Quốc, thế là an toàn. Với dân số đến 1,4 tỷ, thì thành phần nghèo đói vô công rỗi nghề ở Trung Quốc là rất đông, cộng thêm nữa là tính tham lam của người Tàu Cộng Sản cũng rất lớn, nên tội phạm ma túy sẽ tìm cách thuê bọn này sang Việt Nam hành nghề sản xuất và buôn bán ma túy thôi. Cho nên nói người Tàu Cộng Sản chính là cái phểu để tội phạm quốc tế rót ma túy vào Việt Nam là vậy. Nếu tại một quốc gia mà có dân chơi ma túy đang phát triển mạnh tạo ra một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, cộng thêm vào đó là nơi đây, tội phạm ma túy chỉ bị phạt hành chính thì thử hỏi, có bọn tội phạm ma túy quốc tế nào không thèm muốn không nhỉ? Việt Nam sẽ là cái sọt rác đựng tội phạm cho Trung Quốc và chứa luôn tội phạm thế giới ăn theo. Kết quả có được như vậy là bởi “chính sách đúng đắng của đảng” mà ra cả. Hãy để đảng lo đi, mình đừng lo hén! Tham khảo: https://vnexpress.net/…/150-nguoi-choi-ma-tuy-trong-khach-s… https://vnexpress.net/…/vi-sao-toi-pham-ma-tuy-quoc-te-chon…  
......

Đất nước không phải là của hồi môn của ai đó

Nguyen Ngọc Chu ĐẤT NƯỚC KHÔNG PHẢI LÀ CỦA HỒI MÔN CỦA AI ĐÓ MÀ ĐEM BIẾU TẶNG CHO TRUNG QUỐC... "BIẾT CHẾT MÀ VẪN CỨ KÝ" 1. Báo Tuổi trẻ ngày 21/09/2019 đăng bài “Đường sắt nghìn tỉ Cát Linh - Hà Đông, biết không hiệu quả vẫn làm” với lời dẫn “Cách đây 11 năm, khi lập dự án đầu tư tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông, Bộ GTVT đã biết dự án không hiệu quả kinh tế nhưng các bên liên quan vẫn ngó lơ để dẫn tới tuyến đường sắt đô thị nghìn tỉ dở dang, ngổn ngang như hiện nay”. Tiếp theo báo đã liệt kê ra các số liệu, một trong số đó là đã cắt ngọn đút túi trước 2 658 tỷ đồng : “đến hết tháng 6-2018, số vốn rót vào đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông theo báo cáo của chủ đầu tư khoảng 11.337 tỉ đồng, nhưng kết quả kiểm toán chỉ ghi nhận khoảng 8.679 tỉ đồng đã đầu tư vào dự án”. Đường sắt Cát Linh – Hà Đông là sự mất mát to lớn về kinh tế, là biểu tượng ô nhục của sự hợp tác với Trung quốc mà nhân dân sẽ đời đời nguyền rủa. Không muốn nói thêm nữa, vì càng nói càng đau lòng, càng nói càng căm phẫn những kẻ đã đưa đến cho Đất Nước những tai họa mà bắn chúng đi cũng không hả giận. 2. Biết trước chết mà vẫn ký không chỉ có đường sắt Cát Linh – Hà Đông. Trước nữa, ông Nông Đức Mạnh đã hứa dành Bô xít Tây Nguyên cho Trung Quốc. Đến mức cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết thư cũng bỏ ngoài tai. Và Quốc Hội cũng bó tay vì đó là dự án của TBT Nông Đức Mạnh đã hứa trước dành cho Trung quốc. 3. Gần đây nữa, khi Việt Nam trao trả hàng trăm người Trung quốc phạm tội ở Việt Nam cho phía Trung quốc mà không xét xử theo luật pháp Việt Nam, thì mới ngã ngửa ra cái gọi là “Hiệp định Hợp tác về dẫn độ” đã ký với Trung quốc tít từ 2015. Đây là một Hiệp định mở đường cho Trung quốc đưa người sang phạm tội ở Việt Nam. Trên thực tế, người Trung quốc đã sang Việt Nam sản xuất hàng tấn ma túy ở Việt Nam để hủy diệt người Việt Nam mà không bị trừng trị. Việt Nam sẽ phải căng lực lượng đối phó với tội phạm do Trung quốc đưa sang đến mức kiệt sức. Hiệp định này không ở mức bất lợi, mà là ở mức tai họa. ĐẤT NƯỚC KHÔNG PHẢI LÀ CỦA HỒI MÔN CỦA AI ĐÓ 4. Hiện nay, toàn dân đang lo lắng về đường bộ cao tốc Bắc – Nam. Có phải có cung đoạn cũng đã được hứa hẹn trước dành cho Trung quốc? Rồi tiếp đến nữa là đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam? Đường sắt Hà Khẩu – Lao Cai – Hà Nội – Hải Phòng? 5. Còn bao nhiêu điều đã ký kết với Trung quốc mà người dân không biết? Đất Nước này không phải là của hồi môn của ai đó mà đem biếu tặng cho Trung quốc.  
......

Phẩm giá quốc gia trước chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh

Nguyễn Hiền - (VNTB)| Chúng ta sẽ không ‘dạy cho Trung Quốc một bài học’, nhưng chúng ta có đủ phẩm giá và tư cách của một dân tộc tồn tại hiên ngang và bất diệt trong hàng ngàn năm, một dân tộc không thể bị đồng hóa trước nhiều thủ đoạn, mưu đồ của Bắc Kinh. Và chúng ta sẽ tiếp tục viết nên những bài học dành cho chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh trong thời hiện đại. Trung Quốc trắng trợn tuyên bố, Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính, có tên tiếng Anh là Vanguard Bank.   Trung Quốc ngang nhiên coi hành động chấp pháp bảo vệ chủ quyền Việt Nam là ‘vi phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải (cách Trung Quốc gọi Biển Đông).’   Trung Quốc hợm hĩnh coi hành động khai thác dầu khi một cách hợp pháp tại Bãi Tư Chính của Việt Nam là ‘vi phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của Trung Quốc, đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam.’   Trung Quốc, một quốc gia không tôn trọng luật pháp quốc tế nhưng ngược ngạo trích dẫn Điều 5 của DOC và UNCLOS để yêu cầu ‘Việt Nam phải ngay lập tức chấm dứt các hoạt động đơn phương và phải khôi phục hòa bình trong khu vực.’   Dã tâm của Trung Quốc bằng đường lối đối ngoại không trung thực và hoàn toàn bá quyền đã đặt vấn đề biến vùng không tranh chấp và thuộc hoàn toàn chủ quyền Việt Nam trở thành một nơi tranh chấp qua tuyên bố ‘sẵn sàng giải quyết các vấn đề liên quan thông qua các tham vấn hữu nghị với Việt Nam.’   Việt Nam không cần thứ ‘hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc’. Việt Nam là quốc gia có đầy đủ cơ sở pháp lý về chủ quyền tại Bãi Tư Chính, và vĩnh viễn sẽ không có bất kỳ một sự tranh chấp nào tại khu vực này.   Chúng ta không chấp nhận mưu đồ của Trung Quốc, và càng không chấp nhận tuyên bố đầy kiêu căng và áp đặt của chính quyền Bắc Kinh. Chúng ta cần tuyên bố thẳng đó là tuyên bố phi lý, chà đạp lên tình hữu nghị của hai quốc gia, làm tổn hại lợi ích của nhân dân hai nước, và Việt Nam sẵn sàng đáp trả nếu Bắc Kinh vẫn coi đó là ‘vùng tranh chấp.’   Chúng ta yêu cầu một tuyên bố mạnh mẽ nhất từ giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó, một tuyên bố từ Quốc Hội – cơ quan quyền lực thuộc về Nhân Dân là điều cần thiết lúc này. Thống nhất quan điểm ‘chống bọn bá quyền Trung Quốc ở vùng Biển Đônmg, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.’   Chúng ta yêu cầu giới tinh hoa chính trị Việt Nam, bằng lương tâm và trách nhiệm cao nhất, phải sẵn sàng đồng hành cùng với Mỹ trong ‘sẵn sàng đương đầu với thách thức của Trung Quốc tại Ấn Độ-Thái Bình Dương.’ Sử dụng mọi biện pháp và phương thức để giữ gìn bằng được chủ quyền quốc gia tại Bãi Tư Chính. Trong đó minh bạch hóa, kịp thời hóa trong phản ảnh các hành động xâm phạm của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính đến người dân thông qua 858 cơ quan báo chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí.   Chúng ta yêu cầu ông Chủ tịch nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – với vị thế chính trị của mình phải cho thấy sự chính danh của ĐCSVN, Nhà nước Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thông qua xác lập, và nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ từ ‘Đối tác toàn diện’ lên thành ‘Đối tác chiến lược toàn diện’, hạ cấp quan hệ Việt - Trung từ ‘Đối tác chiến lược toàn diện’ xuống ‘Đối tác chiến lược.’ Điều này thể hiện bản lĩnh, ý chí và quan điểm cứng rắn của chính quyền đối với công cuộc bảo vệ lãnh thổ quốc gia, lòng tự tôn của một dân tộc tồn tại hàng ngàn năm chưa một lần khuất phục, và cho thấy ý thức vệ quốc vĩ đại nhất của dân tộc ta.   Chúng ta theo đuổi tầm nhìn và trật tự tự do với các quốc gia yêu chuộng tự do và hòa bình như Mỹ và các quốc gia phương Tây; chúng ta sẽ sẵn sàng đối kháng với một tầm nhìn và tham vọng bành trướng, sự trỗi dậy hòa bình giả tạo, sự đe dọa, áp đặt và bắt nạt từ Trung Quốc.   Chúng ta không thể đứng ngoài và phó mặc cho Mỹ trong tiến trình ‘không né tránh việc vạch trần và tranh cãi các hành động phá hoại trật tự quốc tế tự do và cởi mở, thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng ở Ấn Độ-Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ.’ Bởi bảo vệ chủ quyền quốc gia là mệnh lệnh của dân tộc, là sự thức tỉnh tối đa của lợi ích quốc gia dựa vào những chuyển biến và bối cảnh của tình hình thế giới.   Quyền của chúng ta là quyền được thông tin về chủ quyền quốc gia.   Nghĩa vụ của chúng ta là bảo tồn toàn vẹn chủ quyền lãnh hải quốc gia.   Trách nhiệm của chúng ta là đồng hành cùng với nhau, chống lại bất kỳ một mưu đồ bán nước, phản nước hay sự ươn hèn trước chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc. Chúng ta sẽ không ‘dạy cho Trung Quốc một bài học’, nhưng chúng ta có đủ phẩm giá và tư cách của một dân tộc tồn tại hiên ngang và bất diệt trong hàng ngàn năm, một dân tộc không thể bị đồng hóa trước nhiều thủ đoạn, mưu đồ của Bắc Kinh. Và chúng ta sẽ tiếp tục viết nên những bài học dành cho chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh trong thời hiện đại.   Và đây là bài học ‘không bao giờ nhượng bộ, không bao giờ nhượng bộ, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ - trong bất cứ chuyện gì, dù vĩ đại hay nhỏ bé, lớn lao hay tầm thường - đừng bao giờ nhượng bộ, trừ  khi     bị thuyết phục bởi đức hạnh và lẽ phải. Không bao giờ thỏa hiệp trước thế lực. Không bao giờ khuất phục trước sức mạnh tưởng chừng áp đảo của kẻ địch.’ [*] Chú thích   [*] Câu nói của Thủ tướng Anh Winston Churchill.  
......

Thời Chó Má & Thằng Chó Đẻ

Sổ tay thường dân Tưởng Năng Tiến|   “Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.” Vâng tôi tin “như thế” chứ. Chả những thế, tôi còn trộm nghĩ thêm rằng chính vì học theo gương của một Thằng Chó Đẻ nên đất nước mới phải trải qua cái Thời Chó Má thế này. Có đảng viên nào chưa thề “không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác”? Trân Văn Truyện ngắn mới nhất của Vũ Thư Hiên (“Gặp Gỡ Ở Lưng Đèo”) viết về cuộc tao ngộ khá lạ kỳ của ông, với nhạc sỹ Đoàn Chuẩn, có đoạn hơi là lạ: “Trong gian ngoài cái quán có cái chõng tre đã ngả màu cánh gián, trên đó có ấm nước vối sứt vòi, mấy cái bát sành, vài nải chuối, mấy tấm bánh lá, mấy gói kẹo vừng, kẹo lạc, vài phong thuốc lào – hàng hoá muôn thuở của bất cứ quán ven đường nào…  Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống, rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy. Nhiều quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế – người ta chẳng cần trông, khách không bao giờ ăn uống mà không trả tiền.” Tôi hỏi tác giả: – Chuyện xẩy ra năm nào, vậy anh? – Hồi 1950. – Còn cái quán thì ở đâu? – Giữa đèo Re, trên tuyến đường Tuyên Quang – Thái Nguyên. Lúc ấy mình đi kháng chiến mà. Kháng chiến chống Pháp thành công. Kháng chiến chống Mỹ cũng thế. Việt Nam thống nhất, giang sơn thu về một mối, Hà Nội trở thành thủ đô của cả nước. Mười bốn năm sau, năm 1989, một nhà văn từ miền Nam mới có dịp ghé thăm mảnh đất từng được mệnh danh là Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại. Ông nhận xét: “Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ: – Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi. – Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…” Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá. (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. California: Thế Kỷ,  1994). Một cái gì đó … là “cái gì” mà có thể “phá vỡ lòng tin” của cả một dân tộc đến độ “người ta có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao” như thế? Trong một thời gian không ngắn, kéo dài đến vài thập niên, người ta vẫn thường được nghe báo đài nhà nước giải thích rằng “đó” là “do ảnh hưởng tàn dư của chế độ cũ” mà ra cả. Tôi cũng tin như thế cho mãi đến hôm 6 tháng 9 vừa qua. Hôm ấy, trong cuộc hội luận về vụ án Mobiphone/AVG (do BBC thực hiện) luật sư Trần Quốc Thuận mới có đôi lời nói khác: “Tàn dư gì bây giờ là gần 45 năm rồi? Những người này là do chế độ này đào tạo, mà bây giờ hư cỡ đó thì điều đó chứng tỏ là có vấn đề… Vụ đó cũng cho thấy rằng phẩm chất của những người lãnh đạo trong bộ máy nhà nước là có vấn đề, có những lỗ hổng nghiêm trọng, suy thoái nghiêm trọng, liên quan đến tướng lãnh, liên quan đến lãnh đạo, hàm thứ trưởng, bộ trưởng…” Lời khẳng định của vị cựu Phó Chủ Nhiệm Thường Trực Văn Phòng Quốc Hội, không dưng, khiến tôi chợt nhớ đến cái quán lưng đèo: Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống, rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy. Nhiều quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế… Hoá ra những con người sinh ra và trưởng thành trong chế độ phong kiến và thực dân cũng không đến nỗi tệ hại gì cho lắm. Họ vẫn đủ tự trọng để bước vào một cái quán vô chủ, giữa núi rừng heo hút, ăn uống xong rồi tự động để lại tiền theo giá đã ghi. Cách hành sử của những Con Người Mới Xã Hội Chủ Nghĩa, sinh ra và trưởng thành trong lòng cách mạng – xem chừng – hơi khác. Ông Trần Thành Nam, một hành khách của con tầu Thống Nhất, tường thuật như sau: Ở một ga miền Bắc Trung bộ, tôi không nhớ ở đâu, hình như ở xứ Thanh, có một cô bé khoảng 14-15 đội lên tàu bán một rổ tép khô. Do đông người đi lại bán hàng va chạm, rổ tép khô của cô bé bị rơi đổ hết xuống sàn tàu, ngay trước mắt tôi và cách chỗ tôi ngồi chừng 1-2 mét… Cùng lúc đó, nhiều người xung quanh cũng đều xông vào, đa số cũng là những người bán hàng trên tàu như cô bé, xúm lại làm như tôi: vơ tép khô của cô bé gọn lại. Tôi cười nhìn mọi người và nghĩ: “Ồ, mọi người tốt quá! Thế mà mình đã nghĩ dân ta bây giờ không yêu quí nhau như trước nữa…” Chưa kịp nghĩ hết ý trên thì tôi đã đớ người ra khi nhìn thấy mọi người không bốc tép khô vào rổ cho cô bé như tôi mà cho vào những cái túi riêng của họ! Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào! Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ, như không có gì xảy ra… Cộng sản ở VN hiện nay (quĩ bảo hiểm xã hội, ngân hàng nhà nước, ngân quĩ quốc gia) xem ra đều đã trở thành những rổ tép khô – đã đổ – ráo trọi. Đất đai, thuộc quyền sở hữu của toàn dân, cũng thế. Cũng bị vơ vét hay cướp bóc một cách thản nhiên giữa ban ngày, ban mặt.   Bộ TT&TT dâng hương báo công nhiệm kỳ với Bác. Ảnh & chú thích: VNN Trong vụ Mobiphone/AVG, thượng dẫn, Bộ Trưởng Nguyễn Bắc Son được dư luận “quan tâm” nhiều nhất không chỉ vì số tiền biển lận quá lớn (hơn 3 triệu Mỹ Kim) mà còn là vì ông đã từng được trao tặng Huân Chương Huân Chương Độc Lập Hạng II với thành tích đã “luôn sống và làm việc theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Nếu tôi nhớ không lầm thì ông Nguyễn Thế Thảo và ông Võ Kim Cự còn được trao giải Huân Chương Độc Lập Hạng I nữa cơ. Trong báo cáo tóm tắt thành tích của hai nhân vật “kiệt xuất” này, chắc chắn, thế nào mà chả có câu sau: “Đồng chí luôn sống và làm việc theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Tấm gương đạo đức của Bác ra sao mà ông Chủ Tịch UBNDTP đã lạnh lùng “cắt bỏ 6700 cây xanh trên 190 tuyến đường Hà Nội” ? Còn ông Chủ Tịch UBND Hà Tĩnh thì thản nhiên “ký nhiều văn bản cho công ty Formosa tự giải phóng mặt bằng để xây dựng đường ống xả nước thải không đúng theo quy định.” Tuy thế, cả hai đều không bị xét sử gì ráo trọi, và đều hạ cánh an toàn vì “nếu xử đúng luật (theo lời . T.S Nguyễn Quang A ) ăn 500 triệu tử hình, thì cán bộ từ cấp huyện, vụ, cục trở lên, chắc không còn mống nào.” Cán bộ (“từ cấp huyện, vụ, cục trở lên) đều được gửi đến Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh để học tập về lý luận Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và những tấm gương đạo đức “bình dị mà cao quý ” của Bác. Xong, tất cả đều “ăn của dân không từ một thứ gì.” Thảo nào mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp buông lời ta thán: “Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.” Vâng tôi tin “như thế” chứ. Chả những thế, tôi còn trộm nghĩ thêm rằng chính vì học theo gương của một Thằng Chó Đẻ nên đất nước mới phải trải qua cái Thời Chó Má thế này. Tưởng Năng Tiến 9/2019    
......

Phát triển quan hệ với Đảng Cộng Sản Trung Quốc là mất thêm lãnh thổ

Nguyen Ngoc Chu| 1. Phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị với CHND Trung Hoa là điều phải làm. Nhưng đó là quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai quốc gia, chứ không phải là quan hệ đồng chí anh em của các đảng Cộng Sản (ĐCS). 2. Đến bây giờ, khi ĐCS Trung Quốc xâm lược Bãi Tư Chính của Việt Nam lại còn vu cáo Việt Nam xâm phạm chủ quyền lãnh hải Trung Quốc, thì bộ mặt xâm lược của ĐCS Trung Quốc đã phơi bày toàn bộ. Quan hệ ĐCS anh em hiện nguyên hình là vỏ bọc xấu xa đê tiện. Từ khi nước CHND Trung Hoa ra đời, chính ĐCS Trung Quốc là kẻ duy nhất chiếm đoạt lãnh thổ Việt Nam, chứ không phải Pháp, Nhật, Mỹ. 3. Chấm dứt quan hệ đồng chí giả tạo với ĐCS Trung Quốc – kẻ duy nhất đã chiếm đoạt lãnh thổ Việt Nam và kẻ duy nhất đang hòng chiếm thêm biển đảo Việt Nam – là đòi hỏi cấp bách bắt buộc. 4. Lãnh thổ của Tổ Quốc là điều thiêng liêng muôn đời. Chúng ta đã đắc tội với tổ tiên và con cháu khi để mất một phần lãnh thổ trên đất liền, cùng Hoàng Sa và một phần Trường Sa cho Trung Quốc cộng sản. Chúng ta không thể để mất Bãi Tư Chính rồi mất thêm biển đảo nữa cho Trung Quốc cộng sản. 5. Dân Tộc là trên hết chứ không phải là giai cấp vô sản! Phát triển mối quan hệ với ĐCS Trung Quốc sẽ chỉ làm mất thêm lãnh thổ của Tổ Quốc.  
......

Nếu tôi được mời ‘gặp’ ông Nguyễn Phú Trọng…

Chân Trời Mới Media| Nếu tôi được mời ‘gặp’ ông Nguyễn Phú Trọng, tôi có sẽ nhận lời hay không (một câu hỏi hoàn toàn mang tính giả tưởng)? Câu trả lời tùy thuộc vào các yếu tố: ai mời? trên tư cách gì? trong bối cảnh nào? 1. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng (NPT) mời tôi trên tư cách là lãnh đạo của Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ và muốn gặp “thần dân” hải ngoại thì dứt khoát là không! Có  nhiều lý do. Thứ nhất, ông NPT không phải là đại diện cho đất nước Việt Nam vì chưa bao giờ được người dân bầu lên; ông chỉ là đại diện và lãnh đạo của đảng CSVN. Thứ hai, ông NPT và chế độ của ông không những lạc hậu mà còn phi nhân bản, đi ngược với lòng dân và đang hủy hoại đất nước. Thứ ba, gặp gỡ bất cứ người Việt nào ở hải ngoại cũng chỉ là cơ hội để ông tuyên truyền với quốc tế và người dân trong nước là ông và chế độ CSVN được mọi người chấp nhận,  đồng thời khỏa lấp đi bộ mặt vi phạm nhân quyền và độc tài của chế độ. 2. Nếu chính phủ Mỹ mời tôi tham dự trong một buổi sinh hoạt mà ông Trọng là “thượng khách,” còn tôi chỉ là một trong những vị khách bình thường như bao người khác, thì tôi sẽ từ chối vì không muốn mình là bung xung nâng cao tầm quan trọng của người lãnh đạo thể chế độc tài, độc hại, sai lầm và không chính thống này. Tuy nhiên… có thể tôi sẽ tham dự và “gặp” ông NPT giống như kiểu tôi “gặp” ông Phan Văn Khải mà tôi đã kể ra cách đây vài hôm (xin mời xem bài “Tôi ‘gặp’ Phan Văn Khải khi còn làm thủ tướng”) 3. Nếu chính phủ Mỹ mời tôi tham dự trong cương vị là một nhà hoạt động dân chủ để trình bày về quan điểm của tôi, hay trong tư cách đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại (và tôi được cộng đồng tín nhiệm sau khi đã bàn thảo với các vị lãnh đạo cộng đồng và các tổ chức), và buổi gặp giữa tôi và ông Trọng là một buổi họp báo hoặc buổi họp mở rộng cho quần chúng, có truyền thông đưa tin, tôi sẽ nhận lời vì đây sẽ là cơ hội tốt để tôi nói lên tiếng nói của đồng bào tôi trực tiếp với người không bao giờ chịu lắng nghe tiếng nói của người dân – những chủ nhân chính thức của đất nước. Nhưng tôi biết là ông Trọng sẽ không bao giờ “dám” tham dự một buổi họp báo hay trao đổi thẳng thắn như vậy bởi ông quen đàn áp những tiếng nói khác biệt dù chân thành, xây dựng và đúng đến đâu đi chăng nữa. Bằng chứng hiển nhiên là những tiếng nói can trường, chính trực này hiện đều đang bị cầm tù trong nước. 4. Nếu (và đây là một chữ nếu to tướng) ông Trọng mời tôi như là một tham dự viên “bình đẳng” trong một buổi họp báo hay thảo luận mà (giả sử) tôi có đủ các dữ kiện và cam kết là tôi sẽ được đối xử bình đẳng và tôn trọng khi phát biểu ý kiến của mình dù khác biệt với ông, tôi sẽ nhận lời. Tuy nhiên, tôi biết chuyện này sẽ chẳng bao giờ xảy ra, trừ phi:  a/ Nội tình đảng CSVN sắp sụp hay chế độ ruỗng nát, vỡ nợ tan tành; hoặc b/ Người biểu tình ở Việt Nam đông và kiên trì không khác gì biển người ở Hong Kong bây giờ. Còn nếu có người lạc quan hy vọng rằng sau khi bị đột quỵ, trực diện với lẽ vô thường, có thể ông Trọng đã đổi thay, “lòng chợt từ bi bất ngờ” và thực tâm muốn thay đổi. Vậy thì ông hãy chứng minh thực tâm của mình bằng cách ra lệnh thả hết các tù nhân lương tâm trong nước đi, hãy đối thoại với người dân, với các nhà dân chủ quốc nội đi. Ông mà thực hiện được những bước đột phá tuyệt vời nhưng thực chất lại rất đơn giản và hợp lý hợp tình này, thì quả ông rất xứng đáng đi vào lịch sử dân tộc như một Gorbachev Việt Nam để đất nước có cơ hội chuyển sang một giai đoạn mới an bình, tự do, hạnh phúc. Lúc đó, chắc chắn ông Trọng sẽ được sống những ngày cuối đời thật an lành, thanh thản, và biết đâu sức khỏe của ông chẳng hồi phục hoàn toàn. Một thể chế tự do nhân bản không chủ trương trả thù và mở ra các nhà tù “cải tạo,” mà coi việc hòa hợp hòa giải dân tộc là một nỗ lực cần thiết trong tiến trình xây dựng và hàn gắn vết thương của dân tộc. Tôi cũng mong những chia sẻ này sẽ đem đến cho chúng ta, những người Việt yêu nước và yêu tự do, dân chủ, đang mong muốn một tương lai sáng lạn cho đất nước – dù đang sống ở quê nhà hay hải ngoại, những điểm đồng thuận sau đây: 1/ Việc gặp gỡ đại diện của một chế độ độc tài mà dân tộc chúng ta đang muốn xóa bỏ không luôn có nghĩa là ta bị lợi dụng, hay bất lợi cho dân tộc; cũng không có nghĩa là quy hàng, hay hòa hợp hòa giải với độc tài; mà tùy là chúng ta đứng ở vị thế mạnh hay yếu so với đối thủ, biết khai dụng tình thế, và luôn cần được soi sáng bằng quyền lợi đường dài của dân tộc trong lúc thương lượng để khỏi sập bẫy kẻ gian. 2/ Trong đấu tranh “bất bạo động” (BBĐ), ngồi vào bàn “thương nghị” với đối thủ là tiến trình phải trải qua trừ phi ta đủ mạnh để dứt điểm độc tài nhanh chóng bằng một cuộc “tổng nổi dậy toàn dân” như ở Serbia, Tunisia… Độc tài chỉ ngồi vào bàn thương lượng khi họ bị áp lực nặng nề, tức là đang ở vào thế yếu. Ta cần khai dụng thế yếu này để nhấn tới dứt điểm bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do mà chắc chắn là họ sẽ thua. Kinh nghiệm của Ba Lan và các quốc gia Đông Âu 30 năm trước, hay của Burma mới đây đã cho thấy sự hữu hiệu của bước thương nghị này trong tiến trình đấu tranh BBĐ mà Tiến sĩ Gene Sharp đã nghiên cứu và đúc kết dựa trên thực tế đấu tranh của nhân loại. 3/ Cũng có khi ta phải chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị để mua thời gian hầu củng cố lực lượng, nhưng phải luôn vững tin vào thế tất thắng của toàn dân và chính nghĩa dân tộc cũng như kiên định trong lập trường tranh đấu để đạt tới mục đích sau cùng. Nếu vì kinh nghiệm đau thương trong quá khứ mà ta cứ cho rằng ngồi vào bàn hội nghị hay thương lượng là ta sẽ bị đối thủ lừa, tức là ta đã mất đi niềm tự tin và tinh thần chủ động, đã quên đi sức mạnh trí tuệ của tập thể dân tộc. Tóm lại, đấu tranh BBĐ là một cuộc đấu trí với đối thủ gian ác, mưu hiểm và bạo lực. Chúng ta cần phải tin tưởng vào nhau (những người yêu nước biết đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của cá nhân, phe nhóm và đảng phái), tin vào những người mà chúng ta cắt cử làm đại diện ngồi vào bàn thương nghị. Nhân sự đại diện cho lực lượng dân tộc phải là người có bản lãnh và được tôi luyện với trí tuệ tập thể để đạt được mục tiêu sau cùng là “giải phóng Việt Nam” khỏi ách độc tài, nhưng với cái tâm nhân từ và dũng cảm để chọn lựa hướng giải quyết ít tổn thất và có lợi nhất cho dân tộc. 15/9/2019 TS Trần Diệu Chân    
......

Đừng đỗ hết lỗi cho giới trẻ

Nhóm vận động Hong Kong gặp Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi một ngày sau phiên điều trần Quốc hội 17-9-2019 (ảnh từ trang twitter của bà Pelosi) Manh Kim| Phản ứng dư luận trên mạng xã hội trước sự kiện biểu tình Hong Kong là so sánh một cách máy móc giữa giới trẻ Hong Kong với giới trẻ trong nước. Thật ra gần như không có bất kỳ điểm nào khả dĩ đối chiếu, theo từng “hạng mục” – từ giáo dục, nếp sống đến môi trường chính trị… – để có thể so sánh. Ngay cả giới trẻ khu vực cũng khác biệt từ nền tảng căn bản khiến khó có thể so với giới trẻ Hong Kong, huống hồ thanh thiếu niên Việt Nam. “Quý vị có nghe cháu nói không?” – Greta Thunberg hỏi 150 nghị sĩ và cố vấn trong Hạ Viện Anh. Cô gái nhỏ gõ vào micro. Cô lại hỏi. “Các cô chú có nghe những gì cháu vừa nói không? Tiếng Anh của cháu nghe ổn chứ ạ?”… Greta Thunberg (Getty Images) Thunberg là một hiện tượng. Cô học trò 16 tuổi người Thụy Điển này đang là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng toàn cầu. Tháng Mười Hai, 2018, cô nói chuyện tại Hội Nghị Biến Đổi Khí Hậu LHQ ở Ba Lan; tháng Giêng, 2019, cô thuyết trình trước nhiều tỷ phú tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Davos (Thụy Sĩ). Tiếp đó, Thunberg bay sang London trong một tour diễn thuyết và gặp Đức Giáo Hoàng. Chiến dịch đánh động nhận thức về tác hại của tình trạng biến đổi khí hậu, từ sự “xách động” của cô gái 16 tuổi, đã mang lại một hiệu ứng hưởng ứng  dữ dội: ngày 15 tháng Ba, 2019, 1,6 triệu người tại 133 quốc gia – hầu hết sinh viên, học sinh – đã rủ nhau xuống đường để cùng lên tiếng. Ngày 17 tháng Chín, 2019, nhà hoạt động Hoàng Chí Phong cùng các bạn mình dự một phiên điều trần trong Quốc Hội Mỹ và sau đó tiếp xúc loạt nhân vật hàng đầu chính giới Hoa Kỳ. Hình ảnh Hoàng Chí Phong xuất hiện đầy mạng xã hội, với những “chú thích” quen thuộc: “Coi giới trẻ Hong Kong kìa; thật xấu hổ và nhục nhã cho giới trẻ Việt Nam!” Tuy nhiên, điều gì đã “tạo ra” những Greta Thunberg hoặc Hoàng Chí Phong trong khi Việt Nam chỉ có những thanh niên xuống đường “đi bão” mừng chiến thắng bóng đá? Cần đặt ngược lại một câu hỏi quen thuộc: nếu Greta Thunberg hoặc Hoàng Chí Phong sinh ở Việt Nam thì liệu họ có thể trở thành những nhà hoạt động đang góp phần thay đổi thế giới và định hình nên một thế hệ mới của thế kỷ 21? Vấn đề cần quan tâm thật ra không phải là hình ảnh cá nhân của Greta Thunberg hoặc Hoàng Chí Phong mà là môi trường nào đã tạo ra những nhân vật tài không đợi tuổi, mà ảnh hưởng của họ không chỉ đánh động nhận thức ở “người lớn” đối với những vấn đề lớn lao mà thế giới đang đối mặt. Từ chính họ, họ cũng đang gián tiếp đưa ra một thách thức mà “người lớn” ít thấy: “người lớn” cần làm gì để có thể tạo ra một xã hội có nhiều hơn những phiên bản Greta Thunberg và Hoàng Chí Phong khác. Hoàng Chí Phong bắt đầu trở thành “thủ lĩnh” từ năm 14 tuổi, khi thành lập tổ chức “Học dân tư triều” (Scholarism – lấy cái sự học đích thực làm tôn chỉ), nhằm phản đối chủ trương “cộng sản hóa” hệ thống giáo dục Hong Kong. Chỉ một câu trong chủ trương mới, nói về Đảng Cộng Sản Trung Quốc – “Tấn bộ, vô tư dữ đoàn kế đích chấp chánh tập đoàn” (nhóm lãnh đạo thống nhất trên tinh thần tiến bộ và vô tư) – đã đủ để khiến Hoàng Chí Phong bất bình và bỏ hết tất cả thú vui tuổi thiếu niên để ra đường kêu gọi xã hội thức tỉnh trước nguy cơ không chỉ giáo dục mà cả hệ thống chính trị Hong Kong bị “đỏ hóa”. Trong khi đó, cái gọi là “tấn bộ, vô tư dữ đoàn kế đích chấp chánh tập đoàn” ở Việt Nam đã không chỉ ăn sâu bám rễ trong chủ trương giáo dục mà nó còn biến giới trẻ trở thành những sản phẩm chính trị được đúc khuôn “sản xuất” hàng loạt. Giới trẻ Việt Nam không biết họ đã bị tước mất những gì. Từ lớp một đến khi tốt nghiệp đại học, thanh thiếu niên Việt Nam không bao giờ được bàn về chính trị, tự do ngôn luận và bầu cử dân chủ. Trong khi trong trường học Hong Kong, thầy cô giáo khuyến khích học sinh thảo luận chủ đề Hoàng Chí Phong, về biểu tình dân chủ, về quyền biểu đạt, thì “chính trị” trong nhà trường Việt Nam là chính là thứ mà người Hong Kong đang phản kháng quyết liệt: “yêu nước” đồng nghĩa với trung thành tuyệt đối với đảng cầm quyền. Các “sinh hoạt chính trị” đối với thanh thiếu niên Việt Nam là sinh hoạt đoàn thể dưới sự dẫn dắt của tổ chức Đoàn và Đội, trong đó, ngoài những hoạt động vui chơi tập thể vô thưởng vô phạt thì là các cuộc thi “học tập theo gương Bác”. “Trách nhiệm” đối với đất nước của thanh niên trong đất nước cộng sản Việt Nam không phải là xây dựng nên nhận thức dưới ánh sáng dân chủ mà là “ra sức gìn giữ cho bằng được những thành quả cách mạng vĩ đại, mỗi thanh niên Việt Nam phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả của thế hệ cha anh, xứng đáng với sự tin yêu và kỳ vọng của Đảng, Bác Hồ và của cả dân tộc Việt Nam” (trích phát biểu của Nguyễn Đào Phương Thúy, sinh viên năm IV, Đại Học Luật TP.HCM, dịp 30 tháng Tư, 2015). Nhận thức gì và như thế nào luôn là kết quả của những “thực phẩm” được cung cấp để nuôi nó. Giới trẻ Việt Nam đang là nạn nhân. Không thể đổ hết lỗi lên đầu họ. Nhận thức của họ sẽ khác đi một khi họ được “nuôi” bằng những “thực phẩm” khác, mang hàm lượng và giá trị của một xã hội có tự do và dân chủ đích thực. Hành động của họ sẽ khác một khi họ được sống trong môi trường có nhiều không gian tư duy và hành động hơn. “Bây giờ tôi đang nói cho cả thế giới nghe!” – Hoàng Chí Phong nói, trong một trả lời phỏng vấn báo chí. Chừng nào giới trẻ trong nước có một đại diện được ra nước ngoài nói cho “cả thế giới nghe” về ước vọng dân chủ cho quê hương mà không bị nhà cầm quyền ngăn cản? Thế hệ trẻ Việt Nam không phải không có người tài. Đã có những doanh nhân trẻ, nhà nghiên cứu trẻ, vận động viên trẻ và cả “nhà chính trị” trẻ. Tuy nhiên, với chính trị, “chính trị gia” trẻ chỉ có thể thành công nếu thuộc thành phần con ông cháu cha, còn không, có một chỗ khác dành cho họ: nhà tù. Trong một mô hình cai trị (hệt như Trung Quốc) được thiết kế bằng sự đe dọa và trấn áp tinh thần, cả xã hội đều bị tác động, không chỉ riêng giới trẻ. Thế hệ trẻ Việt Nam thật ra không hoàn toàn thờ ơ với đề tài chính trị. Mạng xã hội đang dần tạo ra nhận thức khác với “đường lối và chủ trương” mà đảng cầm quyền muốn. Thay vì “nguyền rủa” giới trẻ và chỉ trích sự “vô ý thức và vô trách nhiệm” của họ, “người lớn” có lẽ nên nhận một phần trách nhiệm. Giới trẻ là nạn nhân của chế độ nhưng để chế độ nhấn chìm và làm đen kịt nhận thức giới trẻ thì đó là lỗi của “người lớn”. Có bao giờ “người lớn” chúng ta, ngồi trên bàn ăn gia đình, nói chuyện với con cái rằng chúng đang bị chế độ tước đi mất những quyền gì, hay là chỉ hỏi chúng những câu quen thuộc “hôm nay đi học được bao nhiêu điểm”? Có bao giờ “người lớn” mang đề tài Hoàng Chí Phong ra nói với con mình, hoặc kể cho nó biết có một cô bé Greta Thunberg 16 tuổi đang làm chấn động thế giới, hơn là cứ mắng nó “suốt ngày chơi game”? Trong chiếc hộp với diện tích được cái “tấn bộ, vô tư tập đoàn” cho phép, giới trẻ chỉ có thể tư duy trong khuôn khổ cái hộp và hành động quanh quẩn trong cái hộp. Nhà trường, mô hình thu nhỏ của một phần chế độ cai trị, đang tước đi sự sáng tạo và cảm hứng tuổi trẻ. Điều đó, cho đến thời điểm này, là chưa thể thay đổi. Tuy nhiên, tạo ra những chiếc hộp để giúp giới trẻ có được không gian tư duy độc lập rộng hơn là điều có thể làm được. Điều đó bắt đầu từ chính “người lớn”.    
......

Sao hỏi người mà không hỏi mình?

Tổng thống Kennedy - Nguyễn Thị Kim Ngân Nguyen Ngoc Chu 1. Bậc quân tử luôn trách mình mà không trách người. Bởi vì từ khi bắt đầu đi học đã được bố mẹ và thầy cô răn dạy: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Bậc thứ dân, muốn trách người thì phải biết người sẽ trách lại, ấy là do “Lòng vả cũng như lòng sung”. Kẻ tiểu nhân thì luôn chỉ biết trách người. 2. Trong lễ nhận chức ngày 20 tháng Giêng, 1961 Tổng Thống Kennedy đã có “mệnh đề” bất hủ: “Và như vậy, các bạn Mỹ của tôi: hỏi không phải đất nước của bạn làm được gì cho bạn – hỏi bạn làm được gì cho đất nước của bạn. Các bạn công dân toàn thế giới của tôi: hỏi không phải Mỹ sẽ làm được gì cho bạn, mà cùng nhau chúng ta sẽ làm được gì cho tự do của con người” (And so, my fellow americans: ask not what your country can do for you – ask what you can do for your country. My fellow citizens of the world: ask not what America will do for you, but what together we can do for the freedom of man). 3. Hoàn cảnh và mục đích của “mệnh đề” trên trong diễn văn nhận chức của TT Kennedy hoàn toàn khác biệt với điều bà Nguyễn Thị Kim Ngân nói về sửa đổi “Luật Thanh Niên” hôm 10 tháng Chín, 2019: “Ra luật này thanh niên đọc, nghiên cứu thì phải thấy chúng ta phải làm gì cho Tổ quốc, chứ không phải Tổ quốc phải làm gì cho ta” (Thanh Niên 10/9/2019: Chủ Tịch Quốc Hội: ‘Sửa luật để giúp thanh niên thấy mình đã làm gì cho Tổ quốc‘). Cần lưu ý rằng, đây không phải là lần đầu bà Chủ Tịch Quốc Hội đòi hỏi người khác “Làm được gì cho Đất nước?”; Và cũng không phải lần đầu bà Chủ Tịch Quốc Hội sử dụng cách diễn tả của TT Kennedy như của chính bà! 4. Ra luật mà đọc xong biết phải làm gì cho Tổ quốc thì thật là thần diệu! Nói cho “tự mừng”, nếu có khả năng ra luật như vậy thì nên ra nhiều luật nữa để “Trung Quốc đọc, nghiên cứu” thì Trung Quốc thấy không xâm phạm được biển đảo Việt Nam! 5. Ngồi ở ngôi cao gánh vác vận mệnh quốc gia, lại không chịu tự hỏi mình “Đã làm gì cho Đất nước”? mà quay sang hỏi thứ dân “Đã làm gì cho Đất nước”? Đó là chuyện ngược đời chỉ có ở thời vận nước gãy khúc. Nó báo hiệu một sự đổi ngôi tất yếu phải đến. TS Nguyễn Ngọc Chu Nguồn: FB Nguyen Ngoc Chu Vấn nạn “nhạt chính trị” nơi nghị trường Quốc Hội  
......

Rạng Đông: Soi sáng cả địa ngục

”...thảm hoạ môi trường liên quan đến thuỷ ngân luôn diễn ra một cách khủng khiếp nhất, ví dụ thảm họa tại vùng vịnh Minamata của Nhật Bản với bệnh Minamata do công ty Chisso thải ra kinh hoàng không kém thảm họa hạt nhân ở Hiroshima. Rất nhiều người chết sớm, nhiều đứa trẻ dị tật, không có khả năng nhận thức… ra đời...” Đỗ Cao Cường| Nhiều báo, đài trong nước nghĩ rằng tôi chỉ là cái máy đưa tin nên họ để tôi một mình đi gặp các quan lớn, tướng tá… nhưng thực ra không phải vậy, khi gặp nhiều quan chức tôi có nói với họ rằng họ đang ăn chung thực phẩm, uống chung nguồn nước, thở chung bầu không khí ô nhiễm với dân làng, ngậm miệng ăn tiền là tội ác, chế độ nào rồi cũng sẽ qua đi nhưng con cháu chúng ta chỉ có một. Tôi có nói với họ rằng nếu là người biết nghĩ (chứ không phải con ông cháu cha chạy bằng chạy chức tước đoạt cơ hội của người khác) thì trước khi khởi công xây dựng một nhà máy, hay một cụm công nghiệp nào đó, họ phải tính toán được khoảng cách an toàn giữa khu dân cư và nhà máy rồi mới nghĩ tới việc xây dựng. Đôi khi, một chi tiết nhỏ cũng đủ khiến hàng triệu người Việt Nam còn sống đến bây giờ, chứ không phải chết trong đau đớn, người thân lâm cảnh nợ nần, túng quẫn, nạn nhân phải uống thuốc ung thư giả của VN Pharma - nơi em chồng bà bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến làm việc cho nó, và đến giờ này bà ấy vẫn bình yên, con trai bà Tiến thì mới được bổ nhiệm làm viện phó viện Pasteur TP.HCM ngày hôm qua như một lời thách đố dành cho những thân phận cam chịu ngành y cùng con dân nước Việt. Rạng Đông - có ý nghĩa là bình minh, khi mặt trời chưa mọc những bóng đèn được thắp sáng muôn nơi để xua tan màn đêm tăm tối, nhưng thực tế không phải vậy. Sau chuyến đi dài ngày qua nhiều tỉnh thành tôi có ghé thăm công ty cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội. Vài người dân ở đây cho tôi biết họ được khám chữa bệnh miễn phí nhưng rất qua loa, họ muốn kiện, họ không hề hài lòng như lời ông chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Đức Chung nói "dân không bức xúc gì". Cuộc sống bị đảo lộn, nhiều người bỏ làm đi sơ tán, một số ở lại hít thuỷ ngân sống tạm qua ngày. Cùng những thân phận khốn khổ ấy là những phận người nhập cư nghèo khổ không biết bấu víu vào đâu. Ngọc Diệp, một giáo viên ở trọ sát cạnh công ty Rạng Đông cho tôi biết cô ấy đã đóng tiền nhà trước 3 tháng, bây giờ không biết đi đâu, về đâu. Có một tội ác không thể tha thứ là thay vì kêu gọi sơ tán khẩn cấp, đền bù, khắc phục thảm hoạ, lãnh đạo công ty Rạng Đông lại quả quyết là họ dùng amalgam thay thế thủy ngân lỏng. Cho đến khi Tổng cục Môi trường khẳng định Công ty Rạng Đông dối trá, Rạng Đông đã thừa nhận dùng thủy ngân lỏng trong 480.000 sản phẩm đèn huỳnh quang thì sự thật mới vỡ lở, nhiều người dân sơ tán thì cũng đã muộn rồi. Trong quá khứ, thảm hoạ môi trường liên quan đến thuỷ ngân luôn diễn ra một cách khủng khiếp nhất, ví dụ thảm họa tại vùng vịnh Minamata của Nhật Bản với bệnh Minamata do công ty Chisso thải ra kinh hoàng không kém thảm họa hạt nhân ở Hiroshima. Rất nhiều người chết sớm, nhiều đứa trẻ dị tật, không có khả năng nhận thức… ra đời. Hà Nội rồi cũng sẽ như vậy, không chết trong ngày một ngày hai nhưng thuỷ ngân đã ngấm vào cơ thể của rất nhiều người, nguồn nước, bám vào thực phẩm, các loại động thực vật… không chỉ trong quận Thanh Xuân. Rồi trong tương lai không xa, lại có thêm nhiều người chết trẻ, bại liệt, những hình hài dị dạng, mù, điếc… ra đời. Gần đây, Hà Nội liên tục được giới khoa học công bố là thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới, vượt xa cả Bắc Kinh. Quận Thanh Xuân không chỉ có nhà máy Rạng Đông nằm sát nhà dân, Quận Thanh Xuân còn có nhiều nhà máy gây ô nhiễm nằm giữa khu dân cư như công ty Thuốc lá Thăng Long vẫn ngày đêm xả khói, bay thẳng vào phổi các nhà khoa học cho tới các em sinh viên khoa Sinh học trường Đại học Khoa học Tự nhiên... Nói chung, cái chết đã được báo trước, có chuyển nhà ra chỗ khác thì cũng đã muộn rồi.
......

Làm sao có thể… vắt tượng đài ra… nước?

Trân Văn – VOA Hạn hán ở miền Trung Việt Nam đang đẩy hàng triệu người vào tình trạng khốn cùng vì thiếu cả nước ăn, uống lẫn sinh hoạt. Không chỉ có thế, theo sau thảm trạng ấy là đói. Tin mới nhất là ở Phú Yên có khoảng 10.000 gia đình với 35.000 người đang quay quắt với chuyện không tìm ra nước để ăn, uống. Chẳng riêng ruộng, vườn mà rừng cũng chết khô rồi cháy. Khá nhiều huyện ở Phú Yên đã đề nghị hỗ trợ cứu đói. Trước mắt, số tiền cần hỗ trợ khẩn cấp để cứu đói là 13 tỉ đồng. Chính quyền Phú Yên biện bạch, thảm trạng vừa kể là do trời không mưa đã nhiều tháng, trong vòng 140 năm vừa qua, Phú Yên chưa bao giờ bị hạn hán như năm nay (1). *** Hạn hán ở Phú Yên nói riêng và khu vực phía Nam miền Trung nói chung không phải chuyện lạ. Học giới đã giải thích tại sao từ lâu và đã đưa ra nhiều khuyến cáo. Muốn biết cứ dùng goolge. Ví dụ có thể vào link đính kèm bài này, xem nghiên cứu của hai chuyên gia: Phạm Quốc Hưng – Cục Thủy lợi và Lê Đình Thành – Đại học Thủy lợi (2). Sở dĩ kẻ viết bài chọn kết quả nghiên cứu của hai chuyên gia vừa kể làm ví dụ vì cả hai từng khảo sát về “Tài nguyên nước ở khu vực Nam Trung bộ” (các tình Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên) kèm cảnh báo về nguy cơ “sa mạc hóa” của khu vực này kèm một số khuyến cáo khá cụ thể. Nhìn một cách tổng quát, vì nhiều lý do, hạn hán ở Phú Yên nói riêng và khu vực phía Nam miền Trung nói chung là tất yếu, sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ va không phải là không có giải pháp để hóa giải những tác hại do bất lợi về điều kiện tự nhiên cũng như điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội để giảm thiểu thiệt hại. *** Chính quyền Phú Yên nói riêng và chính quyền các tỉnh còn lại ở khu vực phía Nam miền Trung như Ninh Thuận, Bình Thuận, cao hơn là chính phủ Việt Nam có làm gì để ngăn chặn nguy cơ “sa mạc hóa” không? Câu trả lời là không! Hạn hán càng ngày càng trầm trọng đã có “thời tiết dị thường” do “biến đổi khí hậu toàn cầu” gánh… trách nhiệm! Hãy hỏi dân chúng Phú Yên và hỏi cả dân chúng Ninh Thuận, Bình Thuận xem đến nay, chính quyền các tỉnh này và chính phủ Việt Nam đã đầu tư thêm bao nhiêu hồ tích nước cho mùa khô ? Đã soạn – lập – triển khai chương trình nào quản lý – sử dụng nước (nước mặt, nước ngầm, nước trong các hồ dành cho thủy điện và các hồ dành cho thủy lợi) như một thứ tài nguyên đặc biệt? Đã thực hiện bao nhiêu giải pháp thực sự hữu hiệu để tiết kiệm và sử dụng hữu hiệu nguồn nước hiện có ?.. Chắc chắn sẽ không có câu trả lời nào cho những câu hỏi ấy vì không có nguồn lực nào, cả nhân lực, vật lực lẫn tài lực (tiền bạc), dành cho những vấn đề như vậy. Giống như Bình Thuận, Ninh Thuận và các tỉnh, thành phố khác tại Việt Nam, các nguồn lực ở Phú Yên chỉ hướng vào những dự án, công trình vổ bổ với dân chúng nhưng luôn luôn được hệ thống chính trị, hệ thống công quyền từ địa phương đến trung ương cho rằng hết sức hữu ích nên thi nhau thực hiện. Năm ngoái, sau khi chính quyền trung ương công nhận “địa điểm diễn ra cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Phú Yên” là “di tích lịch sử quốc gia”, chính quyền tỉnh Phú Yên và chính phủ Việt Nam đã chi 14,4 tỉ đồng xây dựng “Cụm Công viên – Tượng đài Kỷ niệm cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968” (3). Nếu 14,4 tỉ đồng ấy được dùng vào việc xây dựng hồ chứa nước cho huyện Tuy An – nơi thường xuyên gánh chịu đủ thứ hậu quả do hạn hạn, có lẽ bây giờ, 17.000 dân cư ngụ cách “Cụm Công viên – Tượng đài Kỷ niệm cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968” chỉ khoảng 20 cây số, không khốn khổ như vậy! *** Hạn hán vốn không xa lạ với người Việt. Dạng thiên tai này chỉ khác trước ở chỗ diễn ra thường xuyên hơn, trên diện rộng hơn (ngoài khu vực duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, hạn hán còn tàn phá đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long) và cả tính chất lẫn mức độ rõ ràng càng ngày càng nghiêm trọng hơn. Cho dù không thể loại trừ yếu tố thời tiết dị thường do biến đổi khí hậu toàn cầu nhưng hạn hán sẽ không thể gieo rắc tai ương đến mức như đã thấy nếu Việt Nam được quản trị – điều hành tử tế hơn. Có thể dùng Israel (Do Thái) làm ví dụ minh họa cho hiệu quả quản trị – điều hành khi cả điều kiện tự nhiên lẫn thời tiết đều bất lợi. Israel là quốc gia mà hoang mạc chiếm khoảng 70% diện tích lãnh thổ, chỉ có 2% bề mặt lãnh thổ là nước, mùa khô ở Israel kéo dài đến năm tháng, nhiệt độ trung bình trong mùa hè luôn ở mức cao nhất châu Á (khoảng 50 độ C)… Tuy nhiên cả công nghiệp lẫn nông nghiệp của Israel đều nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới (4). Chẳng riêng thiên hạ mà hệ thống công quyền và nhiều người Việt cũng biết, Israel đã tìm ra – ứng dụng thành công công nghệ tưới nhỏ giọt, xử lý – tái sử dụng khoảng 90% nước thải, lọc nước biển,…. Đồng thời không ít lần bày tỏ ý muốn chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ với thiên hạ, trong đó có Việt Nam (5). Trong thực tế đã có vài cá nhân được xem như tấm gương về thành công trong việc ứng dụng các phương pháp của Israel để trồng rau như cô Vương Thị Hoan, 31 tuổi, chủ “Cà phê rau 47” (6), hoặc Đinh Huy Hoàng, sinh viên Đại học Tây Nguyên (7), cùng ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk… *** Cách nay hai tháng, các cơ quan hữu trách tại Việt Nam từng cảnh báo, hạn hán có thể khiến 138.000 gia đình ở miền Trung (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận) thiếu nước và 65.000 héc ta ruộng vườn bị hư hại (8). Giống như những năm trước, thay mặt hệ thống công quyền, Thủ tướng Việt Nam đáp lại bằng một công điện, chỉ đạo: “Kiên quyết” không để người dân thiếu nước sinh hoạt (9) -rồi… thôi! Từ đó đến giờ, nước cho ăn, uống, tắm, giặt ở miền Trung càng ngày càng… thiếu, cây cối tiếp tục héo khô, ruộng vườn tiếp tục xơ xác, rừng tiếp tục cháy,… dân chúng thêm một lần vật vã, tán gia bại sản vì thiếu nước và hoạt động thường kỳ đối phó với hạn hán của cả hệ thống chính trị, lẫn hệ thống công quyền vẫn chỉ là dùng cả xe cứu hỏa, lẫn xe tưới cây chở nước đến những nơi đồng bào sắp chết khát (3). Tại sao hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không thể hành xử hiệu quả như chính phủ Israel dù cả điều kiện tự nhiên lẫn đặc điểm thời tiết của Việt Nam vẫn chưa nghiệt ngã đến mức như vậy? Có phải vì toàn bộ nguồn lực quốc gia đã được dốc hết vào những dự án, công trình kiểu như “Cụm Công viên – Tượng đài Kỷ niệm cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968” và tâm lực, trí lực của cả hệ thống chính trị, lẫn hệ thống công quyền chỉ miệt mài hướng đến những “nghiên cứu khoa học” kiểu như “Thuật ngữ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Giai đoạn 3” vừa được nghiệm thu hồi giữa tuần trước (9)? Chú thích (1) https://nld.com.vn/thoi-su/phu-yen-doi-mat-voi-han-lich-su-20190912221923788.htm (2) http://www.vjol.info/index.php/DHTL/article/view/27870/23736 (3) https://tuoitre.vn/noi-dien-ra-chien-dich-mau-than-o-phu-yen-thanh-di-tich-quoc-gia-2018030411395643.htm (4) https://en.wikipedia.org/wiki/Israel (5) https://vnexpress.net/khoa-hoc/israel-vuot-qua-tinh-trang-thieu-nuoc-trien-mien-nhu-the-nao-3374764.html (6) https://www.tienphong.vn/gioi-tre/ca-pherau-1158506.tpo (7) https://tuoitre.vn/dua-cong-nghe-trong-rau-israel-len-tay-nguyen-1295079.htm (8) https://tuoitre.vn/138-000-ho-dan-o-mien-trung-co-nguy-co-thieu-nuoc-sinh-hoat-20190723204055007.htm (9) http://daidoanket.vn/mat-tran/nghiem-thu-de-tai-khoa-hoc-thuat-ngu-mat-tran-to-quoc-tintuc446956  
......

Anh Hùng 4T cũng đặt câu hỏi: “Tại sao người Việt Nam chúng ta không nghĩ rằng có nhiều Steve Job Việt Nam?”

Bộ trưởng 4T Nguyễn Mạnh Hùng. Nguồn: Infonet Đoàn Bảo Châu| Trước hết phải công nhận rằng bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng có tinh thần lạc quan, thích nói những lời tích cực, có cánh. Là cấp trên, việc động viên khuyến khích những doanh nghiệp, tài năng của đất nước là tốt nhưng sẽ có giá trị hơn nữa nếu anh Hùng biết chỉ ra bằng cách nào mà người Việt Nam “có thể làm ra những thứ mà thế giới chưa từng làm” hay tạo ra được nhiều Steve Job Việt Nam. Việc ấy mới là khó, bởi nó cần trí tuệ và kiến thức thực sự còn thao thao những lời có cánh, những niềm tin không cơ sở, hay thể hiện sự lạc quan tếu thì ai cũng làm được. Hơn nữa, vấn đề ở đây là anh Hùng lặp lại quá nhiều kiểu phát biểu này. Thú thật là những kiểu phát biểu ấy nó không khai sáng hay đóng góp chút gì cho xã hội cả. Có mấy điều tôi cần nói không phải chỉ cho anh Hùng được rõ mà để công luận nhìn ra vấn đề: 1. Muốn thành công, con người ta phải biết mình đang ở đâu. Biết mình kém để mình nỗ lực, cần cù học hỏi và lao động. Anh Hùng cứ tin, cứ nghĩ những điều bay bổng là quyền của anh, nhưng nghe nhiều chán lắm anh. Tôi cũng muốn tin là Việt Nam có thể mà thế giới chưa từng làm, nhưng phải là một quá trình học hỏi, phát triển chứ không phải theo kiểu Thánh Gióng. Một đất nước như Mỹ có tới 335 người đoạt giải Nobel, 540 tỉ phú, 5300 trường cao đẳng, đại học và Mỹ là nơi có hơn một triệu học sinh ngoại quốc tới học, có hơn một triệu bác sỹ, có chừng 5,5 triệu tiến sỹ. Mà tiến sỹ ở Mỹ họ có trình độ thật sự, mỗi khi đưa ra ý kiến họ đều nghiên cứu kĩ, có trách nhiệm với xã hội chứ không theo kiểu "dân gian" như tiến sỹ "lu" của chúng ta đâu. Vậy nếu ta muốn làm được cái gì thế giới chưa từng làm thì ít ra chúng ta cũng phải có vài cái giải Nobel trước đã. Tôi tin ở tố chất con người Việt Nam, nhưng làm được điều anh nói hay không còn tuỳ thuộc vào một yếu tố vô cùng quan trọng là hệ thống giáo dục. 2. Một hệ thống giáo dục tốt là một hệ thống khai mở trí tuệ, động viên và kích thích sự sáng tạo của học sinh. Hơn nữa, nó còn củng cố hệ thống giá trị trong nhận thức của học sinh. Còn nền giáo dục Việt Nam bây giờ là một nền giáo dục hình thức, đạo đức giả và hời hợt. Giáo dục không phải để học sinh có lý tưởng gì cao đẹp, cống hiến đất nước mà chỉ cốt để kiếm tiền, ấm thân. Chẳng thế mà các trường công an, quân đội luôn được coi trọng. Sự thấp hèn trong nhận thức của con người Việt Nam nó thể hiện ở chính điều ấy. Hầu hết đều là học sinh giỏi, xuất sắc nhưng bước ra đường là ngu ngơ, chẳng hề quan tâm tới những vấn đề xã hội, hỏi gì cũng không biết. Thậm chí giáo viên cũng vậy. Một việc tày trời như việc kẻ thù đang quần thảo ở Bãi Tư Chính, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà cả thầy và trò cũng còn không để ý và chẳng biết gì. Đấy không phải chỉ là lỗi của họ mà còn là lỗi của hệ thống lớn hơn là hệ thống chính trị, xã hội. 3. Một hệ thống không cho phép tự do ngôn luận, không động viên con người quan tâm tới chính trị, chính quyền tự cho phép mình được độc quyền yêu nước. Người dân bức xúc với sự xâm lược của kẻ thù, muốn xuống đường biểu tình cũng không được. Ai kêu gọi biểu tình phản đối kẻ thù là có thể bị quy chụp là phản động, là thế lực thù địch ngay. Đừng nghĩ là tôi dài dòng. Nói tới những vấn đề như của anh Hùng bộ trưởng nêu ra là phải nhìn ở nhiều góc độ và nhìn sâu vào căn nguyên. Nhìn để khắc phục. Cái nhìn thẳng thắn giống như thuốc kháng sinh, như một cuộc đại phẫu để nhìn bệnh ở đâu rồi còn xử lý, còn anh Hùng bộ trưởng thì giống như kiểu bác sỹ khi điều trị ung thư thì chỉ xoa xoa ngoài da của bệnh nhân rồi bảo: Tôi tin là sẽ khỏi thôi, thậm chí còn trở thành lực sỹ ấy chứ! Người dân có quyền trông mong vào lãnh đạo những phát ngôn khai sáng, có đóng góp cho xã hội thực sự chứ không phải mấy câu à ơi vô bổ thế này anh Hùng ạ.  
......

Sức sống mãnh liệt của Tù Nhân Lương Tâm và gia đình họ

[ NH ] – FB Việt Tân Đã từ lâu, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi dân chủ bằng nhiều cách. Họ sẵn sàng bắt bớ, đánh đập, cho côn đồ đánh lén, làm áp lực với gia đình,… không từ bất cứ một thủ đoạn nào, ngay cả bỏ tù với những bản án lên đến hàng chục năm. Đảng CSVN tưởng rằng sẽ làm người dân chùng bước trước những biện pháp răn đe tàn ác của họ. Nhưng không, phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục lan rộng hơn, nhiều người, nhiều giới tham gia hơn và sự chống đối càng mạnh mẽ hơn cho thấy Đảng CSVN thất bại với sự đàn áp của họ. Cứ một người đấu tranh bị bắt, bị đàn áp, thì kéo thêm được 5 – 10 người trong gia đình của họ đứng về phía đối lập với Đảng CSVN. Người trong gia đình có thể là người cha chân chất lo chuyện ruộng đồng như ba của Phan Kim Khánh, có thể là người mẹ chỉ biết lo việc nhà như mẹ Kim Liên của Đinh Nguyên Kha, mẹ Huỳnh Nghĩa của Trần Hoàng Phúc, có thể là cô con dâu chỉ lo làm ăn như Xoan Nguyễn của bố Lê Đình Lượng,… Những người này, bỗng dưng họ bị đẩy vào thế phải quan tâm đến đất nước, đến quyền con người và họ bắt đầu mạnh dạn lên tiếng cho con em của họ. Từ đó họ lên tiếng cho những người khác cùng hoàn cảnh. Họ cũng bắt đầu liên kết nhau, hỗ trợ, an ủi nhau. Sức mạnh của sự đoàn kết bắt đầu. Vậy đó, càng đàn áp, Đảng CSVN càng đẩy người dân đứng về phía đối lập. Không phải chỉ một người mà là cả đại gia đình, bạn bè của anh em dân chủ. Dưới đây là tâm tình của chị An Duong Nguyen Phu, vợ Kỹ Sư Nguyễn Ngọc Ánh, bị tù 6 năm vì tội chống Trung Quốc xâm lược, và chống Formosa xả thải. Qua tâm tình của chị, chúng ta mới thấy sức sống của gia đình những tù nhân lương tâm mãnh liệt như thế nào. An Duong Nguyen Phu: “Một khi CS áp bức chồng tôi vì dám nói lên sự thật của chế độ này và tìm mọi cánh để hại chết chồng tôi, thì nên nhớ: Vợ con Anh ấy sẽ sống mãnh liệt hơn. Cũng như cây chuối này. Mặc dù chặt đầu nó nhưng sự sinh tồn mãnh liệt của cây chuối đã cho kết quả tốt đẹp hơn. Vậy tại sao tôi không vui vẻ đón nhận hết sự hèn hạ của chúng? Và từ đó, tôi trổi dậy lòng can đảm chấp nhận hi sinh gia đình nhỏ này.để đổi lấy ngọn lửa thiêu rụi CS chứ? VIỆT NAM ƠI!!! TÔI YÊU ĐẤT VIỆT!” [ NH ] – FB Việt Tân Đồng hành cùng gia đình tù nhân lương tâm Buổi đón tiếp đầy yêu thương với Nguyễn Đặng Minh Mẫn Chào đón và cảm ơn Nguyễn Đặng Minh Mẫn, cô gái kiên cường 8 năm bất khuất    
......

Chúng ta không còn cô độc

Blogger Phạm Đoan Trang canhco’s blog – RFA|      Khi người dân Hong Kong ồ ạt xuống đường mạng xã hội Việt Nam ban đầu ngơ ngác, dần dần vui mừng rồi quay trở lại trạng thái tự trách để rồi buồn bã lẫn thất vọng. Chúng ta khâm phục tuổi trẻ Hong Kong với những ý thức chính trị chín muồi tạo nên những chàng trai cô gái vừa can đảm lại vừa thông minh dày dạn, những đức tính cần có cho những người chọn sự đấu tranh làm mục tiêu và lý tưởng một nền tự do dân chủ là động lực thúc đẩy họ nối kết với nhau làm thành một Hong Kong rực lửa như hôm nay. Những khuôn mặt như Agnes Chow (Chu Đình) Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) Chu Vĩnh Khang (Alex Chow) Nathan Law (La Quan Thông) đang làm cho những người Việt Nam chúng ta ngưỡng mộ và tận sâu thẳm trong tâm hồn không ít người đã nhìn lại đất nước và chỉ thấy một hình ảnh ảm đạm che khuất cả bầu trời mơ ước. Chúng ta tự trách mình chưa đủ quay sang trách đồng bào, những người cùng khổ và chịu đựng vì họ không có một chút gì quan tâm tới sự bất hạnh của chính họ. Chúng ta thở dài và không ít người bỏ cuộc vì cảm thấy đơn độc thật sự trước vầng hào quang tỏa sáng từ 7 triệu con người Hong Kong. Chúng ta cùng quẫn và tuyệt vọng. Không một chút ánh sáng nào từ cuối con đường hầm tăm tối. Nhưng chúng ta quên một điều rất hiển nhiên đang xảy ra trên chính đất nước này. Đã bao nhiêu năm qua biết bao con người đã vì cụm từ dân chủ tự do mà vướng vào vòng lao lý. Không ít người vẫn còn lưu lạc tại đất khách quê người trong thân phận người tỵ nạn nhưng không quốc gia nào dung chứa. Nhà tù khắp nước vẫn giam cầm những người mà trước khi mất tự do chúng ta đã phấn khích khi nghe thấy họ lên tiếng nhưng lại nhanh chóng quên đi sau vài tháng họ vắng mặt vì bị bắt. Những con người ấy trên bình diện ý thức chính trị, sự can đảm quên mình, dám làm những điều to tát không hề thua kém những chàng trai cô gái Hong Kong, nhưng họ bị bắt, bị hành hạ vì lý tưởng cao đẹp mà ai trong chúng ta cũng muốn gìn giữ. Họ còn cô đơn hơn chúng ta lúc này vì sự thức tỉnh của quần chúng quá chậm chạp và đơn lẻ. Họ không trách chúng ta thì thôi cớ gì chúng ta quay lại trách cứ đồng bào mình? Nhưng hình như một đốm sáng vừa lóe lên, một âm thanh chừng như mừng rỡ vừa xuất hiện, và hình như có một cái gì đó rất khó giải thích khi chúng ta nghe được tin vui đến từ Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới (RSF) đã chính thức trao tặng giải Tự do Báo chí 2019, hạng mục “Tầm ảnh hưởng” cho cô Phạm Đoan Trang, một nhà báo tự do từng từ chối sống ờ nước ngoài về lại Việt Nam để tranh đấu cho dân chủ nhân quyền. Nhà văn Phạm Thị Hoài thuật lại cảm nghĩ của bà khi được tham dự buổi lễ phát giải, bà viết: “Ba mươi năm trước, hàng trăm ngàn dân Đông Đức bỏ phiếu bằng chân ồ ạt chạy qua ngả Đông Âu sang Tây Đức tị nạn. Biểu tình diễn ra ở mọi nơi. Đảng cộng sản cầm quyền tê liệt. Ngày 15/10/1989, 800 nhà hoạt động sân khấu tại Cộng hòa Dân chủ Đức tập trung tại Nhà hát Kịch Đức ở trung tâm Đông Berlin, ra một quyết nghị tập thể đòi xóa bỏ kiểm duyệt và lên kế hoạch tổ chức biểu tình tại Berlin ngày 4/11. Đó là cuộc biểu tình lớn nhất, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc Cách mạng Hòa bình chấm dứt nền độc tài thứ hai trên lãnh thổ Đức. Nửa triệu người đã tụ tập tại Quảng trường Alexanderplatz. Trong số các diễn giả có những đại diện nổi tiếng của Nhà hát Kịch Đức như kịch tác gia Heiner Müller, các diễn viên Ulrich Mühe, Tobias Langhoff, Johanna Schall. 5 ngày sau, Bức tường Berlin sụp đổ. Trong chính không gian lịch sử của Nhà hát Kịch này, trong những ngày kỷ niệm 30 năm Cách mạng Hòa bình ở Đức, nhà báo Việt Nam Phạm Đoan Trang được vinh danh với Giải Tự do Báo chí hạng mục Impact (Lan tỏa) năm nay của Phóng viên Không Biên giới. Tôi vinh dự và xúc động được dự lễ trao giải.” Phạm Đoan Trang không phải là người xa lạ đối với khung cảnh tranh đấu chung tại Việt Nam. Chị từng là ký giả cho các tờ báo dòng chính như: Express, VietNamNet, VTC và Pháp luật. Nhưng sau một thời gian nhận thấy số phận của người dân cùng với những bất ổn của hệ thống chị đã từ chối làm một nhà báo có thẻ và lui về viết trên các trang mạng với tư cách một nhà báo tự do. Nhiều lần bị bắt, bị tra khảo, hăm dọa, canh chừng như phạm nhân Phạm Đoan Trang đã vượt qua một cách thông minh và đầy can đảm dể tập trung thời gian hoàn thành ba tác phẩm “Chính trị bình dân”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù” những tác phẩm này tuy được in chui nhưng con số phát hành rất ấn tượng cho thấy vấn đề chính trị tại Việt Nam không hời hợt và nông nổi như nhiều người vẫn tưởng. Giải thưởng của tổ chức RSF sở dĩ danh giá vì nó được hình thành trên căn bản chọn lựa gắt gao trên khắp thế giới để chọn ra ba người nhận, được điều tra kỹ lưỡng từ ngay trong đất nước họ đang sống cũng như những giá trị mà họ tạo ra cho cộng đồng. Giải thưởng xác tín thành tựu mà người nhận đã tạo ra và vì vậy chúng ta nhìn vào nó để thấy rằng chúng ta không còn cô độc. Chúng ta cũng tin rằng Phạm Đoan Trang sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy bất trắc này và sau lưng cô không phải chỉ có chúng ta kết lại sợi giây người đễ giữ vững niềm tin cho cô mà còn rất nhiều bạn trẻ sẽ tỉnh ngộ để nhận ra rằng đấu tranh chống lại bất công không khó như các bạn ấy vẫn tưởng và ít ra các bạn cũng đã có chút ánh sáng soi rọi những nghi ngờ, những bất an hay dằn vặt giữa cuộc sống tiện nghi và tương lai đầy bất trắc. Vì từ đây các bạn biết thêm rằng có những người âm thầm đốt nến soi đường cho các bạn bằng chính máu, mồ hôi, nước mắt của mình như nhà báo Phạm Đoan Trang từng làm để có kết quả hôm nay. canhco’s blog
......

Đôi điều tâm sự về chuyện làm sách "phản động".

Pham Doan Trang| Bốn cuốn sách của tôi, “Chính trị bình dân”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù” và “Politics of A Police State” (tiếng Anh) hiện đã có mặt tại châu Âu, do Nhà xuất bản Tự Do phát hành với sự trợ giúp của một số cô bác, anh chị em người Việt ở đây. Trong thông báo mới nhất (hôm 10/9), Nhà xuất bản Tự Do cho biết họ “vô cùng cảm động trước sự tin tưởng và ủng hộ của quý độc giả và các cô bác, anh chị trong thời gian vừa qua”. Về phần mình, tôi cũng vô cùng cảm động và chân thành biết ơn cả Nhà xuất bản Tự Do và hàng nghìn độc giả trong nước. Nhân đây, tôi cũng xin có đôi lời tâm sự đến bà con người Việt hải ngoại. Là một người viết, tôi hiểu độc giả của mình, và tôi biết rằng cộng đồng người Việt hải ngoại không có nhu cầu đọc những cuốn sách như “Chính trị bình dân”, “Phản kháng phi bạo lực”, hay “Cẩm nang nuôi tù”, vì sự thực là người Việt mình bên đó đâu cần phải hiểu về chính trị hay các quyền tự do (như người dân ở xứ độc tài phải hiểu), đâu cần học cách phản kháng, chống lại chính quyền công an trị hà khắc, và càng không cần phải… nuôi tù. Chính vì lẽ đó, việc bà con cô bác bỏ tiền mua sách thực chất là một cách bày tỏ sự ủng hộ đối với tác giả và rộng hơn nữa, với phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam. Tôi rất hiểu, và vô cùng cảm kích vì điều đó. Nhưng tôi còn mong cộng đồng người Việt hải ngoại nhận thấy một điều còn quan trọng hơn thế nữa: Việc tôi – một tác giả – cố công viết sách và một nhà xuất bản độc lập (hoàn toàn không phải của tôi hay của bất kỳ cá nhân/ tổ chức nào) cố công phát hành sách đến tay hàng ngàn độc giả, bất chấp mọi hiểm nguy, không phải chỉ nhằm nhận được sự ủng hộ về tài chính, mà còn xa hơn thế: Chúng tôi muốn thể hiện tinh thần phản kháng của mình trước chế độ độc tài ở Việt Nam. * * * Chúng tôi (tức là Nhà xuất bản Tự Do và tôi) từng nghe nhiều người khuyên: Sao không bán sách online cho đơn giản, an toàn? Sao không tung bản điện tử lên mạng cho gọn nhẹ, việc gì phải bày trò in ấn, phát hành cho rủi ro, phiền phức? Đó là những suy nghĩ mà theo chúng tôi là đi đúng vào hướng chính quyền cộng sản mong muốn. Mà chúng tôi thì không chấp nhận đi theo hướng ấy. Chúng tôi làm sách (viết, in ấn, phát hành), bởi chúng tôi muốn thể hiện tinh thần phản kháng của mình trước chế độ độc tài ở Việt Nam. - Nhà nước này ngăn cản người dân quan tâm đến chính trị, nói rằng chính trị “bẩn thỉu lắm” (hoặc là cao xa lắm, dân đen không phận sự, miễn tham gia) thì chúng tôi sẽ chứng minh rằng chính trị đẹp đẽ và gần gũi lắm, và làm sách, đọc sách chính là hành động chính trị hay ít nhất cũng là sự thể hiện thái độ chính trị của mình. - Nhà nước này cấm tự do tư tưởng, cấm người dân đào sâu suy nghĩ, phản biện, truyền bá tư tưởng, chính kiến, thì chúng tôi sẽ viết và quảng bá sách. - Nhà nước này cấm tự do học thuật, thì chúng tôi sẽ nghiên cứu và phổ biến nghiên cứu của mình. - Nhà nước này cấm sáng tạo, thì chúng tôi sẽ sáng tạo và khuyến khích mọi người cùng sáng tạo. - Nhà nước này cấm người dân ghi chép sử, nhất là sử "ngoài luồng", sử của phong trào đấu tranh dân chủ, thì chúng tôi sẽ ghi chép và phổ biến. - Nhà nước này cấm ngặt sự ghi nhận lực lượng đối lập, cấm ngặt vinh danh người bất đồng chính kiến, thì chúng tôi sẽ làm cả hai việc đó để chính danh hoá họ. - Đơn giản nhất, nhà nước này cấm “xuất bản sách chính trị ngoài luồng”, quản lý chặt báo chí-xuất bản, thì chúng tôi sẽ phá rào. Chúng tôi cần các bạn thấu hiểu, ủng hộ và cổ vũ chúng tôi làm tất cả những điều ấy. Chứ đương nhiên, chúng tôi không làm sách để "cho vui", "cho có trải nghiệm", hay đơn giản là để kiếm sống. Chúng tôi cũng rất hiểu rằng công an hoàn toàn ý thức được những gì chúng tôi "âm mưu". Đôi khi, thật buồn là lực lượng công an thì hiểu (và vì thế, đàn áp thẳng tay), nhưng chính những người mà chúng tôi mong đợi sự ủng hộ của họ nhất, thì lại không hiểu điều chúng tôi muốn làm. Rất mong độc giả trong và ngoài nước, rất mong bà con trong cộng đồng người Việt hải ngoại chia sẻ những tâm sự này.  
......

Đi tìm mô hình đấu tranh an toàn

nguyentuongthuy’s blog – RFA Truyện Tình hình là ngày càng nhiều người đấu tranh cho dân chủ nhân quyền bị đàn áp. Người bị đánh, người bị đuổi khỏi nhà trọ, người bị đuổi việc, người bị bắt bỏ tù. Nhiều người tan cửa nát nhà, khuynh gia bại sản. Nói chung, ai cũng bị, không ít thì nhiều. Tôi đem chuyện này phàn nàn với trưởng ban biên tập. Anh bảo: – Chẳng lẽ cứ đấu tranh là bị thiệt hại đủ đằng như vậy. Anh cố xem, viết một cái phóng sự điều tra, tìm lấy mấy người bất đồng chính kiến mà cuộc sống lại tốt hơn trước, hoặc ít ra cũng không bị sao để động viên anh chị em xã hội dân sự. Tôi cho đây là ý kiến hay nên ok. Tôi ra phố, hòa vào một đoàn dân oan đang biểu tình. Không mất nhiều thời gian lắm, tôi phát hiện ra một người đàn ông chừng 50 tuổi đi cuối đoàn, tay lăm lăm chiếc máy ghi hình, quan sát chăm chú lắm. Nhìn anh mặc chiếc áo phông in chữ “bút chiến”, tôi nghĩ, có lẽ anh là một blogger hoặc facebooker lề dân, đi theo để lấy tài liệu viết về dân oan đây. Lại thấy mặt mũi sáng sủa, thân hình béo tốt, trang phục toàn đồ đắt tiền, khác hẳn người bình dân lam lũ, nói lên anh có cuộc sống khá đầy đủ. Có lẽ người tôi cần tìm đây rồi. Tôi làm quen: – Chào anh, hình như anh là dân viết? Tôi được anh khen: – Anh tinh tường đấy, tôi là nhà báo, blogger. Rồi anh khoe: – Tôi viết được 10 năm nay rồi. Mỗi khi bài của tôi đưa lên, cứ gọi là náo động cả mạng xã hội, làm dư luận sôi nổi hẳn lên. Vậy là tôi đoán không sai. Tôi bắt đầu đi vào chuyên môn: – Anh có bị gây khó dễ về các bài viết của mình không? – Không. Chỉ có điều hay bị chửi thôi. Viết phản biện bị chửi là chuyện thường. Như tôi đây vẫn bị dư luận viên chửi là đồ phản động, chúng bịa đặt xuyên tạc về tôi đủ đằng. Đã đấu tranh cho lẽ phải thì tránh sao được. Tôi hỏi tiếp: – Anh có hay đi biểu tình không? – Làm gì có cuộc biểu tình nào vắng mặt tôi. – Anh có đi với các gia đình tù nhân lương tâm đến các trại giam không? – Có chứ, nhiệm vụ của tôi mà. Nhưng tôi chỉ ở vòng ngoài thôi. Tôi hiểu. Như hôm nay, anh đi ở cuối đoàn biểu tình để có góc quan sát rộng, lấy được nhiều tư liệu để viết bài. Không cẩn thận, nhỡ ra công an đàn áp, nó giật máy máy ảnh đập nát thì mất hết tư liệu. Câu hỏi tiếp theo, tôi hơi dè dặt: – Anh có bị bắt vào đồn công an bao giờ không? Bị đưa về trại Lộc Hà chẳng hạn? – Bắt là bắt thế nào? Đứa nào dám? – Bị đuổi việc? – Không. Bị canh chặn, không cho ra khỏi nhà? – Chưa bao giờ. – Bị bố trí đánh dọc đường không? – Thằng nào dám đánh tôi. Đụng đến tôi là công an gô cổ ngay. Vậy là vẫn có những công an tốt, thi hành đúng luật pháp. Thế mà mấy đứa cứ kể, quân ta bị đánh, công an đứng ngay đấy nhưng lờ đi, thậm chí cởi sắc phục ra để đánh hôi vì là người của họ cả. Cứ nhắc đến công an hay chính quyền ai cũng cho là đồ đểu hết. Như vậy là môi trường anh ta sống, chính quyền và công an biết tôn trọng pháp luật đấy chứ. Qua một hồi hỏi chuyện, tôi đã xác định được mẫu người đấu tranh nhưng vẫn an toàn. Tôi hỏi thêm để hoàn thiện bài viết: – Anh sống có thoải mái không? Là tôi nói về chuyện tiêu pha ấy. – Không thoải mái nhưng cũng tạm. Mỗi lần đi thư giãn vẫn có tiền boa em út ở các quán đèn mờ. Tôi đoán, chắc anh viết rất khỏe và nhuận bút ở tờ báo anh viết cũng rộng rãi. Tôi đi vào chuyện thời sự cụ thể: – Anh thấy phong trào biểu tình ở Hồng Kông thế nào. Hoàng Chí Phong tuyệt vời đấy chứ? Anh tròn mắt: – Thằng mặt dơi tai chuột ấy á? Nhãi ranh, mới 22 tuổi mà đòi truyền cảm hứng cho cả một dân tộc? Điều này thì khác với nhận xét của tôi. Nhưng những người đấu tranh vẫn có góc nhìn khác khác nhau về một vấn đề cơ mà. Đó mới là tinh thần dân chủ. Tuy vậy, tôi bắt đầu sinh nghi. Tôi đặt câu hỏi quyết định: – Thế anh thường viết về mảng nào? – Tôi đấu tranh chống thế lực thù địch. Lần này thì đến lượt tôi tròn mắt: – Vậy là anh là…là quân của Võ Văn Thưởng? Anh ta hãnh diện: – Chứ sao. Rồi anh ta ba hoa một hồi về đường lối mềm dẻo sáng suốt của đảng trong vụ bãi Tư Chính, về thủ đoạn chống phá của thế lực thù địch. Anh ta nêu một loạt các cây viết phản động như Phạm Đoan Trang, Nguyễn Hữu Vinh, Phạm Thanh Nghiên, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Văn Đài… nhiều lắm. Điều thú vị là trong số bọn phản động mà anh ta nêu ra, có cả tôi, Nguyễn Tường Thụy. May mà anh ta không nhận ra tôi vì chúng tôi chưa gặp nhau bao giờ. Thì ra, tôi phỏng vấn nhầm… dư luận viên. Về nhà, tôi kể cho bà xã nghe câu chuyện trên. Bả bảo: – Làm gì có ai đấu tranh mà không bị sao bao giờ. Anh, kể cả cậu trưởng ban biên tập của anh bị dở hơi à? 13/9/2019 nguyentuongthuy’s blog Nguồn ảnh https://chantroimoimedia.com
......

Bi quan về triển vọng dân chủ? Hãy đọc lại lịch sử.

Một người biểu tình Venezuela chơi vĩ cầm giữa cuộc xuống đường phản đối Tổng thống Nicolas Maduro, tháng 5/2017. Ảnh: Federico Parra/AFP/Getty Images Lịch sử dạy chúng ta rằng dân chủ được xây dựng từ hết những thất bại này đến thất bại khác. Phạm Minh Trung - Luật Khoa tạp chí Thể chế dân chủ tự do dường như đang đứng trước viễn cảnh vô cùng bi quan. Các nền dân chủ “của tương lai” đang có xu hướng ngả sang thể chế độc tài. Trong khi đó, các nền dân chủ lâu đời ở phương Tây đang bị phong trào dân tuý lấn át. Giáo sư Sheri Berman thuộc Đại học Barnard (New York, Mỹ) không nghĩ vậy. Ông cho rằng những người đang bi quan về tương lai của nền dân chủ nên nhìn lại lịch sử châu Âu và thế giới. Sheri Berman là tác giả của cuốn “Nền Dân chủ và Chế độ độc tài ở châu Âu: Từ thời kỳ trước Cách mạng Pháp đến ngày nay” (Democracy and Dictatorship in Europe: From the Ancient Régime to the Present Day). Một phần của cuốn sách được chuyển thể thành bài viết “The Long, Hard Road to Democracy” đăng trên Wall Street Journal, ngày 08/02/2019.  Luật Khoa tạp chí xin giới thiệu cùng bạn đọc. *** Đầu tháng 02/2019, Freedom House, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên theo dõi tình trạng dân chủ toàn cầu, công bố báo cáo thường niên. Báo cáo này có tên là “Nền dân chủ đang thoái trào” (Democracy in Retreat). Các nhà quan sát có cơ sở tin rằng nền dân chủ đang dần đánh mất tính ưu việt trong quá khứ.  Tuy nhiên, nhân loại đã chứng kiến sự thăng trầm của làn sóng dân chủ trong suốt hơn 200 năm qua, từ các cuộc cách mạng đòi tự do thế kỷ 19 cho đến sự sụp đổ của Liên Xô năm 1989.  Lịch sử chứng minh con đường chinh phục tự do và thịnh vượng không hề dễ dàng.  Các nền dân chủ thành công rực rỡ trong thế kỷ 20 thường phải trải qua quá trình dài, gian khổ, với vô số bước đi sai lầm cũng như thất bại.  Trong lịch sử, việc lật đổ chế độ độc tài luôn dễ hơn xây dựng nền dân chủ lâu bền, đặc biệt là nền dân chủ tự do bảo vệ quyền công dân, đề cao luật pháp, giám sát quyền hành pháp và bảo vệ xã hội dân sự.  Hãy lật lại lịch sử châu Âu, nơi cuộc đấu tranh vì dân chủ bắt đầu với Cách mạng Pháp.  Giống như lúc chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ và trong cuộc cách mạng Mùa xuân Ả Rập 2011, sự sụp đổ của chế độ quân chủ Pháp năm 1789 mang đến một làn gió phấn khởi khắp châu Âu.  William Wordsworth nhớ lại, đó là khoảng thời gian khi mà cả châu Âu “tràn ngập niềm hạnh phúc”. Nhưng ngay sau khi tuyên bố chế độ cộng hòa năm 1793, nền dân chủ hiện đại đầu tiên của châu Âu đã rơi vào một “Triều đại Kinh hoàng” (Reign of Terror).  Năm 1799, chỉ 10 năm sau, nước Pháp kiệt quệ chứng kiến cuộc đảo chính của tướng Napoleon Bonaparte. Sự bất ổn chính trị sau đó tiếp tục đè bẹp nước Pháp trong suốt thế kỷ 19.  Thi sĩ, nhà ngoại giao Alphonse de Lamartine phát biểu trước Tòa thị chính Paris trong cuộc Cách mạng Pháp 1848. Ông nói với đám đông người dân về “lá cờ đỏ tượng trưng cho sự kinh hoàng, đầy máu” và “nền cộng hòa đảng phái”. Ảnh: Henri Félix Emmanuel Philippoteaux. Năm 1848, một sự chuyển đổi khác sang dân chủ đã xảy ra. Nhưng chỉ trong vòng một năm, nhà độc tài dân túy Louis-Napoleon Bonaparte (cháu trai Napoleon) đã lên nắm quyền lực và phá hủy các thiết chế dân chủ. Chế độ của ông sụp đổ năm 1870, tiếp tục nhường chỗ cho một quá trình chuyển đổi dân chủ đầy hỗn loạn khác.  Nền Đệ tam Cộng hòa Pháp được thành lập sau thất bại của Louis-Napoleon trong chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870. Tuy nhiên, nền dân chủ đã dần suy yếu khi Đức xâm lược Pháp năm 1940 và lập nên chế độ Vichy.  Khi Thế chiến II kết thúc với thất bại của phe Phát xít, Pháp lại trở thành một nước dân chủ. Hiến pháp của Đệ tứ Cộng Hòa Pháp được thông qua vào ngày 13/10/1946.  Tuy nhiên, sự bất ổn lại tiếp diễn, dẫn tới một số thay đổi trong chính phủ. Đã có đến 21 chính quyền hiện diện trong 12 năm lịch sử của nền Cộng hòa Thứ tư.  Thêm vào đó, chính phủ không thể đưa ra các giải pháp phù hợp đối với nhiều nước thuộc địa của Pháp.  Sau nhiều cuộc khủng hoảng liên tiếp, đặc biệt là khủng hoảng Algérie năm 1958, nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp chính thức sụp đổ ngày 5/10/1958, mở đường cho sự thành lập Đệ ngũ Cộng hòa Pháp như ngày nay với việc củng cố quyền lực của Tổng thống.  Các nước Tây Âu khác cũng phải trải qua nhiều chông gai để tạo dựng được nền dân chủ. Nước Ý (Italy) là một điển hình như vậy.  Một nước Ý thống nhất xuất hiện vào những năm 1860, nhưng các chính phủ sau đó sa vào nạn tham nhũng và hoạt động không hiệu quả. Đây là mầm mống của sự hình thành chủ nghĩa cực đoan ở cả hai bên cánh tả và cánh hữu Ý.  Đầu thế kỷ 20, dù giành chiến thắng trong Thế chiến I nhưng nước Ý đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Phe Phát xít, đứng đầu bởi Benito Mussolini giành quyền kiểm soát và dựng lên một chế độ độc tài trong giai đoạn 1922-1943.  Ý là đồng minh của Phát xít Đức và Nhật trong Thế chiến II. Đất nước ven biển Địa Trung Hải này trở thành chiến trường khốc liệt giai đoạn 1943-1945. Sau Thế Chiến II, nước Cộng hòa Ý chính thức được thành lập ngày 2/6/1946.  Chỉ đến sau Thế chiến II thì một nền dân chủ hiệu quả mới hình thành ở quốc gia này. Và chỉ đến thập niên 1950 và 1960, nước Ý mới có giai đoạn tăng trưởng kinh tế bùng nổ và được đánh giá là một cường quốc trong khu vực.  Câu chuyện về việc dựng xây nền dân chủ Đức thậm chí còn gian truân hơn.  Nước Đức nổi lên năm 1871 dưới chế độ bán độc tài và chỉ được dân chủ hóa sau Thế chiến I. Từ khi ra đời, nền Cộng hòa Weimar non trẻ đã bị tàn phá bởi chủ nghĩa cực đoan, nổi loạn và bạo lực. Nền dân chủ sụp đổ khi Adolf Hitler trở thành thủ tướng năm 1933 và đảng Quốc xã – chế độ độc tài phát xít lên nắm quyền. Sau Thế chiến II, nước Đức tái lập nền dân chủ tự do ấn tượng nhưng chỉ ở phía tây đất nước; trong khi đó, miền đông suy yếu trong nhiều thập kỷ dưới chế độ cộng sản.  Tây Ban Nha cũng phải bước trên con đường dài để tiến đến nền dân chủ tự do, trải qua nhiều quá trình chuyển đổi chính trị, can thiệp quân sự và nội chiến trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sau nền dân chủ non trẻ thất bại vào những năm 1930, cuộc nội chiến sau đó đã giết chết hàng trăm ngàn người và xác lập hàng thập kỷ độc tài. Tây Ban Nha thực hiện một quá trình lâu dài chuyển đổi sang dân chủ chỉ mới vào giữa những năm 1970. Tranh vẽ “Tự do dẫn dắt chúng ta” (Liberty Leading the People) của Eugène Delacroix (1798-1863). Ảnh: Christophel Fine Art/UIG/Getty Images. Chúng ta phải điểm lại lịch sử dài của châu Âu như trên là để thấy rằng: một nền dân chủ thành công không phải điều có thể đạt được dễ dàng, nhanh chóng. Ngay cả Vương quốc Anh – hình mẫu của một nền dân chủ suôn sẻ – cũng có một lịch sử không yên ả. Cuộc Cách mạng Vinh quang (Glorious Revolution) chỉ có thể thành công năm 1688 sau rất nhiều cuộc bạo loạn đẫm máu. Cho dù tính từ thời điểm năm 1688 hay 1832 (lần mở rộng quyền bầu cử đầu tiên) thì thời gian để nước Anh đạt được thể chế dân chủ đầy đủ vào đầu thế kỉ 20 vẫn là hàng trăm năm. Nhìn lại lịch sử còn là để thấy những rắc rối ngày nay của nền dân chủ thực ra không quá nghiêm trọng.  Chưa bao giờ trong lịch sử có nhiều nền dân chủ tồn tại hơn bây giờ. Có 11 nền dân chủ năm 1900, 20 năm 1920, 32 năm 1970, 77 năm 2000 và 116 năm 2018, như Freedom House và những tổ chức khác ghi nhận. Những sự đảo chiều gần đây là tương đối khiêm tốn: các nền dân chủ trong những năm gần đây ít bị lung lay hơn so với thời kì sau các làn sóng dân chủ hóa vào năm 1848, 1918 và 1945. Không thể phủ nhận rằng các nền dân chủ mới và cũ hiện phải đối mặt với các vấn đề thực sự. Thế nhưng, một nền dân chủ thành công cần có thời gian để củng cố và cần nỗ lực không ngừng để phát triển. Dân chủ hoá chưa bao giờ là một quá trình giản đơn và tuyến tính. Nền dân chủ tự do trở thành chuẩn mực ở Tây Âu chỉ sau năm 1945, hơn 150 năm sau Cách mạng Pháp. Trong giai đoạn sau thử nghiệm dân chủ đầu tiên ở Châu Âu, nhiều quốc gia khác đã thử, và đã thất bại. Thành công hậu chiến ở Tây Âu đòi hỏi sự hình thành của một trật tự mới trong nước, khu vực và thế giới, từ sự hình thành các nhà nước phúc lợi (social-democratic welfare states) cho đến NATO cho đến EU. Châu Âu đã phải mất hàng trăm năm để có được sự thịnh vượng.  Người Mỹ thường tự hào với nền dân chủ phát triển huy hoàng của mình nhưng thực tế, Hoa Kỳ chỉ xây dựng thành công nền dân chủ tự do từ nửa sau thế kỷ 20.  Trước năm 1861, miền Nam nước Mỹ bị thống trị bởi chế độ chuyên chế, và nền dân chủ non trẻ phải trải qua cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ để lật đổ chế độ đó. Phải mất một thế kỷ nữa trước khi chính phủ liên bang đảm bảo rằng tất cả công dân, bao gồm cả người Mỹ gốc Phi, có thể yêu cầu quyền lợi của mình.  Kể từ những năm 1960 với phong trào dân quyền, những di sản cay đắng của hệ thống dân chủ chưa đầy đủ là sự phân biệt chủng tộc, sự phân chia địa lý sâu sắc và nhiều hơn nữa đã làm rối loạn hệ thống chính trị Mỹ.  Đối với các nền dân chủ non trẻ ngày nay, chúng ta không nên ngạc nhiên về sự mong manh của nó.  Người dân tuần hành chống chính quyền sau nhiều tuần liền bị cắt điện và nước tại Caracas, thủ đô của Venezuela, tháng 4/2019. Ảnh: Carlos Garcia Rawlins/REUTERS. Phá vỡ các thể chế và chuẩn mực chính trị xây dựng dưới chế độ độc tài lâu năm là công việc khó khăn. Chúng ta cần một bản kế hoạch đầy đủ, cần các nguồn lực và cả sự kiên trì. Xây dựng nền dân chủ trên đống đổ nát của chế độ chuyên chế chưa bao giờ là điều có thể làm trong một chốc, một lát.  Thừa nhận những cuộc đổi mới dân chủ thực sự thường mất thời gian và đầy khiếm khuyết, chúng ta có thể nhìn những tin tức có vẻ bi quan bằng một lăng kính khác. Nhiều người lập luận rằng làn sóng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy ngày nay nổi lên ở châu Âu và trên thế giới dường như là đối trọng với nền dân chủ.  Nhưng đáp lại làn sóng ấy là những cuộc phản kháng đông đảo, nhiệt thành từ người dân. Ở các nền dân chủ mới này, đang có ngày càng nhiều công dân tổ chức xuống đường để bảo vệ quyền của mình. Các cuộc bầu cử dù không hoàn hảo vẫn tạo cơ hội cho các nhóm chống đối huy động lực lượng. Hãy nhìn người dân Venezuela đang đứng lên chống lại chế độ chuyên quyền của Nicolás Maduro. Một điểm quan trọng khác là, các chính quyền này, dù dân tuý, cũng sẽ không dám vứt bỏ cuộc bầu cử sang một bên, như chính quyền cộng sản tiền nhiệm đã làm. Lịch sử dạy chúng ta rằng dân chủ được xây dựng từ hết những thất bại này đến thất bại khác. Những sự bi quan lúc này tỏ ra vừa thiếu căn cứ lại vừa bào mòn sự tích cực cần thiết để chống chọi những thử thách phía trước. Những người ủng hộ dân chủ cần có một cái nhìn xa hơn, để hiểu rằng thất bại là không thể tránh khỏi trong công cuộc xây dựng nền tảng cho một nền dân chủ vững bền và khai sáng. Từ khóa: chế độ độc tài, chế độ chuyên chế: authoritarianism (n) chủ nghĩa cộng sản: communism (n) chế độ độc tài: autocratic regime (np) nền dân chủ: democracy (n) quá trình chuyển đổi dân chủ: democratic transition nền dân chủ tự do: liberal democracy  sự bình đẳng: equality (n)    
......

Việt Nam cử phái đoàn lo Đại hội 13 sang ‘nghiên cứu thực tiễn chính sách’ của Mỹ

VOA Một đoàn công tác của Việt Nam, bao gồm các thành viên của Tổ biên tập Tiểu ban Kinh tế-Xã hội Đại hội Đảng XIII do Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng dẫn đầu, vừa có các buổi làm việc với lãnh đạo và chuyên gia của các tổ chức nghiên cứu chính sách ở thủ đô Washington nhằm mục tiêu “nghiên cứu thực tiễn chính sách” của Hoa Kỳ. Theo tường thuật của TTXVN, phái đoàn Việt Nam đã đến Mỹ vào ngày 10/9 và làm việc với Ngân hàng Thế giới, Viện Brookings, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) và hãng The Asia Group. Nội dung của các buổi làm việc tập trung vào nhiều chủ đề, trong đó ngoài mục tiêu đưa ra giải pháp kinh tế cho Việt Nam trong bối cảnh chung toàn cầu, còn có các chủ đề về địa chính trị Biển Đông, chiến lược “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc và sáng kiến “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” của Mỹ. Tổ biên tập Tiểu ban Kinh tế-Xã hội Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhóm chịu trách nhiệm chính trong việc tổng hợp ý kiến và hoàn thiện dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội từ năm 2021-2023 và Phương hướng phát triển kinh tế xã hội từ năm 2021-2025. Cũng như kỳ Đại hội 12, Đại hội Đảng thứ 13 sắp tới đang đặt ra nhiều câu hỏi về việc liệu Hà Nội có nghiêng hẳn về phía Mỹ hay không sau khi bị Bắc Kinh dồn ép, dẫn đến những đối đầu căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian gần đây. Tại cuộc họp với Tiểu ban Văn kiện Đại hội 13 hôm 6/9, Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói rằng tình hình chính trị, an ninh quốc tế “diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường, gây mất ổn định”, theo Thanh Niên. Tuy nhiên, ông cho rằng thời gian qua, Hà Nội đã “thành công vì đã xử lý tốt các mối quan hệ, không cực đoan, không phiến diện”, đồng thời nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển đất nước là “mở nhưng phải bám sát cương lĩnh”, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Diễn đàn Facebook
......

Thủ Đô Kinh Hoàng

Phạm Lưu Vũ| Là nhiễm độc mà dân không được phép biết, là cái chết bị che giấu sự thật, là kẻ tráo trở cưỡi trên cổ dân... Nhà báo Mai Quốc Ấn đã phải cay đắng thốt lên: "Giữa trung tâm chính trị quốc gia, giữa thủ đô mà sự thật vẫn loay hoay như tù nhân không lối ra..." Thì cái điềm triệt phá long mạch, hủy hoại cội nguồn đạo đức của con rắn độc Cát Linh - Hà Đông đã bắt đầu phát lộ, chính giữa con đường nó trườn qua: Hạ Đình. Phát lộ như thế nào? Hai lần Cty Rạng Đông xin chuyển mục đích, từ sản xuất sang con buôn BĐS ăn dày hơn, cấp tập hơn song không được lãnh đạo TP phê duyệt. Không phê duyệt có phải vì thương dân Hạ Đình ngột ngạt, thiếu cây xanh, thiếu bệnh viện, trường học? có phải vì thương xót đến hạ tầng, nơi tít sâu dưới địa ngục cũng đang phải oằn mình gánh chịu? Hoàn toàn không phải. Người dân Hạ Đình nói riêng và cả kinh thành nói chung chớ có mà nằm mơ. Cái gọi là "đạo đức cách mạng" hoành hành đã mấy đời nay, đã phá nát kinh thành, giờ nó bắt đầu nhòm ngó đến những chỗ cuối cùng... Có quỷ thần hai vai chứng giám. Không phê duyệt bởi còn phải chờ kết quả của một công cuộc ăn chia, có đại ma đầu, có nhóm lợi ích khủng... Ngay cả chủ nhân hiện thời của nó, Cty Rạng Đông cũng đừng mơ tưởng. Không phải cứ có chiếc bánh trong tay, là bóc ra mà ăn được đâu. Cho nên nó phải... Cháy. Bà Hỏa đã bốc lên. Kết quả của sự đụng độ tâm linh kinh hoàng, không phải của cõi bên kia, mà ngay tại cõi này. Đức đã bị triệt thì Tham, Dục nổi lên, không gì khống chế. Dục tiết thủy thì Tham phóng hỏa, đó là quy luật, đó là "điềm giời". Ở đời, những chất quý là cộng nghiệp của cái Thiện, thì chất độc là cộng nghiệp của cái Ác. Thủy ngân đã phát tán ra môi trường, tức là cái Ác đã thoát cũi sổ lồng. Kiếp nạn này sẽ phải nhiều đời gánh chịu. Song cũng chớ quên vụ Gateway ghê tởm. Một nhóm quyền lực khủng đang lừa dối không chỉ riêng thủ đô, mà lừa dối nhân dân cả nước, đang thách thức lương tri cả 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu sự thật không được sáng tỏ, bọn đểu cáng và dối trá không bị trừng trị ngay ở đời này, kiếp này, thì nghĩa là chúng ta sẽ sắp sửa phải sống trong một môi trường man rợ, vô pháp, vô thiên, cái ngu, cái hèn, sự đê tiện và cái Ác sẽ thống trị chúng ta... Độc hại và khốn nạn không kém gì thủy ngân đâu.
......

Tá với tướng!

canhco’s blog – RFA Câu chuyện Nguyễn Văn Minh, một đại tá của Quân đội nhân dân Việt Nam, cây viết chủ lực về phương diện chửi bới của tờ Quân Đội Nhân Dân bị nguyền rủa không tiếc lời trên mạng xã hội tưởng đâu chỉ là chuyện bức xúc của người dân trước một kẻ bợ đỡ nhưng hóa ra câu chuyện càng kéo dài càng cho thấy người dân từ trước tới nay không nhắc tới những cái tên dư luận viên vì quan niệm bọn chúng như giẻ rách, cầm thì bẩn tay, lau nhà thì không thể sạch bỏ đi thì tốn công còn không bỏ thì bực mình vì sự lì lợm nguyên thủy của loại này. Vài người vui tính cho rằng bọn chúng quá ngu mà kẻ ngu thì xã hội vô số kể, vậy thì cứ “kính ngu viễn chi” cho đỡ phải tội. Nhưng trường hợp của Nguyễn Văn Minh không phải là kẻ ngu, và nếu chịu khó để ý con đường trườn lên tới chức vụ đại tá thì chắc hẳn da bụng của anh ta chí ít phải dày và chai như da bò. Người ngu không đủ kiên nhẫn để đạt được mục tiêu chỉ có kẻ cơ hội, trí trá và xảo quyệt mới có hành vi nếm “phân” chờ thời. Nguyễn Văn Minh khôn nhiều năm nhưng dại chỉ vì một bài viết đụng chạm tới trái tim những người chống lại anh ta. Trái tim của những người yêu sự thật và khinh bỉ thái độ trở trái làm mặt, xu nịnh kẻ quyền lực và bợ đỡ thế lực đang cung cấp cho nồi cơm của gia đình anh ta. Cái ngu duy nhất của Nguyễn Văn Minh là chọn Joshua Wong, tức Hoàng Chi Phong làm đề tài dâng cho quan thầy như một cách lập công, tuy bẩn thỉu. Trong một bài viết trên facebook Minh đã mạt sát Hoàng Chi Phong là “mặt dơi mõm chuột”, nào là “Không nên gọi tên nhãi ranh mặt dơi mõm chuột Hoàng Chi Phong là “nhà hoạt động” xã hội”. Đồng thời, Nguyễn Văn Minh trách móc các báo như Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Tuổi Trẻ sao lại đi bênh vực cậu bé Hong Kong này. Lên giọng kẻ cả khi cho rằng “Hoàng Chi Phong không lo học tập, rèn luyện kiến tạo tương lai cuộc sống của mình mà đã bị bọn phản động nước ngoài bơm vá, giật dây, “xui trẻ con ăn cứt gà sáp” để huyễn hoặc mình là anh hùng, là nhà dân chủ. Truyền thông chính thống của Nhà nước Trung Quốc gọi Phong là “Hán gian”… Bao nhiêu đó đã lấp đầy sự giận dữ của đám đông, không phải giận dữ vì một gã dư luận viên rẻ tiền mà giận vì cái lon đeo trên vai của người viết. Cấp bậc đại tá mà Minh “gian khổ” để kiếm được phải chăng từ những bài viết tương tự như bài viết này? Phải chăng Minh đang đại diện cho thế lực thân địch để sẵn lòng “chửi mướn” cho Bắc Kinh đối với một khuôn mặt đang được cả thế giới kính trọng như Hoàng Chi Phong? Minh đại tá cho rằng Phong lêu lổng không lo học tập và bị giật dây bởi thế lực phản động nước ngoài nhưng cố tình phớt lờ việc cậu bé đã từng lãnh đạo phong trào dù vàng lúc vừa qua khỏi tuổi hai mươi. Cậu đã được bình chọn là một trong những người trẻ tuổi có hoạt động chính trị năng lực và sáng tạo nhất. Cậu đã làm cho thế giới ngạc nhiên và hết nước này tới nước khác mời cậu tới để nghe cậu trình bày quan điểm chính trị của mình. Lêu lổng như thế có đến 10 Minh đại tá chỉ mà xách dép. Mới đây nhất cậu đã làm cho người Hong Kong hãnh diện khi sang Đức tham gia sự kiện “Bild100-Party”, nơi tụ họp 100 nhân vật xuất sắc nhất được lựa chọn ra từ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, nghệ thuật, văn hoá và thể thao của Đức được mời tham dự. Theo BBC đưa tin, Joshua Wong đã có buổi tiếp xúc trò chuyện với ngoại trưởng Đức Heiko Maas và phát biểu trước báo giới Đức. Bài viết ghi nhận hình ảnh nhà hoạt động trẻ Hoàng Chi Phong với chiếc điện thoại trong tay, thỉnh thoảng liếc mắt vào đó và hùng hồn phát biểu trước ống kính các nhà báo đã được truyền trên nhiều kênh truyền hình Đức quay lại, đặc biệt đài truyền hình ZDF chiếu trong các chương trình thời sự. “Tôi cầu mong sự giúp đỡ của người Đức. Chúng tôi tôi có cảm tưởng Hong Kong như Đông Berlin trong thời chiến tranh lạnh và chính bởi người Đức, đặc biệt ở Berlin đã đấu tranh cho tự do nên tôi cầu xin người Đức sự giúp đỡ cho cuộc đấu tranh của chúng tôi.” “Tôi đã bị bắt tới 8 lần và phải ngồi tù một trăm ngày, cái giá tôi phải trả quá nhỏ.” Những tình tiết này có phải là kết quả của thế lực phản động mua chuộc cậu hay tấm lòng tha thiết yêu tự do dân chủ của cậu cũng như hơn 7 triệu dân Hong Kong đã tiếp sức cậu trên con đường gian nan chống lại Trung cộng, nơi có tham vọng biến Hong Kong thành một thể chế cộng sản dưới chiêu bài lừa đảo “một quốc gia hai chế độ”? Minh đại tá vội vã tấn công người mà lẽ ra anh ta nên tránh xa vài trăm thước, bởi càng tiến sâu vào nghiên cứu con người của Hoàng Chi Phong Minh đại tá càng nhận ra rằng anh ta không xứng làm người nhất là về hành vi trở trái làm mặt của anh ta như từ trước tới nay vẫn thường làm. Anh ta từng chửi bới rất nhiều người từ già tới trẻ, cứ thấy họ có những phản biện về xã hội, về tự do dân chủ là anh ta chửi, chửi như Chí phèo chửi cả làng Vũ Đại, chửi để được lên chức, chửi dể được miếng ăn, chửi để được thông đường mau tới bến vinh quang đầy tanh tưởi. Nguyễn Văn Minh xứng đáng là người “nổi tiếng” sau khi bài viết của anh ta được post lên thì hầu như phản ứng của cư dân mạng đối với bài này thật sự làm cho chính anh ta ngạc nhiên và tự thán phục lấy mình. Cư dân mạng phân tích ra có tổng cộng 1.300 like, cười, giận dữ, sửng sốt, khóc các loại. Một ngàn chín trăm lượt bình luận trong đó tuyệt đại đa số là những bình luận chửi rủa, khinh bỉ, mạt sát không tiếc lời. Trong số 228 chia sẻ (đến giờ phút này) thì gần như tất cả đều là những chia sẻ để làm ví dụ cho những stt chửi bới, chê trách Minh. Một hiện tượng lạ nữa đó là nhiều comment xỉ vả, mạt sát Minh đã nhận được tới hàng trăm like như phản ứng dây chuyền, điều mà nhiều bài viết của những người nổi tiếng khác không hề có. Nguyễn Văn Minh có nằm mơ cũng không thể nghĩ ra anh ta sẽ có ngày nổi tiếng như thế, bởi từ xưa tới nay có ai để ý gì tới tư cách viết lách của anh ta đâu mặc dù mang tới lon đại tá. Mà cũng phải, đại tá chưa là cái đinh gì trong khi nhiều tên tướng vẫn khóc hu hu khi bị nắm gáy vì tham nhũng. Tướng của Việt Nam bây giờ mấy ai được tiếng anh hùng như xưa khi mà lòng tham quyền lực lẫn tiền bạc đã che mất lương tri khiến không ít người cam tâm làm chỉ điểm cho thế lực thân địch đang mỗi ngày một đông trong Bộ quốc phòng. Có người đặt câu hỏi “Đại tá là cấp bậc rất cao trong quân đội, và công an. Những người đạt đến quân hàm này thường đảm nhiệm các chức vụ quan trọng, thậm chí là Giám đốc công an tỉnh hay Tỉnh đội trưởng. Không nhiều người có được những vị trí như vậy, bởi đây là công việc đòi hỏi tư duy, khả năng lãnh đạo giỏi. Rõ ràng nếu chiếu theo các tiêu chí trên, Nguyễn Văn Minh không thể nào đáp ứng nổi. Nhưng tại sao anh ta vẫn lên lon Đại tá, mà là Đại tá khi còn rất trẻ nữa?” Câu trả lời nhanh và chính xác nhất là anh ta giỏi đánh hơi lãnh đạo. Khi lãnh đạo sợ gì nhất thì anh ta cố đánh nỗi sợ đó bằng các bài viết chụp mũ, bôi bẩn hay thâm chí là vu khống để lãnh đạo yên lòng. Trong vụ Hoàng Chi Phong anh ta biết chắc lãnh đạo sợ một hiệu ứng dây chuyền như các cuộc cách mạng mùa xuân Ả rập trước đây nên anh ta ứng phó trước, bất kể cung cách đáng kính trọng của người mà anh ta tấn công, đánh phá. Và anh ta quên một điều cơ bản nhất: Tuy Việt Nam còn khó khăn trong nhận thức tự do dân chủ nhưng thái độ đê hèn của anh ta không ai có thể chấp nhận, kể cả đó là những đảng viên đang suy nghĩ về con đường sắp tới của chính mình. canhco’s blog  
......

Vì sao người Hong Kong không muốn, cũng không thể dừng lại?

Trưởng Đặc Khu Carrie Lam trong cuộc gặp gỡ báo giới sau khi tuyên bố rút dự luật. Ảnh: Sam Tsang/SCMP Lựa chọn “ngu” nhất, với người Hong Kong, lại là lựa chọn duy nhất. By  Y Chan Sau gần ba tháng kể từ khi hơn một triệu người đổ ra đường phản đối “Ác luật Dẫn độ” của chính quyền Hong Kong, đặc khu trưởng Carrie Lam cuối cùng cũng đã có vẻ nhượng bộ. Không còn là những ngôn từ mập mờ như “tạm hoãn”, hay vô nghĩa về mặt luật pháp như “dự luật đã chết”, ngày 5/9 vừa rồi bà Lam đã dùng đúng chữ “thu hồi” như yêu cầu của tuyệt đại đa số người dân. Diễn biến này đã làm không ít người dân thở phào. Một tiếng thở phào rất ngắn ngủi. Ngay lập tức họ nhận ra, đối với phong trào đấu tranh dân chủ của Hong Kong, sự kiện này lành ít dữ nhiều. Một khi chính quyền đã tuyên bố dẹp bỏ ác luật, vốn là động cơ đấu tranh đầu tiên của người dân, mọi hoạt động phản kháng tiếp theo sẽ càng dễ dàng bị chụp chiếc mũ “phản động” và bị đàn áp khốc liệt hơn. “Quá ít, quá muộn” (too little, too late) là phản hồi chung của đa số người dân. “Năm đại yêu cầu, một cũng không được thiếu” là lời đồng thanh của người Hong Kong. Chắc chắn sẽ có những người nghĩ rằng người dân Hong Kong hoặc “được voi đòi tiên”, hoặc “không biết tự lượng sức”, hay “ảo tưởng” nghĩ rằng chính quyền độc tài Bắc Kinh sẽ nhượng bộ họ thêm nữa. Người Hong Kong không chịu lùi bước không phải vì họ cứng đầu (dù họ thật sự rất cứng đầu, đặc biệt khi đối mặt với bạo quyền). Họ đơn giản là không có đường lùi. Nếu không tiếp tục đấu tranh, họ sẽ phải sống trong một chế độ khủng bố đủ loại, từ đen tới trắng. Khủng bố trắng “Khủng bố” ban đầu là một từ dùng để chỉ những sự việc/ hành động khiến người ta “sợ hãi”. Khi con người càng ngày càng “thông minh” hơn, nghĩ ra nhiều cách khác nhau để gieo rắc nỗi sợ hãi cho người khác nhằm đạt được ý đồ của mình, từ “khủng bố” theo nghĩa hiện tại bắt đầu được thịnh dùng. Ngày nay, rất tiếc, nó là một trong những từ cửa miệng phổ biến nhất trên thế giới. Vậy còn “khủng bố trắng” là gì? Thuật ngữ “khủng bố trắng” (white terror) được cho là bắt nguồn từ thời Cách mạng Pháp vào cuối thế kỷ 18. Nó được dùng để chỉ những hành động đàn áp của phe Bourbon (dòng họ phong kiến nắm quyền ở Pháp và các nước châu Âu) nhằm trả thù các đối thủ vào cuối giai đoạn Cách mạng Pháp đẫm máu. Màu trắng là màu tượng trưng cho phe Bourbon, từ đó ra đời cách gọi “khủng bố trắng”, chỉ những hoạt động của chính quyền gieo rắc nỗi sợ hãi đến người dân. ‘Khủng bố trắng’ được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử hiện đại có lẽ là vào thời kỳ chính quyền độc tài Quốc Dân Đảng cai trị Đài Loan bằng thiết quân luật. Trong suốt 40 năm, chính quyền nơi đây cầm tù hàng trăm ngàn người và lạm sát những ai không chấp nhận sự cai trị của mình. Đến nay vẫn không ai biết được chính xác có bao nhiêu nạn nhân đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giết hại. Các con số ước tính từ vài ngàn đến vài chục ngàn. Ở Hong Kong, thuật ngữ “khủng bố trắng” không phải chỉ đến mùa hè sóng gió này mới xuất hiện. Nó có trong từ điển của người Hong Kong kể từ khi họ bất mãn với các chính sách can thiệp của Bắc Kinh nhằm bóp nghẹt tự do tại đây, đứng lên đấu tranh, và đương nhiên, bị chính quyền đặc khu lẫn trung ương dùng đủ phương thức đe dọa. Nó được dùng nhiều đến mức chính bà Carrie Lam, trong giai đoạn tranh cử chức đặc khu trưởng vào năm 2017, đã khiến nhiều người trố mắt khi nhận mình là nạn nhân của khủng bố trắng. Bà Lam muốn nói đến việc bản thân và những người ủng hộ mình bị cư dân mạng thường xuyên chế giễu chỉ trích. Ngay lập tức rất nhiều người đã bày tỏ sự “thất vọng” khi một chính trị gia kỳ cựu như bà lại không hiểu thế nào là khủng bố trắng – từ vốn chỉ được dùng khi những kẻ cầm quyền đàn áp người dân bất đồng chính kiến. Lịch sử của những hoạt động khủng bố trắng thường rất đẫm máu, nhưng biểu hiện của nó ngày nay không còn lồ lộ như xưa. Những nhà cầm quyền dùng nó như một con dao kề sẵn vào cổ người khác, buộc họ phải làm theo ý mình. Hàng chục ngàn nhân viên từ trên xuống dưới của hãng hàng không quốc gia Hong Kong Cathay Pacific là những người có trải nghiệm sinh động nhất. Giống như đa số người Hong Kong, những nhân viên của Cathay Pacific cũng ủng hộ hết mình cho phong trào đấu tranh dân chủ nơi đây. Họ hoặc trực tiếp tham gia biểu tình, hoặc bày tỏ sự ủng hộ trên mạng xã hội. Khác với những người Hong Kong khác, họ làm việc cho một doanh nghiệp lớn, vừa có phần hùn của chính quyền Bắc Kinh trong đó, lại vừa phụ thuộc rất lớn, trực tiếp và gián tiếp, vào thị trường đại lục. Trước thái độ ban đầu của Bắc Kinh, những ông chủ của Cathay vẫn giữ nguyên tắc tôn trọng quyền tự do biểu đạt của nhân viên. Chủ tịch Cathay khi đó là John Slosar đã nói, “chúng tôi làm sao mơ đến chuyện đi kiểm soát nhân viên của mình nghĩ gì.” Nhưng khi chính quyền đại lục tăng cường sức ép, buộc hãng phải “nghe lời” nếu không sẽ bị cấm vào đại lục lẫn bay qua không phận – một điều đồng nghĩa với việc tuyệt đại đa số các chuyến bay của Cathay sẽ không tài nào cất cánh – hãng hàng không số một của Hong Kong phải cúi đầu. Các nhân viên tham gia biểu tình bị sa thải. Phi công “lỡ” truyền thông điệp “cố lên” đến hành khách của mình cũng bị thôi việc. Thậm chí chỉ cần bày tỏ thái độ trên mạng xã hội, họ cũng bị buộc nghỉ việc. Không chỉ có nhân viên, quản lý cấp cao nhất cũng trở thành vật tế thần. CEO của Cathay Rupert Hogg và nhân vật số hai Paul Loo phải từ chức để “nhận trách nhiệm”. Và mới đây, vào ngày 4/9 vừa qua, đến chủ tịch John Slosar cũng tuyên bố sẽ từ chức. Trước con dao kề cổ của Bắc Kinh, Cathay tuyên bố “không dung thứ” (zero tolerance) cho bất kỳ nhân viên nào có các hoạt động ủng hộ phong trào biểu tình. Những người ở lại trong Cathay mô tả mình đang phải hít thở một “thứ không khí của sợ hãi”. John Slosar, bìa phải, chủ tịch của Cathay Pacific Airways, và Rupert Hogg, cựu giám đốc của hãng hàng không này, trong một cuộc họp báo vào tháng Ba. Ảnh: Jerome Favre/EPA, via Shutterstock. Họ không dám thảo luận về tình hình chính trị, lo sợ sẽ bị ai đó báo cáo với cấp trên. Họ phải nghĩ đến việc mang điện thoại “chữa cháy” bên người thay cho điện thoại chính, phòng trường hợp bị chính quyền kiểm tra thông tin bên trong. Họ thậm chí phải thay đổi tài khoản mạng xã hội để không bị trừng phạt. Phi công không dám nói chuyện với nhau trong khoang lái. Đồng nghiệp phải canh chừng lẫn nhau. Nhân viên không dám tự do biểu đạt kể cả khi không còn trong giờ làm việc. Đó là đích đến của khủng bố trắng: tạo ra một chủng loài sợ hãi, biết nghe lời, không dám chống lệnh. Cathay Pacific chỉ là một trong vô số những doanh nghiệp, tổ chức ở Hong Kong bị lưỡi dao của Bắc Kinh ve vẩy trước mặt. Hàng chục doanh nghiệp khác, từ những ông lớn bất động sản cho đến các ông trùm tài chính, đến cả những công ty sừng sỏ thế giới như “tứ đại gia kế toán” KPMG, Ernst & Young, Deloitte và PwC cũng phải lên tiếng ủng hộ chính quyền, “phản đối biểu tình bất hợp pháp”. Với các doanh nghiệp và người dân ở Trung Quốc hay Việt Nam, những sự kiện này có lẽ quá bình thường và quen thuộc. Nó đã thành “nếp văn hóa” ăn sâu vào tâm thức “nghe lời chính quyền”. Họ bị đặt trong một thế giới cứ như giả tưởng, luôn phải lựa chọn chỉ một trong hai: hoặc ngoan ngoãn phục tùng, hoặc không chốn dung thân. Những người Hong Kong không muốn chấp nhận sống trong thế giới của những kẻ hoang tưởng này. Khủng bố đen Nếu khủng bố trắng là sản phẩm quen thuộc nhiều năm qua, thì “khủng bố đen” đích thị là siêu phẩm mới cho mùa hè nóng bỏng năm nay của Hong Kong. Nó là thứ khủng bố được cảnh sát tạo ra. Gọi là “khủng bố đen” vì kể từ sau khi ICAC (Ủy ban Độc lập Phòng chống Tham nhũng) được ra đời, chưa bao giờ danh tiếng của lực lượng cảnh sát Hong Kong bị hủy hoại như ngày hôm nay. Thay vì tiếng gọi tôn trọng “Sir” như trước kia, trong vài tháng qua, rất nhiều người Hong Kong đã chỉ thẳng mặt gọi cảnh sát là “hắc cảnh”, lên án họ cấu kết với xã hội đen đàn áp người dân. Các bằng chứng của khủng bố đen dày lên theo mỗi tuần, có thể chia làm ba loại. Thứ nhất là nghi vấn cảnh sát cấu kết, làm ngơ để xã hội đen thỏa sức tấn công già trẻ lớn bé, từ người biểu tình đến người đi đường, thậm chí hạ gục cả phóng viên hiện trường vào ngày 21/7. Thủ phạm những vụ tấn công riêng lẻ sau đó nhắm đến các thành viên của phong trào dân chủ cũng chưa bị cảnh sát sờ gáy, trong khi số người biểu tình bị bắt giữ tính đến nay đã lên đến hơn 1.200 người. Mới nhất, vào tối thứ Sáu ngày 6/9, một phóng viên của Stand News khi đang tường thuật hiện trường đã bị một người ủng hộ lực lượng cảnh sát đấm gục xuống đường. Hàng chục cảnh sát đặc nhiệm cách đó chục mét dửng dưng đứng nhìn, không có bất kỳ động tác can thiệp nào. Kẻ tấn công bình thản bỏ đi ngay sau đó. Thứ hai là việc cảnh sát lạm dụng vũ lực. Họ giơ súng bắn đạn hơi cay nhắm ngang đầu vào người biểu tình, bắn trực tiếp vào đám đông từ tòa nhà trên cao, nhắm bắn đạn cao su trong khoảng cách chỉ vài mét, tung đạn khói ngay cả trong không gian kín (ga tàu điện ngầm). Đỉnh điểm gần nhất là việc cảnh sát truy đuổi vào tận bên trong tàu điện ngầm tại ga Prince Edward vào ngày 31/8, dùng gậy baton quất thẳng vào đầu bất kỳ ai trước mặt, những người vào thời điểm trên không hề có bất kỳ hành động phản kháng chống đối nào, cũng không có dấu hiệu nào cho thấy họ là người biểu tình.   Cảnh sát tại ga tàu điện Prince Edward ngày 31/8/2019. Ảnh: May James/HKFP. Thứ ba là việc cảnh sát che giấu danh tính. Từ việc trà trộn vào nhóm người biểu tình, kích động họ để có cớ bắt giữ, cho đến không chịu xuất trình thẻ cảnh sát khi bị dân chất vấn. Thậm chí lực lượng đặc nhiệm chống bạo động cũng giấu đi số hiệu của mình khiến người dân không biết đâu mà ghi nhận để phản ánh những việc làm sai trái. Điều khiến người dân Hong Kong phẫn nộ nhất là bất chấp những hành vi lạm quyền của lực lượng chấp pháp, chính quyền vẫn hết mực bao che, sẵn sàng bẻ cong sự thật. Quan chức đứng đầu Cục Bảo an (Security) thản nhiên lý giải cảnh sát không đeo số hiệu vì “đồng phục hết chỗ gắn”, dù trước đó người ta chụp lại được hình ảnh cảnh sát với cùng bộ đồng phục vẫn được gắn số hiệu rõ ràng. Vị quan phó của IPCC (Ủy ban giám sát độc lập chuyên xử lý các vấn đề tố cáo cảnh sát) thì biện hộ rằng cảnh sát có thể giấu danh tính khi hoạt động để “tự bảo vệ mình và gia đình”, bất kể việc đó khiến người dân không thể xác minh ai vi phạm để tố cáo với chính IPCC. Đặc khu trưởng Carrie Lam liên tục gạt bỏ yêu cầu thành lập Ủy ban điều tra độc lập, khăng khăng cơ chế hiện tại “hoàn thiện rồi”. Bà Lam muốn chỉ tay người dân về phía CAPO (Văn phòng tiếp nhận tố cáo về cảnh sát), một tổ chức trực thuộc lực lượng cảnh sát, và IPCC, một tổ chức độc lập giám sát hoạt động của CAPO. Trên thực tế, CAPO gần như vô tác dụng, còn IPCC không có quyền lực gì để bảo vệ người dân. Trong suốt 15 năm từ 2004 đến 2018, CAPO tiếp nhận 6.412 tố cáo từ người dân về các hành vi tấn công lạm quyền của cảnh sát. Chỉ có 4 trường hợp được CAPO xác nhận, hơn một nửa các trường hợp còn lại bị gạt đi mà không có kết luận nào. Nghĩa là xác suất giải quyết khiếu nại tố cáo từ người dân của CAPO đạt mức 0.0006 %. Còn IPCC từ năm 2010 đến 2018, trong tất cả những vụ họ giám sát, cảnh sát chỉ đồng ý chuyển duy nhất một trường hợp cho bên công tố. Đa số những vụ còn lại đều được cảnh sát xử lý nội bộ bằng hình thức “khuyên bảo” (advice). Cơ chế “rất hoàn thiện” (very well established) mà chính quyền đặc khu khẳng định này có lẽ chỉ lý tưởng cho lực lượng cảnh sát. Với cơ chế hiện tại, người dân Hong Kong hoàn toàn không có cơ hội nào để chống lại những việc làm sai trái của cảnh sát “theo đúng pháp luật”. Họ lại chỉ có hai lựa chọn: hoặc ngoan ngoãn phục tùng cảnh sát, hoặc trở thành những kẻ vi phạm pháp luật. Một lần nữa, với những người dân sống trong các chế độ độc tài của Trung Quốc và Việt Nam, đây là việc quá đỗi quen thuộc. Nhưng với người Hong Kong, đây là thứ họ không thể chấp nhận. Không có dân chủ, tự do chỉ là của bố thí Về mặt chính trị, Hong Kong có lẽ là mảnh đất đặc biệt nhất trên thế giới ngày nay. Ngưởi biểu tình đặt hoa để tưởng nhớ những nạn nhân bị cảnh sát tấn công tại ga Princess Edward 31/8. Ảnh: Lam Yik Fei/The New York Times   Nhiều người nhận định đây là nơi duy nhất người dân có “các quyền tự do không giới hạn” (unlimited freedoms) nhưng lại không được trực tiếp bầu lãnh đạo. Quả thật không chỉ so với những đồng bào ở Trung Quốc đại lục, người Hong Kong được hưởng các quyền tự do ở mức cao hơn cả nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới. Bất kể các nỗ lực áp đặt của Bắc Kinh, những quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, tự do tụ tập, và đặc biệt là tự do báo chí của người Hong Kong vẫn được bảo đảm – ít nhất là cho tới thời điểm này. Nhưng hơn ai hết, họ hiểu rằng những quyền cơ bản mình đang có giống như một lâu đài xây trên cát. Những người biểu tình trẻ tuổi khẳng định, “tự do mà không có dân chủ là thứ tự do yếu ớt, bất kỳ lúc nào cũng có thể bị một chính quyền vô pháp vô thiên đập chết.” Không thay đổi thể chế, không giành lấy cho mình quyền quyết định vận mệnh, mọi “thay đổi” đều chỉ là hình thức, các vấn đề sẽ trở lại như cũ, và chỉ có tệ hơn. Lãnh đạo này đi xuống, lãnh đạo mới được “chỉ định” lên cũng chỉ là bù nhìn của những nhóm lợi ích. Không thay đổi thể chế mà vẫn muốn có tương lai tốt đẹp hơn, không khác gì đặt số phận của mình vào tay những nhóm đặc quyền đặc lợi, hy vọng họ “tự giác ngộ”, từ bỏ những quyền lợi chiếm đoạt của mình, hòa chung với lợi ích của đại đa số người dân. Nó giống như việc chờ đợi các quan chức cộng sản đột nhiên thật thà công khai sạch sành sanh tất cả thông tin tài sản của mình và người thân, hay các quan biệt phủ giàu nứt đố đổ vách một ngày đẹp trời nào đó bỗng dưng tự nhiên đổi tánh, chia lại kho chổi đót gia truyền cho dân. Bất kỳ một người có đầu óc bình thường nào cũng hiểu đây là điều hoàn toàn không tồn tại trong thực tế. Nhận thức này không khác mấy với suy nghĩ của những người đứng dậy chống lại ách đô hộ xâm lược của thực dân năm xưa, trong đó bao gồm cả những người cộng sản. Chỉ có độc lập tự chủ mới có tự do đúng nghĩa. Với những người đấu tranh cho dân chủ trên toàn thế giới nói chung, và những người Hong Kong nói riêng, chân lý này không thay đổi. Chỉ có dân chủ mới có tự do đúng nghĩa. Cùng một chân lý, nhưng oái oăm thay ngày nay người dân Hong Kong, Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam … lại bị chính quyền cộng sản, những “chuyên gia đấu tranh” xưa kia, không từ bất kỳ thủ đoạn nào thẳng tay đàn áp. Có người sẽ bảo đây là sự so sánh ngớ ngẩn và khập khiễng. Ngày trước là chống lại ngoại bang xâm lược, ngày nay làm gì có ngoại bang nào mà đòi chống với phá? Họ cố tình không hiểu một chân lý giản dị. Những kẻ áp bức, cho dù mang màu da gì, sắc tộc nào, hình hài ra sao, cũng đều là phường áp bức. Bị ngoại bang áp bức không tệ hơn bị đồng bào của mình đè đầu cưỡi cổ. Bị những người có cùng tiếng nói đàn áp không có gì tốt đẹp dễ chịu hơn là bị những người bất đồng ngôn ngữ chèn ép. Nếu buộc phải phân biệt, nhân loại tiến bộ không thể chia ra theo chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, giới tính … Chỉ có ba loại người: những kẻ muốn áp bức người khác, những người để người khác áp bức, và những ai không chịu bị bức hại. Người Hong Kong có lựa chọn rõ ràng cho mình. Trong mắt nhiều người, đó là lựa chọn “ngu” nhất. Đối với họ, đó là lựa chọn duy nhất.  
......

Đôi bạn của đức tin và chính trị

Agnes Chow và Joshua Wong Đạt Tiến Nguyễn Hai bạn trẻ Agnes Chow và Joshua Wong đang được nhiều người trên thế giới quý mến và vinh danh là hai gương mặt đại diện cho phong trào đấu tranh dân chủ tại Hong Kong. Agnes Chow sinh ngày 3 tháng 12 năm 1996, còn Joshua Wong sinh ngày 13 tháng 10 năm 1996. Cả hai đều là Kitô hữu và có đời sống đức tin mạnh mẽ! Agnes Chow là người Công giáo, còn Joshua Wong là người Tin lành. Ngay từ khi còn nhỏ thì Joshua Wong đã được cha mẹ cho đi tham gia các sinh hoạt ở nhà thờ và cho đi làm việc thiện nguyện giúp đỡ người nghèo. Nơi nhà thờ, Joshua Wong được đào tạo kỹ năng phát triển tổ chức và thuật nói chuyện trước công chúng thông qua việc chia sẻ nhóm. Joshua Wong đi làm việc thiện nguyện để gây ý thức cho các bạn trẻ về xã hội và tạo tầm ảnh hưởng của mình với cộng đồng. Thế còn cô gái Agnes Chow thì sao? Agnes Chow là một người Công giáo nên cũng được hưởng một nền giáo dục phong phú nơi nhà thờ, đặc biệt là trong môi trường sinh hoạt của sinh viên Công giáo tại Hong Kong. Đức Hồng Y Trần Nhật Quân là người có tư tưởng chống cộng sản Trung Quốc một cách quyết liệt và có tầm ảnh hưởng lớn tại Hong Kong thì được coi như là một người cha tinh thần và là người truyền cảm hứng cho Agnes Chow. Nếu xét về khả năng ứng biến trong các tình huống và bản lĩnh chính trị thì Agnes Chow không kém gì Joshua Wong. Khi mới 15 tuổi và vào năm 2012 thì Agnes Chow đã là phát ngôn viên trong phong trào phản đối giáo dục quốc gia và đạo đức mà người Hong Kong cho là Trung Quốc đã dùng chiến thuật “tẩy não” qua chương trình giáo dục này. Agnes Chow đã ra tranh cử vào Hội đồng Lập pháp trong tư cách là ứng cử viên trẻ tuổi nhất và mới đây thì Agnes Chow quyết định từ bỏ quốc tịch Anh để được ở lại Hong Kong và cùng đấu tranh dân chủ với người dân Hong Kong. Quốc tịch Anh, Đức, Pháp, Mỹ là mơ ước của nhiều người trên thế giới nhưng Agnes Chow đã quyết định từ bỏ quốc tịch Anh để được ở lại Hong Kong, để được đấu tranh dân chủ cùng với người dân Hong Kong thì đó là một sự hy sinh lớn và là một chính khách lớn. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: “người Công giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị” hay “tham gia chính trị là một hình thức bác ái cao cả”. Agnes Chow và Joshua Wong sẽ đi vào lịch sử nhân loại như là đôi bạn của tình yêu quê hương đất nước, của các giá trị dân chủ cao đẹp và của sự kết hợp hài hòa giữa đức tin và chính trị.  
......

Ngân hàng Thế giới tính khống số kiều hối về Việt Nam?

Phạm Chí Dũng - VOA   Sau rất nhiều lần bị dư luận nghi ngờ về tính dối trá của số liệu kiều hối về Việt Nam trong những năm gần đây, lại vừa nảy nòi một mâu thuẫn lớn giữa số kiều hối về Việt Nam được công bố bởi Ngân hàng Thế giới và số kiều hối về TP.HCM được công bố bởi Ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM. Gần 18 tỷ USD hay chỉ dưới 8,5 tỷ USD? Đó là bối cảnh khi năm 2019 đã lặng trôi được hai phần ba quãng thời gian, hệ thống tuyên giáo đảng và một số tờ báo quốc doanh một lần nữa dựa vào tổng kết và dự báo của Ngân hàng Thế giới để ghi điểm cho một chế độ chuyên nghề lợi dụng ‘khúc ruột ngàn dặm’ nhằm hút đô la. Bởi theo Ngân hàng Thế giới, kiều hối Việt Nam đạt 13,8 tỷ USD trong năm 2017, và lên đến 15,9 tỷ USD trong năm 2018, có mức độ tăng trưởng mỗi năm khoảng 10%. Từ đó có thể ước tính số kiều hối về Việt Nam trong năm 2019 sẽ vọt đến gần 18 tỷ USD! Nhưng theo quan chức Nguyễn Hoàng Minh - Phó giám đốc Ngân hàng nhà nước chi nhánh TP. HCM, người chuyên theo dõi và thông tin cho báo giới về kết quả kiều hối ở thành phố này, lại cho biết ước tính 8 tháng đầu năm 2019, nguồn kiều hối chảy về TP. HCM chỉ đạt 3,45 tỷ USD và dự kiến cả năm 2019, nguồn kiều hối chuyển về TP.HCM chỉ đạt con số trên 5 tỷ USD. Nếu mức 5 tỷ hoặc nhỉnh hơn một chút là số liệu cuối cùng về kiều hối về TP.HCM trong năm 2019, kết quả này là không có gì vượt hơn so với 5 tỷ USD kiều hối về thành phố này trong năm 2018, thậm chí còn thua cả số 5,2 tỷ USD kiều hối về TP.HCM trong năm 2017. So sánh trên phản ánh một diễn biến quan trọng của đồ thị kiều hối về TP.HCM: sau khi tạo đỉnh vào những năm 2016 và 2017, kiều hối về TP.HCM có xu hướng giảm dần, bất chấp Sài Gòn là nơi tập trung hàng triệu gia đình có thân nhân ở nước ngoài và là địa chỉ ‘giàu có’ nhất’ về nhận kiều hối, chủ yếu từ thị trường Hoa Kỳ chiếm 55-60% tổng kiều hối từ các nước gửi về Việt Nam. Kết quả kiều hối về Sài Gòn lại là phác thảo cho bức tranh kiều hối về Việt Nam, bởi đã hình thành một quy luật: Sài Gòn thường nhận khoảng 60% trong tổng số kiều hối về Việt Nam - theo thống kê của Ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM về cơ cấu địa phương tiếp nhận kiều hối trong nhiều năm qua. Như vậy nếu căn cứ vào con số 5,2 tỷ USD kiều hối về Sài Gòn trong năm 2017 và tỷ lệ 60% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 chỉ vào khoảng 8,5 tỷ USD chứ không thể lên đến 13,8 tỷ USD cho năm 2017 và 15,9 tỷ USD cho năm 2018 như Ngân hàng Thế giới công bố. Tương tự, nếu căn cứ vào con số khoảng 5 tỷ USD kiều hối về Sài Gòn trong năm 2019 và tỷ lệ 60% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong năm 2019 cũng chỉ vào khoảng 8,5 tỷ USD chứ không thể lên đến gần 18 tỷ USD. Nhưng con số 8,5 tỷ USD trên vẫn có thể là lạc quan, bởi phản ánh chung của báo chí và giới chuyên gia tài chính là trong những năm gần đây, kiều hối đổ về Việt Nam có khuynh hướng ngày càng tập trung về Sài Gòn, trong khi giảm mạnh ở tỉnh thành khác, trong đó cần phải tính đến yếu tố sụt giảm kiều hối từ lực lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam do ngày càng nhiều quốc gia hạn chế hoặc đóng cửa với lao động Việt. Nếu tỷ lệ kiều hối về Sài Gòn vượt trên 60% nhưng vẫn giữ giá trị tuyệt đối là khoảng 5 tỷ USD thì dĩ nhiên con số tổng kiều hối quốc gia sẽ phải giảm dưới mức 8,5 tỷ USD. Ngân hàng Thế giới có tiếp tay cho chính thể độc tài Việt Nam? Kết quả kiều hối về Việt Nam liên tiếp thấp hơn mức 8,5 tỷ USD là tồi tệ nếu so với đỉnh kiều hối về Việt Nam trong năm 2015 là 13,5 tỷ USD. Kết quả tồi tệ đó cũng phá vỡ đường cong tăng tiến trong 23 năm liên tiếp của kiều hối về Việt Nam, và hẳn là đó nguồn cơn bỉ bôi sâu xa khiến các cơ quan Việt Nam như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê… cố giấu diếm công bố về kiều hối của ‘kiều bào ta’ vào các năm 2017 và 2018, và rất có thể sẽ lại giấu biến số kiều hối về Việt Nam vào năm 2019. Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới đã trở thành một hiện tượng chính trị rất đáng được mổ xẻ và truy xét nguồn cơn, khi tổ chức được xem là rất có uy tín quốc tế này đã làm thay phần việc của các cơ quan ở Việt Nam trong việc công bố kết quả kiều hối về Việt Nam mỗi năm. Vậy là những năm gần đây, năm nào các tờ báo đảng và ‘thân đảng’ ở Việt Nam cũng dẫn tin từ Ngân hàng Thế giới để khoa trương thành tích nhờ có nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và các chính sách nhân văn nhân bản của đảng và nhà nước ta mà Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều kiều hối từ ‘khúc ruột ngàn dặm’ hay từ ‘kiều bào ta’. Thậm chí đích thân ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng còn xuất đầu lộ diện trong một bài phát biểu tại sự kiện có tên “Xuân quê hương 2019” ở Hà Nội để nói theo… Ngân hàng Thế giới. Khi đó, ông Trọng thông báo rằng người gốc Việt sinh sống tại các nước trên thế giới gửi về Việt Nam gần 16 tỷ đôla trong năm 2018 và không quên nhấn mạnh rằng con số đó “tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1993”. Tuy nhiên, công bố của Ngân hàng Thế giới về lượng kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 lại chỉ thuần túy là con số tổng nhưng đã không kèm theo bất kỳ một liệt kê chi tiết nào cần có về cơ cấu khu vực và quốc gia trên thế giới gửi kiều hối về Việt Nam, cơ cấu khu vực và ngành nghề ở Việt Nam nhận kiều hối, phương pháp tính kiều hối của Ngân hàng Thế giới… Trong thực tế, số liệu của Ngân hàng Thế giới về kết quả kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 là rất đáng nghi ngờ về tính chính xác, nếu không muốn nói là đáng nghi ngờ về tính trung thực. Có lẽ nhiều quan chức quản lý tiền tệ ở Việt Nam đã phải ngơ ngác khi nhìn vào bảng kết quả kiều hối về Việt Nam do Ngân hàng Thế giới thống kê: với số thống kê của Ngân hàng Thế giới vượt gấp nhiều lần số liệu được công bố bởi Ngân hàng nhà nước chi nhánh TP. HCM, dấu hỏi rất lớn đọng lại là Ngân hàng Thế giới đã làm cách nào để ‘vẽ’ thêm từ 7 - 8 tỷ USD kiều hối về Việt Nam mỗi năm? Liệu giữa Ngân hàng Thế giới và chính quyền Việt Nam liệu có tồn tại âm thầm một thỏa hiệp chính trị nào để tô hồng cho chế độ độc đảng này? Liệu Ngân hàng Thế giới có tiếp tay, hoặc đã có một hành động hoàn toàn không khách quan và trung thực, cho chính thể độc trị ở Việt Nam khi ‘vẽ’ con số thống kê lượng kiều hối về Việt Nam năm 2017 là 13,8 tỷ USD, lên đến 15,9 tỷ USD cho năm 2018 và có thể vọt đến gần 18 tỷ USD của năm 2019? Thành tích chính trị Nguyễn Xuân Phúc Kiều hối là một nguồn quan trọng đã giúp duy trì “máu” để chính quyền Việt Nam vẫn có thể tạm ung dung về “đà tăng trưởng kinh tế không ngừng”, đồng thời khi cần thiết có thể gia tăng in tiền mặt để “gom” USD trôi nổi từ dân chúng, đặc biệt từ các gia đình được thân nhân ở nước ngoài gửi ngoại tệ về, giúp bổ sung kho dự trữ ngoại hối và có thêm ngoại tệ để dễ bề trả số nợ nước ngoài đang lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm. Nếu vào thời hoàng kim của kinh tế Việt Nam vào những năm 2006-2007, kiều hối có giảm cũng khó có tác động tiêu cực đến nền kinh tế này. Nhưng khi kinh tế Việt Nam đã trải qua 11 năm suy thoái liên tiếp tính từ năm 2008, bất cứ một sự giảm sút nào về luồng tài chính ngoại vận cũng khiến nền kinh tế phải chịu thêm áp lực khủng hoảng. Sau chuỗi năm tăng trưởng liên tục, năm 2016 thực sự là một cú sốc dành cho chính thể cầm quyền tại Việt Nam: lượng kiều hối trong năm đó chỉ còn có 9 tỷ USD, sụt giảm rất mạnh - đến 30% - so với lượng kiều hối của năm 2015. Với hơn 4 tỷ USD bị sụt giảm từ lượng kiều hối vào năm 2016, GDP danh nghĩa của Việt Nam khi đó đã bị giảm khoảng 1,5% trong năm đó và cũng giảm theo tỷ lệ đó trong những năm sau. Còn vào hai năm 2017 và 2018, với mức giảm từ 6 - 7 tỷ USD so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD của năm 2015, GDP danh nghĩa của Việt Nam còn có thể sụt giảm nặng nề hơn. Nếu kiều hối về Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong vài ba năm tới, ngân sách sẽ không biết tìm đâu ra ngoại tệ mạnh để thanh toán các khoản đến hạn với quốc tế. Hẳn những con số chẳng hề đẹp đẽ ấy là nguồn cơn khiến Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc không thể an tâm với bảng thành tích điều hành kinh tế trên cung đường chinh phục cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 - diễn ra vào đầu năm 2021. Và rất có thể chính vì nỗi thất vọng khó nói ra ấy nên chính Thủ tướng Phúc đã phải chỉ đạo cho Tổng cục Thống kê đưa cả ‘kinh tế ngầm’ - hay còn gọi là nền kinh tế không chính thức - vào GDP, để vào tháng 8 năm 2019, mỗi đầu dân Việt bỗng dưng giàu thêm 400 USD, còn Tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam bỗng phình thêm 40 tỷ USD! Trong khi đó, đời sống dân tình ngày càng khó khăn, gánh nặng thuế chồng thuế còn tệ hơn cả thời Pháp thuộc ‘chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy’…  
......

Ai cả gan kiện 2,5 tỷ USD đối với cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng?

Ảnh: Đặng Thị Hoàng Yến và Nguyễn Tấn Dũng vào thời còn đương chức - một là đại biểu quốc hội và một kia là thủ tướng. An Xuyên - (VNTB) Một thông tin được đăng tải, được cho là từ Văn phòng luật sư Charles H. Camp, cho biết, bà Tiến sĩ Maya Dangelas đã hoàn tất các thủ tục tố tụng trọng tài nhằm ‘kiện’ nguyên Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng, với mức đòi bồi thường lên đến 2,5 tỷ USD. Maya Dangelas là tên nước ngoài của doanh nhân Đặng Thị Hoàng Yến, nguyên Chủ tịch HĐQT tập đoàn Tân Tạo, cựu ĐBQH khóa XIII. Theo thông tin được đăng tải trên Prnewswire, thì vụ kiện nhắm vào nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có liên quan đến dự án nhiệt điện Kiên Lương (thuộc huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang). ‘Dự án nhiệt điện phức hợp Kiên Lương sẽ tạo ra hàng tỷ USD cho các công ty của tôi để cung cấp cơ hội việc làm và giáo dục cho người nghèo ở Việt Nam.’ bà Yến được dẫn lời cho biết hôm 6/9/2019. Theo Thông cáo, thì khi làm Thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã làm trái hợp pháp hợp đồng xây dựng, sở hữu và vận hành Dự án Nhiệt điện Kiến Lương tại Việt Nam. Trước đó, vào tháng 7/2007, trong cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng đồng ý về dự án đầu tư cho một khu công nghiệp, nhà máy điện và cảng biển sâu ở Kiên Lương của Công ty CP Năng lượng Tân Tạo (TEC). Chín năm sau khi thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nêu ý kiến rà soát và loại bỏ dự án nhiệt điện Kiên Lương 1 khỏi Quy hoạch điện VII, vi phạm trực tiếp thỏa thuận đầu tư giữa TEC và chính phủ Việt Nam, theo Thông báo của Trọng tài. “Hồ sơ này nhằm buộc cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chịu trách nhiệm về hành động của mình cả về [chức vụ] chính thức và về mặt cá nhân,” ông Tony Buzbee nói. Bài viết cũng cho biết, vụ kiện này được tiến hành dựa trên các quy tắc tố tụng Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL). Nhiệt điện Kiên Lương bị hủy bỏ vì ‘treo dự án’? Theo Vneconomy vào tháng 11/2018, UBND tỉnh Kiên Giang đã ban hành văn bản phản hồi TEC về Dự án nhiệt điện Kiên lương 1. Theo đó, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã kết luận lý do loại bỏ Dự án nhiệt điện Kiên Lương 1 và 2 ra khỏi danh mục các dự án nguồn điện giai đoạn 2030 là do tiến độ triển khai chậm, và xét thấy năng lực công ty không thực hiện dự án. Cũng theo trang tin này, ‘từ năm 2011, dự án bắt đầu đình trệ, chủ đầu tư không thực hiện nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất và cũng không thực hiện thủ tục xin gia hạn nộp tiền.’ Dự án đầu tư này cũng được cho là có sự vênh nhau về số liệu đầu tư giữa TEC và báo cáo của tỉnh Kiên Giang, lên mức 81 lần. Và bản thân dự án, theo một báo cáo từ blogger Lê Anh Hùng trên VOA, thì nhiệt điện Kiên Lương từng được giới đầu tư Trung Quốc ‘sốt sắng’ tìm hiểu, và địa điểm xây dựng nhà máy cũng có những yếu tố nhạy cảm về quốc phòng. Thuần túy kiện đòi hay còn gì nữa? Báo Tiền Phong ngày 9/9/2019, đăng tải nội dung bài viết với tiêu đề ‘Bí ẩn nữ đại gia Hoàng Yến và khối tiền 3,5 ngàn tỷ khó thu hồi’. Trong đó đề cập đến việc, cơ quan Kiểm toán Nhà nước (Việt Nam) đặc biệt lưu ý là về khả năng thu hồi khoản đầu tư và phải thu từ hai công ty có liên quan với tổng trị giá hơn 3,5 ngàn tỷ đồng, và cơ quan này nghi ngờ khả năng thu hồi khoản tiền khổng lồ liên quan đến Nhiệt điện Kiên Lương. Bài báo cũng đồng thời cho biết, CTCP Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo (ITA) do bà Hoàng yến làm chủ ‘đang làm việc với cơ quan chức năng kiến nghị đưa dự án Kiên Lương vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia’ nhằm xử lý khoản đầu tư và công nợ có liên quan. ‘ITA chưa đánh giá được chắc chắn khả năng thu hồi của các khoản đầu tư và khoản phải thu nói trên do việc này phụ thuộc vào khả năng tiếp tục thực hiện dự án Nhiệt điện Kiên Lương’, báo cáo của cơ quan Kiểm toán nhà nước cho biết. Vì vụ kiện được tiến hành trên cơ sở Trọng tài quốc tế, nên hồ sơ vụ kiện hoàn toàn bí mật. Tuy nhiên, dựa vào những gì diễn ra trên báo chí, thông báo của công ty Tân Tạo, và báo cáo của Kiểm toán nhà nước thì việc bà Đặng Thị Hoàng Yến tiến hành ‘khởi kiện’ nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Trọng tài quốc tế Paris là một cách giải quyết tranh chấp thương mại (đầu tư) được ghi nhận một cách phổ biến trong những năm gần đây giữa một chủ thể là cá nhân đối với một cá nhân, và giữa một cá nhân đối với một cơ quan (chính quyền) Nhà nước. Nếu sắp xếp theo tiến trình và mục đích khởi kiện, thì bản thân bà Hoàng Yến đang tìm một sự thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm các giải pháp đưa dự án Nhiệt điện Kiên Lương vào lại Danh mục các dự án nguồn điện giai đoạn 2030 nhằm thu hồi lại nguồn vốn lên đến 3,5 tỷ đồng nêu trên. Như vậy, kiện đòi lần này dù hướng đến ông Nguyễn Tấn Dũng, nhưng không nhằm các mục đích chính trị, mà thuần túy là giải quyết các tranh chấp trong đầu tư, và tìm kiếm bồi thường đầu tư do bên công ty Tân Tạo tin rằng, phía chính quyền mà đại diện là ông Nguyễn Tấn Dũng đã ‘phá vỡ hợp đầu đầu tư’. Nói đúng hơn, bà Đặng Thị Hoàng Yến đang hiện thực hóa quan điểm của Tập đoàn Tân Tạo, trong đó, ‘đề nghị được Chính phủ, Bộ Công Thương, UBND tỉnh Kiên Giang đền bù thoả đáng cho cả tập đoàn Tân Tạo và cho các nhà đầu tư nước ngoài vì đã đầu tư rất nhiều vào dự án.’ Chính phủ Việt Nam có tham gia vụ kiện với tư cách bị đơn? Sở dĩ Chính phủ Việt Nam không thể ‘trốn tránh’ tiến trình tố tụng ở tòa án trọng tài quốc tế vì thực tiễn xét xử quốc tế cho thấy, điều đó sẽ làm hạ thấp uy tín và độ tin cậy của Nhà nước như một bên tranh tụng; làm gia tăng tính bất hợp pháp của Nhà nước đó trong quá trình xét xử liên quan đến giải quyết tranh chấp đầu tư. Do đó, Chính phủ Việt Nam hiện tại phải tham gia với tư cách bị đơn. Vậy nếu nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị tuyên bố là thua kiện bởi Trọng tài quốc tế Paris, thì điều gì sẽ xảy ra? Vì Việt Nam là thành viên của Ủy ban Luât Thương mại quốc tế (UNCITRAL), nên các phán quyết được đưa ra bởi Trọng tài quốc tế sẽ buộc Việt Nam phải tuân thủ trong sự tự nguyện. Bởi kiện đòi của bà Hoàng Yến không chỉ mang tính chất cá nhân, mà cả ‘chức vụ’ của ông Nguyễn Tấn Dũng. Điều này đồng nghĩa, vụ kiện sẽ giống về mặt quy trình và hệ quả như vụ kiện mà ông Trịnh Vĩnh Bình tiến hành đối với Chính phủ Việt Nam. Điều cần biết là, kể cả khi ông Nguyễn Tấn Dụng không tham gia vào vụ kiện này, hoặc Chính phủ Việt Nam tìm cách ‘lờ’ đi sự kiện này, thì Ủy ban trọng tài quốc tế Paris vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng và ra phán quyết dựa trên cơ sở các chứng cứ mà phía bà Hoàng Yên đưa ra. Nếu Nhà nước Việt Nam  xét thấy, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu ý kiến rà soát và loại bỏ dự án nhiệt điện Kiên Lương 1 khỏi Quy hoạch điện VII là ‘không vi phạm trực tiếp thỏa thuận đầu tư giữa TEC và chính phủ Việt Nam’ thì có thể theo đuổi tiến trình tố tụng. Trong trường hợp ngược lại, phía Chính phủ Việt Nam có thể ‘thỏa thuận’ với bà Hoàng Yến để có thể chấm dứt tố tụng, để tránh hệ quả về một phán quyết lên đến 2,5 tỷ USD – vốn buộc phải lấy từ nguồn ngân sách nhà nước.
......

Thầy nào trò ấy

nguyenhuuvinh’s blog – RFA Mạng xã hội đưa hai bức ảnh của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt tay thầy giáo và ảnh Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ bắt tay một người già. Hai bức ảnh nhận được nhiều bình luận phản cảm và chia sẻ nhanh chóng trên mạng xã hội. Chúng ta thấy gì? Cha ông dạy: Thầy nào, trò đó. Thầy cũng chẳng ra cái tư cách gì, khúm núm nịnh bợ. Loại người này hèn, không biết tư cách của mình khi đó là gì. Loại này học trò nó khinh cho cũng không có gì đáng thương. Còn học trò, thì không hiểu rằng dù mình có là Vua, thì thầy mãi mãi vẫn là thầy và học trò thì phải lễ phép với thầy. Còn cái kiểu bắt tay người khác mà mắt chăm chăm vào chén rượu, cũng không nên trách làm gì. Đây là thói quen cũng nên. Leo lên đến đó, thì chuyện ăn là quan trọng nhất và đã thành thói quen: Ăn cơm, ăn cắp, ăn hối lộ, ăn xương máu… đủ thứ. Thế nên nhăm nhăm vào chén rượu là đặc tính riêng của đám phàm phu tục tử… Người đứng khom lưng bắt tay kia mới đáng thương, khốn khổ, cứ thấy nó lớn hơn mình ở cái ghế là xun xoe làm cái giề. Đâu phải trên cái ghế to nào cũng là con người, nhiều khi chỉ là cái đụn rơm thôi. Người dân Quảng Trị kể lại câu chuyện này: Ngày trước, sau 1975, lần đầu Lê Duẩn về quê, có đến thăm một gia đình trước đó Lê Duẩn ở chăn trâu và làm thuê cho nhà đó. Nhà này giàu có nhưng sau được cách mạng “Cách mẹ cái mạng nó đi” nên tiến nhanh, tiến mạnh tiếng vững chắc lên nghèo khó. Khi Lê Duẩn đến thăm nhà, người ta tưng bừng chuẩn bị đón tiếp Tổng Bí thư, còn bà chủ nhà vẫn ngồi trong buồng. Lê Duẩn bước vào nhà tưởng bà ở trong nhà, chào thì bà ngồi trong buồng vọng ra: – Mi đó hả Duẩn? Lê Duẩn phải trả lời: – Dạ con đây, Duẩn đây. Khi đó bà mới trong buồng bước ra. Và Duẩn đứng yên chờ bà ra chứ bà ấy không đứng chờ Lê Duẩn, dù Lê Duẩn khi đó là vua. Bà nông dân ấy có học hơn lão thầy giáo. Qua hai bức ảnh, người ta có thể đúc kết được câu này về cách ứng xử nhìn thấy của quan chức cấp cao: – TRÒ CÓ HỌC NHƯNG MẤT DẠY – THẦY CÓ DẠY NHƯNG VÔ HỌC. 7/9/2019 J.B Nguyễn Hữu Vinh  
......

“Bạo lực cách mạng“ sắp hết thời

Van Nga DO| Ban đầu, người Hồng Kông bùng phát biểu tình là bởi dự luật dẫn độ. Sau hơn 2 tháng, tình hình Hồng Kông không hề giảm nhiệt mà ngược lại còn có dấu hiệu leo thang. Mãi cho đến ngày 04/09/2019 thì chính quyền Bắc Kinh mới chấp nhận rút bỏ luật dẫn độ để xoa dịu lòng dân nhưng đã quá muộn, lúc đó đã có 7 người thiệt mạng và 1200 người bị bắt giam. Vì thế mà sự đòi hỏi của dân Hồng Kông không dừng lại ở 1 như ban đầu mà bây giờ họ đã tăng lên thành 5 yêu sách. Khi sự đòi hỏi leo thang thì sự đối đầu giữa dân Hồng Kông và chính quyền Bắc Kinh rất khó mà kết thúc. 5 đòi hỏi mà phía người biểu tình đưa ra là: thứ nhất, rút hoàn toàn dự luật dẫn độ; thứ nhì, thành lập một ủy ban hoàn toàn độc lập để điều tra hành vi bạo lực của cảnh sát; thứ 3, ân xá cho những người bị bắt; thứ tư, quyền bầu cử phổ thông; và thứ 5 là chấm dứt mô tả các cuộc biểu tình là bạo loạn. Như vậy qua đây chúng ta thấy gì? Từ một yêu cầu ban đầu chính quyền Trung Quốc không chịu gật đầu thì sau đó lại phát sinh thêm 4 yêu cầu khác. Càng chần chừ nhượng bộ thì sự đối đầu càng căng thẳng, vì trong quá trình đối đầu dai dẳng ấy khó tránh khỏi phát sinh tội ác từ phía chính quyền, và khi tội ác gia tăng thì rất có thể dân Hồng Kông sẽ đưa ra thêm những yêu cầu mới. Mà thêm quá nhiều yêu cầu thì chính quyền Bắc Kinh khó mà nhượng bộ được. Đây quả là cái gân gà khó nuốt đối với chính quyền Bắc Kinh. Ban đầu chính quyền Bắc Kinh rất ngạo mạn cậy vào sức mạnh họng súng, họ chỉ tin vào loại công cụ bạo lực này để xây dựng chính quyền. Mao đã từng nói “chính quyền xây trên họng súng” kia mà? Chính vì thế mà chính quyền Bắc Kinh tin rằng họng súng sẽ làm cho dân Hồng Kông khiếp sợ như họ đã và đang làm như vậy với dân đại lục, nay hóa ra đây lại là một nước cờ sai. Vì sao? Vì đây là dân Hồng Kông chứ không phải dân đại lục. Có thể nói lý thuyết “bạo lực cách mạng” của các chính quyền CS nói chung hay lý thuyết “chính quyền được xây trên họng súng” của Mao nói riêng nay đang dần đi đến giai đoạn bế tắc của nó. Bắc Kinh đã huy động lực lượng vũ trang của họ chờ sẵn nhưng vẫn chưa thể quyết định hành động như Thiên An Môn, bởi lẽ hôm nay khác trước dây 30 năm và dân Hồng Kông khác dân đại lục. Khi hành động, chính quyền Bắc Kinh đã chợt nhận ra giải pháp bạo lực đã đưa họ vào thế kẹt, chính vì thế mà chính quyền Bắc Kinh dù đã sẵn sàng súng ống đợi lệnh nhưng họ không biết hành động như thế nào cho vẹn toàn được. Nếu ngay từ đầu, chính quyền Bắc Kinh đồng ý liền những yêu sách dân Hồng Kông thì chắc chắn lần sau dân Hồng Kông lại đòi hỏi tiếp, ý đồ leo thang đòi hỏi để đi đến dân chủ hóa cho Hồng Kông ai cũng đọc ra. Nếu nhượng bộ dễ dàng thì trong vòng 28 năm tới, rất có thể dân Hồng Kông giành lại dân chủ cho mình thật. Mà khi dân Hồng Kông giành được dân chủ thì cũng đồng nghĩa Bắc Kinh sẽ vuột mất một trung tâm tài chính Châu Á. Chưa hết, nếu Hồng Kông có dân chủ thì thế nào chính Hồng Kông cũng sẽ mang lại làn gió mới cho đại lục, và biết đâu cái kết không phải Hồng Kông bị áp đặt bởi độc tài Bắc Kinh mà ngược lạ, Bắc Kinh sẽ sụp đổ vì mồi lửa Hồng Kông thì sao? Đây là viễn cảnh mà Bắc Kinh chắc chắn nhìn ra, và đó là lý do mà Bắc Kinh thấy không thể nhượng bộ dân Hồng Kông một cách dễ dàng. Nhưng nếu không nhượng bộ từ đầu mà vẫn cứ cứng thì điều đó lại dẫn chính quyền Bắc Kinh đến một khó khăn khác. Chính vì Bắc Kinh không nhượng bộ nên mới phát sinh ra tình huống thứ 2, đó chính là sự đối đầu giữa chính quyền và dân cứ leo thang mà chưa có dấu hiệu lắng xuống. Bởi vì chính quyền đối đầu kéo dài thì chính quyền sẽ mất bình tĩnh mà giở thủ đoạn. Mà một khi giở thủ đoạn bẩn thì cũng đồng nghĩa với việc chính họ đã kích thích sự căm phẫn của người dân, mà khi dân Hồng Kông đã căm phẫn thì họ không chịu lùi bước thì thế nào họ cũng đặt thêm những yêu sách mới với phía chính quyền. Đứng trước trường hợp như thế này mà chính quyền Trung Quốc nhượng bộ thì dẫn tới một kết quả thất bại cho phía chính quyền Bắc Kinh, thất bại hơn so với sự nhượng bộ từ đầu. Giả sử nếu mâu thuẫn đã đẩy đến mức độ cực đoan mà cả 2 bên đều không chịu nhượng bộ thì rất có thể dẫn đến một Thiên An Môn thứ 2. Nếu điều này xảy ra thì đó là kịch bản tồi tệ cho cả chính quyền Bắc Kinh lẫn dân Hồng Kông. Lúc này có khi Trung Quốc bị cả thế giới cô lập và nội loạn từ trong lòng đại lục sẽ ló mầm. Có thể nói, để xảy ra tình cảnh như hôm nay, là bởi sự kiêu ngạo và ỉ lại vào công cụ bạo lực quá nhiều. Chính quyền Trung Quốc vẫn chưa có giải pháp khả dĩ cho Hồng Kông. Lý thuyết “bạo lực cách mạng” nó đã bị kết liễu ở Đông Âu cách đây 30 năm rồi, thì nay cho thấy, nó cũng sắp hết thời ở những quốc gia độc tài Cộng Sản còn lại. “Chuyên chính Vô sản” hay “Bạo lực Cách mạng” gì đấy thì nó phải chết, đó là điều tất yếu không ai có thể thay đổi được./.  
......

Cần Làm Gì Để Dạy Làm Người.

Luân Lê Dạy làm người thì phải bỏ mấy vấn đề sau: 1. Không có các cuộc thi đua và rồi lại sinh ra đủ các loại bằng khen; 2. Bỏ mọi hình thức quản lý kiểu đội sao đỏ, cờ đỏ...để trường học trở thành trường học, nơi của lương thiện và sự bình đẳng, công bằng, chứ không phải trại cải tạo với những học sinh (ngay từ nhỏ) đóng vai mật vụ hay cảnh sát để giám sát, báo cáo làm nghĩa vụ học tập của mình; 3. Dạy các quyền cơ bản về quyền con người, các kỹ năng sinh tồn, giao tiếp và khám phá tự nhiên; 4. Không tổ chức thi cử, không học theo lối giáo viên đọc học sinh chép bài, bỏ các loại giáo án mà có thể dùng cả (vài) chục năm đi. 5. Không dạy lý tưởng chủ nghĩa hay phải tuân theo các nhiệm vụ chính trị tại các ngôi trường. Trường học là nơi dạy về việc làm chủ và thực hành các quyền chính trị chứ không phải để tuân phục quyền lực chính trị. 6. Giáo viên phải được đào tạo về nền tảng các quyền con người và luật pháp để dạy những quyền con người thiết yếu cho học sinh để bảo vệ chính mình. Không được coi mình là bề trên đối với học sinh và là bề dưới của cơ quan quản lý giáo dục hoặc tổ chức hành chính, mà họ là người tự chủ, độc lập, có kinh nghiệm trong cuộc sống và trưởng thành về mặt thể nhân để hướng dẫn. ***** CON ĐƯỜNG VÀ KHUNG CẢNH GIÁO DỤC Cho các em leo núi, hoà nhập với thiên nhiên trong ngày khai trường để thấy sự hùng vĩ của núi non, của tự nhiên đẹp đẽ an hoà thay vì phải đứng xếp hàng cầm hoa, cầm cờ hay mặc áo tân thời có hình búa liềm nhảy múa rồi nghe quan chức phát biểu đủ loại ngôn từ sáo rỗng mà dài lê thê chỉ để thực hiện một nghi thức khai trường chẳng đem tới gì ngoài sự mệt mỏi và lãng phí. Hình ảnh cô giáo mặc áo dài màu hường, dắt tay học sinh tung tăng leo trên triền núi và phía sau là những màu xanh của cây cỏ, là một hình ảnh quá đẹp về giáo dục và vào ngày tựu trường. Hình ảnh thật sự làm con người ta thấy xúc động. Và còn chùng lòng xuống nếu nhìn thấy cảnh ngôi trường mà các bé theo học, nó tồi tàn và hoang sơ trên một khuôn đồi trống. Giáo dục mà vẫn còn những nơi hẻo lánh, bơ vơ và xơ xác, tiêu điều như thế, trong khi ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục muốn dạy làm người nhưng lại xuất hiện ở một ngôi trường tại Thủ Đô với rạp che kín đầu và vẫy tay như một minh tinh màn bạc. Thật không còn buồn nào buồn hơn. Luân Lê  
......

Gặp Lại Lão Già Trên Đồi Cúc...

Và 13 năm sau… Gặp Lại Lão Già Trên Đồi Cúc... Diem Huong Pham .... Đồi Cúc hôm nay thật tĩnh mịch, nhưng tâm Lão không yên tịnh chút nào. Lão đã trở về căn nhà nhỏ ven đồi từ mấy hôm nay, Lão bồn chồn đi ra đi vào như ngóng đợi ai. Mỗi sáng, Lão ra khỏi nhà đi vòng đồi Cúc và lên ngồi trên đỉnh tháp khắc tên 72 liệt sĩ người bản xứ và dõi mắt xa xăm. Hôm nay, Lão cũng ngồi đợi ở đỉnh đồi. Bất giác Lão thở dài, đã hơn 13 năm... từ ngày họ đến dọn cỏ chung quanh ngôi nhà như cái miếu cổ của Lão, họ để chiếc lẵng hoa Cúc vàng ngay lối đi làm tươi nơi Lão ở, họ thắp hương trầm thơm làm ấm tâm hồn Lão, và hẹn sẽ đem Lão về quê.... Lão đã được sống trong tình dân tộc, Lão nhớ Lão đã đầm đìa nước mắt, Lão không còn oan ức khi nhìn giòng Châu Giang, Lão đã xuất hiện giữa phố phường của người bản xứ... Nhưng mỗi năm cứ đến Tiết Thanh Minh, Lão lại nhớ những ngườì khách lạ phương Nam. Lão nhớ hình bóng hai chiếc áo nâu. Lão nhớ mái tóc điểm sương gục trên cổng nhà Lão. Từ ngày ấy đến nay, mỗi tiết Thanh Minh, Lão đều ngóng đợi.... Nhưng năm nay, nỗi nhớ bỗng lạ kỳ, quặn thắt. Bỗng có tiếng trò chuyện của đồng hương vẳng lên trong gió...hình như cũng một già một trẻ như năm xưa, tim Lão đập thình thịch, phải họ đấy chăng? họ đến thăm Lão nữa đấy chăng? Đường xá gập ghềnh quá....Đi làm gì cho khổ thân, nhớ đến Lão, tưởng đến Lão là được rồi, nhưng chỉ thoáng một giây, Lão lại nghĩ: Ta cũng cần được gặp nhau! Lão vội đứng lên nheo mắt nhìn cho rõ, đúng là một già, một trẻ, như năm xưa, đúng là họ Lão nhận ra người đàn ông đứng tuổi năm xưa, cũng dáng đi ấy nhưng chậm chạp lắm rồi, cũng khuôn mặt ấy nhưng da đã mồi, mái tóc đã trắng như cước, và đôi mắt, đôi mắt năm xưa, tuy Lão không nhìn được rõ, nhưng dường như vẫn còn vệt sáng thân quen lắm... Còn người đi bên cạnh không phải là ngườì thanh niên năm xưa, mà là một thiếu phụ ... Lão chạy xuống đồi để đón khách lên, Lão dừng lại giữa đồi thở hổn hển, nhưng đột nhiên chung quanh vắng lặng không một bóng người, chính Lão vừa nhìn thấy họ từ tháp kỷ niệm kia mà... Lão đi thật nhanh chung quanh đồi Cúc. chẳng một bóng người lai vãng. Lão chạy vội về nhà, biết đâu chừng họ đi lối tắt chăng? vẫn không có ai, không có bước chân nào dẫm trên cỏ...chẳng lẽ Lão mơ ư ? Chú mục nhìn về hướng có tiếng nói vọng tới ... Lão lại nhìn thấy họ, nhưng họ đang còn ở xa lắm, mãi dưới gầm trời phương Nam, Ôi, vì lòng thành với tổ tiên, mà mẩu đối thoại của họ đã vọng tới Lão ... Có tiếng người lớn tuổi kể rằng: “Chị biết không? Năm chúng tôi đi tìm mộ của Người, hồn tôi như được dẫn dắt.... hôm ấy, trời đã chiều, tôi không còn hy vọng tìm được ngôi mộ. Chung quanh bốn bề yên lặng. Tôi được cho biết vị trí của ngôi mộ, nhưng bốn góc của đồi Cúc đã không có dấu vết gì. Tôi chợt thấy một người đàn ông đang ngồi đọc báo dưới chân đài kỷ niệm, tôi đi đến hỏi và tìm được đường lên đài, tôi đi vòng ra phía sau đài, thì thấy có lối đi xuống, cỏ mọc che khuất cả lối đi, tôi bước xuống và đi một mạch đến một u đất, cỏ phủ đầy, tôi tìm được tấm mộ bia .... .... Nước mắt tôi tràn ra làm xót đôi mắt mới mổ.” Qua tiếng gió, Lão nhận ra giọng người quen, Lão cố nghe nhưng chỉ có tiếng nấc. Tay áo của Lão cũng ướt nước mắt! không hiểu sao Lão lại ngóng trông những người năm xưa đến như vậy....Lão lại nghe: “Chị biết không, tôi lặng người trước ngôi mộ, hồn Tiền Nhân như đang đứng cạnh tôi, truyền sang tôi từng luồng điện thần bí, như xác nhận cùng tôi, như trút sang tôi những chịu đựng, những ẩn tình vì phải gửi xương nơi đất khách quê người. Chúng tôi dọn dẹp cỏ chung quanh ngôi mộ, đặt lẵng hoa Cúc Vàng trên mộ Người và thắp hương khấn nguyện cùng Người. Chị ơi, chuyện xảy ra đã 13 năm, nhưng sao tôi cảm thấy như mới hôm qua. Chị còn nhớ không? Sau khi đi thăm mộ của Người, tôi đã kể cho chị nghe nhân ngày Ghi ơn Quốc Tổ, Chào mừng Quốc Khánh năm ấy, chúng ta ghi nhớ công ơn tiền nhân, đi tìm mộ tiền nhân ở xứ người, chúng ta đã phủ cờ Tổ Quốc lên mộ chí sĩ Trần Đông Phong ở Nhật, đã viếng mộ phần của vua Duy Tân ở khu rừng già của nước Cộng Hòa Trung Phi. Gặp lại chị lần này, lại cũng là thời gian Quốc Khánh, được chị cho biết Giải Văn Học Nghệ Thuật năm nay được trao cho tác phẩm ''Vá Cờ'', khiến tôi nhớ lá cờ Tổ Quốc đã phủ trên mộ Người, biết đến bao giờ tôi mới được đến thăm Người lần nữa. Tôi đã hứa chúng ta sẽ đưa Người về quê, nhưng 13 năm qua, mình chưa thực hiện được lời hứa đó, chắc Người vẫn mòn mỏi đợi chờ. Tôi thì đã quá già, chẳng còn được bao nhiêu ngày nữa, chắc chẳng bao giờ tôi được diễm phúc đưa Người về quê ....” Lần này Lão nghe được tiếng nức nở của nhiều người, Lão đi nhanh lên đài kỷ niệm, để nhìn bao quát được cả đồi Cúc, họ phải ở quanh đây, họ đến đông lắm, tim Lão đập nhanh, khiến Lão như nghẹt thở, nhưng vẫn không một bóng người, trời đã chạng vạng, khí lạnh tỏa nhanh khiến Lão rùng mình nhớ lại giòng nước Châu Giang, Lão lại nhớ đến không gian của 13 năm trước, cũng vào giờ này Lão gặp họ. Nghĩ thế, Lão lại cố tìm, Lão muốn gọi thật to để họ biết là Lão đã đợi chờ họ từ cả tuần nay... Tự nhiên một luồng hơi ấm chạy dọc sống lưng Lão, Lão nhận ra được sự nối kết huyền diệu giữa Lão, và người chiến sĩ chết sau khi dựng lại Cờ Vàng ở Thành Nội,Huế, cùng tâm linh của những người yêu nước. Lão trông ngóng, sốt ruột mấy hôm nay cũng vì sự liên hệ huyết thống này. Lão nghe tiếng thì thầm đứt quãng của thiếu phụ: “....Bác ơi! thời gian cho dẫu có là mười năm, trăm năm hay nghìn năm, phút giây gặp được hồn người tráng sĩ đã là sự vĩnh hằng, bác hãy bình an sống với hạnh phúc ấy. Cháu tin bác chẳng thể quên, làm sao quên được những ngày đấu tranh, nhọc nhắn tâm trí và thể xác, làm sao quên được những đồng đội thân yêu đã hy sinh dưới ngọn Cờ Vàng?. Chúng ta hãy cứ sống hết những ngày sắp đến bằng tấm lòng trung trinh với đất nước, bình tĩnh chấp nhận định mệnh, quy luật của đất trời như người xưa chấp nhận cái chết oan nghiệt lúc tuổi thanh xuân, nhưng anh linh khí tiết có bao giờ tử biệt đâu bác?.... Gặp lại Bác sau 13 năm xa cách, nghe Bác kể lại chuyện xưa, cháu như được cùng bác đến Hoàng Hoa Cương thăm lại mộ người tráng sĩ. Bác ạ, thiên nhiên sẽ không còn là cách trở, khi hồn ta hoài tưởng đến Tiền nhân, cháu nhìn thấy ngôi mộ ở ven đất hẻo lánh, cỏ đã mọc cao, và hình như không gian nơi ấy giao động khác thường....” ......Lão đã thoát khỏi vòng sinh tử tầm thường của loài người, nhưng tâm hồn Lão vẫn mãi sống chết với non nước Việt. Do thế mà khi đám con cháu nhớ đến quê hương, đã khiến Lão như thấy chúng đến thăm viếng Lãọ. Người bạn tóc điểm sương 13 năm trước, thổn thức hoài vọng về Lá Cờ Tổ Quốc đã đặt trước nhà Lão năm xưa, cũng khiến Lão cảm thấy bạn sẽ ghé thăm lần nữa. Cả tuần qua, Lão và ngườì bạn tóc điểm sương cùng toàn dân Việt hướng về Tổ quốc trong tiết Thanh Minh, đặc biệt họ vinh danh Lá Cờ Vàng dân tộc, hồn Lão, và tâm linh con cháu đã quyện vào nhau trong khí thiêng của đất trời. Lão tự nhủ, sẽ chẳng đợi con cháu đem Lão về quê, mà sẽ cùng chúng trở về quê cũ. Bốn bề vắng lặng, Lão biết chắc sẽ không có người đến thăm, nhưng Lão vẫn ngồi bất động, dõi mắt về trời Nam, dưới lớp sương núi đêm dày đặc. Chung quanh Cúc Vàng rực rỡ khắp đồị... Tháng ba năm 2000. Nguyễn Thị Xuân Lộc ***** Lão Già Trên Đồi Cúc của Nguyễn Từ Hanh Phạm Hồng Thái là một thanh niên cách mạng được cụ Phan Bội Châu gửi sang Quảng Châu du học. Năm 1924, Việt Nam Quang Phục Hội giao cho ông công tác ám sát Tòan Quyền Đông Dương là Merlin, trong dịp Merlin đi Nhật để ký kết một thỏa ước và vận dộng Nhật trục xuất tất cả các nhà cách mạng Việt Nam. Phạm Hồng Thái nhận nhiệm vụ, và theo sát Merlin từ Hương Cảng, sang đến Hoành Tân và Đông Kinh, nhưng không tìm được cơ hội thuận tiện. Trên đường trở về Đông Dương, phái đoàn Toàn Quyền Merlin ghé lại Quảng Châu, và dự tiệc tại khách sạn Victoria ở Sa Điện vào đêm 19 tháng 6 năm 1924. Phạm Hồng Thái cải trang thành một phóng viên và vào được trong khách sạn. Giữa buổi tiệc, ông đã ném một trái bom khiến 4 thực dân Pháp chết tại chỗ, và điều không may là Merlin chỉ bị thương nhẹ. Ngay sau khi ném bom, Phạm Hồng Thái đã chạy thoát ra khỏi khách sạn. Nhưng bị lính rượt đuổi bắt, ông chạy đến Châu Giang thì cùng đường, nên đã gieo mình xuống sông tuẫn tiết để không bị sa vào tay giặc. Lúc ấy Phạm Hồng Thái chưa đầy ba mươi tuổi..... Thực dân đã để xác của Phạm Hồng Thái phơi nắng mấy ngày rồi mới cho đem chôn. Một năm sau, vì khâm phục và ngưỡng mộ sự bỏ mình vì Tổ Quốc vô cùng bi tráng của người thanh niên đất Việt Phạm Hồng Thái, viên tỉnh trưởng tỉnh Quảng Châu đã cho di mộ Phạm Hồng Thái về đồi Hoàng hoa Cương nơi an nghỉ của 72 liệt sĩ Trung Hoa.... Vào đầu năm 1987, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã cử cán bộ tới viếng thăm phần mộ Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái tại Hoàng Hoa Cương thuộc tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc và phủ một lá Quốc Kỳ lên mộ của Người. Ở thời điểm 1987, mang một lá cờ vàng ba sọc đỏ vào trong lãnh thổ Trung Cộng không phải là chuyện đơn giản. Cảm kích trước lòng thành và hành động can trường này, nhà văn Nguyễn Từ Hanh đã sáng tác truyện ngắn "Lão Già Trên Đồi Cúc" đăng trên Nguyệt San Kháng Chiến thời đó. Trích đoạn: Lão Già Trên Đồi Cúc ..... Lão nhắm hướng vườn hoa ven sông băng mình lao tới. Bước chân khập khễnh của Lão để lại trên thảm cỏ từng vệt máu đen bầm, lấp lánh trong sương đêm. Khí giới trong tay Lão đã dùng hết rồi. Nghe như bị đấm nơi lưng ngã chúi về phía trước. Lão biết mình lại thêm một vết thương nặng, trổ ra trước ngực, máu chảy lạnh xuống đến bụng. Con đường càng ngày càng hẹp, mà Vệ binh túă ra từ khắp nơi xì xồ gọi nhau, đạn bay như những vệt sao xẹt quanh Lão. Bờ sông bên kia xa quá.... Lão biết mình sẽ không gặp lại Minh Chủ và các bạn nghĩa sĩ. nhưng Lão không muốn để kẻ thù bắt sống.... Đại Trượng phu chỉ có hai con đường: Trả nợ núi sông hay hy sinh vì nợ núi sông. Đấy là những ý nghĩ sau cùng của lão, trước khi giòng nước lạnh đen ngòm như một con Giao Long khổng lồ, cuốn Lão đi, đưa Lão đến một vùng đất mới. .... Căn nhà của Lão nằm trên ven đất hoang sơ, quanh năm chỉ thấy cỏ cây và chim chóc, nên có cái vẻ tiêu điều của một ngôi miếu cổ. Sống giữa những người bản xứ, cùng cảnh ngộ mà không cùng ngôn ngữ, Lão không vui và thấy mình cằn cỗi dần.... Từ khi được đưa về đây, Lão sống như người mất hồn. Lão ra vào ngẩn ngơ, đêm đêm trở về dòng sông cũ mà phẫn hận vì việc làm chưa vẹn toàn ... đến chạng vạng sáng mới tìm về căn nhà trên đồi Cúc.... Lão được đưa về đây trong một ngày đông lạnh lẽo. Từ đó đến nay, chuyện núi sông của Lão vẫn chưa thành. Con cháu Lão vẫn lao đao với những mối nợ chưa trả, những lời thề chưa giải. Quanh đây, không thiếu gì ngườì đến sau đã cho Lão biết tin ở quê nhà. Quân tự cố hương lai.... Hàng năm vào dịp tháng Ba, khi dân bản xứ tấp nập tế lễ Thanh Minh, những người dân trong đó chỉ thấy một lão già còm cõi quỳ lạy phương Nam, nước mắt đầm đìa thấm trên ngực. Ở nơi chốn hoang vu đó, hình ảnh Lão Già Miền Nam đã in hằn trên cây cỏ, đổ dài trên những triền dốc xơ xác. Trên đồi Cúc Vàng người ta không còn thấy Cúc nở nữa. .... Cho đến một mùa Xuân vào năm Mão....Lão nghe tiếng người ồn ào ngòai ngõ. Lân bang báo tin có một số người đồng hương của Lão đang hỏi đường vào thăm nhà... Người đi đầu, đến trước cổng đã kín đáo lùi vài bước vái lậy ... Người cao tuổi nhất có lẽ đã quá lục tuần, nghĩa là chào đời từ khi Lão được đưa về đây, lặng lẽ vuốt mái tóc hoa râm... sau đó mới mở một cái làn lớn, kính cẩn đem ra một lẵng hoa ... Một thanh niên áo nâu đứng sau đã trịnh trọng đưa cho người lớn tuổi mấy lá cờ. Lão đoán ra tất cả qua nét mặt thành khẩn của đám con cháu: Đây là Quốc kỳ của dân tộc. Lão bước xuống gần đám người đang quỳ lạy để nhìn ra cho rõ hơn những vệt đỏ tươi thêu song song trên nền vàng của Quốc kỳ. .... Trong tiếng gió vi vu, Lão nghe rất rõ tâm tư của đám con cháu: ''Bỏ nước ra đi, sống nơi phồn hoa đô hội xứ người mà vẫn một lòng hướng về Quốc Tổ, một chí lo đại nghĩa. Dấn thân nơi hiểm nguy, mười phần chết chín để ngăn chận kẻ thù và làm xoay chuyển lòng người ... Từ sáu mươi năm nay, Người nằm trơ trọi nơi đất khách... .Công cuộc đấu tranh của chúng con ngày hôm nay là một tiếp nối hào hùng của những thế hệ đi trước để nước Việt Nam được Độc Lập, để người Việt Nam được Tự Do và để Quê Hương Việt Nam được trở thành quê hương Thanh Bình và Tình người... Xin nguyện sẽ đưa Người về cùng các bậc Anh hùng Anh thư khác của dân tộc trên đất nước Việt nam mình....'' Lão vốn ghét đám con cháu hay tỉ tê than khóc. Vậy mà buổi sáng mùa Xuân đó Lão đã thấy áo mình đẫm nước mắt. Nhưng lần này Lão mới cảm nhận được cái nồng ấm của những giọt lệ mừng vui....    
......

Hồ Ly và Cộng Sản

Ảnh minh họa Đỗ Đăng Liêu| Truyện ngụ ngôn kể rằng một ngày kia thú vật trong rừng tập hợp lại với nhau để ... tâm sự. Chúng nêu lên câu hỏi là trong mọi loài chúng sợ con gì nhất. Rất nhiều đều nói là chúng sợ rắn vì nọc rất độc, sợ cá sấu vì có cái miệng rộng hoác với hàm răng khủng khiếp, sợ beo vì beo vừa dữ vừa leo cây giỏi không biết đâu mà trốn, ... nhưng hầu như tất cả đều sợ nhất là cọp và sư tử vì vừa mạnh vừa dữ. Đến lượt cọp và sự tử được hỏi là chúng sợ con gì thì cả hai cùng nhìn nhau và cùng nói là chúng sợ nhất là ... con người, bởi vì con người tuy không khoẻ bằng cọp và sư tử nhưng có trí khôn và có thêm vũ khí giết được muôn loài. Cọp và sư tử vừa nói xong thì nghe có tiếng cười khẩy. Mọi thú cùng quay về hướng đó. Thì ra là tiếng của con hồ ly. Hồ ly nói: ”Con người tuy thông minh lợi hại nhưng cũng không đáng sợ, hồ ly không sợ cọp và sư tử ... hồ ly chỉ sợ nhất là ... hồ ly!” Truyện ngụ ngôn là thế. Quả thật, trời sinh ra muôn thú, loài nọ ăn thịt loài kia để sinh tồn trong cái gọi là dây chuyền thực phẩm. Cọp và sư tử là hai loài mạnh bạo nhất, chúng giết thỏ giết nai nhưng chẳng bao giờ giết nhau. Hồ ly là loài cáo khôn lanh, khéo lẩn trốn nên chẳng sợ gì sư tử. Trốn sư tử chẳng khó khăn gì. Nhưng hồ ly sợ nhất là chính những con hồ ly khác bởi vì là cùng loài, chúng thấu hiểu nhau, nơi ăn chốn ở, hiểu cái gian xảo của nhau, nên khi xảy ra giành giựt thì không còn biết đường đâu mà tránh nhau. Chỉ có chết! Truyện ngụ ngôn thật là thâm thúy. Áp dụng vào đời lại càng thấy thâm thúy hơn, nhất là dưới xã hội chủ nghiã. Người đời vẫn thường ví cộng sản với loài cáo, hồ ly, quả không sai. Loài vật này tượng trưng cho sự gian xảo, mưu mô và ác độc. Nhất là khi chính những con hồ ly đó lại chính gốc là con người thì ý nghiã của mọi tính từ không tốt nơi chúng càng tăng lên gấp bội. Một trong những nét tàn độc nơi cộng sän mà ngay cả hồ ly cũng không có nổi là thói “khủng bố”. Đây là một vũ khí vô cùng tàn độc mà cộng sản luôn sử dụng từ khi chúng được sinh ra. Vì quen sử dụng nên chúng biết rất rõ khủng bố là vũ khí lợi hại, tàn độc, xấu xa cho nên để vu tội cho những người mà chúng không ưa (ngay cả những đồng chí của chúng), chúng luôn gọi họ là khủng bố. Và vì ngày tàn đã sắp đến, cộng sản nhìn tứ bề đâu đâu cũng thấy kẻ thù cho nên ai chúng cũng gọi là khủng bố.Trong khi sự thật thì chính chúng mới là những kẻ khủng bố thật sự và tàn độc nhất.   Ông Châu Văn Khảm là một đảng viên Việt Tân. Ông là một chiến hữu của tôi. Tôi quen biết và làm việc với ông đã nhiều năm. Trước ông Khảm, tôi, cùng với nhiều đảng viên Việt Tân khác, cũng đã hân hạnh được cộng sản tặng cho danh hiệu khủng bố. Nhiều lúc chúng tôi đã bảo nhau rằng ngày nào còn cộng sản thì chắc các chữ “khủng bố” hay “phản động” sẽ không còn ý nghiã nguyên thủy của chúng nữa. Hiện nay nhiều nhà hoạt động dân chủ đang hnh diện tự nhận mình là “phản động”! Chiến hữu Châu Văn Khảm của tôi, từ gốc gác, từ mẹ già, vợ con, gia đình gia giáo hoà thuận, từ tướng đi, từ lời ăn tiếng nói, cách cư xử với người thân, bạn bè anh em chiến hữu ... thật là một người thật thà hiền lành, chưa bào giờ biết nặng lời với ai. Anh thích làm vườn và giỏi làm vườn, nhưng tôi không tưởng tượng ra được việc Anh giết nổi một con giun, con dế. Vậy mà Anh cũng bị cộng sản gọi là khủng bố! Anh khủng bố bằng cái gì? Chẳng lẽ “chửi cho chết à?”. Mà đó cũng là điều Anh không biết làm. Anh là một người vượt biên tị nạn. Đến Úc. vợ chồng Anh vất vả làm lụng nuôi mẹ già và các con nên người. Là người làm ăn thành đạt nhưng không thể an phận nhìn đất nước điêu linh, Anh đã tham gia Đảng Việt Tân để góp một bàn tay xây dựng đất nước theo chủ trương bất bạo động của Tổ Chức. Với một khối óc, với tình yêu nước thiết tha, với hai bàn tay không, Anh đã về để được tận mắt thẩm định tình hình đất nước. Chỉ thế thôi, và Anh bị cộng sản kết tội khủng bố và âm mưu lật đổ! Thử hỏi cái tập thể 4 triệu người, mà đại đa số từ dưới lên trên đã bị “Đảng Trưởng” phê bình là đã “diễn biến hoà bình” (nôm na là hết còn tin vào chủ nghiã cộng sản) đang sống phập phồng lo sợ, nhìn đâu chung quanh trong cái đại khối gần 100 triệu người dân Việt cũng toàn thấy kẻ thù, thấy ai cũng vu là khủng bố thì liệu còn tồn tại được bao lâu nữa? Hồ ly sống ở thời đại này chắc đã phải đổi ý kiến, chắc không còn “sợ nhất là hồ ly” nữa!? Hình ảnh: Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney tiếp "khủng bố" Chủ Tịch Đảng Việt Tân Đỗ Hoàng Điềm và 3 nhà đấu tranh dân chủ khác Đỗ Đăng Liêu - Fb Đỗ Đăng Liêu    
......

Rupert Neudeck – Người không chịu hèn

Tho Nguyen| Nhân dịp bạn Trần Văn Thái từ Việt Nam sang, tuần qua tôi đã cùng mấy bạn học ở Königs Wusterhausen (Berlin) từ thời trai trẻ tổ chức một cuộc gặp gỡ với các thầy cô giáo ở đó. Tôi luôn áy náy vì cứ mỗi lần quay về trường cũ là lại thiếu vắng thêm một vài thầy cô. Tôi sẽ kể trong bài sau về cuộc gặp gỡ này. Vì vậy nên tôi không thể tham gia lễ kỷ niệm 40 năm „Tổ chức cứu trợ Cap Anamur“ vào hôm thứ bảy 31.8 vừa qua. Tuy không phải là thuyền nhân được tàu Cap Anamur của ông Rupert Neudeck vớt lên từ Biển Đông như hàng chục ngàn đồng bào, nhưng tôi vẫn coi ông Neudeck là ân nhân. Ân nhân vì ông đã giúp tôi hiểu hơn ý nghĩa của cuộc đời. Trước khi đi Berlin, tôi kịp đưa bạn Thái về Troisdorf để viếng ông Neudeck và thăm „Đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam“. Con thuyền gỗ nhỏ bé với 52 người tỵ nạn đang sắp chết khát được tàu Cap-Anamur vớt vào phút chót, ngày nay trở thành đài kỷ niệm. Mỗi lần qua đó, tôi lại nghĩ đến những đồng bào xấu số đã nằm lại trong lòng Biển Đông. Rồi tôi nghĩ đến người ty nạn Neudeck. Ông Neudeck cũng là một người Đức tỵ nạn chạy trốn cuộc tổng tiến công của Hồng quân Liên-Xô. Năm 1945, cậu bé 6 tuổi Rupert đã phải theo cha mẹ, cùng 12 triệu người Đức đi bộ hơn 1000 km từ vùng Danzig (nay là Gdansk, Ba-Lan) để về Tây Đức. Gia đình Neudeck sống sót về đến đây vì họ bị nhỡ chuyến tàu thủy Wilhelm Gustloff. Con tàu chở người Đức tỵ nạn này đã bị tàu ngầm S13 của Hồng quân Liên Xô bắn chìm ngày 30.1.1945 trên biến Baltic, đem theo 9.000 người Đức xấu số xuống đáy biển. Cậu bé Rupert đứng trên bờ kinh hoàng nhìn những mảnh tàu vỡ cùng xác người trôi dạt vào bờ. Hình ảnh đó đã không bao giờ ra khỏi đầu ông già Neudeck sau này. Vì vậy khi nhìn thấy những hình ảnh thuyền đắm, người chết trên Biển Đông, nghe về những vụ cướp biển, về các vụ hãm hiếp, về những vụ ăn thịt người để sống, ông không thể ngồi im. Ông thậm chí vượt cả rào cản ý thức hệ. Rupert Neudeck vốn là một báo cánh tả, ảnh hưởng bởi các thần tượng như Jean Paul Sartre, Yve Montant hay Heinrich Böll. Cánh tả phương tây đã đứng về phía những kẻ yếu trong chiến tranh Việt Nam và có cảm tình với Việt Cộng. Nay phải ra tay cứu những người trốn đang chạy chế độ mình từng ủng hộ không phải là quyết định dễ dàng. Khó khăn nữa là phá bỏ được nỗi lo ngại của dư luận Đức trước dòng người tỵ nạn Việt Nam. Chỉ riêng việc một dân tộc tự đàn áp nhau đến mức hàng triệu người phải chấp nhận cái chết, bỏ quê hương ra đi, đã khiến người ta lo sợ bản chất bạo lực tiềm tàng trong dân tộc đó. Không nước nào thích đón nhận người Việt tỵ nạn, kể cả các nước láng giềng như Thái Lan, Mã Lai, Indonexia. Liên hiệp quốc phải tổ chức hội nghị quốc tế Geneve 1979 để phân bổ hạn ngạch, buộc mỗi nước giàu phải nhận một cơ số người Việt tỵ nạn. (Viết đến đây, tôi chợt nghĩ đến một số người Việt tỵ nan đang có cái nhìn hẹp hòi đối với những người tỵ nạn hôm nay và coi chỉ có họ mới xứng đáng được cứu vớt) Rupert Neudeck bị chỉ trích từ cả hai phía, tả và hữu. Người thì coi con tàu Cap-Anamur là cái nam châm thu hút và kích động người vượt biên, người thì chửi ông “Chống lại một nhà nước XHCN đang hồi sinh“ (Peter Weiss)[1]. Nhiều bạn bè coi ông là kẻ điên rồ, tự nhiên từ bỏ cuộc sống no ấm của một nhà báo để lao vào cuộc phiêu lưu cứu người giữa biển cả. Hai vợ chồng Christel và Rupert Neudeck không hề phủ nhận là mình điên khùng. Những kẻ điên khùng sẽ chuyển động thế giới. Đại văn hào Heinrich Böll[2] đã đồng cảm với sự hy sinh của vợ chồng Neudeck và chính sự ra tay của ông Böll đã tạo nên chuyển biến kỳ diệu trong dư luận. Sau buổi phát sóng đầu tiên cùng Heinrich Böll, ông Neudeck thu được hơn 1,3 triệu DM tiền quyên góp. Số tiền đó đủ để tổ chức „Con tàu cho Việt nam“ của ông thuê chiếc tàu buôn với cái tên Cap Anamur [1]. Rất nhiều thiện nguyện viên đã góp sức, góp của sửa chiếc tàu đó thành tàu y tế cứu nạn. Nhiều chuyên gia y tế, hàng hải đã đầu quân làm nhân viên không lương cho tàu Cap-Anamur. Ngày 13.8.1979, con tàu rời cảng Hamburg đi biển Đông để cứu người Việt tỵ nạn. Trong 10 năm liên tục, con tàu đã vớt được 11.300 người tỵ nạn Đông Dương đưa về Đức. Cứu người đã khó, đưa được họ về Đức cũng không dễ. Chính quyền Đức không muốn đón nhận tất cả những người được cứu trên tàu. Nước Đức được phân công phải nhận 20.000 thuyền nhân. Chính quyền chỉ muốn đến các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á phỏng vấn từng người, lựa chọn và nhận những người đã thẩm tra. Trong khi con tàu lênh đênh trên biển để về Hamburg, một cuộc chiến truyền thông và vận động hành lang đã nổ ra tại Đức. Kết cục là tất cả những người trong danh sách gửi về từ Biển Đông đều được chấp nhận tỵ nạn tại Đức. Trong chiến tranh thế giới 2, „Bản danh sách Schindler“ là một ngọn nến nhỏ của tình người chìm trong bóng tối của tư tưởng phát xít. Trong thời bình những „Bản danh sách Neudeck“ gửi đi từ tàu Cap Anamur đã thức tỉnh lương tâm dân tộc này, đã đưa hình ảnh nước Đức từ những lò thiêu xác, trại tập trung, trở thành bến bờ của lòng nhân đạo. Bà Neudeck nói, họ làm được điều đó vì họ dám đứng lên, đi ngược lại những luồng tư tưởng ngự trị (mean stream). Xin dẫn một câu nói của Rupert Neudeck: Tôi muốn không bao giờ hèn nữa. Cap-Anamur là ấn tượng đẹp nhất của ý nguyện Đức: Không bao giờ trở lại với sự hèn hạ, phải luôn luôn dũng cảm. (Ich möchte nie mehr feige sein. Cap Anamur ist das schönste Ergebnis des deutschen Verlangens, niemals wieder feige, sondern immer mutig zu sein) Sự hèn hạ mà ông Neudeck muốn nói ở đây chính là sự quay mặt đi trước những điều ác đang xảy ra trước mắt mình. Chủ nghĩa phát xít tàn phá thế giới từ 1933 đến 1945 không phải vì Hitler tài giỏi, mà vì đã có 90 triệu người Đức hèn, ngậm miệng. Köln 04.09.2019 ————- [1] Cap Anamur là tên một cảng biển phía nam Thổ Nhĩ Kỳ. Lúc đầu ông Neudeck thuê tàu Cap Anamur, sau khi có đủ tiền, ông mua lại. Năm 1982, ông lấy tên Cap Anamur đăt tên cho tổ chức của mình. [2]https://www.spiegel.de/spiegel/print/d-14339003.html [3] Heinrich Böll: 1917-1985, quê ở Köln, được coi là nhà văn hiện đại lỗi lạc nhất nước Đức, giải thưởng Nobel văn học 1972.  
......

Bài viết của Joshua Wong trên tạp chí Economist Anh Quốc.

Trọng Đức biên dịch - xuandienhannom.blogspot.com| Joshua Wong: Chúng tôi khát khao một ngày Hồng Kông thoát khỏi độc tài "Một làn sóng đàn áp chính trị đang diễn ra ở Hồng Kông, nơi nhân quyền và tự do của chúng tôi đang mấp mé trên bờ vực sụp đổ. Thế giới không thể tiếp tục im lặng. Trong vòng 30 giờ đồng hồ, những kẻ côn đồ đã tấn công đội ngũ tổ chức biểu tình và cảnh sát tiến hành bắt giữ hàng loạt những nghị sĩ và các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ, bao gồm cả tôi. Quyền biểu tình của chúng tôi đã bị cùm lại, trong khi chính quyền cấm một buổi tập trung ôn hòa đã được lên kế hoạch vào ngày 31/8.  Cùng lúc đó, chính phủ dường như muốn kiểm tra phản ứng của công luận về ý tưởng họ sẽ kích hoạt điều luật tình trạng khẩn cấp đã lạc hậu từ lâu. Việc này sẽ cho phép trưởng đặc khu quyền lực to lớn như kiểm duyệt báo chí, tiến hành bắt bớ quy mô lớn và ngay lập tức thiết quân luật một phần của thành phố này – tất cả chưa cần tới trợ giúp của Quân Giải phóng Nhân Dân Trung Quốc. Trong khi đó, binh lính Trung Quốc và các phương tiện thiết giáp được di chuyển tới biên giới Hồng Kông, sẵn sàng tiến vào “trong vòng 10 phút”, theo đúng lời của quân đội Trung Quốc. Tất cả những hành động này có mục đích là để đe dọa người Hồng Kông, khiến họ sợ hãi và quy phục. Nhưng có phải nhà cầm quyền thực sự nghĩ rằng chúng tôi sẽ ngậm miệng và giữ im lặng, hay chúng tôi sẽ đứng lên và chiến đấu? Một làn sóng đàn áp chính trị đang diễn ra ở Hồng Kông, và nhân quyền cùng tự do của chúng tôi đang đứng trên bờ vực sụp đổ. Chúng tôi hoàn toàn lên án chiến dịch độc ác của bạo lực này và những phát ngôn từ giáo điều từ thời Liên Xô dán nhãn chúng tôi là “những gián điệp ăn tiền của thế lực nước ngoài”. Ngày này qua ngày khác, chính quyền đang tiến gần hơn đến việc sử dụng quân bài cuối cùng của họ. Nhưng người dân sẽ tiếp tục chiến đấu, bởi vì trận chiến này là vì tương lai của Hồng Kông. Chúng tôi không muốn thấy một Hồng Kông chỉ có tự do trên giấy, nơi mà địa vị tự trị chỉ là cái vỏ bọc của một nhà nước độc tài toàn trị. Vì tương lai của chúng tôi mà những người trẻ sẵn sàng trả cái giá cuối cùng trong cuộc chiến của mình. Rất nhiều người biểu tình – những em thiếu niên, một số vẫn học trung học – bây giờ đang mang theo “di nguyện và chúc thư” trong cặp trước khi lao lên tuyến đầu của cuộc biểu tình. Nỗ lực vì hòa bình được viết bằng máu của họ. Một số đã tự tử, đã trở thành nạn nhân của sự độc ác của cảnh sát, thành mục tiêu của những cuộc tấn công của các băng nhóm côn đồ tàn bạo và bừa bãi. Trưởng Đặc khu Hồng Kông Carrie Lam đã gạt ra bên lề những người trẻ bằng tuyên bố “họ không có đóng góp gì cho xã hội”. Về chúng tôi, chúng tôi xin hỏi lại bà rằng: Ai là người không cho phép người trẻ có “đóng góp gì” cho xã hội? Ai đã cấm người trẻ, những ứng viên được bầu chọn một cách dân chủ, tham gia vào chính trị? Ai đã quyết định phớt lờ nguyện vọng của nhân dân và đưa ra dự luật dẫn độ bị ghét bỏ ngay từ đầu? Câu trả lời là: một chính phủ được lựa chọn một cách phi dân chủ. Những người trẻ thay vì được coi là những cột trụ tương lai của xã hội, đã bị tước bỏ bất cứ tiếng nói nào khi một quyết định hệ trọng được đưa ra, bất chấp việc họ là những người sống lâu nhất với hậu quả từ những quyết định đó. Cách duy nhất để ổn định trở lại Hồng Kông là Bắc Kinh phải trao cho chúng tôi quyền bầu cử tự do và công bằng tại thành phố này – đây là một trong 5 yêu cầu của phong trào chống luật dẫn độ. Họ phải đưa ra một chương trình cải tổ chính trị bao hàm việc cho chúng tôi quyền lựa chọn trưởng đặc khu và bầu chọn toàn bộ vị trí trong nghị viện thành phố, tức hội đồng lập pháp. Phổ thông đầu phiếu đã được hứa hẹn dưới nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ” thiết lập trong sự kiện trao trả Hồng Kông năm 1997. Sự tức giận của chúng tôi không chỉ là vì dự luật dẫn độ; sự phẫn nộ này là vì một chính quyền phi dân chủ ngày càng phớt lờ nguyện vọng của người dân. Cộng đồng quốc tế có thể giúp đỡ người Hồng Kông. Đầu tiên, chúng tôi thúc giục các bạn gây áp lực để Bắc Kinh rút về quân đội đang đặt dọc biên giới Hồng Kông. Hành động làm bộ này của các lực lượng quân sự Trung Quốc khiến căng thẳng leo thang không đáng có . Trung Quốc sẽ gặt hái được một cơ lốc những lời lên án nếu họ cho xe tăng vào thành phố chúng tôi. Nó sẽ khiến người ta hoài nghi thiện chí tuân thủ các thỏa thuận song phương của Bắc Kinh. Nó cũng có thể dẫn đến việc Mỹ rút lại quy chế đặc biệt cho Hồng Kông theo luật Mỹ. Có một số những người trung thành với Bắc Kinh ở trong thành phố này, những người mà vì lòng tôn sùng mù quáng đối với chế độ độc tài Trung Quốc đã ủng hộ việc đưa binh lính vào dập tắt phong trào của chúng tôi. Rõ ràng là họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro giết chết trung tâm tài chính Châu Á này. Thứ hai, các nhà lãnh đạo quốc tế tại Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cần lên tiếng rõ ràng rằng chính phủ Trung Quốc phải tuân thủ đầy đủ các điều khoản và tinh thần của Tuyên bố chung Trung-Anh năm 1984, văn kiện mở đường cho sự kiện trao trả năm 1997: Hồng Kông rời Anh Quốc. Chúng tôi hoan nghênh các lãnh đạo G7 vì đã ủng hộ nền tự trị của chúng tôi trong một thời kỳ đầy thử thách như thế này và thúc giục họ tiếp tục lên tiếng. Thứ ba, chúng tôi đề nghị tất cả mọi người ủng hộ những lời kêu gọi chính phủ Hồng Kông tiến hành một cuộc điều tra độc lập đối với việc cảnh sát sử dụng vũ lực thái quá. Chúng tôi cũng kêu gọi chấm dứt bán các thiết bị kiểm soát đám đông cho cảnh sát Hồng Kông, những người mà trong vài tháng gần đây đã cho thấy thiên hướng khát máu và bạo lực trong các hành động cảnh sát của mình. Cuối cùng, chúng tôi thúc giục các chính trị gia ở Mỹ ủng hộ và thông qua Đạo luật Dân chủ và Nhân quyền Hồng Kông càng sớm càng tốt, để theo dõi chặt chẽ những kẻ vi phạm nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ” và trừng phạt những kẻ tước đoạt khỏi người Hồng Kông những quyền lợi chính đáng của họ. Lần này tôi không phải là gương mặt của cuộc biểu tình ở Hồng Kông. Phong trào chống luật dẫn độ lớn hơn và có tổ chức hơn nhiều Phong trào Ô dù 2014. Việc bắt bớ sẽ không ngăn được quyết tâm của chúng tôi. Trước mặt chúng tôi là rất nhiều tháng dài nữa của nước mắt và đau khổ, trong khi bóng đen của cuộc thanh trừng đe dọa không chỉ những ai đổ ra đường phố, mà còn trên khắp các ngành kinh tế, giáo dục, y tế và giao thông của Hồng Kông. Toàn bộ thành phố này đang đứng trên một mặt trận thống nhất chống lại chính phủ, nhưng mỗi ngày chính quyền của bà Lâm lại tiếp tục thêm dầu vào lửa bằng những lời đe dọa. Nỗ lực của bà trong cái gọi là “đối thoại” không thuyết phục được ai. Ở trong bất kỳ một nền dân chủ nào, mức độ đối kháng kéo dài trong một thời gian lâu như thế này đã phải đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của một lãnh đạo giống như bà Lâm. Nhưng bởi vì chúng tôi không sống trong một chế độ dân chủ, bà ta có thể ngắm nhìn chiến trường từ trong tòa tháp kính của mình, và chế độ của bà ta – dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh – tiếp tục ngấu nghiến những đứa con của Hồng Kông. Thành phố của chúng tôi đang oằn mình trong một vị thế không mấy dễ chịu: ở mặt trật giữa tự do và độc tài. Nhưng chúng tôi đã bị dồn đến chân tường và nếu bây giờ chúng tôi run sợ, sẽ không còn cơ hội thứ hai để lên tiếng. Đằng sau những hàng rào chắn, chúng tôi khát khao một Hồng Kông thoát khỏi ách độc tài và chính phủ bù nhìn. Chúng tôi khát khao có một một quê hương nơi tự do dân sự được tôn trọng, nơi con cái của chúng tôi không phải là đối tượng bị giám sát toàn diện, bị tước đoạt nhân quyền, kiểm duyệt chính trị và bắt bớ bừa bãi. Chúng tôi đang đứng lên cùng tất cả những dân tộc tự do trên thế giới và hy vọng các bạn sẽ đứng cùng chúng tôi trong cuộc chiến tìm kiếm công lý và hòa bình này.”   Bài viết của Joshua Wong (Huỳnh Chi Phong), đăng trên tạp chí Economist của Anh Quốc. Trọng Đức biên dịch  
......

Máu đã đổ vì đất, giềng mối cuối cùng đã bị cắt đứt

VietTuSaiGon’s blog| Trong tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, có đoạn kể về người bộ đội lái xe tăng. Sau rất nhiều phen vào sinh ra tử, nhuộm đỏ khói và máu chiến trường, người lính thiết giáp giải ngũ và về lái xe tải, hội chứng sát máu sau chiến tranh là thứ làm anh khổ. Trong chiến tranh, lái tăng, cứ thấy quân đối phương là rồ ga để tông, cán, chần… Đến khi im khói lửa, ra đường chạy xe tải, cứ thấy người là muốn đạp ga tông thẳng, chần thẳng… Cuối cùng, anh phải đi bệnh viện tâm thần… Thời bây giờ, sau chiến tranh đã lâu, khi kinh tế có phần khấm khá, người ta lại cầm dao giết người hàng loạt, mà giết chính người thân. Đây là hội chứng gì? Một gã đàn ông Hà Nội đã cầm dao sang nhà em trai ruột, chém liên tục làm 5 người chết, những người tử vong sau nhát chém của y chính là em ruột, em dâu, cháu ruột của y. Sau đó, y thản nhiên vào nhà uống nước trà. Công an dẫn độ, y nói to và vẫy tay chào tạm biệt hàng xóm. Tại đồn công an, y đã kể chuyện giết người (thân) của mình nghe còn tỉnh táo và lạnh lùng hơn cả việc đập chết một con gián. Mọi thứ đều có nguyên nhân từ tranh chấp đất đai! Chuyện tranh chấp đất đai đang là đề tài nóng tại Việt Nam. Từ những cuộc tranh chấp giữa chính quyền địa phương với người dân cho đến tranh chấp giữa hàng xóm với nhau, và đỉnh điểm điên cuồng là tranh chấp, xảy ra án mạng giữa anh em ruột thịt với nhau. Tại sao? Có hai thứ tật thuộc về tập khí của người Việt mà một khi mắc phải hai thứ tật này thì khó mà tiến bộ, đó là tính hiếu chiến và tính không tôn trọng hợp đồng quân tử. Nói về tính hiếu chiến, một phần do đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhưng phần quan trọng nhất chính là nội chiến, huynh đệ tương tàn. Từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh cho đến chiến tranh hai miền Nam – Bắc, dường như khái niệm giết tróc đã thành một thứ gì đó thuộc về tập khí, không còn phân biệt đâu là bạn, đâu là anh em, đâu là thù, hay nói khác đi là nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Và vấn đề hợp đồng quân tử, người Việt Nam chưa bao giờ có khái niệm hợp đồng quân tử. Thời phong kiến, luật vua và lệ làng chi phối mọi thứ, dân chỉ được phép tuân thủ, hôm nay vua bảo sống thì sống, mai vua bảo chết thì chết. Và nếu có cái gọi là hợp đồng quân tử thì lại nằm ở các lời thề trước đấng vô hình, nhân danh ông Trời. Hôm nay thề trung thành và có Trời chứng giám thì ngày mai ta phải phản ngươi, phải giết ngươi vì ý Trời… Không hề có sự tôn trọng lời hứa hay hợp đồng quân tử. Hôm nay hứa cho và ngày mai thấy tăng giá, thấy có lợi cho mình thì lấy lại, nếu người nhận vui vẻ trả thì thôi, không vui vẻ thì viện dẫn hợp đồng, vì lời hứa miệng, không có văn bản hợp đồng nên xem như vô giá trị. Chính vì không tôn trọng lời hứa mà mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân xuống đến mức thấp nhất, có nhiều dân oan ra đời. Theo qui định của luật đất đai thì người nào khai phá đất hoang, canh tác và ở liên tục hai mươi năm trở lên mà không có tranh chấp, không có dấu hiệu trái pháp luật (tức không chiếm giữ đất của người khác đã có nghiệp chủ nhưng vắng mặt hoặc đất công đã được qui hoạch) thì được cấp quyền sử dụng đất. Thế nhưng nhiều mảnh vườn đã khai thác, sử dụng từ năm 1960 của thế kỉ trước đến nay, không có tranh chấp nhưng vì chủ vườn nghèo quá, không có điều kiện để làm sổ đỏ, khi giải tỏa, chính quyền không đền bù. Có rất nhiều trường hợp như vậy khắp đất nước này bởi chính quyền địa phương không tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo, không tôn trọng pháp luật và thiếu sự liêm chính nên dẫn đến hệ quả cứ thấy ngon là đớp, không cần biết phải trái. Với người anh em trong nhà, tôi từng thử làm một thống kê nhỏ thì có quá nhiều, phải nói là đếm không xuể trường hợp gia đình có đông anh em, những người em hoặc những người anh, người chị trong gia đình đi ra ngoài làm ăn, kiếm sống vì ở quê quá nghèo khổ. Ra ngoài làm ăn cũng thành đạt, có chút vốn rồi mua nhà xứ người, ổn định xứ người. Khi Tết, giỗ gặp nhau thì anh em tay bắt mặt mừng và đương nhiên là mặc định với nhau về căn nhà, mảnh vườn sẽ dành cho người ở lại vì người ở lại phải gánh nặng cha mẹ già, gánh giỗ quảy, gánh nhiều thứ khi cha mẹ đau ốm, gánh cả chuyện mồ mả gia tiên, ông bà… Những lúc như thế, thi thoảng người đi xa còn gửi tiền về để giúp người ở nhà vì thấy người ở nhà tội nghiệp, cực khổ… Nhưng đùng một cái, khi cha mẹ qua đời, mọi thứ tưởng như đã ổn định, đâu vào đấy, người ở nhà thừa tự và có toàn bộ chủ quyền sau một quá trình dài gánh chịu các phần trách nhiệm của người đi. Thì không, giá đất bỗng dưng tăng vọt, những người đi xa nghĩ đến số tiền đôi ba trăm triệu đồng, đôi ba tỉ đồng được chia nếu bán đi mảnh vườn, căn nhà của cha mẹ. Vậy là quên mọi lời hứa trước đây, không nói không rằng, mang đơn nộp tòa đòi chia đất hoặc quay về lời qua tiếng lại với người ở nhà để chia phần. Chuyện này diễn ra khắp từ Nam chí Bắc, khi đất đai tăng giá, mối quan hệ gia đình trở nên căng thẳng và khủng hoảng. Trước đây, người con gái nghĩ mình “có chồng thì xuất giá” và không có quyền lợi gì trong gia đình, mọi thứ giao lại cho người ở nhà, kể cả trách nhiệm, bổn phận làm con. Đùng cái, biết luật qui định mình có quyền lợi và nghe tin phần thừa kể tăng giá bạc tỉ, vậy là về đòi chia phần. Đương nhiên, hầu hết các trường hợp trở nên căng thẳng là do những nhập nhằng về luật đất đai và do chủ quan, tin tưởng vào lời hứa nên người ở nhà chẳng hề nghĩ tới chuyện đi làm thủ tục sang tên cho bản thân lúc cha mẹ còn sống, tỉnh táo. Và khi cha mẹ qua đời, hệ quả của nó thì đã thấy rồi, phải nói là “quần ngư tranh thực”. Một khi hợp đồng quân tử bị phá vỡ, đương nhiên sẽ có chuyện xáo trộn nội bộ. Nhưng sự xáo trộn này nhẹ hay nặng thì tùy thuộc vào mức độ căng thẳng và sự hiểu biết, hay nói khác đi là tính người trong nội bộ. Nhưng, với người Việt, hầu hết đã trải qua một quá trình đói vĩ đại dưới thời kinh tế tập trung bao cấp, bị đè đầu cởi cổ, bị làm nhục vì miếng ăn nhưng vẫn cố cắn răng chịu đựng… Nên miếng ăn, tài sản vô hình trung trở thành cứu cánh của đại bộ phận nhân dân. Và khi kinh tế thị trường phát triển, cơ hội kiếm tiền mở cửa, từ chỗ đói ăn, chịu nhục, người ta chuyển sang thần tượng vật chất, tôn sùng vật chất làm thước đo chân lý và thước đo phẩm hạnh. Người ta không cần biết nhân cách, đạo đức của người kia như thế nào nhưng người ta chỉ cần nhìn vào căn nhà, biệt thự hay nhà cấp bốn, chiếc xe, hạng siêu xe, xe khủng hay xe bình dân để mà định danh, gọi đại gia và tôn sùng. Thứ tư duy kim tiền nhanh chóng phủ sóng xã hội. Một khi đồng tiền lấn lướt mọi thứ, thì chắc chắn một điều, ai đụng vào đồng tiền của ai cũng trở thành thù hận, kẻ thù. Một khi mọi giá trị được qui đổi bằng tiền, thì tình cảm anh em, gia đình sẽ nhanh chóng bị lu mờ vì tiếng gọi đồng tiền. Hiếm, rất hiếm hoi những gia đình đủ tỉnh táo để nghĩ đến những lời hứa, những mặc định trước đây, hay còn gọi là hợp đồng quân tử, hay nghĩ đến tình anh em, lá lành đùm lá rách… Và khi hợp đồng quân tử bị phá vỡ thì các tranh chấp tiểu nhân hình thành, nhẹ thì mang nhau ra tòa, nặng hơn thì cãi vã, đánh nhau, và đến mức cuối là giết nhau. Hiện tại, giềng mối Việt Nam đã ở mức cuối của các tranh chấp tiểu nhân xoay quanh tài sản cha mẹ, xoay quanh chuyện đất đai, tài sản! Phải chăng đó là dấu hiệu lụi tàn, đi đến diệt vong của một quốc gia, mà ở đó, giặc ngoài đang lăm le bờ cõi và chờ đợi những người trong nước tự cầm dao giết nhau cho đến lúc máu chảy thành sông, cho đến lúc không còn sức để giết, để tranh giành nữa thì họ ung dung bước vào bắn nốt những phát cuối cùng để chiếm lấy?! Đây là điều rất có thể xảy ra cho Việt Nam trong tương lai rất gần nếu như con người Việt Nam tiếp tục tranh ăn từng miếng, bất chấp tình cảm, nhân tính và huyết thống như hiện tại! Ảnh: https://chantroimoimedia.com/2019/09/04/mau-da-do-vi-dat-gieng-moi-cuoi-cung-da-bi-cat-dut/
......

Tham nhũng

Nguyễn Hưng Quốc Đây là gương mặt của hai người nguyên là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông mới bị buộc tội nhận hối lộ. Một người, Nguyễn Bắc Son, nhận 3 triệu Mỹ kim; người kia, Trương Minh Tuấn, nhận 200,000 Mỹ kim. Đó chỉ là một vụ. Còn bao nhiêu vụ khác mà họ dính vào thì chưa ai biết. Đó cũng chỉ là hai người kém may mắn nhất: “Thương vụ” của họ bị lộ. Trong bộ máy cầm quyền tại Việt Nam hiện nay, còn vô số các “đồng chí chưa bị lộ” khác. Họ, nói theo lời bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, “ăn không từ thứ gì”. Lớn ăn lớn, nhỏ ăn nhỏ. Bao nhiêu cán bộ là bấy nhiêu kẻ tham nhũng. Cả bọn xúm vào tàn phá đất nước. Bao nhiêu gánh nặng đều oằn hết trên lưng người dân. Nợ nần kéo dài đến cả đời con, đời cháu. Cũng chưa chắc đã trả hết. *****   NHỮNG BỘ MẶT THẬT NHAM NHỞ KHI VỞ HÀI KỊCH HẠ MÀN !.... "Đồng chí Nguyễn Bắc Son luôn sống và làm việc theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trên cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa X, XI, đại biểu Quốc hội khóa XIII, đồng chí Nguyễn Bắc Son đã phát huy vai trò trách nhiệm của trách nhiệm, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới xây dựng Đảng, đổi mới phương thức làm việc của Quốc hội, và góp phần nâng cao vị thế của Quốc hội trong thời gian qua. Trên cương vị là Bộ trưởng Bộ TT&TT, đồng chí luôn thể hiện tốt vai trò trung tâm đoàn kết, phối hợp với các đồng chí trong Ban Cán sự Đảng, Đảng ủy Bộ TT&TT tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ chính trị; triển khai kịp thời, nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo các công tác trọng tâm trên 5 lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ về báo chí, xuất bản, viễn thông, công nghệ thông tin, bưu chính. Các lĩnh vực quản lý của Bộ TT&TT đã có những bước phát triển mới, rõ rệt, bền vững, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận”. (Trích Tạp chí Tuyên giáo, 14/4/2016) (Fb Phạm Đức Bảo)  
......

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục

(Sau khi đọc bài viết “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai) Chính Luận Trần Trung Đạo| Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com ngày 11 tháng 7, 2014 và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ. Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.” Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay. Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946. Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.” Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ. Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối. Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì. Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS. Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng. Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN. Trung Cộng muốn gì? Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam: Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh. Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco. Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng. Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ. Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao. Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến. Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước./. Trần Trung Đạo  
......

Mày chưa ăn thua gì so với Bác.

Nguyễn Việt Nam   Phải công nhận một điều rằng cái vụ chém người ở Đan Phượng, Hà Nội nhìn thấy ghê thật. Vì tí đất cát mà xuống tay khá tàn nhẫn. Nhưng chưa ăn thua. Thành tích và độ tàn bạo thì Đông còn phải gọi ông Hồ bằng cụ tam đại. Ngày xưa cái thời ngày xưa có tên "cải cách ruộng đất" ấy mới ghê. Lý do một phần cũng bởi vì đất cát đó( ngoài ra còn một số lý do khác như thanh trừng...) mà ông Hồ sẵn sàng hạ sát hàng trăm ngàn người. Đây Đông mới có 5 mạng đã xi nhê gì. Mà ngày xưa ông Hồ còn dùng nhiều đòn hiểm hơn nhiều nhé. Xúi được gia đình, anh em, họ hàng họ giết nhau nhé. Chôn người đến cổ xong cày đầu, hành quyết tại chỗ, xỉ nhục, đấu tố đủ trò nữa cơ. Nổi tiếng "đâm cha, chém chú, bóp vú chị dâu". Ấy vậy mà ông ấy chỉ cần lấy cái khăn mùi xoa xong quệt quệt tí nước mắt là xong. Có ai bắn ông ấy đâu. Đằng này cu Đông này ăn dựa cột là cái chắc rồi, chạy đâu cho thoát. Cũng vì đất cát đó mà ra. Nhưng một kẻ giết hàng trăm ngàn người rồi lòe giả vờ giao đất cho dân xong vơ vét hết của cải, sức lực của dân vào hợp tác xã thì lại thành lãnh tụ và được xây lăng ướp xác đến tận bây giờ. Còn đông mới có dăm ba mạng mà đã dựa cột rồi. Đời thật là bất công nha. Ảnh: chantroimoimedia.com  
......

Yếu tố nào sẽ phá vỡ trật tự „độc tài – ngu dân“?

Đỗ Ngà| Hôm nay là ngày 02/09, trong suy nghĩ hầu hết người Việt thì đây là một ngày lễ. Họ được nghỉ 1 ngày để có dịp tiêu tiền, thế là họ mừng vui. Trong khi đó, trước đó 1 ngày tình hình căng thẳng Bãi Tư Chính đã vượt xa địa điểm Bãi Tư Chính. Tính đến 11g08 trưa ngày 01/09 thì tàu Hải Dương 8 đã tiến gần bờ biển Việt Nam hơn nữa, lúc này nó chỉ còn cách bờ biển Việt Nam 155 km. Tình hình Trung Quốc liên tục cho leo thang đe dọa lãnh hải Việt Nam như chìm vào quên lãng, bởi vì dân Việt hầu hết chờ đợi 1 ngày nghỉ 02/09 hơn là quan tâm đến tình hình đất nước đang bị đe dọa. Chúng ta biết, vị trí Bãi Tư Chính cách điểm gần nhất trên bờ của Việt Nam là Vũng Tàu với 160 hải lý tương đương 296 km. Tàu Hải Dương 8 đã quần thảo ở bãi Tư Chính từ ngày 03/07, thì đến ngày 24/08/2019 tàu này cùng 4 tàu cảnh vệ đã tiến sâu vào lãnh hải Việt Nam cách điểm gần nhất trên bờ của Việt Nam – Phan Thiết 185 km. Chưa hết, đến ngày 01/09 thì con tàu gây hấn này đã tiến thêm 30 km nữa hướng vào bờ. Đây rất rõ ràng là Trung Quốc đang cố tình cho leo thang sự căng thẳng để ép Việt Nam lùi bước, trong khi đó phản ứng của phía chính quyền CS Việt Nam trên mặt trận truyền thông, mặt trận ngoại giao và mặt trận quốc phòng là vô cùng yếu ớt. Vì thế mà Trung Quốc cứ tiến sâu vào lãnh hải Việt Nam như chỗ không người. Đối với một con người vô trách nhiệm thì khi không có áp lực, hắn không bao giờ thực hiện nhiệm vụ. Tương tự như vậy, ĐCS là một tập đoàn chính trị vô trách nhiệm với dân với nước thì nếu không có sự đòi hỏi đủ mạnh từ phía người nhân dân, nó sẽ không vì trách nhiệm với đất nước mà tranh chấp sòng phẳng với phía Trung Quốc. Với thái độ người dân như vậy thì ĐCS sẽ chọn cách nhường nhịn để mua lấy “tình hữu nghị quý giá” cho đảng. Khi mà dân Việt vẫn còn đang mải mê vui chơi lễ hơn là quan tâm tới tình hình chính trị đất nước thì chắc chắn ĐCS chẳng dại gì vì quyền lợi đất nước mà nỗ lực. Hãy nhìn sang Hồng Kông, tại xứ này, người dân đang lấy “ngày lễ độc lập 01/07” của họ để đứng lên đòi dân chủ bất chấp súng đạn của Bắc Kinh đang giương nòng về phía họ, thì ngược lại tại Việt Nam, đất nước đang bị Trung Cộng kề dao sát lưng để cướp lấy chủ quyền nhưng dân Việt Vẫn vô tư vui chơi “ngày lễ độc lập” như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đây là sự tương phản. Chính quyền CSVN không lo bảo vệ chủ quyền mà chỉ cố tạo ra một sự bình yên giả tạo bằng cách bịt mọi kín mọi thông tin “tiêu cực”, còn dân thì thờ ơ trước thời cuộc thì lấy lý do gì để nói rằng “nước non này ngàn năm vững bền” như trong lời một bài nhạc đỏ nào đó đã tô vẽ chứ? Chính quyền vô trách nhiệm, dân thờ ơ thì vững bền cái nỗi gì đây? Nhiều người cho rằng, câu chuyện giữa chính quyền và nhân dân nó như chuyện con gà và quả trứng, có người nói “chính quyền nào thì nhân dân đó”, nhưng cũng có người nói “nhân dân nào thì chính quyền đó”, nghe như cả 2 ý đều có lý. Nếu thực sự như vậy thì số phận Việt Nam cứ luẩn quẩn trong mối quan hệ chính quyền vô trách nhiệm dân thờ ơ mãi sao? Nếu thực tế như vậy thì Liên Xô và đông Âu đã không sụp đổ. Phải có yếu tố nào đó phá vỡ trật tự này. Thực tế là cái trật tự “độc tài – ngu dân” là một trật tự đang nằm ở tầng thấp của nhân loại, hiện nay những nước văn minh đang ở một trật tự khác, đó là trật tự “dân chủ – khai phóng”. Như vậy nếu nhân dân tiếp nhận được sự khai phóng thì không sớm thì muộn, trật tự “độc tài – ngu dân” sẽ bị phá vỡ, đó là điều chắc chắn. Khi sự khai phóng nhờ phương tiện internet chuyên chở vào Việt Nam thì khi đó sự ngu dân bị mờ dần và đến lúc nó biến mất và đồng thời độc tài CS sẽ đi từ lung lay và đi dần đến điểm sụp đổ. ĐCS phải sẽ có ngày tử của nó chứ không thể “quang vinh muôn năm” được, đó là điều chắc chắn. Khi dân có đủ tri thức thì họ sẽ nhận ra rằng, những mất mát của họ hôm nay cũng bởi cái ngày 02/09 đấy mà ra thì lúc đó, họ sẽ không nghỉ làm để vui chơi nữa mà ngược lại, họ sẽ nghỉ việc để xuống đường như dân Hồng Kông hôm nay thôi. Tuy hôm nay tình hình Việt Nam và Hồng Kông đang là 2 bức tranh tương phản, nhưng theo thời gian thì sự tương phản ấy sẽ mờ dần đi mà thôi. Khi chính quyền ở level quá thấp so với dân trí thì chính dân sẽ phá vỡ nó, và Hồng Kông đang là một minh chứng. Thế giới luôn tiến theo chiều của văn minh tiến bộ, không một tập đoàn chính trị nào có thể chặn đứng dòng thác phát triển tự nhiên này mãi được, cho nên có thể khẳng định rằng, ĐCSVN chỉ ghìm đất nước trong trật tự “độc tài – ngu dân” như thế này một thời gian nào đó thôi, cũng tới lúc dân phải phá vỡ nó để kết thúc thời kỳ man rợ./.  
......

Lạ lẫm thay “mùa” Quốc khánh năm nay

Lập Quyền Dân - RFA| Thật ra, có thể liệt kê nhiều điều lạ lẫm hơn nữa trên giải đất hình chữ S vẫn đáng sống này. Nhưng bài viết đã quá “nặng đô” – theo quy chiếu kiểm duyệt của Ban Tuyên giáo – nên chỉ gọi lại trong 5 điều lạ lẫm. Xin kết thúc bằng câu vè mới toanh vừa nổi lên từ Bắc chí Nam như một phản ứng của người dân trước tình trạng “bất động” của chính quyền khi giặc Tàu (cũng là tầu giặc) chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận có 155 cây số. Không thể “chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, ai bảo đảng ngu đó là kẻ phản động”! ---------------------------- Điều lạ lẫm đầu tiên là báo chí “lề đảng” dường như mở “volume” to hơn khi bàn về sự hoang dại thú tính của kẻ sát nhân máu lạnh trước ngày Quốc khánh 2/9. “Hà Nội đang bình yên trong kỳ nghỉ lễ bỗng bị xé toạc, rúng động bởi vụ thảm sát do anh trai (53 tuổi) chém giết vợ chồng em ruột (cùng 51 tuổi) và các cháu (trong đó một cháu 17 tuổi và một cháu bé khoảng 1 tuổi). Bốn mạng người và một thập tử nhất sinh – gây ra nỗi khiếp sợ cho toàn xã hội”. Tất cả chỉ vì tranh giành 0,5 m đất giáp ranh, tài sản bố mẹ để lại[1]. Bài báo phân tích và lý giải tiếp: Càng kinh hãi trước cái ác, càng khiếp sợ trước sự bàng quan của những người đứng xem, đặc biệt là sự thờ ơ, hiếu kỳ đến man rợ của một số người đi lại cạnh tên sát nhân lúc hắn chém người mà xung quanh còn nghe rõ âm thanh và mùi vị đầy máu. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến án mạng chính là bệnh vô cảm, là sự xuống cấp của đạo đức xã hội, đang ở mức trầm trọng, đáng báo động. Cái ác sinh ra từ sự ích kỷ, vô cảm, từ máu lạnh của con người. Và chính sự ích kỷ, vô cảm, máu lạnh của con người đã sản sinh ra những con ác thú đội lốt người khủng khiếp đến như thế. Điều lạ lẫm thứ hai là truyền thông nhà nước cũng được phép lên án “thả dàn” những con thú đội lốt người khác trong vụ lợi dụng tai nạn thảm khốc ở Quảng Nam để trục lợi[2]. Rồi các bài viết đều bình luận, cướp giật trên đường phố tp. HCM và nhiều địa phương khác ngày nay là câu chuyện không hề mới. Thậm chí, gần đây, tình trạng này diễn biến càng phức tạp. Ngày càng có nhiều vụ cướp táo tợn xảy ra. Kẻ cướp còn mang theo hung khí và sẵn sàng đoạt tính mạng nếu gặp sự chống đối từ nạn nhân. Báo giới còn phê phán hình phạt dành cho các hành động nghĩa hiệp (do đuổi bắt cướp mà gây ra tai nạn). Nếu làm  như thế, chẳng khác gì khuyến khích sự tàn ác của những con thú đội lốt người[3]. Từ trước tới nay, với nền báo chí “cướp – giết – hiếp” thì việc tường thuật các chi tiết và âm mưu thủ ác trong các vụ đại án vốn được khuyến khích. Nhưng đứng ra bảo vệ những hành động nghĩa hiệp thì quả là chuyện “xưa nay hiếm”. Điều lạ lẫm thứ ba (cùng đi liền với nỗi khiếp sợ) đó là sự hỗn loạn do hoả hoạn gây ra trước ngày lễ Độc lập. “Chào mừng” Quốc khánh 2/9 năm nay, Thần Lửa “ghé thăm” Công ty Rạng Đông ở quận Thanh Xuân, Hà Nội vào tối 28/8/2019. Hai ngày sau vụ cháy lớn, các báo “lề đảng” đồng loạt đưa tin: quan chức Hà Nội khẳng định môi trường xung quanh đám cháy an toàn, không bị ô nhiễm, bất chấp các lo ngại từ dân cư trong khu vực bị nạn, cho rằng đám cháy kéo dài suốt 5 giờ đồng hồ với không ít vật liệu cháy là bóng đèn huỳnh quang, với các loại hóa chất độc hại, trong đó có thủy ngân bị phát tán[4]. Đương nhiên, không phải tất cả các báo “lề đảng” đều nói cùng giọng với lãnh đạo tp. Hà Nội và Công ty Rạng Đông, trấn an người dân bằng mọi cách, bất chấp đúng sai và không qua kiểm nghiệm. VOV dẫn lời TS. Hà Dương Tùng, Chủ tịch “Mạng lưới không khí sạch VN” nhận định về vụ cháy Công ty Rạng Đông: “Có bóng đèn huỳnh quang đương nhiên là có thủy ngân”. Sau hai ngày xảy ra vụ cháy ở Công ty Rạng Đông, nhiều hộ gia đình có con nhỏ, người già sinh sống tại khu vực này đã phải di tản sang nhà người thân hoặc về quê lánh nạn. Một người dân thủ đô chia sẻ: “Cả đêm (29/8), gia đình tôi không tài nào ngủ được. Ở trong nhà đóng chặt cửa mà vẫn có mùi khét, không khí ngột ngạt vô cùng. Vợ tôi mới sinh em bé được 3 tháng, đêm qua vợ kêu đau đầu với rát họng. Ngay trong đêm, tôi đã phải đưa vợ và con sang nhà người thân ở nhờ, còn tôi đành ra ‘nhà nghỉ’ để ngủ”[5]. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dâng hương tại nhà lưu niệm Hồ Chí Minh ở Huế hôm 1/9/2019 Courtesy of toquoc.vn Điều lạ lẫm thứ tư là phát hiện hết sức độc đáo của GS-TS Nguyễn Đình Cống[6] khi xem tường thuật buổi lễ trên VTV1. Theo vị GS-TS sắp bước vào cửu tuần, trong khi diễn giả nhìn vào giấy đọc thao thao bất tuyệt bài diễn văn thì đa số cử tọa tỏ ra thờ ơ. Vì sao vậy? Phải chăng đa số cử toạ đều biết rõ phần lớn nội dung được diễn giả trình bày là giả dối, họ bị bắt buộc ngồi nghe những điều đã quá nhàm tai… Người đọc diễn văn (ở đây là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng), tuy đôi lúc cũng nhấn giọng vào một vài câu chữ, nhưng chưa chắc đã thuyết phục nổi chính bản thân ông. Mà rồi kể cả người soạn bài diễn văn ấy cho ông cũng chưa chắc đã tin vào một số điều mình viết. Ấy vậy mà người ta thi nhau tâng bốc, người trước nói đã hoa mỹ, người sau cố hoa mỹ hơn! Người trước đưa lên ngọn cây, nóc nhà, đỉnh tháp, người sau đưa lên tận mây xanh, tận trời cao! Nhưng soi kỹ ra mới thấy phần lớn những lời tâng bốc chỉ là bịp. Bịp ở tờ báo này, buổi phát thanh kia là cái bịp bình thường. Nhưng bịp ở cuộc “đại lễ kỉ niệm” tầm cỡ quốc gia như thế thì có thể gọi là “đại bịp”. Bịp đến thế là cùng! Việc thực hiện Di chúc, đoạn quan trọng nhất khi ông Hồ nói về việc muốn hỏa táng thi hài, thì bị vứt bỏ đâu mất rồi? Bày vẽ “lăng tẩm” và “đền thờ” như ngày nay các đồng chí của Cụ đang làm là phản lại Cụ chứ thực hiện Di chúc nỗi gì? Không biết rồi người ta còn lừa bịp đến bao giờ? Điều lạ lẫm cuối cùng (thứ năm) và cũng là điều kỳ quặc không thể nào hiểu nổi. Đó là vào sáng sớm ngày 1/9, đội tàu khảo sát Hải Dương-8 của Trung Quốc tiếp tục vào sâu hơn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận, miền trung Việt Nam khoảng 155 km, theo dữ liệu theo dõi tàu biển của trang Marine Traffic. Như vậy chỉ trong vòng khoảng một tuần, nhóm tàu này đã tiến sâu thêm 30 km vào vùng biển Việt Nam. Trước đó, hôm 24/8, Hải Dương 8 cùng các tàu hải cảnh của Trung Quốc chỉ cách bờ biển Phan Thiết của Việt Nam khoảng 185 km. Như vậy, kể đến lúc này là sang tháng thứ ba, nhóm tàu Hải Dương-8 đã đi vào vùng biển Việt Nam, tính từ ngày 3/7. Đồng thời từ giữa tháng 6 đến nay, Trung Quốc cũng điều tàu hải cảnh đến quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở lô 06.1. Một FB nổi tiếng phân tích dí dỏm nhưng đau xót[7]: Lẽ thường, một quốc gia khi bị nước khác xâm phạm chủ quyền thì có quyền nổ súng. Ngày trước, trong một trận đánh ở Đồng Hới, Bắc Việt cho máy bay MIC bay ra ném bom Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Lúc đó Hạm đội 7 đang đỗ ngoài khơi giống như tàu HD-8 của Trung Quốc bây giờ. Thuở ấy, chẳng phải dè dặt đắn đo gì, thấy đối phương là chiến, thậm chí tìm đối phương để tiêu diệt. Bây giờ thì khác, vì “đại cục” nên chẳng dám bắn vào kẻ thù trước. Thậm chí, kẻ thù nổ súng trước, chưa chắc đã bắn lại được như bài học ở Gạc Ma. Thôi, cứ để “đảng và nhà nước lo” và để cho dân chửi. Nhưng chẳng lẽ cứ gầm ghè nhau, huých vào sườn nhau mãi. Khoảng cách 155 cây số là rất gần. Chẳng lẽ, nó đi đến đâu, ta theo đến đấy. Nhỡ nó đổ bộ lên Mũi Né thì sao? Liệu có phải vẫn một ông Việt Nam đi kèm một thằng Tàu trên bộ xem nó làm gì, để nó quậy chán khi về, đi theo tiễn… Đáng ra còn có thể liệt kê thêm nhiều điều lạ lẫm nữa trên giải đất hình chữ S vẫn đáng sống này (Hẹn kỳ sau!). Nhưng thấy bài viết quá “nặng đô” – là nói theo quy chiếu kiểm duyệt của Ban Tuyên giáo – nên tạm dừng ở đây. Có điều xin kết thúc bài viết bằng một câu vè dân gian mới toanh vừa nổi lên từ Bắc chí Nam. Số là vừa qua tại tỉnh Kiên Giang đã diễn ra lễ trao tặng 10.000 lá cờ Tổ quốc cho ngư dân trong chương trình “Một triệu lá cờ Tổ quốc cùng ngư dân bám biển” (?) Chưa hết, đại biểu Quốc hội Phan Thị Hồng Xuân cũng vừa bị “ném đá trên mạng” do quảng bá cái “tối kiến” dùng lu chống ngập của bà (?). Vì vậy dân gian mới có vè rằng: “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động”./. [1] https://vtc.vn/anh-trai-chem-giet-ca-nha-em-ruot-ac-thu-mau-lanh-tu-dau-ma-ra-d495903.html [2] https://vtc.vn/loi-dung-tai-nan-tham-khoc-o-quang-nam-de-truc-loi-nhung-con-thu-doi-lot-nguoi-d417289.html [3] https://vtc.vn/duoi-bat-khien-ke-cuop-chet-xu-hanh-dong-nghia-hiep-chang-khac-gi-khuyen-khich-su-tan-ac-cua-nhung-con-thu-doi-lot-nguoi-d471885.html [4] https://vov.vn/tin-24h/chay-cong-ty-rang-dong-co-bong-den-huynh-quang-duong-nhien-co-thuy-ngan-950210.vov [5] https://doisongvietnam.vn/vu-chay-kho-cong-ty-rang-dong-quanh-hien-truong-van-con-mui-khet-nguoi-dan-phai-di-tan-lanh-nan-73629-3.html [6] BỊP, BỊP, BỊP ĐẾN THẾ LÀ CÙNG (Nguyễn Đình Cống) [7] http://www.viettin.de/node/1277  
......

Văn hóa ‘mày có biết tao là ai không?’

Nữ đại úy công an Lê Thị Hiền "đại náo" sân bay Tân Sơn Nhất. Đinh Yên Thảo - VOA| Câu chuyện nữ đại úy công an Lê Thị Hiền hành hung, chửi bới nhân viên hàng không tại sân bay Tân Sơn Nhất vài tuần trước tưởng đã nguội bớt đi vì những tin tức thời sự chồng chất, nào ngờ lại một lần nữa gây xôn xao dư luận. Chứng cứ, thái độ lỗ mãng của người nữ đại úy này như thế nào thế nào thì những thước phim mộc được quay tại chỗ và đưa lên mạng đã thể hiện rõ ràng với bất cứ ai xem qua. Nhưng nay bà bỗng tố ngược là phim đã bị "chỉnh sửa, photoshop ", phim thiếu cảnh bà "bị sỉ nhục, hành hung trước" nên mới nổi cơn thịnh nộ và người nữ nhân viên bị bà chửi mắng, ôm mặt khóc là "diễn sâu" đóng kịch. Cũng như cả hai mẹ con đã bị "giam lỏng" như thế nào. Tất nhiên những điều này chỉ làm công luận nếu không cười nụ thì cũng khiến họ giận dữ công kích những lời tự bào chữa đầy vô lý và lố bịch này thêm nặng nề hơn. Nhưng khi người nhân viên hàng không đưa clip phim lên mạng đã phải tháo gỡ phim và đóng tài khoản facebook của mình, cũng như cơ quan an ninh hàng không bối rối giải thích rằng đã bị bà "hiểu lầm" và công an Quận Đống Đa đang "tiếp tục xem xét và báo cáo lên thành phố" (!?), thì người ta có quyền hỏi rằng, "thật ra người nữ công an này là ai, con cháu của "thần mặt trời" nào?" mới có thể tiếp tục ngang ngược, thách thức lại công luận khi xem mình là nạn nhân và tố ngược lại cho những người đã bị bà ta hành hung, chửi mắng và các cơ quan liên quan phải dè chừng như vậy. Hay là dù chỉ là một đại úy công an bà vẫn là một "trời con" như vô số ông hay bà "trời con" đang có trên khắp đất nước Việt Nam hiện nay? Dù thế nào, thì nữ đại úy này xem ra đã "có cửa" thật sự để phán "mày có biết tao là ai không?" tại phi trường. Một tài xế hay hành khách chạy xe biển xanh - tức xe công vụ, chạy quá tốc độ hay đang có mùi rượu nồng nặc cũng sẽ bước xuống xe buông câu "mày có biết tao là ai không?" ngày càng phổ biến hơn. Chỉ sau vụ Đại úy Hiền vài tuần thì mới tuần trước một người đàn ông chạy xe biển xanh tại Thanh Hóa cũng chỉ mặt, tát tai cảnh sát giao thông với thái độ "ông trời con" như vậy. Những người công an đứng đường dù có quen việc xách nhiễu, thô bạo với người dân có lẽ cũng sẽ dè chừng, né tránh với kẻ buông câu nói "mày có biết tao là ai không?" Bởi theo tâm lý và trên thực tế, chỉ có những kẻ có quyền hay thế lực sau lưng mới có thể buông ra câu nói này. Dân thường khó lòng có thể bước xuống xe mà buông lời "mày có biết tao là ai không?" để chơi đòn cân não, hăm dọa với cảnh sát giao thông. Hai năm trước, cộng đồng mạng ắt không quên thước phim đã được đưa lên mạng cảnh trung tướng hồi hưu Võ Văn Liêm, từng là Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Quân Ủy Trung Ương thuộc Bộ Quốc Phòng sỉ mắng, văng tục người cảnh sát giao thông bằng thái độ "mày có biết tao là ai không?" tại Cần Thơ. "Giám đốc mày tao còn cách chức được chứ đến mày". Lời dọa của tướng Liêm quả có thật khi Giám Đốc Công An Cần Thơ phải "trình lên Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An xin ý kiến (!?)" và tin tức sau đó lan truyền rằng viên trung úy cảnh sát dừng xe tướng Liêm bị kỷ luật vì "cư xử thiếu tế nhị, để lan truyền hình ảnh cự cãi làm xấu hình ảnh cán bộ cao cấp...". Cái văn hóa "trời con" rằng, "mày có biết tao là ai không?" dường như ngày càng đậm đặc tại Việt Nam, không chỉ với những người có quyền hành cùng con cái, người thân của họ như nữ đại úy Hiền hay tướng Liêm. Nó lan vào cả xã hội dân sự. Một người vợ hay bồ nhí của sếp đến công ty mà nhân viên mới "lỡ dại" không biết, không cho vào thì cũng có thể bị đối diện cái thái độ hung hăng "mày có biết tao là ai không?" này. Mới tháng trước, báo chí trong nước đưa tin một "đại gia" địa ốc sàm sở, quấy rối tình dục với hành khách và tiếp viên trên phi cơ của Hàng Không Việt Nam cũng đã buông lời "mày có biết tao là ai không?" khi bị nhân viên ngăn chận. Họ đem cái vị thế hay thế lực, sự quen biết sau lưng để buông lời hăm doạ, tạo áp lực với người khác trước hành vi sai trái của mình. Chỉ dăm vụ tình cờ bị người dân ghi lại và đưa lên mạng xã hội cùng công luận, còn hàng trăm, hàng ngàn vụ khác đã và đang có thể đang xảy ra hàng ngày và khắp mọi nơi thì sao? Từ những kẻ có quyền đến có tiền, họ xem mình những ông hay bà "trời con", có thể đứng trên pháp luật, thậm chí tấn công cả người thi hành công vụ. Cái văn hóa ông/bà "trời con" này cho thấy một nhóm người tự coi mình là đứng trên người khác, đứng trên pháp luật và hệ thống pháp luật đã dung dưỡng cho những người này, cho họ cái đặc quyền như vậy. Họ không hiểu rằng, ở một xã hội dân chủ, như tại Mỹ chẳng hạn, những người liên quan đến công quyền càng phải có thái độ và hành xử thận trọng, đúng mực hơn với người dân lẫn cơ quan công lực. Các trang mạng của các tổ chức dân sự và đăng thông tin liên quan đến các ứng cử viên cùng báo chí luôn theo dõi và báo cáo các vi phạm, sai trái như bạo hành, uống rượu lái xe, các cáo buộc xách nhiễu tình dục... của những cấp dân biểu liên bang đến địa phương, từ thẩm phán đến cảnh sát trưởng, của các ứng cử viên, của những người được đề bạt vào trọng trách..., để xem họ có xứng đáng phục vụ người dân hay không. Hoặc họ có buộc phải từ chức khi vướng vào những điều như vậy. Chuyện kể rằng, có một đêm bình thường ngoài công vụ, xe chở ngài thủ tướng Winston Churchill của Anh bị chận lại. Một cận vệ xuống xe và giải thích rằng trong xe đang chở ngài thủ tướng nhưng viên cảnh sát vẫn khăng khăng ghi phạt người tài xế phạm lỗi giao thông. Nghe được câu chuyện, Churchill viết thư cho cảnh sát trưởng London đề nghị khen ngợi viên cảnh sát. Vị cảnh sát trưởng viết thư phúc đáp rằng, "chúng tôi không khen thưởng những người đang thực hiện đúng trách nhiệm của mình". Chỉ khi nào, từ những người đứng đầu quốc gia xuống đến nhân viên công lực bình thường, có cùng thái độ thượng tôn pháp luật và quân pháp nghiêm minh như câu chuyện trên thì cái văn hóa "trời con" và "mày có biết tao là ai không" kia mới chấm dứt. Nhưng xem ra đây là điều không tưởng tại xã hội Việt Nam hiện nay.  
......

Một hiệp ước tự hại mình

TS Nguyễn Ngọc Chu -  FB Nguyen Ngoc Chu Nếu quả thật, giữa Việt Nam và Trung Quốc có một hiệp ước dẫn độ, rằng công dân Trung Quốc sang Việt Nam phạm tội thì Việt Nam không xét xử mà trao trả cho Trung Quốc xét xử, và ngược lại, – thì đó là một hiệp ước mang tính tự hại cho phía Việt Nam. Nguyên tắc bất biến: Phạm tội ở nước nào xét xử theo luật pháp nước đó 1. Không phải bây giờ, mà từ ngàn xưa, phạm tội ở nước nào thì phải xử theo luật pháp nước đó. Lấy một thí dụ ở thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. Thời Xuân Thu (771-476 TCN) có người nước Tề sang nước Sở phạm tội. Nhân Tể Tướng nước Tề là Án Anh (578-501 TCN) đi sứ nước Sở, vua Sở muốn làm nhục Án Anh nên mang tội phạm người Tề ra xử. Sở vương hỏi: “Ngươi là người nước nào?” Tội phạm trả lời: “Người nước Tề’. “Phạm tội gì”? “Tội trộm ngựa”. Rồi Sở vương quay sang Án Anh: “Sao người nước Tề hay trộm cắp vậy?” Án Anh liền đáp: “Cây quýt trồng ở phương bắc thường cho quả ngọt, trái sai, nhưng khi đem trồng ở phương Nam thì quả đã chua, lại còn ít nữa. Tại sao vậy? Đó là vì thủy thổ. Người nước Tề giữ đạo luân thường, xưa nay vốn không trộm cắp, nhưng khi sang làm dân nước Sở lại sinh trộm cắp. Tại sao thế? Âu cũng là do thủy thổ vậy”. 2. Không phải ở phương Đông mà khắp thế giới, phạm tội ở nước nào thì xét xử theo luật pháp nước đó. Thử hỏi các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức… có nước nào không thực thi điều luật này? Tác hại của hiệp ước Nếu người Trung Quốc sang Việt Nam phạm tội mà Việt Nam không xét xử phải trao lại cho Trung Quốc xét xử thì vô cùng nguy hại cho Việt Nam. 1. Một là, điều khoản này sẽ thúc đẩy người Trung Quốc tràn sang Việt Nam phạm tội. Vì khả năng kiểm soát của Việt Nam đã kém, lại còn có vỏ bọc ngoại quốc, nên bọn chúng dễ hành tẩu hơn. 2. Hai là, tội phạm Trung Quốc sẽ tìm cách trốn sang Việt Nam, vì dễ lẩn tránh. 3. Ba là, Chính quyền Trung Quốc xử nhẹ, thậm chí tha bổng cho tội phạm sau khi Việt Nam trao trả. Vì tội phạm xẩy ra ở Việt Nam, tác hại cho người Việt Nam và xã hội Việt Nam, chứ không tác hại cho người Trung Quốc và xã hội Trung Quốc. 4. Việt Nam phải tổn hao nhân lực, công sức, tiền bạc để chống tội phạm từ Trung Quốc. 5. Luật pháp của Việt Nam không có hiệu lực với người Trung Quốc trên đất Việt Nam nên không làm cho tội phạm người Trung Quốc khiếp sợ. 6. Trung Quốc cố tình cho người sang phạm tội ở Việt Nam. Điều này là chắc chắn. Điều này là vô cùng nguy hiểm cho Việt Nam. Không phải lúc nào cũng “có đi có lại” 1. Có người biện hộ rằng Trung Quốc cũng đã trao trả nhiều công dân Việt Nam sang phạm tội ở Trung Quốc cho Việt Nam, là “có đi có lại”. 2. Người Trung Quốc sang phạm tội ở Việt Nam cả ngàn lần nhiều hơn và bội phần nguy hiểm hơn người Việt Nam sang phạm tội ở Trung Quốc. 3. Nguy hiểm hơn nữa là Trung Quốc chủ trương cho người sang phạm tội ở Việt Nam – trá hình dưới danh nghĩa tự phát. 4. Nguyên tắc “ Có đi có lại” không thể áp dụng trong trường hợp này với Trung Quốc. Suy ra Nếu quả thật có một hiệp ước đặt người Trung Quốc ngoài vòng pháp luật Việt Nam trên đất Việt Nam thì đây là một tai họa cho an ninh Việt Nam. Nếu quả thật có một hiệp ước như vậy thì phải xóa bỏ. Càng sớm càng tốt. Lịch sử sẽ không bao giờ tha thứ cho một sai lầm sơ đẳng nhưng rất nguy hại, đi ngược với thông luật quốc tế như thế.  
......

Pages