Cao Hùng là ai?

Ngo Dức Hành   Cao Hùng sinh ngày 3/8/1971 tại Sàigòn. Cha anh là ông Cao Văn Quân, người làng Hạnh Hoa, cổ thành Quảng Trị làm việc cho Bộ Canh nông VNCH, mẹ anh là người Huế - Biến cố 30 tháng 4/1975, gia đình anh di tản đến Hoa Kỳ, nhưng chỉ một thời gian ngắn khi đặt chân đến Mỹ, cha anh được việc làm ở Nigeria với vai trò chuyên gia nông nghiệp cho USAID, anh cùng mẹ và các chị gái đi theo cha, cho đến năm 1983 thì cả nhà trở về Annandale, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Thời đi học, anh là học sinh ở trường trung học kỹ thuật (Khoa Học và Công Nghệ) Thomas Jefferson. Cảm kích trước công lao to lớn của nước Mỹ đã cưu mang và cho gia đình mình cơ hội để phát triển, Cao Hùng xin gia nhập quân ngũ để phục vụ đất nước Hoa Kỳ như một lời biết ơn và được đào tạo tại Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland vào năm 1989. Anh tốt nghiệp năm 1996 với văn bằng cử nhân Khoa Học Kỹ Thuật, sau đó tiếp tục thụ huấn chương trình hành quân đặc biệt Hải quân. Khi hoàn tất huấn luyện tại các trường Hải quân từ năm 1997 đến năm 2013, anh được thuyên chuyển đến nhiều đơn vị chuyên môn trong ngành huấn luyện người nhái Hải quân. Trong thời gian phục vụ tại các đơn vị trên, Cao Hùng đã theo thụ huấn nhiều chương trình huấn luyện chuyên môn như tháo gỡ đạn dược và mìn bẫy dưới nước (EOD), hành quân đặc biệt, thợ lặn, chiến tranh trên biển, kỹ thuật (cao cấp) tháo gỡ đạn dược-thủy lôi-mìn (Master EOD Technician), và bằng nhảy dù. Được biết, anh là sĩ quan cao cấp gốc Việt duy nhất theo ngành Chiến tranh Đặc biệt Hải quân (Lực lượng đặc biệt Hải quân - SEAL), đây là ngành đòi hỏi phải có thể lực và ý chí kiên cường và quá trình đào tạo cũng rất gian khổ và nguy hiểm. Khi Cao Hùng đang là Thiếu úy Hải quân, sĩ quan hành quân, và kỹ thuật trên chiến hạm trục vớt USS Grasp (ARS 51), ngày 19/7/1999, một tai nạn phi cơ xảy ra trên biển Đại Tây Dương và một trong những nạn nhân chính là John F. Kennedy Jr., con trai cố tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy. Nhận được lệnh phải cấp cứu phi cơ lâm nạn, chiến hạm USS Grasp liền khẩn cấp vận chuyển đến khu vực phi cơ bị rơi. Sau khi xác định được phi cơ bằng hệ thống sonar, đích thân vị Thiếu úy đã thi hành nhiệm vụ đặc biệt lặn sâu 37 mét dưới đáy biển, trục vớt thành công thi thể của vợ chồng nạn nhân. Tháng 9/2013, Cao Hùng, bấy giờ đã được thăng lên bậc Trung tá, được chọn làm chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện người nhái trục vớt Hải quân Hoa Kỳ (Naval Diving and Salvage Training Center), là Trung tâm huấn luyện kĩ thuật lặn biển lớn và quy mô nhất trên thế giới, chuyên môn đào tạo 23 ngành lặn dưới biển. Tính đến năm 2015, cơ sở này đã đào tạo và huấn luyện thành công hơn 4000 sĩ quan, hạ sĩ quan, thủy thủ, binh sĩ trở thành những người nhái chuyên nghiệp. Đến tháng 6/2016, Cao Hùng bàn giao lại chức vụ chỉ huy trưởng trung tâm lại cho người đồng cấp Cameron Chen rồi nhận nhiệm sở phục vụ tại Ngũ Giác Đài. Tháng 5/2017, anh được đề cử thăng cấp Đại tá cùng với bốn vị đồng cấp cũng là người Việt khác đó là Trung tá Tuan Nguyen, ngành giao tế Hải quân; Trung tá Han Quang Bui, Bác sĩ y khoa; Trung tá Hien Trinh, Bác sĩ nha khoa và Trung tá Tu Anh C. Halquist, Bác sĩ nha khoa. Các nhiệm vụ phi chiến đấu khác của anh là giúp cân đối ngân sách 140 tỉ Mỹ kim của Hải Quân tại Ngũ Giác Đài, tham gia viết chính sách cho Bộ Quốc Phòng, làm việc với lực lượng đặc nhiệm chống khủng bố của FBI ở San Diego, California, và thành lập đội chống bom cho cảnh sát trưởng ở Monterey, California. Vào thập niên 2020, Cao Hùng được điều chuyển đến chiến trường Afghanistan. Sau khi thủ phủ Kabul thất thủ dưới tay phiến quân Taliban vào tháng 8/2021 do động thái bất ngờ rút quân khỏi đất nước này của chính quyền Tổng thống Joe Biden, anh trở về Hoa Kỳ và chính quyền Biden quyết định cho anh xuất ngũ cùng lúc với Thiếu tướng Lương Xuân Việt (các anh thuộc phe Cộng Hòa). Ngày 2/10/2025, Cao Hùng chính thức được Thượng viện Hoa Kỳ bầu chọn làm Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ với tỉ số phiếu thuận/chống là 52-45. Đúng 1 tháng sau, ngày 2/11/2025 Cao Hùng tham gia phái đoàn của Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ thăm và làm việc tại Việt Nam. Trong suốt 23 năm kết hôn, gia đình Cao Hùng phải chuyển nhà tới 13 lần vì ông phải đi công tác tới những tiểu bang khác nhau theo lệnh của quân đội. Cao Hùng từng huy động một hội thiện nguyện bao gồm các chuyên viên về chất nổ trong quân đội, và họ đã chế tạo một loại thiết bị phát thanh giấu trong những quả trứng Phục sinh, giúp cho các trẻ em khiếm thị tìm trứng dễ dàng. Nguồn: fandom.net.  
......

Ông Tổng Bí thư đến thăm dân để làm gì?

Hong Thai Hoang Thăm dân là tốt, nhưng đừng để mỗi lần thăm dân lại là một mùa tang tóc. Với cương vị là người đứng đầu Đảng – cũng đồng nghĩa là người đứng đầu quốc gia, ông đã chứng kiến đất nước này trải qua bao nhiêu mùa lũ lụt, bao nhiêu sinh mạng bị cuốn trôi, bao nhiêu mái nhà bị sập, bao nhiêu người mất trắng. Ông từng là Bộ trưởng, rồi Chủ tịch nước, và nay là Tổng Bí thư. Từ thấp đến cao nhất, ông đều đã thấy cảnh tượng này lặp đi lặp lại. Vậy khi ông đứng ở vị trí cao nhất, ông đã làm được gì để người dân không phải chịu cảnh này nữa? Không ai trách thiên nhiên. Nhưng người ta có quyền đặt câu hỏi về cách một quốc gia ứng phó với thiên nhiên. Bao năm qua, lũ vẫn về theo mùa, và người dân vẫn mất mát theo chu kỳ. Vậy, hệ thống cảnh báo đâu? Quy hoạch vùng lũ đâu? Những dự án đê bao, hồ chứa, kè sông, kè biển… giờ đang ở đâu? Và ai chịu trách nhiệm khi dân chết chìm trong những “quy hoạch treo”? Một quốc gia văn minh không được đo bằng số người đến “chỉ đạo sau lũ”, mà bằng việc đã chuẩn bị thế nào trước khi nước dâng. Ông mặc áo phao, đi ủng, đội mũ cối, lội nước. Nhưng xin hỏi,  khi ông đến, nước đã rút. Khu vực đó đã an toàn. Không cần áo phao, cũng không cần “đội hình cứu hộ”. Những tấm ảnh được chụp kỹ càng, có góc độ, có ánh sáng, có biên tập. “Phải chăng chúng ta đang cứu hình ảnh của lãnh đạo, chứ không còn đang cứu dân”? Ở nơi ông đứng, có áo phao, có quân đội, có phóng viên, có an ninh bảo vệ. Nhưng ở những nơi khác, vùng sâu, vùng xa, vùng trũng, người dân vẫn không có nổi một chiếc áo phao, vẫn phải trèo lên mái nhà, bám vào thân cây, chờ nước rút.   Khi ông nói “phải đảm bảo bà con có đủ ăn, đủ mặc, đủ học”, chỉ mong ông nhớ rằng, đủ ăn – đủ mặc – đủ học không thể đến từ những chuyến thăm, mà phải đến từ một chính sách dài hơi, có trách nhiệm và tầm nhìn.   Thưa ông, thăm dân là tốt, nhưng đừng để mỗi lần thăm dân lại là một mùa tang tóc. Người dân không cần ảnh chụp, không cần câu nói “thấu hiểu”, mà cần những thay đổi đủ lớn để nỗi đau này không lặp lại. Và cuối cùng, xin ông hãy tự hỏi: “Sau khi ông rời đi, có bao nhiêu người dân ở đó vẫn phải bơi qua nước lũ  mà không có áo phao”? Hong Thai Hoang  
......

Nhân dân đều biết, nhưng không ai được nói

Hong Thai Hoang   “Nhân dân đều biết”. Câu nói tưởng như khen, nhưng thực ra là một lời thú nhận. Bởi nếu dân đã biết hết tham nhũng ở đâu, tiêu cực ở đâu, lãng phí ở đâu thì vì sao nó vẫn tồn tại? Vì sao những kẻ gây ra nó vẫn bình an trong hệ thống?   Dân biết, nhưng không được nói. Nói thì bị quy chụp, bị cảnh cáo, bị khởi tố, bị tấn công bằng hàng ngàn tài khoản “dư luận viên”. Dân biết, nhưng không được quyền hỏi, không có cơ chế kiểm chứng, không được tiếp cận thông tin minh bạch. Dân biết, nhưng phải im vì nói ra là “gây mất đoàn kết”, là “lợi dụng dân chủ”, là “chống phá”. Nếu “mọi vi phạm, tội phạm đều được dân biết”, thì vấn đề không nằm ở dân, mà ở bộ máy điều tra, giám sát, thanh tra và tư pháp, những người được trả lương để biết sớm hơn dân, nhưng lại im lâu hơn dân.   Dân không có quyền truy cập hồ sơ, không có quyền giám sát ngân sách, không được tiếp cận các bản báo cáo kiểm toán hay tài sản cán bộ.Thế mà khi sự thật lộ ra, người ta lại nói: “Dân đều biết”. Vậy xin hỏi: Nếu dân biết, chính quyền có nghe không? Nếu dân biết, có ai dám xử lý không? Nếu dân biết, có ai trong bộ máy dám chịu trách nhiệm không? Hay chỉ chờ đến khi “biết quá nhiều” thì dân lại trở thành “đối tượng phải xử lý”? Câu nói “nhân dân đều biết” sẽ chỉ trở thành sự thật đúng nghĩa khi người dân được quyền nói điều họ biết, được quyền chất vấn người có quyền, và được bảo vệ khi họ nói thật. Khi đó, “nhân dân biết” mới không còn là lời nói suông mà là sức mạnh thật của một xã hội pháp quyền. ———— CÂU HỎI GỬI ÔNG THỦ TƯỚNG Nếu “dân biết hết”, thì đó là một xã hội có tri thức, có tầm nhìn. Nhưng khi dân biết, mà chính quyền vẫn để sai phạm diễn ra, thì vấn đề không nằm ở tri thức của dân — mà ở sự im lặng của người có quyền. Người đứng đầu Chính phủ chắc chắn biết nhiều hơn dân. Nhưng biết  mà không hành động, thì tri thức ấy vô nghĩa. Biết  mà không bảo vệ dân, thì niềm tin ấy cũng mất. Khi những người nói lên sự thật bị bịt miệng, khi những bài phản ánh tiêu cực bị chặn, thì “dân biết hết” chỉ còn là một câu nói rỗng. Vì biết  mà không được quyền nói, chính là bi kịch lớn nhất của một xã hội nói mình “minh bạch”. Hong Thai Hoang  
......

Đặc khu, phúc đức tổ tiên và dân khí

Trân Văn Tuần này, khu vực Đông Nam Á tiếp tục được hâm nóng bởi các cuộc đột kích vào những trung tâm buôn người kết hợp lừa đảo trực tuyến trên lãnh thổ Cambodia, Miến Điện. Tại Cambodia, số lượng nghi phạm dính líu đến cưỡng bức lao động, lừa đảo trực tuyến bị bắt giữ tiếp tục gia tăng. Hai cuộc đột kích, một ở tỉnh Kampot, một ở Phnom Penh đã vô hiệu hóa hai ổ lừa đảo nhắm vào người Việt và người Hàn qua Internet. Ở Myanmar, chính quyền quân sự đã tổ chức các cuộc đột kích vào những trung tâm nô lệ, lừa đảo trực tuyến tại khu vực giáp giới Myanmar-Thái Lan thuộc bang Karen, khu vực giáp giới Myanmar-Trung Quốc thuộc bang Shan. Chính quyền quân sự ở Myanmar loan báo họ đã bắt giữ và đang tống xuất khoảng 10,000 người ngoại quốc. Trên bình diện quốc tế, SpaceX đã cắt dịch vụ Internet của vài ngàn bộ Starlink ở Myanmar. Chính phủ Mỹ tuyên bố áp đặt lệnh trừng phạt khác đối với một số cá nhân và doanh nghiệp dính líu đến buôn người, lừa đảo trực tuyến ở Shwe Kokko (Karen, Myanmar) giống như đã từng làm trước đó đối với một số cá nhân, doanh nghiệp tại Cambodia. Ngoài việc cung cấp thông tin, hỗ trợ phương tiện, chính quyền Thái Lan đang truy quét hơn 1,000 cá nhân vừa băng qua biên giới Myanmar-Thái Lan để né tránh các đợt truy quét tại Myanmar. Sau Cambodia và Myanmar, thiên hạ đang nhìn vào Lào, quốc gia cũng có “đất hứa” của buôn người, lừa đảo trực tuyến – Đặc Khu Kinh Tế Tam Giác Vàng (Golden Triangle SEZ). *** Hoạt động buôn người, lừa đảo trực tuyến phát triển ở Cambodia, Myanmar và Lào, gieo họa toàn cầu đều dựa vào các đặc khu kinh tế (Special Economic Zone – SEZ) ở những khu vực tiếp giáp với Trung Quốc. Lúc đầu các SEZ tiếp nhận vốn của “doanh nhân” Trung Quốc để phát triển hạ tầng, sau sự hình thành các trung tâm cờ bạc là sự phối hợp giữa buôn người, biến đồng loại thành nô lệ hiện đại rồi chuyển hóa thành những trung tâm lừa đảo trực tuyến. Những Shwe Kokko ở Myanmar, Sihanoukville ở Cambodia, hay Golden Triangle ở Lào,… đều là các SEZ. Để thu hút đầu tư, chính quyền Cambodia, Myanmar, Lào cùng đề cao yếu tố tự chủ ở các SEZ. Chính sự biệt lập này đã bị nhiều tổ chức tội phạm Trung Quốc khai thác, biến các SEZ thành “lãnh địa”. Những “lãnh chúa” mang quốc tịch Trung Quốc sử dụng tài sản thu được từ các hoạt động bất chính mua chuộc viên chức sở tại từ địa phương đến trung ương bành trướng “sự nghiệp”. Kết quả nhiều cuộc điều tra cho thấy, SEZ nào cũng có những khu phức hợp kiên cố, được bảo vệ nghiêm ngặt, giam giữ nhiều ngàn người song bất khả xâm phạm, bất khả tư nghị. Nếu chịu khó đối chiếu những đặc điểm của các SEZ ở Cambodia, Myanmar và Lào với Dự Luật Đơn Vị Hành Chính-Kinh Tế Đặc Biệt (thường được gọi tắt là Dự Luật Đặc Khu) mà chính quyền Việt Nam thai nghén từ giữa thập niên 2010, lẽ ra đã thông qua vào năm 2018, hẳn sẽ thấy có rất nhiều điểm tương đồng. Các quy định pháp luật liên quan đến SEZ của Cambodia, Myanmar, Lào – cho giới đầu tư ngoại quốc thuê đất hoặc nhượng quyền sử dụng đất ở SEZ từ 50 năm đến 99 năm đã đỡ đầu cho các khu phức hợp biệt lập ra đời và lớn mạnh mà chính quyền địa phương ở Cambodia, Myanmar, Lào không thể kiểm soát. Dự Luật Đặc Khu của Việt Nam cũng thể hiện ý định y hệt như vậy (lúc đầu là 99 năm, về sau, do bị chỉ trích kịch liệt nên giảm xuống 70 năm nhưng vẫn chừa con đường cho phép sử dụng đến 99 năm nếu thuộc “trường hợp đặc biệt” – Điều 30). Cambodia, Myanmar, Lào giao quyền quản lý hành chính, kiểm soát xuất-nhập cảng, thu thuế cho Ban Quản Lý Đặc Khu. Vì muốn nhanh chóng thu hút vốn đầu tư, Cambodia, Myanmar, Lào đề ra chính sách miễn, giảm thuế tối đa cho “nhà đầu tư”. Trên thực tế, ban quản lý các đặc khu dễ dàng bị các tổ chức tội phạm thao túng. Các tổ chức tội phạm đã khai thác tối đa những lỗ hổng cả về quản trị lẫn chính sách, biến các SEZ trở thành chỗ hấp thụ tiền bẩn, thúc đẩy rửa tiền cũng như các hoạt động tài chính bất hợp pháp khiến cộng đồng quốc tế phải hành động. Dự Luật Đặc Khu của Việt Nam cũng thế – về mặt quyền hạn, nhân vật đứng đầu đặc khu gần như độc lập với chính quyền cấp tỉnh (nhân vật đứng đầu đặc khu có quyền thành lập, giải thể, tổ chức lại một số cơ quan chuyên môn, quyết định một số dự án đầu tư, ký kết một số thỏa thuận quốc tế… – Điều 18). Dự Luật Đặc Khu của Việt Nam cũng đề cao yếu tố miễn, giảm các sắc thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, áp dụng các thuế suất ưu đãi đặc biệt (các điều 43, 44, 48). Tuy Dự Luật Đặc Khu của Việt Nam đặt mục tiêu ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, dịch vụ du lịch, tài chính quốc tế và các quy định pháp luật liên quan đến SEZ của Cambodia, Myanmar, Lào cũng nhắm đến những mục tiêu này nhưng cơ chế đặc biệt của các SEZ đã khiến các SEZ trở thành những “thiên đường” cho tội phạm như đã biết. Một thời, những viên chức hữu trách ở Cambodia, Myanmar, Lào từng bày tỏ sự hào hứng với triển vọng phát triển nhờ casino, bất động sản và dịch vụ ở các SEZ, viên chức Việt Nam những năm cuối thập niên 2010 có khác gì? *** Tháng Năm, 2018, bất chấp phân tích thiệt/hơn và khuyến cáo của nhiều giới, nhiều người, Quốc Hội Việt Nam vẫn đưa Dự Luật Đơn Vị Hành Chính-Kinh Tế Đặc Biệt (thành lập ba đặc khu ở Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc, cho phép giới đầu tư ngoại quốc thuê đất từ 70 năm đến 99 năm khiến người ta lo ngại Trung Quốc sẽ kiểm soát cả ba, nguy hại cho chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc) ra xem xét. Hành động ấy khiến sự bất bình tăng nhanh và dâng cao đến mức ngày 9 Tháng Sáu, 2018, chính quyền phải tuyên bố tạm hoãn xem xét dự luật song việc bày tỏ thiện chí như thế đã quá trễ. Từ 10 Tháng Sáu, 2018 đến 17 Tháng Sáu, 2018, biểu tình phản đối ý định thành lập ba đặc khu bùng phát ở nhiều nơi (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận, Khánh Hòa, Nghệ An, Hà Nội,…). Một số nguồn thạo tin ước đoán, tối thiểu cũng có khoảng 50,000 người đổ ra đường để phản đối. Tại một số nơi như Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận,… biểu tình đã chuyển thành bạo loạn. Một số nhà máy của giới đầu tư ngoại quốc bị đốt. Thậm chí tại Bình Thuận, người biểu tình còn tấn công, đốt phá trụ sở UBND tỉnh, nơi làm việc của công an,… Nếu không có sự phản kháng quyết liệt như vậy, Dự Luật Đơn Vị Hành Chính-Kinh Tế Đặc Biệt thành luật, ai dám khẳng định các SEZ tại Việt Nam tránh khỏi con đường đã làm Cambodia, Myanmar, Lào sa lầy?    Người Việt
......

Tư nhân hay quốc doanh ?

Ngọc Vinh Trong bài diễn văn dài đọc tại đại học Oxford- Anh Quốc, tổng bí thư Tô Lâm khẳng định, ông vẫn đặt niềm tin vào kinh tế quốc doanh (nhà nước), xem đây là lực lượng giữ vai trò dẫn dắt nền kinh tế. Dù ông cũng xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế (trích báo Tuổi Trẻ). Như vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế của mình. Kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo như lâu nay, dù Đảng vừa ban hành một nghị quyết quan trọng để phát triển kinh tế tư nhân. Các nhà quan sát lại có chuyện để bàn. Vì nếu vẫn giữ định hướng như thế liệu các nước - nhất là Mỹ - có chịu công nhận Việt Nam như một nền kinh tế thị trường thực thụ hay không? Và nền kinh tế đó có khắc phục được những nhược điểm lâu nay khi nằm dưới sự" dẫn dắt" của ông kẹ kinh tế quốc doanh? Dễ hiểu vì sao ông Tô Lâm vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước vì ông, cũng giống như các đời tbt trước ông, vẫn xem nó là công cụ để bảo đảm ổn định vĩ mô và các loại an ninh như an ninh kinh tế, năng lượng và lương thực. Và, với quan điểm này, kinh tế tư nhân vẫn chưa được tin tưởng dù được xem là "động lực quan trọng". Giống như hình ảnh biểu tượng (cho kinh tế tư nhân) của anh Vượng, lẽo đẽo theo sau các lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong buổi lễ khai trương Trung tâm hội chợ triển lãm quốc gia. Dù anh có làm ăn giỏi hơn các ông kẹ quốc doanh cách mấy cũng chỉ đóng vai trò phục dịch chớ tiếng nói không có trọng lượng gì. Thật ra, theo kinh nghiệm của các nước phương tây như nước Anh mà ông Tô đến thăm, để bảo đảm ổn định vĩ mô hay các loại an ninh khác của nền kinh tế, phải là vai trò, chính sách và năng lực điều hành của nhà nước; chứ không phải thành phần kinh tế nào.  
......

CSVN đã rất thành công trong việc tạo ra hàng triệu con bò “yêu nước”

Mai Thị Mùi   Chúng đã được tẩy não, nhồi sọ lòng căm thù những người ngược ý của chủ nuôi chúng. Thậm chí những câu chửi bới chúng cũng không tự nghĩ ra được. 1000 đứa đều rập 1 khuôn Cali/ba sọc/khát nước/đu càng.   Qua sự việc nam sinh lớp 11 đâm vào cổ nam sinh lớp 12 gây tử vong, cùng việc bắt giữ một kẻ bố láo trên mạng với “tội danh” miệt thị người miền Nam cho ta thấy xã hội này đã đi đến cùng cực của sự mất nhân tính và văn hoá. Việc bắt giữ Tàng Keng với tội danh như trên chỉ là một cú xoa dịu của chính quyền, hòng làm nhẹ đi sự căm phẫn ngấm ngầm bao lâu nay của dân miền Nam, chứ thực ra nó không giải quyết gì cho nạn chửi rủa, xúc phạm vô căn cứ của lũ bò đỏ, DLV (dư luận viên) mà ai cũng biết là chúng được ai nuôi. DLV và bò đỏ đa phần là tuổi choai choai. Nhìn cách chọn avatar và ngôn ngữ chúng dùng là biết. Hơn nữa người lớn trong độ tuổi lao động thì có công ăn việc làm chính đáng. Không ai bỏ ra 20 tiếng một ngày để đi chửi rủa nhận mấy triệu bạc/tháng cả. Chẳng ai rảnh để mà lên mạng chửi để bị người khác chửi lại cả. Dù những câu chửi là những con chữ vô tri nhưng đã là con người ai cũng có cảm xúc hết. Cho dù mạng là ảo nhưng khi đọc những con chữ xúc xiểm, mạ lị, chửi bới cũng giận giữ, buồn bực chứ. Không ai rảnh mà tự nhiên đi chửi người khác hết. Tức là chửi phải có lương mới chửi chứ không ai chửi free. Bọn trẻ nó lại càng không siêng năng trong việc đi chửi không công. Lũ cháu nhà tôi nó cũng dùng FB. Nhưng tụi nó chơi game, mua hàng online và đăng ảnh chó mèo, đầm váy, son phấn, bút thước, gôm tẩy. Tôi bảo đảm không ai rảnh đi chửi không công và cũng không vô lý đến mức gặp ai cũng chửi. Không thù oán, quen biết, mâu thuẫn gì cũng chửi thì có mà thần kinh. Nhưng chính quyền này đã rất thành công trong việc tạo ra hàng triệu con bò như vậy. Chúng đã được tẩy não, nhồi sọ lòng căm thù những người ngược ý của chủ nuôi chúng. Thậm chí những câu chửi bới chúng cũng không tự nghĩ ra được. 1000 đứa đều rập 1 khuôn Cali/ba sọc/khát nước/đu càng. Nhiều đứa chửi Mỹ như kẻ thù nhưng thậm chí Mỹ nằm ở châu nào, nói tiếng gì nó còn không biết. Nhưng cái hệ thống nhào nặn ra chúng đã biến chúng thành những con robot được lập trình sẵn, hễ gặp “phản động” là auto chửi. Lời lẽ của chúng khốn nạn, độc ác và cay nghiệt như dành cho kẻ thù. Bọn trẻ bây giờ tới trường được học và hành cái gì? Hễ đến các ngày “kỷ niệm” là lôi mũ cối, súng, pháo, xe tăng ra bắt chúng nó diễn trò. Mẫu giáo, nhà trẻ còn mặc tã, ôm bình bú, cơm chưa biết xúc mà cũng bắt mặc đồ bộ đội vào đẩy xe tăng với chèn pháo, đào công sự. Chả thấy dạy yêu thương, chia sẻ, đạo đức con người mà cứ dạy chúng nó húc đổ cổng dinh với lại giương cờ trên nắp hầm. Sáng thứ hai nào cũng “Cờ in máu” với “đường vinh quang xây xác quân thù” thì bọn trẻ nó nuôi dưỡng lòng nhân kiểu gì? Cô lái xe vào sân trường tông gãy chân học sinh xong viết giấy dụ cả trường kí vào là cô không hề lái xe vào sân trường. Hiệu trưởng nhập thực phẩm hư thối vào bếp trường. Người nấu bức xúc tố thì bị trù dập. Phụ huynh phải rình mò, luồn lách, mưu mẹo đột nhập bếp để vạch trần tội ác của hiệu trưởng. Mỗi buổi họp phụ huynh là một buổi tay đôi, trả giá, đấu trí, đấu tranh giữa 2 phe. Những cái đó đập vào mắt, lọt vào tai trẻ hết đó. Chúng học được gì qua những chuyện đó? Chúng học được thói lưu manh, xảo trá, điếm đàng, trâng tráo, vô đạo đức của người lớn. Và mất gì? Chúng mất niềm tin vào 1 xã hội công bằng và một cộng đồng tử tế. Những điều đó hình thành nên một đứa trẻ lòng đầy hoài nghi, thất vọng và chất chứa hận thù, oán ghét, lưu manh, lọc lõi. Cây nào rồi cũng tới lúc trổ quả. Cây xấu sao sinh trái tốt được. Việc nó đâm vào cổ họng bạn khiến máu phun ra thành vòi là kết quả tất yếu của một cái cây được tưới bằng sự hận thù, ganh ghét, đố kị, gian manh. Và con số không chỉ dừng lại ở vụ án này. Nó sẽ tới hàng chục, hàng trăm, rồi hàng ngàn vì cái nền giáo dục này là nền giáo dục hận thù và dối trá. Nền giáo dục không nhằm tạo ra con người mà mục đích là tạo ra những con zoombie phục vụ cho một chế độ chuyên quyền và khát máu./.   ______________ Nguồn: Bài biết trên Facebook Mai Thị Mùi https://www.facebook.com/share/p/1EPSd5dZMi/?mibextid=wwXIfr  
......

Phá hoại

Dương Hào Nam Thành phố mang tên Bác, danh xưng đầy tự hào nay lại vang lên vào mỗi mùa mưa như một thứ ngôn từ mỉa mai buốt giá. Sài Gòn, từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” bởi vẻ đẹp lộng lẫy, phồn hoa và nền quy hoạch cẩn trọng thời thuộc địa và VNCH, giờ đã trở thành một chảo nước khổng lồ, nơi những cơn mưa trở thành những cơn thịnh nộ của trời, còn mặt đất chỉ biết oằn mình, ngụp lặn trong ngập úng, rối loạn và bất lực. Phải nói thẳng: chúng ta đang trả giá cho những lựa chọn sai lầm của chính mình, khi từ bỏ một tầm nhìn quy hoạch bài bản có sẵn, để chạy theo sự phát triển vô tội vạ, nặng nề hình thức, xem nhẹ nền tảng. Đập phá những gì tổ tiên để lại mà không đủ trình độ để thay thế bằng những điều tốt hơn, ấy là phá sản về tư duy chứ không chỉ là lỗi kỹ thuật và cơ chế. Sài Gòn xưa được xây dựng trên một hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, những mạch máu tự nhiên giúp tiêu thoát nước, điều tiết khí hậu và tạo sinh cảnh bền vững. Các nhà quy hoạch Pháp, rồi kỹ sư Việt thời VNCH, đã rất cẩn trọng giữ gìn các mạch nước ấy, họ đủ học vấn và trình độ chuyên môn để biết rằng; một thành phố nhiệt đới mà xem nhẹ thủy đạo là tự ký vào bản án cho mình. Thế mà sau 1975, trong cái hào khí của công cuộc “cải tạo xã hội chủ nghĩa” và “xóa bỏ tàn dư chế độ cũ”, nhiều tuyến kênh lạch bị san lấp một cách tàn nhẫn, để xây dựng nhà cửa, khu dân cư, đường sá. Kết quả: nước không còn lối thoát, và thành phố bắt đầu chìm trong chính sự cao ngạo và thiển cận của một đàn ngáo rừng. ….. Không ai chống lại sự phát triển. Nhưng phát triển mà thiếu quy hoạch, thiếu tầm nhìn, thiếu cơ chế giám sát minh bạch - thì chẳng khác gì thả rông một đàn thú hoang giữa lòng thành phố. Sau 1975, Sài Gòn gánh trên vai quá nhiều chức năng: trung tâm chính trị, kinh tế, dân cư tràn về từ tứ phương. Dân số tăng lên chóng mặt, nhưng hệ thống cống rãnh, hạ tầng kỹ thuật thì tụt lại hàng thập kỷ. Hàng trăm dự án mọc lên ở những vùng trũng tự nhiên, những khu quy hoạch treo - kéo dài vô thời hạn, và những “đại gia” có thể uốn cong cả bản đồ nếu cần. Cảnh báo từ giới chuyên gia bị phớt lờ như tiếng nói của kẻ lạc loài. Và như mọi cơ thể bị bóp nghẹt, thành phố bắt đầu rụng xuống từng cơn sốt nước ngập ngụa, không còn khả năng phản xạ tự điều chỉnh. Điều trớ trêu nhất là: ngân sách cho chống ngập không hề nhỏ. Dự án chống ngập gần 10.000 tỷ đồng lừng lững như tượng đài niềm tin, nhưng rồi bị đình trệ, đội vốn, vá víu bằng tư duy hành chính. Cái gọi là “chống ngập” đôi khi chỉ là cách hợp thức hóa những sai lầm cũ, thay vì truy nguyên và sửa từ gốc, người ta lại “làm thêm” để đỡ ngập, khiến ngập thêm rồi lại từ đó hút máu ngân sách. Nếu vẫn tiếp tục như thế này, giữ nguyên cách suy nghĩ, cách quản lý, cách phản ứng với phản biện, thì không một công trình nào đủ sức cứu cả thành phố khỏi tương lai chìm trong biển nước. …… Nếu ai đó hỏi: Giờ phải làm gì? Khôi phục thủy đạo: Rà soát và mở lại các kênh rạch bị lấn chiếm. Nơi nào không thể hoàn nguyên thì ít nhất cũng phải làm cống ngầm tiêu chuẩn. Tạm dừng tất cả dự án đô thị tại vùng trũng cho đến khi có đánh giá tác động thủy văn độc lập. Lập hội đồng quy hoạch độc lập, gồm các chuyên gia trong và ngoài nước, không chịu sự chi phối của lợi ích nhóm hay mệnh lệnh hành chính. Lắng nghe phản biện thay vì loại bỏ. Một thành phố hiện đại không thể vận hành bằng tư duy sợ hãi bởi những lời nói thật. Lịch sử không tha thứ cho sự ngoan cố. Nếu TP.HCM còn muốn ngẩng đầu trước thế giới, còn muốn con cháu mai sau được sống trên nền đất khô ráo, văn minh, thì phải dũng cảm nhìn lại, từ bỏ tự mãn, dẹp bỏ định kiến, để khôi phục những giá trị đã từng làm nên một Sài Gòn đáng sống. Nếu không, mưa sẽ tiếp tục rơi, và chúng ta sẽ tiếp tục trầm mình trong thứ nước đục ngầu đầy chất thải, không chỉ của những cơn lũ tự nhiên, mà là lũ xả ra từ đám quan liêu, bất tài dốt nát, tư duy lạc hậu, tham lam và vô trách nhiệm - vận hành. Sài Gòn mà sập, thì Huế - Hà Nội nấu cám lợn mà ăn!  
......

Tại cái “văn hóa tình dục” ở xứ ta!

Mạc Văn Trang Gần đây có mấy vụ quan chức Việt Nam bị nước ngoài lên án “quấy rối tình dục” phụ nữ nước sở tại. Phải nói rằng, những hành vi “quấy rối” như vậy ở xứ ta thì “nhẹ hều”, nhiều “quan” có thói quen như vậy rồi. Nhưng gặp nền văn hoá khác thì lớn chuyện. Vậy mà báo chí quốc doanh chả lên tiếng bênh vực các “sếp” gì cả. Mình đành lên tiếng vậy. 1. Ba vụ ồn ào gần đây nhất Vụ thứ nhất, hai nhân viên an ninh sang Newzealand chuẩn bị cho chuyến thăm của Thủ tướng, bị cáo buộc “tấn công tình dục” hai cô gái ở nhà hàng: “Vào ngày 4 tháng 3 năm 2024, vài ngày trước chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đến thăm New Zealand, hai quan chức được cho là thuộc Bộ Công an Việt Nam đã bị cáo buộc tấn công tình dục các nhân viên trong một nhà hàng Việt Nam ở thủ đô Wellington của New Zealand.” Vụ này được ghi vào Wikipedia mới kinh chứ. (https://vi.wikipedia.org/.../C%C3%A1o_bu%E1%BB%99c_2_quan...). Vụ thứ hai, một đại tá, cảnh vệ tháp tùng Chủ tịch nước qua Chi- lê, buổi tối gọi nữ nhân viên khách sạn lên phòng rồi gạ gẫm tòm tem. Vậy mà họ làm ầm ĩ: “12 tháng 11. 2024 Tòa án tại Chile đã ra phán quyết vào thứ Hai rằng một thành viên trong phái đoàn của Chủ tịch nước Lương Cường, người vừa có chuyến thăm chính thức tới quốc gia Nam Mỹ này, phải rời khỏi Chile và không được phép nhập cảnh trở lại trong ít nhất hai năm sau khi bị cáo buộc lạm dụng tình dục. Bộ Ngoại giao Chile hôm 11/11 đăng thông cáo chính thức cho biết vào đêm Chủ nhật 10/11, một thành viên đội an ninh của phái đoàn Việt Nam đang thăm chính thức Chile đã bị cáo buộc lạm dụng tình dục”.... ​​(https://www.bbc.com/vietnamese/articles/clyjzeg8mr0o). Vụ thứ ba, ông Thượng tướng, công du sang Hàn Quốc, trong bữa tiệc, đã “tác động tình cảm” vào một nhân viên thế nào đó, cũng bị lên án là: “Thứ trưởng bộ Quốc Phòng Việt Nam Hoàng Xuân Chiến bị cáo buộc quấy rối tình dục nữ công chức Hàn Quốc tại diễn đàn an ninh thường niên Seoul, hồi tháng 9/2025. Tùy viên đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, được bộ Quốc Phòng Hàn Quốc triệu mời, « đã lấy làm tiếc và cam kết sẽ không để tái diễn vụ việc tương tự ». (Đăng ngày: 21/10/2025) - (https://www.rfi.fr/.../20251021-th%E1%BB%A9-tr%C6%B0%E1...) 2. Mấy chuyện trên ở xứ ta thì “có gì đâu”! Chẳng qua, “Văn hóa tình dục” (hay còn gọi là văn hóa sex) ở xứ ta chưa kịp hội nhập với “văn hoá sex” của phương Tây. Xã hội ta, từ thời phong kiến - thực dân hay thời bao cấp XHCN, tỏ ra rất nghiêm khắc với “tội gian dâm” hay “hủ hoá”, nhưng phải bắt quả tang “trai trên gái dưới”! Còn chuyện trêu chọc, “đụng chạm, sờ mó” dễ được bỏ qua. Các cụ còn nói: “Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu”… Tôi chứng kiến một lần tổ sản xuất HTX sáng sớm tập trung chờ đi làm, cô N. có chồng bộ đội vừa về phép ra hơi muộn, cả tổ xúm vào trêu. Một bà bảo, chồng về, được tí hơi giai có khác, “gái được hơi trai như thài lài gặp cứt chó”, cấm có sai!. Cô bạn trẻ cũng có chồng bộ đội, tỏ ra đồng cảm: Tươi gì, mệt rũ ra thì có. Nó oanh tạc suốt đêm đúng không? Cô N. đỏ mặt, cười gượng, ngồi xuống. Một ông cựu chiến binh tương luôn một câu: “Tao còn lạ đ.eo gì. B.u.ô.i giặc c.ă.c lính, thằng đ.eo nào chả thế”! Vậy là mọi người cười rộ lên, tán chuyện rôm rả! (Đấy, lao động tập thể HTX và những chuyện dâm tục làm người lao động vui, quên cả đói, khổ …). Chuyện hội hè, đình đám, xem phim ngoài bãi, con trai đụng chạm, sờ mó con gái coi như bình thường; chuyện tiếu lâm dâm tục, chuyện thường ngày tán dương “tứ khoái” là thứ “văn hoá” cửa miệng của nông dân ta! Quan chức ta đến 90% là con cháu nông dân, thấm nhuần thứ văn hoá đó từ bé. Từ khi hội nhập kinh tế thị trường, các loại dịch vụ bung ra như nấm sau mưa; phim, ảnh sex lan truyền khắp nơi; rồi các hình ảnh sex tràn ngập trên internet. Báo chí công khai liên tục nêu vấn đề: “VTV.vn - Nhiều nội dung đồi trụy, phản cảm được đăng tải tràn lan trên mạng xã hội, câu kéo, dụ dỗ người dùng mạng xã hội theo dõi”... (https://vtv.vn/.../tran-lan-noi-dung-doi-truy-phan-cam...). Từ những năm 1990s trở đi, khắp nơi xuất hiện các hình thức “khuyến khích sex”: “Nhà nghỉ” cho thuê thuê giờ; “Massage thư giãn”; “cafe đèn mờ”; “Bia ôm”; “Karaoke tươi mát”... Xã hội mở cửa, nhưng nhiều quyền tự do, dân chủ bị hạn chế, chỉ có “tự do buôn lậu”, “tự do sex” là thoải mái, nên người người bung ra tận hưởng! Thế là các thương nhân, công nhân viên chức có tiền đua nhau thưởng thức các món của lạ nói trên. Nhiều anh kêu, tối qua đi hát Karaoke… mỏi cả tay (?). Nhiều thơ, ca, truyện sex được công khai “diễn xuất” trong các cuộc vui. Các nhân viên còn biết “gu” của “sếp” để chiều. Tiền và gái là hai “vũ khí” lợi hại để thao túng các “sếp”; nhiều vụ “nâng đỡ không trong sáng” âm thầm diễn ra, thiên hạ biết cả nhưng cũng lờ đi. Cấp cao có gái cao cấp (nghe nói có sếp bỏ ra 25.000 usd để qua đêm với một hoa khôi); cấp vừa có “hàng” vừa vừa; cấp xã thì có “điếu cày của uỷ ban”! Sinh viên thì tình cảm với nhau, cùng “đi làm thêm”, “sống thử”, “cơm chung”... Nông dân ít tiền thì theo kiểu “cây nhà lá vườn” rủ nhau ra lều, quán, bờ đê …, như nhà văn Nguyễn Ngọc Tư tả trong “Cánh đồng bất tận”... Ở cơ quan, anh em thường nửa đùa nửa thật: “Đảng ta là đảng cầm quyền/ đa thê thì cứ, đa nguyên thì đừng”! Câu: “Ở cơ quan thì gọi bằng Chú; lúc bù khú thì gọi bằng Anh; lúc đấu tranh thì gọi Đồng chí” vẫn lan truyền! Rồi bài “Tình Cây và Đất” được chế thành “Sếp thiếu em sếp ngừng hơi thở; em thiếu sếp em sống với ai; tình đôi là như là Cây và Đất”... thường xuyên được hát trong các cuộc vui và được hoan hô nhiệt liệt! Rồi thơ sex, truyện sex nổ như ngô rang. Các cô giáo bị điều đi tiếp rượu các “sếp” mà Bộ trưởng Giáo dục bảo, chuyện bình thường, có gì đâu (!) Nhiều nhóm thanh niên còn khoái chí chơi trò “gợi sex” công khai ( https://thanhnien.vn/hai-hung-nhung-tro-choi-team...) Với “nền tảng văn hoá sex” như trên, các “sếp” lại có quyền, có tiền nên quen thói ăn chơi “thư giãn”, “tươi mát” thoải mái, tưởng gái nào cũng như gái nào, gái ở đâu cũng thế; “thấy gái lạ như quạ thấy gà con”, là nhìn chòng chọc vào chỗ nhạy cảm, buông lời tán tỉnh hay “đụng chạm tình cảm”, gạ gẫm… Tiền “sếp” thiếu gì! Cũng cần nói thêm, ba vụ các “sếp” bị lên án rùm beng nói trên, nếu ở Trung quốc, Cuba, Nga… chắc chả vấn đề gì, vì “văn hoá sex” của mấy nước anh em cũng gần giống nhau. (Con người ở các nước độc tài sống đa nhân cách quen rồi: Công khai thì “diễn” đạo đức như thánh, hậu trường thì ham muốn đủ thứ, như ma!). 3. “Văn hoá sex” ở phương Tây rất khác ta Hỏi thằng Chat GPT, nó bảo: “Văn hoá sex” ở các nước phương Tây (như Mỹ, Anh, Canada, Úc, v.v.), khái niệm "quấy rối tình dục" (sexual harassment) và “xâm hại tình dục" (sexual assault) được phân biệt rất rõ ràng, có định nghĩa pháp lý cụ thể và hậu quả pháp lý nghiêm trọng. Dưới đây là phần giải thích chi tiết bằng tiếng Việt. 3.1. Quấy rối tình dục (Sexual Harassment) Là hành vi, lời nói, cử chỉ mang tính gợi dục hoặc ám chỉ tình dục không được chấp nhận, khiến người khác cảm thấy khó chịu, bị xúc phạm, hoặc bị đe dọa. Hành vi này thường xảy ra ở nơi làm việc, trường học hoặc nơi công cộng. Ví dụ cụ thể: Lời nói: Bình luận, đùa cợt, trêu chọc về cơ thể, ngoại hình, giới tính, hoặc đời sống tình dục của người khác. Ví dụ: “Cô mặc váy này nhìn hấp dẫn thật đó.” (ở nơi làm việc – bị xem là quấy rối). *Hành vi: Nhìn chằm chằm, huýt sáo, liếc mắt gợi ý, hoặc gửi hình ảnh, tin nhắn nhạy cảm. * Tiếp xúc cơ thể không được đồng ý: Đặt tay lên vai, ôm, sờ mà người kia không đồng thuận. * Đe dọa hay trao đổi lợi ích: Gợi ý quan hệ tình dục để đổi lấy thăng chức, điểm cao, công việc... # Hậu quả: Ở các nước phương Tây, quấy rối tình dục có thể: * Dẫn đến sa thải, kiện tụng, bồi thường tài chính. * Ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh tiếng và sự nghiệp của người vi phạm. 3.2. Xâm hại tình dục (Sexual Assault) Là hành vi có tính chất ép buộc, cưỡng ép hoặc tấn công thể xác mang tính tình dục mà không có sự đồng ý (consent) của người kia. Ví dụ: * Cưỡng hôn, sờ mó, đụng chạm vùng kín mà không có sự đồng ý. * Ép buộc quan hệ tình dục (hiếp dâm). * Lợi dụng người say, bất tỉnh, hoặc không đủ năng lực để đồng ý. # Hậu quả: * Đây là tội hình sự nghiêm trọng. * Có thể bị phạt tù nhiều năm, bị ghi vào hồ sơ tội phạm tình dục và bị hạn chế nhiều quyền dân sự. — 4. Khuyến nghị 4.1. Việc giáo dục về Quyền con người và giáo dục Giới tính cần được đưa vào chương trình chính khoá, giáo dục có hệ thống trong nhà trường phù hợp với mỗi lứa tuổi và phù hợp với những giá trị nhân loại phổ quát. 4.2. Bộ Văn hoá cần có văn bản quy định về “Văn hoá ứng xử” ở các công sở, trường học, nơi công cộng tương ứng với văn hoá văn minh chung của thế giới. Đảng nên thêm vào “Những điều đảng viên không được làm”... 4.3. Các “sếp”, nhất là bên công an, quân đội trước khi ra nước ngoài, cần tìm hiểu về văn hoá nước đó để ứng xử cho phù hợp. Còn “sếp” nào sang Tây muốn “tìm của lạ” thì bảo mấy anh em bên đó “thạo việc” họ dẫn đi, “ăn có nơi, chơi có chốn” để “trả thù bọn thực dân da trắng”(?), như “lý lẽ” của một số đồng chí có “lòng căm thù” dậm dật (!). Vậy nhỉ! === Ảnh trên: "Hít đất" là trò chơi team building phản cảm được nhiều người tham gia (trên báo Thanh Niên, đường link trong bài) 25/10/2025 MVT  
......

Cuộc thức tỉnh của Gen Z toàn cầu

Lý Thái Hùng Trên những con phố cháy lửa của Dhaka (Bangladesh), những người trẻ quấn cờ đỏ-xanh bất khuất trước họng súng của một chế độ độc tài đang kiệt sức. Ở Kathmandu (Nepal), sinh viên cầm điện thoại livestream trên TikTok, hô vang những khẩu hiệu đòi cải cách xã hội. Rồi ở Manila (Philippines); Jakarta (Indonersia); Antananarivo (Madagascar) và Rabat (Morocco) đã cùng một nhịp điệu vang lên với những cuộc tuần hành bày tỏ sự bất mãn: Giá cả leo thang, tham nhũng, thất nghiệp và dần biến thành điều gì đó sâu sắc hơn: Một cuộc đứng dậy của những người rất trẻ mà báo chí gọi họ là Thế hệ Z hay Gen Z. Họ là những người sinh ra trong khoảng 1997 – 2009, thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của Internet và mạng xã hội toàn cầu, Vì sao Thế hệ Z trỗi dậy Tuy động lực không khác gì các cuộc “Cách Mạng Màu” (đầu những năm 2000) hay “Mùa Xuân Ả Rập” (2011), cuộc trỗi dậy của Gen Z phát sinh từ sự vỡ mộng với những hệ thống hứa hẹn cơ hội nhưng lại mang đến bấp bênh; từ những chính phủ nói về tăng trưởng nhưng quên mất công lý, nhưng cách họ trỗi dậy thì hoàn toàn khác. Từ Nam Á tới Châu Phi, từ Đông Âu đến Mỹ Latin, lớp công dân trẻ nhất của thế giới đang tổ chức một cuộc cách mạng liên lục địa, được kết nối qua mạng Internet. Không giống như những thế hệ đi trước, họ không chiếm quảng trường hay dựng rào chắn để đòi hỏi quyết liệt. Họ đăng nhập, kết nối, và biến sự phẫn nộ thành những dòng tweet, video và meme lan truyền khắp hành tinh. Khẩu hiệu của họ không hẹn mà gặp hoàn toàn dựa trên cảm giác bị phản bội: “Chúng tôi muốn công bằng.” “Chúng tôi muốn được tôn trọng.” “Chúng tôi muốn được lắng nghe.” Tuy động lực không khác gì các cuộc “Cách Mạng Màu” (đầu những năm 2000) hay “Mùa Xuân Ả Rập” (2011), cuộc trỗi dậy của Gen Z phát sinh từ sự vỡ mộng với những hệ thống hứa hẹn cơ hội nhưng lại mang đến bấp bênh; từ những chính phủ nói về tăng trưởng nhưng quên mất công lý, nhưng cách họ trỗi dậy thì hoàn toàn khác. Về mặt dân số, Thế hệ Z là nhóm thanh niên đông nhất trong lịch sử nhân loại: Gần 2,6 tỷ người dưới 30 tuổi. Nhưng họ đang bước vào tuổi trưởng thành trong thời kỳ bất ổn nhất kể từ sau Thế chiến thứ Hai. 80 năm (1945 – 2025) qua, nhân loại đã phục hưng to lớn sau những tàn phá của đại thế chiến với sự phát triển vượt bực về kinh tế, khoa học và công nghệ. Nhưng chỉ trong vòng 5 năm qua, ba cú sốc đại dịch – lạm phát – tự động hóa đã làm đảo lộn thế giới, dẫn đến hệ quả tai hại là tỷ lệ thất nghiệp thanh niên toàn cầu vượt 13%, cao gấp gần ba lần so với người trưởng thành, theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (2024). Ở cả các nền kinh tế phát triển, một phần ba lao động Gen Z mắc kẹt trong những công việc tạm bợ, không phúc lợi và không tương lai. Tại những quốc gia đang phát triển, niềm mơ ước về một đời sống mới tốt đẹp sau làn sóng toàn cầu hóa hoàn toàn là ảo tưởng, với một xã hội đầy rẫy bất công. Thanh niên ở Dhaka hay Lagos tuy có thể xem cùng một video Instagram như ở London, Sydney nhưng lương bổng, học vấn và viễn cảnh tương lai của họ cách nhau hàng thế kỷ. Sự kết nối toàn cầu vì thế tạo ra một ý thức bất bình đẳng mới: Không chỉ giữa người giàu và người nghèo, mà giữa việc nhìn thấy cơ hội và không bao giờ chạm tới nó. Cơn giận này không còn mang tính ý thức hệ, mà là tâm lý. Gen Z được dạy tin vào công bằng năng lực; khi giấc mơ ấy tan vỡ, nỗi nhục thay thế cho niềm hy vọng. Sự kết nối toàn cầu vì thế tạo ra một ý thức bất bình đẳng mới: Không chỉ giữa người giàu và người nghèo, mà giữa việc nhìn thấy cơ hội và không bao giờ chạm tới nó. Ở Bangladesh, tham nhũng trong tuyển dụng công chức đã châm ngòi cho các cuộc bạo động lật đổ một chính phủ từng được ca ngợi là “phép màu phát triển.” Tại Nepal, lệnh cấm TikTok – nguồn thu nhập và biểu đạt của hàng triệu người – trở thành biểu tượng của một nhà nước sợ chính tiếng nói của dân mình. Tại Indonesia, người trẻ xuống đường không phải đòi lương cao hơn, mà đòi chấm dứt đặc quyền của nghị sĩ giữa thời kỳ thắt lưng buộc bụng. Nhưng hoàn toàn khác với những cuộc nổi dậy của sinh viên tại Thiên An Môn năm 1989 hay cách mạng màu 2004, cuộc phản kháng của Gen Z đến từ những bất công nhỏ, bùng nổ thành khủng hoảng niềm tin thế hệ. Sự phản kháng của họ giống một đàn ong hơn là một đảng phái: Phi tập trung, linh hoạt, cảm xúc mạnh. Theo dõi “Cuộc Nổi Dậy Mùa Gió Mùa” ở Bangladesh (2024), “Phong Trào Tự Do Kỹ Thuật Số” ở Nepal (2025) hay “Cuộc Tuần Hành Một Nghìn Tỷ Peso” ở Philippines cho thấy họ chia sẻ chung một mô hình: Huy động nhanh, chiến thắng nhỏ, tập hợp bất ngờ. Đây là kết quả của thời kỳ kỹ thuật số. Thật vậy, thế hệ Gen Z là thế hệ đầu tiên coi Internet là phần mở rộng của bản thân, không chỉ là công cụ. Các cuộc biểu tình của họ sinh ra trong không gian số: Được livestream, lan truyền bằng thuật toán, và lây cảm xúc như virus. Nhờ vậy mà cuộc phản kháng tuy mang nguyên nhân địa phương, lại lan truyền toàn cầu. Hashtag ở Dhaka được lặp lại ở Jakarta; meme ở Manila xuất hiện tại Nairobi. Ngôn ngữ cảm xúc của thời đại – âm nhạc, phẫn nộ, chan hòa – trở thành tiếng nói chung vượt biên giới. Những chính phủ từng dựa vào kiểm duyệt giờ không thể chiến thắng trước quy luật lan truyền như mạch nước ngầm lan tỏa mọi ngã ngách trong đời sống xã hội. Đông Nam Á: Nơi phát triển Phong trào Gen Z Không nơi nào tác động của Gen Z mạnh bằng Đông Nam Á: 220 triệu người trẻ từ 10–29 tuổi, chiếm hơn 1/3 dân số khu vực. Đây có thể là “lợi thế dân số vàng” hoặc “quả bom kỳ vọng.” Thanh niên ở Manila, Jakarta, Bangkok hay Hà Nội học nhiều hơn, kết nối hơn bất kỳ thế hệ nào trước, nhưng cũng nợ nần hơn, bấp bênh hơn và hoài nghi hơn. Nhìn vào từng quốc gia tại Đông Nam Á có cùng bức tranh chung: Tại Indonesia, phong trào chống tham nhũng năm 2025 thu hút hơn một triệu người trên 30 thành phố. Tại Philippines, phẫn nộ vì dự án chống ngập thất thoát biến thành cuộc biểu tình lớn nhất từ 1986. Tại Thái Lan, đảng Move Forward dù bị cấm vẫn là biểu tượng văn hóa của khát vọng đổi mới. Tại Việt Nam, cuộc biểu tình chống Luật Đặc Khu tháng 6/2018 bùng phát tại 12 thành phố và “cuộc phản kháng ngầm” chống kiểm soát mạng xã hội của bộ máy an ninh. Các quốc gia Đông Nam Á đang đối mặt với một nghịch lý: Tập trung vào phát triển kinh tế với kỳ vọng đẩy nhanh công nghiệp hóa và thu nhập tăng cao khiến kỳ vọng xã hội vượt xa khả năng đáp ứng. Bởi vì trong thực tế, tăng trưởng không đi cùng công bằng, giáo dục không gắn liền với cơ hội thăng tiến, chuyển đổi số không đi kèm minh bạch – tất cả tạo nên một thế hệ biết rõ quyền của mình nhưng lại không được tôn trọng và thực thi những quyền căn bản này của con người. Riêng Việt Nam đang hội tụ ba yếu tố sẽ làm bùng nổ phong trào Gen Z: Một là bất cân xứng cơ hội: Hàng triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, nhưng tỉ lệ việc làm đúng chuyên ngành chỉ khoảng 40–50%. Hơn 2 triệu thanh niên phải đi làm công nhân tại Nhật, Hàn, Đài… Khu vực nông thôn bị bỏ lại phía sau so với các đô thị lớn. Hai là chi phí sinh hoạt và lương thực tế quá chênh lệch: Lương khởi điểm ở đô thị chỉ khoảng 7–10 triệu đồng/tháng, trong khi chi phí sinh hoạt tăng 40–50% trong 5 năm qua. Thế hệ Gen Z Việt Nam cảm thấy “làm nhiều, sống mệt, không có tương lai rõ ràng.” Ba là khoảng cách niềm tin giữa thế hệ trẻ và chính quyền: Trong khảo sát nội bộ các nền tảng mạng xã hội, hơn 70% người trẻ Việt Nam cho rằng “chính phủ không lắng nghe tiếng nói thanh niên.” Thế hệ Gen Z có xu hướng tin vào thông tin từ YouTube, TikTok hơn là báo chí chính thống. Giải pháp quen thuộc của các chính quyền là siết mạng, theo dõi, đe dọa và bắt giữ. Nhưng đó chỉ là bịt núi lửa bằng băng keo vì càng bị chặn, giới trẻ càng sáng tạo – và càng lan nhanh. Đây là thế hệ học lập trình trước khi đi bầu, hiểu mạng lưới hơn hiểu quốc gia. Nếu nhà cầm quyền không nhanh chóng hiện đại hóa cung cách quản trị mới thì Gen Z sẽ vượt qua chính quyền, giống như Internet luôn tìm đường vòng khi gặp tường lửa, để từ đó chuyển hóa thành phong trào phản kháng trên toàn quốc. Tóm lại, mỗi thời đại đều có những phong trào phản kháng tương ứng với công cụ của nó. Thế kỷ 18 có truyền đơn, thế kỷ 20 có radio, và thế kỷ 21 có meme. Nhưng dưới mọi hình thức, bản chất vẫn vậy: Khát vọng được sống tự do, được tôn trọng, được đối xử công bằng. Lý Thái Hùng 15/10/2025
......

Tô Lâm tính toán điều gì khi chọn đi thăm Bắc Triều Tiên vào lúc này?

Trung Điền Ngày 9 tháng 10 tới đây, Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm sẽ dẫn một phái đoàn chính thức thăm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Hàn) theo lời mời của lãnh tụ Kim Jong-un. Đây là chuyến công du đầu tiên của một lãnh đạo cấp cao CSVN tới Bắc Hàn trong gần 20 năm qua — kể từ chuyến thăm của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào năm 2007. Chuyến thăm không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng nhân dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, mà còn diễn ra đúng vào thời điểm Bắc Hàn tổ chức lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm thành lập đảng Lao Động Triều Tiên – một dấu mốc chính trị quan trọng về sự ra đời nhà nước Bắc Hàn sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Tuy nhiên, điều khiến giới quan sát đặc biệt chú ý là bối cảnh khu vực và thế giới đang có những chuyển động lớn, đặc biệt là trong quan hệ với Nam và Bắc Hàn, và sự hiện diện ngày càng lớn của Nga tại bán đảo Triều Tiên. Câu hỏi đặt ra là vì sao ông Tô Lâm lại chọn thời điểm này để "kích hoạt" quan hệ với Bình Nhưỡng? Và Việt Nam đang tìm kiếm điều gì trong chuyến đi đặc biệt của ông Tô Lâm? Mặc dù hai nước Việt Nam – Bắc Hàn có mối quan hệ lịch sử lâu dài từ thập niên 1950, song thực tế trong gần 20 năm qua, mối quan hệ này chủ yếu mang tính hình thức và không có nhiều tương tác chiến lược thực chất. Đặc biệt, kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều tại Hà Nội năm 2019 không mang lại kết quả cụ thể, Triều Tiên lùi sâu vào chính sách tự cô lập, còn Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế với Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Tuy nhiên, sự thay đổi cán cân địa chính trị gần đây – đặc biệt là sự ấm lên bất ngờ trong quan hệ Nga và Bắc Hàn, đã đưa Bình Nhưỡng trở lại trung tâm của các tính toán chiến lược ở châu Á. Trong bối cảnh đó, Việt Nam muốn làm mới mối quan hệ truyền thống, nhằm giữ kênh liên lạc với một đối tác tuy bị cô lập nhưng không thể coi thường về vị trí địa chính trị trong bối cảnh xung đột Mỹ - Trung ngày gia tăng. Chuyến thăm của ông Tô Lâm diễn ra chỉ hai tháng sau khi ông có chuyến công du Nam Hàn  – quốc gia đang tìm cách nối lại đối thoại với Bắc Hàn. Tại Seoul, ông Tô Lâm là người đầu tiên được tân Tổng thống Lee Jae-myung tiếp đón  ngay sau khi nhậm chức, một dấu hiệu cho thấy Việt Nam cũng đang được Nam Hàn đánh giá là đối tác trung gian. Thêm vào đó, Việt Nam từng là nơi được chọn tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều tại Hà Nội (2019) – dù hội nghị không đạt được kết quả cụ thể nhưng vẫn để lại ấn tượng về vai trò cầu nối của Việt Nam giữa các cường quốc đối nghịch. Với việc ông Donald Trump được cho là sẽ tham dự Hội nghị APEC 2025 tại Nam Hàn, rất có thể ông Tô Lâm và CSVN nghĩ rằng sẽ là cơ hội để làm cầu nối lần thứ hai cho đối thoại Mỹ và Bắc Hàn. Hơn thế nữa, không thể tách chuyến công du này khỏi bối cảnh nội bộ Việt Nam, khi CSVN đang chuẩn bị bước vào giai đoạn nước rút cho đại hội đảng lần thứ 14, dự kiến diễn ra đầu năm 2026. Là người đứng đầu đảng, ông Tô Lâm đang ở vị trí then chốt trong công tác chuẩn bị nhân sự, đường lối chiến lược và điều hành bộ máy. Tuy nhiên, việc ông vẫn dành thời gian cho một chuyến công du dài ngày tới một quốc gia ít có ảnh hưởng kinh tế cho thấy ông đang tìm cách xây dựng hình ảnh lãnh đạo có tầm vóc đối ngoại, có khả năng xử lý những hồ sơ phức tạp và nâng tầm vị thế Việt Nam trên bàn cờ quốc tế. Trong chính trị, hình ảnh đôi khi quan trọng không kém bản chất. Và việc xuất hiện bên cạnh nhà lãnh đạo Kim Jong-un trong dịp lễ lớn – với sự có mặt của nhiều đại diện các nước XHCN – sẽ củng cố vị thế cá nhân của ông Tô Lâm như một chính khách quốc tế kỳ cựu. Ngoài các lợi ích tức thời về chính trị – ngoại giao, chuyến thăm còn giúp CSVN duy trì “đối ngoại cân bằng” trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung – Nga ngày càng gay gắt. Nói cách khác, qua chuyến đi này, Tô Lâm muốn đưa ra thông điệp tiếp tục chiến lược  “đu dây” trong việc  giữ quan hệ với cả Mỹ, Trung, Nga và Bằc Hàn? Tóm lại, đi thăm Bắc Hàn - vốn là quốc gia đang bị thế giới cô lập, và không giúp gì cho Việt Nam về kinh tế lẫn khoa học kỹ thuật, cho thấy Tô Lâm và lãnh đạo CSVN đã có hai tính toán trong chuyến thăm này. Một là giữ cho mình những quân bài ngoại giao có thể sử dụng trong những tình huống khi mà ông Trump và Nam Hàn muốn khởi động lại các cuộc “đàm phán” với Bắc Hàn. Nói cách khác, Tô Lâm muốn dùng ván cờ Bắc Hàn để làm quà với ông Trump. Hai là khai dụng yếu tố cầu hòa và khuynh tả của “Tổng thống Lee Jae-myung” Nam Hàn, Tô Lâm mong muốn mình là cầu nối để tái lập những cuộc đối thoại liên Triều vốn đã bị chấm dứt từ năm 2020 để qua đó nhờ Nam Hàn giúp phát triển công nghệ cho Việt Nam. Vì vậy, chuyến thăm Bắc Hàn của Tô Lâm là một toan tính chính trị. Nếu mọi thứ diễn ra theo đúng kịch bản, rất có thể “Hội nghị thượng đỉnh Hà Nội” sẽ có phần hai – lần này với vai trò dẫn dắt của Tô Lâm.
......

Quảng Trị 1972 và Mưa Đỏ, lịch sử và sự vô minh

Nguyễn Hoàng Văn Không với tới tầm vóc sử thi đã đành, Mưa Đỏ, cuốn phim về 81 ngày đêm cố thủ tại Thành Cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972, còn tầm thường một cách lạc hậu khi không qua được cái tâm thức phi nhân hóa kẻ thù với cảnh đốt tù binh gây tranh cãi. Nếu “tổn thất đầu tiên của chiến tranh là sự thật” thì bây giờ, cả nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, tổn thất đó vẫn lập lại với chút mơi mới qua cây cột thiêu người na ná hình tượng cây thập ác ngun ngút lửa hận thù của bọn phân biệt chủng tộc KKK thời nào, trên đất Mỹ [1]. Mà đâu phải đợi đến thái bình thì mới bình tâm, chứng ngộ? Tận 60 năm trước, năm 1965, giữa cảnh khói lửa và thù hận mịt mù, vẫn nghe được lời ray rứt: Kẻ thù ta đâu có phải là người Giết người đi thì ta ở với ai? Kẻ thù ta tên nó là gian ác Kẻ thù ta tên nó là vô lương Tên nó là hận thù […] Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai Kẻ thù ta tên nó là vu khống Kẻ thù ta tên nó là vô minh (Phạm Duy, “Kẻ thù ta”, bài Tâm ca số 7) Nhưng bây giờ Mưa Đỏ vẫn tiếp tục sự vô minh với trò vu khống, mà cả những người cùng phía cũng bày tỏ sự không đồng ý, thậm chí bất mãn, một cách khinh thường! [2] Mưa Đỏ được ca ngợi là mới nhưng, bất quá, chỉ mơi mới một cách linh tinh kiểu hái lượm, thì có chút cao bồi Hollywood, có chút võ hiệp Hồng Kông, lại có chút mùi mẫn trái tim phân vân và tình ái phân lìa, kiểu tiểu thuyết diễm tình. Rồi có cả sắc màu lãng mạn nhưng khá là… trớt quớt khi, giữa khung cảnh xám màu ngụy trang trong cảnh tiễn người ra trận ở bờ bắc sông Thạch Hãn, lại nõn nà chiếc áo bà ba lụa tím ngắt, không rõ là “yêu màu tím, thích nhạc Trịnh Công Sơn” hay “Rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím, chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim” [3]. Khó mà tin rằng ở cái nơi mà không gian lẫn thời gian bị nén lại đến khít chặt mà con người thì thảnh thơi như những tay hành hiệp tháng rộng ngày dài. Dưới sức đè của số lượng bom đạn có sức nổ tương đương bảy quả bom nguyên tử ở Hiroshima, và dưới sức đè của những mệnh lệnh chính trị từ cấp cao nhất theo nhu cầu ngoại giao, người lính Thành Cổ lại có thể hành động như bọn ăn không ngồi rồi, cả đời lang thang để rửa hờn hay “giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha” [4]. Cao bồi Hollywood có thể vứt súng, hiệp khách Tàu có thể vứt gươm mà lao vào nhau giải quyết ân oán như những đấng “yêng hùng”, nhưng khó mà tin rằng những người lính thiếu ngủ, thiếu dinh dưỡng với tâm lý căng cứng sau những ngày dài bị vây hãm, lại lao vào nhau giải quyết căm thù giai cấp hay khác biệt lý tưởng với cùng bộ tịch. Mưa Đỏ, thậm chí, còn có cả khoảnh khắc 007. Trong thế bí, bao giờ chàng James Bond cũng liếc mắt vào cái đồng hồ trên tay như một vũ khí hộ mệnh thì người lính giải phóng ở đây cũng vậy. Cũng liếc mắt tương tự. Cũng là cái cổ tay. Chỉ khác là, thay vì cái đồng hồ, lại là cái khăn rằn Nam Bộ bọc quanh như lớp vải cứu thương, vụt bung ra như thành vũ khí siết cổ kẻ thù. Riêng cho từng phân cảnh thì những chi tiết như thế có thể cũng đường được về mặt kỹ thuật như một bài tập thực hành cho giới học nghề làm phim, nhưng ráp nối thành một khối, như một tác phẩm hoàn chỉnh, lại rời rạc, gượng gạo, vô duyên và giả giả thế nào. Những điều lặt vặt như thế – từ chiếc áo bà ba tím, đến cái khăn rằn Nam bộ hay bộ quân phục tinh tươm như thể vừa lấy ra từ tiệm giặt ủi rồi những cảnh chiến đấu bên trong Thành Cổ, dẫu đây là một thành trì để cố thủ suốt 81 ngày đêm – đã không… vặt vãnh chút nào khi góp phần làm nên cái giả của bộ phim trên khía cạnh lịch sử. Cơ hồ, quen tay với cái hỏng trên phương diện hiện thực chủ nghĩa với những hái lượm lặt vặt về chi tiết, tác giả của Mưa Đỏ còn… ngủ ngày trên góc độ hiện thực lịch sử. Sáng tạo nghệ thuật hoàn toàn cho phép tác giả hư cấu, nhưng liệu những sao chép vụng về hay cái cảnh giết người bằng cây cột lửa kia có đáng mặt là “nghệ thuật”? Mà những hư cấu lịch sử, nếu có, cũng phải thực hiện với dụng ý lịch sử chính đáng nào đó, như khi Phan Bội Châu viết Trùng Quang tâm sử. Tái hiện cuộc kháng chiến vào đầu thế kỷ 15, nhà ái quốc này lại tố cáo giặc Minh hành vi của thực dân Pháp ở 5 thế kỷ sau đó như chính sách độc quyền rượu, cụ thể là làm tan nát gia đình một nữ nhân vật khi quy chụp họ tội nấu rượu lậu. Nhưng khi nhà sản xuất của Mưa Đỏ tỏ ra “phi lịch sử”, đó chỉ đơn thuần là… cẩu thả, là không học thuộc lịch sử, từ những cảnh chiến đấu bên trong Thành Cổ suốt 81 ngày đêm, hay cảnh ký kết Hòa ước Paris giữa lúc trận địa này còn rung lên với những âm thanh súng pháo v.v… Ý niệm “hư cấu nghệ thuật” ở đây, do đó, chỉ là lời biện minh quấy quá cho sự cẩu thả khó mà tha thứ với nghệ thuật, và với lịch sử. Sau hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu là bằng chứng hậu nghiệm, hậu thế phải có quyền kỳ vọng vào một tác phẩm mang tính sử thi, thể hiện cuộc chiến một cách nghệ thuật và nghiêm túc, đúng với tầm vóc của nó chứ? Nếu Mưa Đỏ, trên phương diện nghệ thuật, chỉ là một phép cộng vụng về của những kỹ xảo điện ảnh hái lượm, thì trên góc độ ký ức cộng đồng vẫn chưa đạt đến tầm vóc của một thiên lịch sử về trận chiến vừa gây chú ý ở Hà Nội và Sài Gòn, vừa làm sốt ruột cho cả Paris và Washington DC. Mà không nhất thiết phải đạt đến sự cân bằng lịch sử cho hai phía, Mưa Đỏ thậm chí còn thất bại với cái nhìn một phía bởi đã không đá động gì đến một trận chiến gay go khác trên bàn tham mưu. Tái hiện một giai đoạn lịch sử thì, ngoài cái nhìn toàn diện, mang tính khái quát hóa, còn phải tái hiện những cái khác của nó, bề mặt và bề sâu hay bề cao. Nếu bề mặt là mức độ thương vong chưa từng thấy, thì với chiều sâu hay chiều cao, lại là những bất đồng gay gắt trên bàn tham mưu mà, trên phương diện nghệ thuật, có thể hình dung qua ước lệ của sân khấu hát bội hay đặc điểm của tuồng chèo. Mưa Đỏ bắt đầu bằng cảnh đưa tiễn ở sân ga, mô thức quen thuộc trong các tác phẩm điện ảnh về Đệ Nhất thế chiến. Tuy nhiên, một bộ phim với tầm vóc sử thi về trận chiến rất khác ở Quảng Trị, với tôi, nên khởi sự bằng hình ảnh một bàn tay, dứt khoát và lạnh lẽo, vỗ “bẹp” trên bản đồ với tuyên bố sắc gọn “Tôi đồng ý đánh ngay” để rồi, sau đó, là những hoang tàn và những chết chóc. Nhưng hình tượng này, xin nói ngay, không phải là của tôi. Vừa là cái khác rất đặc biệt của Quảng Trị 1972, đó còn là hình tượng quen thuộc từ những thước phim về Đệ nhị thế chiến, ở đó một Adolf Hitler hoàn toàn lơ mơ về quân sự nhưng lại lấn át những tướng lĩnh xuất sắc nhất với những kế hoạch tấn công hay phòng thủ duy ý chí, chỉ với bàn tay vồ lên bản đồ, cái “bẹp”. Và với âm thanh đánh “bẹp” ấy, những tướng lĩnh giỏi nhất dưới quyền chỉ có thể răm rắp vâng lệnh mà hậu quả là cái giá thật đắt cho họ và cho binh sĩ của họ. Tuyên bố “đánh ngay” được nhà chính trị “duy tiến công” Lê Duẩn đưa ra sau tiếng “bẹp” tương tự trên bản đồ tham mưu, bác bỏ phương án của những tướng lĩnh giỏi nhất, dạn dày trận mạc nhất. Nhưng thế trận tại chiến trường đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ? Có lúc tiến. Có lúc phải lùi. Và có lúc phải ghìm chặt súng phòng ngự. Nhưng, như cố chứng tỏ sự độc sáng của mình, lãnh tụ chính trị này đã phát minh ra một chiến lược kỳ dị và cực đoan là chỉ có tiến công. Khi thì ông ta hô hào “Tiến công, kiên quyết tấn công, liên tục tiến công” [5]; lúc thì ông ta dõng dạc “Nắm vững tư tưởng tiến công, chủ động tiến công để phòng ngự” [6]. Hăm hở với cái chủ thuyết “duy tiến công”, những tướng lĩnh không dám nói “không” dưới trướng ông ta đã sổ toẹt tất cả, kể cả bài học căn bản của Tôn Tử. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”, nhà binh pháp lừng danh đã dạy thế nhưng họ thì không cần biết. Không cần đối phương. Không cần nắm địa hình. Và cũng không cần biết mình đang ở đâu, hay đạn dược và lương thực còn được bao nhiêu. Chỉ cần biết có mỗi một việc là tiến công và tiến công, tiến công để phòng ngự [7]. Chính cái quan niệm quân sự kỳ dị và chống lại con người này đã dẫn đến mức độ thương vong chưa từng thấy, mà chỉ riêng cuộc cố thủ kéo dài 81 ngày ở Thành Cổ, mỗi ngày là hơn một đại đội bị nướng vào trận địa dưới hỏa lực dữ dội của đối thủ [8]. Đó là kiểu tiến công mà, nói theo tướng Cao Văn Khánh, phó Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên, khi nổi giận, là “tấn công để chết” và áp lực không chỉ trút trên đầu người lính [9]. Trước đó, Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng, Đại diện Quân ủy Trung ương tại Mặt Trận, đã choáng đến bất tỉnh, suốt nửa tiếng đồng hồ, trước mức thương vong kinh khủng của Sư đoàn 308 khi đang ém quân ở Phong Điền để chuẩn bị tấn công Huế, lại nhận lệnh rút, băng sông Mỹ Chánh để lùi về bảo vệ Quảng Trị và, do đó, bị phơi lưng trong tọa độ của hải pháo và B-52 [10]. Ông ta ngất nhưng ngất vì nặng lòng với lính, hay ngất vì chiến lược “duy tiến công” bị khựng? Nên nói đến việc nghĩ cho người lính, phải nói đến cảnh trong phòng tham mưu ở Hà Nội khi tướng Vương Thừa Vũ thình lình bỏ ngang cuộc họp, xô cửa xông ra, “mặt đỏ gay, nói oang oang”, rằng những cuộc họp như thế chỉ “mất thì giờ vô ích”, rằng điều đáng quan tâm là “xương máu chiến sĩ”, là “vận mệnh của Tổ quốc” [11]. Tôi chú ý đến khuôn mặt “đỏ gay” và giọng nói “oang oang” của vị tướng dạn dày trận mạc. Vương Thừa Vũ – người từng theo học tại Trường Võ Bị Hoàng Phố danh tiếng, chỉ huy trưởng Đại Đoàn 308, đơn vị chủ công trong chiến dịch Điện Biên Phủ – đã giận đến đỏ mặt trước phương án tấn công chỉ “để chết” và “oang oang” về “xương máu chiến sĩ”, y như là ước lệ của sân khấu hát bội cho những võ tướng trung thần. Nhưng ước lệ này còn làm tôi nghĩ đến nét mặt của tướng Dũng khi bị ngất trước hung tin từ sư đoàn thiện chiến nói trên: Suốt nửa tiếng đồng hồ không biết trời trăng mây gió ấy, mặt ông ta trắng bạch ra hay là xanh mét đi, những màu sắc không hề hóa trang cho những nhân vật tiết nghĩa, trượng phu? Hát bội, có phát tích từ đâu đi nữa thì cũng chỉ định hình từ vùng đất thời mở cõi trong âm sắc chắc nịch Quảng Nam, Bình Định. Cái thời phải căng mình ra đối phó với muôn vàn thử thách thì không ai rảnh rang để tỉ tê và vai chính trên sân khấu hát bội bao giờ cũng dứt khoát và sang sảng khẳng định mình “Như ta đây là…” để, nếu không ngời ngời chiến thắng trong thế mạnh, cũng phải tiết liệt, trung nghĩa trong thế nhược. Cái khác của chiến dịch ở Quảng Trị trông cũng như một tuồng hát bội dở dang bởi, đến hồi gay cấn nhất với những màn trình diễn xuất thần của vai chính để khi chúng ta chờ đợi tiếng trống chầu rộn ràng giòn giã từ bên dưới, lại thấy ngang phè với sự nỉ non cam chịu của… chèo. Chèo khác với hát bội ở đề tài và ngữ khí. Nếu hát bội chủ yếu nhắm vào câu chuyện bi tráng thì chèo lại tập trung vào thế thái nhân tình, những chuyện với ý nghĩa răn đời trong đó, thường những vai chính phải trải qua những tháng ngày cam chịu để cuối cùng đạt đến cái hậu tươi đẹp của mình. Lưu Bình, trong Lưu Bình – Dương Lễ, đã cam chịu để dốc lòng đèn sách chờ ngày rửa nhục công danh và cả Châu Long, cũng phải cam chịu đời sống cô phòng suốt mấy năm để phục dịch bạn chồng, chờ ngày đoàn tụ với chồng. Rồi Thị Kính, trong Quan Âm – Thị Kính, cũng cam chịu canh oan ức cho đến ngày được giải oan. Mà có khác đi như Mục Nham thì, từ những nhân vật bên trên đến khán giả bên dưới sân khấu, ai cũng “cam chịu” sự bất công, sự tráo trở cho đến giờ phút báo ứng, khi cô nàng Xúy Vân giả dại mất hết tất cả và thậm chí, từ điên giả trở thành điên thật. Trong khi những nhân vật chèo tỉ tê tâm sự hay nỉ non lời than vãn thì những vai hát bội lại sang sảng lời nghĩa khí như bậc trượng phu thế thiên hành đạo. Cái khác trong bề sâu hay bề cao của Mặt trận Quảng Trị 1972, có thể nói, nằm ngay ở sự dở dang của hai nghệ thuật trình diễn truyền thống này. Những tướng lĩnh quan tâm đến yếu tố con người, biết xót cho máu xương binh lính thì không thể “thế thiên hành đạo” với giọng nói oang oang, càng không thể trọn vẹn câu nghĩa khí với khuôn mặt đỏ gay vì giận. Và cái khác của trận chiến đó cũng lại là là sự dở dang của chèo khi sự cam chịu chẳng bao giờ dẫn đến một cái hậu đề huề. Cả tướng Võ Nguyên Giáp, được xem là nhà quân sự tài ba và cao cấp nhất trong vai trò Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, cũng không là ngoại lệ. Tướng Giáp chủ trương rằng, để tránh hỏa lực khủng khiếp từ biển và từ trời, phải tránh đối đầu trực diện, phải áp dụng chiến thuật vu hồi, phải rút về rừng núi Trường Sơn rồi lựa thế đổ xuống đồng bằng với đòn bọc hậu. Ông ta khác với một Văn Tiến Dũng “duy tiến công”, cấp dưới của mình nhưng nắm cái ưu thế như một bản sao của Lê Duẩn: “Do Bộ Tư lệnh chưa thống nhất được cách đánh nên ngày 25/4/1972 Tướng Văn Tiến Dũng cử Hoàng Nghĩa Khánh (lúc đó là Tham mưu phó tác chiến chiến dịch), cùng hai người lái xe và một cận vệ lái xe com-măng-ca, từ Sở chỉ huy tiền phương băng qua quãng đường bị cày nát bét vì bom Mỹ, cấp tốc chạy suốt đêm thẳng ra Hà Nội để xin ý kiến Quân ủy Trung ương. Chiếc xe đầy bụi đất chiến trường đổ xịch trước nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp chưa đầy 5 phút thì được điện của anh Ba (Tổng Bí thư Lê Duẩn) yêu cầu Hoàng Nghĩa Khánh sang báo cáo ngay. ‘Đồng chí Lê Duẩn đặt cả bàn tay xuống bản đồ, trùm lên cả khu vực La Vang, thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh và nói: Tôi đồng ý đánh ngay’. Sáng hôm sau, ngày 27/4/1972 họp Quân ủy trung ương, có các đồng chí Bộ chính trị […] Anh Văn (Võ Nguyên Giáp”) cũng nói, đã nghe và đồng ý với ý kiến anh Ba. […] ‘Thế là chiến dịch tiến công buộc phải đánh chính diện, vượt qua cầu Quảng Trị, đánh thẳng vào La Vang và thành Quảng Trị. Đợt tiến công đánh chiếm và bảo vệ cầu Quảng Trị rất gay go’. Theo ý kiến nhiều tướng lĩnh thì đây có lẽ là quyết định tệ hại nhất về chiến thuật trong suốt cuộc chiến. Ý đồ chiến lược của Bộ trưởng Tổng Tư lệnh đã không được tuân thủ, nên việc tổ chức thực hiện chỉ có tiến công, dẫn đến những thay đổi cục diện trên chiến trường và cả hậu phương. Khi địch dùng máy bay, phi pháo phản kích lại thì ta bị phơi lưng, phải co lại ‘quyết tử’ giữ Quảng Trị. ‘Cái giá phải trả là xương máu bộ đội ta’.” [12]. Nhà quân sự tài ba và cao cấp nhất mà cũng phải dằn lòng cam chịu. Sĩ quan dưới quyền đến báo cáo chưa đầy năm phút mà đã bị giật ngang, không có cả phép lịch sự tối thiểu, đừng nói là sự tôn trọng tối thiểu. Mà để bị giật ngang như thế, ông ta phải bị đặt trong tầm ngắn, nhất cử nhất động đều bị theo dõi sít sao, chặt chẽ, như một con mồi. Có như vậy thì mới hiểu tại sau sự cam chịu mới chuyển hóa thành khoảnh khắc Xúy Vân giả dại khi, giữa cuộc họp quan trọng, ông ta phải xuê xoa bày tỏ sự “đồng ý” với một chiến thuật mà trong thâm tâm, không bao giờ bằng lòng. Chỉ một bàn tay chụp xuống bản đồ, không cần biết cái gì cả, biết mình hay biết người, chỉ biết có ý đồ chính trị của mình, mà bao nhiêu mảng đời bị dập nát thì vấn đề không chỉ là vô minh mà còn là vô nhân. Tái hiện lại một lịch sử như thế, thì ngoài những cảnh đánh nhau xem đã phát ngấy, còn phải tái hiện những xung đột nảy sinh từ sự vô minh và vô nhân này, mà trên góc độ nghệ thuật truyền thống là sự “hợp long” từ cái dở dang của hát bội và cái dở dang của chèo. Mưa Đỏ không đạt đến tầm vóc sử thi khi không tái hiện một lịch sử như thế, bằng ngôn ngữ điện ảnh độc sáng của mình. Chỉ mơi mới trên phương diện kỹ xảo theo kiểu hái lượm, Mưa Đỏ, thực chất, chỉ là một sản phẩm tuyên truyền màu mè với ít nhiều sến súa. Nhưng thành công về thương mại cùng những lời tán dương nồng nhiệt như là “bản hùng ca tái hiện lịch sử” và thậm chí còn có cả ảo tưởng Oscar, Mưa Đỏ càng khiến chúng ta có lý do để thất vọng một cách sâu xa. Thất vọng vì khán giả, rất đông, vẫn không chịu nhìn lại lịch sử như một bài học đau đớn để hướng về tương lai, mà thậm chí còn nuôi dưỡng ảo tưởng. Thất vọng vì, với cái số đông ấy, lịch sử chỉ nên bọc đường như vị thuốc an thần, vừa giải tỏa những áp lực của hiện tại, vừa biện minh cho những hỏng hóc của hiện tại. Với một tầng lớp khán giả đông đảo như thế thì đất nước sẽ đi về đâu? Và nếu Chiến dịch Quảng Trị năm 1972, trên phương diện quân sự, là một sự vô minh và vô nhân thì bây giờ Mưa Đỏ, trên phương diện văn hóa và như một ký ức cộng đồng, chính là biểu hiện của sự vô minh và vô hậu. _________ Chú thích: 1. “The first casualty when war comes is truth”, phát biểu của TNS Mỹ Hiram Johnson vào năm 1918. Theo nhiều tài liệu thì Aeschylus, kịch tác gia cổ đại Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ 5 BC, cũng từng đưa ra phát biểu tương tự. 2. Ông Trịnh Hòa Bình, cựu chiến binh Thành Cổ: “Hình ảnh lính VNCH đốt tù binh là không đúng, họ không làm thế đâu. Qua đoạn này người xem có thể nghĩ lính VNCH rất dã man, hung bạo. Thực tế thì họ cũng là người Việt, sống nhân văn”. https://1thegioi.vn/cuu-binh-thanh-co-quang-tri-khong-tran-danh-nao-dien-ra-ben-trong-thanh-co-nhu-trong-phim-mua-do-237422.html Nhà thơ Bùi Chí Vinh: “Và làm ơn đừng xuyên tạc và vu khống người lính Việt Nam Cộng Hòa thiêu sống lính Việt Cộng như trong phim MƯA ĐỎ. Chính chị thừa biết thằng Bùi Chí Vinh này từng là lính Nhảy Dù lẫn lính Việt Cộng Đặc Công Thủy Rừng Sát đây. Xin nói thẳng, nước VNCH văn minh có công pháp quốc tế có quân kỷ trong luật chiến tranh rất đàng hoàng, không bao giờ ngậm máu phun người như bọn nhà văn và đạo diễn bồi bút”. 3. Ca khúc “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng, phỏng theo ý bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. 4. Trong 81 ngày đã có 328.000 tấn bom đạn trút xuống phạm vi Thành Cổ (16 ha) và 3 km vuông của thị xã Quảng Trị, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử ở Hiroshima. Cao Bảo Vân (2021), Tướng Cao Văn Khánh, NXB Tri thức, trang 642. 5. GS Trần Nhâm (2002): “Lê Duẩn – Trường Chinh, hai nhà lý luận xuất sắc của Cách mạng Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, trang 70. 6. https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/tu-duy-ly-luan-cua-dong-chi-le-duan-ve-vai-tro-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-503696 7. Cuối tháng 6-1972, Võ Nguyên Giáp gọi Nguyễn Hữu An từ Lào về, giao nhiệm vụ vào Quảng Trị để “nắm tình hình” của Sư đoàn 308 vì “địch nhiều thế mà không đánh được trận tiêu diệt nào”. Đến Quảng Trị, Nguyễn Hữu An được Hoàng Đan (chỉ huy Sư đoàn 304) cho biết, chiến thuật ở đây là “ba chưa, một ngay”: “Thứ nhất, chưa nắm được địch; thứ hai, chưa nắm được địa hình; ba là, chưa có quân bổ sung, chưa có gạo, đạn. Còn một ngay nghĩa là ‘phải đánh ngay’.” Nguyễn Hữu An (2002) Chiến trường mới, NXB Quân Đội Nhân Dân, trang 164 và 173. 8. Cao Bảo Vân, sđd, trang 640: “Lệnh trên chỉ cho tấn công, không cho phòng ngự, dù quân số chiến đấu mỗi tiểu đoàn chỉ còn từ 50-60 người. Mỗi ngày Bộ Tư lệnh mặt trận bổ sung một đại đội khoảng 100 tay súng, hầu hết đều là học sinh sinh viên các trường đại học ở Hà Nội, cho các đơn vị bảo vệ thị xã, nhưng vẫn không đủ bù cho quân số bị thương vong”. Nếu đó là thương vong riêng cho việc cố thủ Thành Cổ thì tài liệu tổng kết “Chiến dịch mùa hè 1972” của Bộ Tổng Tham Mưu (Hà Nội) ghi nhận: “Chúng ta đã thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 mà cần phải một thời gian chừng 4 năm nữa mới khôi phục lại… Ta hy sinh 10.767, mất tích 1,550, bị bắt 98, bị thương 27,573, đào lạc ngũ 5.957, hàng 136. Tổng cộng 46.081. Thiệt hại binh lực có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến”. – Cao Bảo Vân, sđd, trang 643 9. Cao Bảo Vân, sđd, trang 645 – Tác giả thuật lời ông Lê Quang Đạo (từng là chính ủy Mặt Trận Trị Thiên nhưng bị cách chức, thay thế bằng tướng Song Hào): “Khi nghe tin trên dự định kỷ luật Nguyễn Hữu An, chỉ huy cánh quân 308, anh Khánh mặt đanh lại, xăm xăm đi tìm ông H (Tư lệnh mặt trận lúc bấy giờ). Anh hỏi lạnh lùng: “Vì sao kỷ luật anh An?” Ông H. trả lời: “Vì không chịu đánh”. Anh Khánh gằn giọng: “Đánh để sống chứ đánh để chết à?” Tác giả chỉ nêu tên ông H nhưng từ các trang khác có thể nhận ra đó là Trần Quý Hai, xuất thân bần cố nông, từng là chỉ huy du kích Ba Tơ và lúc đó giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Trần Quý Hai và Song Hào được cử vào làm Tư lệnh và chính ủy mặt trận, thay Lê Trọng Tấn và chính ủy Lê Quang Đạo vì lừng khừng với quan điểm “tiến công”. Nhưng Trần Quý Hai không chỉ thiếu sức khỏe mà thiếu cả những kiến thức quân sự căn bản. Trong trận Khe Sanh, ra trận giữa lúc bị bệnh tiểu đường và bao tử hành, đi đâu cũng phải có lính cáng bằng võng. Có lần vì sợ B-52 mà bắt lính mò mẫm cáng mình trong đêm tối giữa rừng, không cho mở đèn pin mà không hề hay biết rằng, B-52 là máy bay ném bom chiến lược, thả bom theo tọa độ, không bay lượn tìm diệt với từng con mồi. Cao Bảo Vân, sđd, trang 484-485 10. Cao Bảo Vân, sđd, trang 632-633 11. Cao Bảo Vân, sđd, trang 636-637 “Sự căng thẳng không chỉ diễn ra trên chiến trường mà ngay trong Nhà Rồng- Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội. Thiếu tướng Chu Phác, nguyên Bí thư của tướng Vương Thừa Vũ kể, lúc này ở Bộ có cuộc họp rất quan trọng, tại tòa nhà 28 Cửa Đông, trong thành. Dự họp gồm các tướng lĩnh của Bộ, các Tư lệnh Quân chủng, Binh chủng, Giám đốc Học viện Quân sự, Chính trị và Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1. Cấp phó, người đi thay, Thư ký, Văn phòng… đều không được dự. Bộ đội Lữ đoàn 144 gác hai vòng. Vệ sĩ, công vụ không được đến gần. Cửa phòng họp đóng kín mít. Cuộc họp mới được nửa tiếng đồng hồ, bỗng cửa mở toang. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ cắp cặp đi ra, mặt đỏ gay, nói oang oang: “Tôi xin không họp, họp như vậy chỉ mất thời giờ vô ích! Tôi nói đây không phải là nói đồng chí Võ Nguyên Giáp, cũng không phải nói Quân ủy Trung ương. Điều tôi quan tâm đến là máu xương chiến sĩ!” Thiếu tướng Vương Thừa Vũ bước đi lảo đảo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hai tay đỡ người thuộc cấp và gọi quân y: “Đưa anh Vũ sang phòng bên nghỉ ngơi, đo huyết áp, xong dẫn anh về họp”. Theo chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sáng hôm sau Bộ Tổng tham mưu tiếp tục chủ trì cuộc họp để bàn tổ chức thực hiện cụ thể. Có vị tướng đứng lên nhìn về phía Thiếu tướng Vương Thừa Vũ nói một câu gì đó. Ông lập tức đứng lên nói to: “Đánh như thế chỉ tốn máu xương của chiến sĩ”. Dừng một chút, ông nói gay gắt hơn: “Đây không phải là chuyện tranh luận ai thắng ai thua, mà là chuyện xương máu của chiến sĩ, chuyện vận mệnh của Tổ quốc”. Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng mời Thiếu tướng Vương Thưa Vũ ngồi xuống, nói: “Anh yên tâm, đánh thế nào còn có tôi, có cấp trên nữa”. Cuộc họp căng thẳng quá, nên huyết áp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và một vài người nữa lại lên cao. Quân y lại phải đưa họ sang phòng bên cạnh nghỉ ngơi. Trong cuộc họp sáng hôm sau của BTTM, tướng Vũ và một vài người khảc phải cấp cứu vì lên huyết áp do quá căng thẳng”. 12. Cao Bảo Vân, sđd, trang 627-628
......

Từ ruộng đồng đến phòng giam: HÀNH TRÌNH CỦA MỘT GIA ĐÌNH DÂN OAN.

Hong Thai Hoang   Họ vốn dĩ chỉ là những người nông dân bình thường. Sáng ra đồng, tối về nhà, nuôi con ăn học, giữ chút đất tổ tiên để cấy cày. Nhưng rồi, đất bị thu hồi, ruộng bị san lấp, bồi thường rẻ mạt như một sự sỉ nhục. Từ những người nông dân chân chất, họ buộc phải bước lên con đường khiếu kiện. Gia đình bà Cấn Thị Thêu cùng hai người con – Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư – trở thành gương mặt quen thuộc trong các cuộc đấu tranh đòi đất ở Dương Nội. Ban đầu, họ chỉ đi tìm công bằng cho mảnh đất của chính mình. Nhưng khi thấy cảnh người dân quanh mình cũng bị đẩy ra bên lề, họ hiểu rằng nỗi đau không còn là của riêng một gia đình, mà là vết thương chung của hàng ngàn hộ dân oan. Và từ đó, hành trình biến đổi bắt đầu: từ nạn nhân của mất đất trở thành những tiếng nói phản biện xã hội. _______ Những tiếng kêu oan, những dòng chữ tố cáo, những lời phản biện không được lắng nghe. Thay vì giải quyết công bằng, họ phải đối diện với những cáo buộc nặng nề. 1. Cấn Thị Thêu (mẹ) Năm 2014: Bị kết án 15 tháng tù vì “gây rối trật tự công cộng” khi tham gia khiếu kiện đất đai ở Dương Nội. Năm 2016: Bị kết án 20 tháng tù cũng vì “gây rối trật tự công cộng”. Năm 2021: Bị TAND TP Hà Nội tuyên 8 năm tù giam + 3 năm quản chế theo Điều 117 BLHS (“tuyên truyền chống nhà nước”). → Hiện đang thụ án tại Trại giam số 5 Thanh Hóa. 2. Trịnh Bá Tư (con trai út) Bị bắt ngày 24/6/2020 cùng mẹ và anh trai. Năm 2021: Bị kết án 8 năm tù giam + 3 năm quản chế theo Điều 117 BLHS. → Hiện đang thụ án tại Trại giam số 5 Thanh Hóa. 3. Trịnh Bá Phương (con trai cả) Bị bắt ngày 24/6/2020, cùng thời điểm với mẹ và em trai. Ngày 15/12/2021: TAND TP Hà Nội tuyên 10 năm tù giam + 5 năm quản chế theo Điều 117 BLHS. Ngày 27/9/2025: Tòa án Đà Nẵng tiếp tục tuyên thêm 11 năm tù (án chồng án). → Tổng cộng: 21 năm tù giam + 5 năm quản chế. Hiện là một trong những nhà hoạt động xã hội bị kết án nặng nhất tại Việt Nam. Như vậy, chỉ trong một gia đình nông dân mất đất: Người mẹ Cấn Thị Thêu: 3 lần đi tù, tổng cộng hơn 11 năm. Người con Trịnh Bá Tư: 8 năm tù. Người con Trịnh Bá Phương: 21 năm tù. Trong tù, anh nhiều lần tuyệt thực để phản đối điều kiện giam giữ và yêu cầu quyền lợi chính đáng. Những bản án nặng nề ấy không chỉ trói buộc tự do của một gia đình, mà còn phơi bày cách mà một hệ thống coi việc phản biện là “tội ác”. ______ Câu chuyện của gia đình Trịnh Bá không chỉ là câu chuyện đất đai. Nó là câu chuyện về lòng tự trọng của những con người nhỏ bé. Khi bị tước mất đất – họ đứng lên đòi lại. Khi bị tước mất tiếng nói – họ biến im lặng thành lời phản biện. Khi bị tước mất tự do – họ vẫn tiếp tục cất tiếng từ trong ngục tối. Họ không chọn con đường trở thành “nhà hoạt động chính trị”. Con đường ấy được chính hoàn cảnh xô đẩy, khi công lý bị khước từ. Một gia đình nông dân trở thành một gia đình tù nhân chính trị – đó không phải là lựa chọn của họ. Đó là kết quả của một hệ thống không biết lắng nghe. Và rồi, câu hỏi để lại cho tất cả chúng ta: Có bao nhiêu người nông dân nữa sẽ phải trả giá bằng nước mắt và máu để biến thành “người phản biện xã hội”? Hong Thai Hoang  
......

Vụ án oan kế tiếp

Hoàng Dũng   Án chính trị có rất nhiều vụ oan, tréo ngoe. Ông Nguyễn Văn Đức Độ (người Huế, ở HCM) năm 2016 bị bắt khi đang ngồi uống cafe với nhóm 4 người. Bốn người này thuộc Liên minh Dân tộc VN tự quyết. Ông Độ bị an ninh HCM gán luôn vào vụ án, xử 11 năm tù. Tháng 8/2025, Trần Quang Nam, một thanh niên trẻ quê Hà Nam đi chơi cùng nhóm bạn, bị bắt. Nam có cho nhóm bạn này mượn xe máy để đi lại. Vụ án vẫn đang được an ninh Bộ công an tìm mọi cớ để vẽ cho tròn. Nếu không may, Nam sẽ có một mức án ngồi tù, dù không hề có hoạt động chống chính quyền, chống đảng, tuyên truyền lật đổ gì cả. Tháng 6/2020, Trịnh Bá Phương - một thanh niên con của gia đình nông dân Dương Nội (Hà Đông, Hà Tây cũ) vì đứng lên đòi đất mà bị bắt và xử tù theo tội chống Nhà nước, án 10 năm. Điều đáng chú ý là cha, mẹ và em trai Phương cũng đã, đang thụ án tù liên quan đến đòi đất, nhưng đều là án chống nhà nước. Mẹ Phương - bà Cấn Thị Thêu - đang đi tù lần thứ 3 bởi không thể dừng lại việc đi đòi đất. Tháng 9/2022, Phương bị chuyển vào nhà tù An Điềm, Quảng Nam. Phương ở cùng phòng với ông Nguyễn Bắc Truyển - một nhà hoạt động về quyền tự do tôn giáo. Ông Truyển bị bắt ngày 30/7/2017, bị xử tù 11 năm nhưng đi Đức ngày 8/9/2023 sau hơn 6 năm thi hành án. Phương ở cùng phòng với ông Truyển từ 9/2022 đến 10/2022. Phương từng được ông Truyển dạy đánh đàn và tiếng Anh. Cùng khu chính trị còn có Hoàng Bình (đang thụ án), Nguyễn Văn Hoá (Hà Tĩnh, đã hết án), Trương Hữu Lộc (HCM, hết án). Chỉ đến khi ra toà phiên sơ thẩm, người ta mới biết rằng Trịnh Bá Phương bị truy tố thêm tội tuyên truyền chống nhà nước vì trong 1 lần khám phòng năm 2024, người ta đã thấy biểu ngữ nội dung “Đả đảo cộng sản…”. Điều đặc biệt là biểu ngữ khổ A3 này được dán đằng sau là tờ báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, xuất bản ngày 13/8/2020. Sau phiên toà, khi có thêm được các thông tin, ông Nguyễn Bắc Truyển đang ở Đức mới nhận ra rằng đó chính là (các) biểu ngữ ông đã làm và sử dụng trước đó. Vậy là bất chấp mọi sự phản đối của tù nhân Trịnh Bá Phương, bất chấp mọi tình tiết vô lý trong vụ án, đảng cộng sản vẫn cứ truy tố Trịnh Bá Phương và kết tội thêm 11 năm tù. Nâng tổng số năm mà người nông dân đòi đất này phải chịu là 21 năm. Tin rằng những vụ án oan tương tự sẽ còn tiếp tục xảy ra, không chỉ trong chính trị. Nếu là người đọc tin tức, hẳn nhiều người đồng ý bởi Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng vẫn còn đó, hay Lê Văn Mạnh đã bị thi hành án tuhinh… Bởi người cộng sản họ vô cùng kiêu ngạo. Hú hét tự hào Việt Nam cũng là một dạng của kiêu ngạo cộng sản. Việt Nam có cái gì để tự hào? Ảnh: Gia đình nông dân mất đất Trịnh Bá Phương. Phương ngoài cùng bên trái. Cha là Trịnh Bá Khiêm, mẹ Cấn Thị Thêu. Em trai Trịnh Bá Tư. Em gái là người duy nhất không bị đi tù cộng sản cho đến lúc này.  
......

Tù nhân lương tâm Trịnh Bá Phương bị kết án chồng án thêm 11 năm tù

 TUYÊN BỐ CHUNG CỦA MẠNG LƯỚI NHÂN QUYỀN  VIỆT NAM VÀ NGƯỜI BẢO VỆ NHÂN QUYỀN NGÀY 27 THÁNG 9 NĂM 2025 VỀ VIỆC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM TRỊNH BÁ PHƯƠNG BỊ KẾT ÁN 11 NĂM TÙ   Ngày 27/9/2025, Toà án Nhân dân thành phố Đà Nẵng đã mở phiên toà xét xử nhà hoạt động Trịnh Bá Phương, người đang thi hành bản án 10 năm tù giam, theo cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước” chỉ vì công an tìm thấy trong phòng giam của ông có khẩu hiệu “Đả Đảo Cộng Sản Vi  Phạm Nhân Quyền, Đảo Đảo Toà Án Kết Án Oan Tôi”. Chỉ sau hơn ba giờ xét xử không tuân thủ nguyên tắc xét xử công bằng trong đó luật sư không được trình bày bản bào chữa còn người bị xét xử bị công an bịt miệng không cho nói, toà án đã kết tội ông Phương với mức án 11 năm tù giam, một mức án vô cùng nặng nề cho một người đang thi hành bản án dài hạn cho cùng một cáo buộc quy định bởi Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Với mức án này, ông Phương phải chịu tổng cộng 21 năm tù giam và năm năm quản chế chỉ vì các hoạt động ôn hoà phản đối việc cưỡng chế đất đai của gia đình cũng như các hoạt động bảo vệ nhân quyền và cổ suý dân chủ trong nhiều năm qua. Ông Phương là người thứ tư trong gia đình bị chế độ cầm tù với tổng cộng 40 năm tù giam và năm năm quản chế. Bố mẹ ông, ông Trịnh Bá Khiêm và bà Cấn Thị Thêu đã từng bị kết án tù vì đấu tranh chống lại việc chính quyền địa phương tịch thu đất đai để làm dự án thương mại. Hiện mẹ ông và em trai Trịnh Bá Tư đang thi hành án tù tám năm mỗi người vì cất lên tiếng nói phản đối vi phạm nhân quyền. Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam và Người Bảo vệ Nhân quyền cho rằng việc áp thêm mức án mới này cho ông Phương là một hình thức trả thù tàn khốc của nhà cầm quyền độc đảng ở Việt Nam đối với ông và các thành viên khác trong gia đình.  Cùng với việc bắt giữ nhiều người từng hoạt động trước kia và sách nhiễu, đe doạ nhiều người khác trong thời gian gần đây, chính quyền độc đảng ở Việt Nam đứng đầu là Tô Lâm đang muốn dùng bàn tay sắt để quản trị đất nước, không cho người dân Việt Nam được phản biện và góp ý cũng như thực hành các quyền cơ bản, trong đó có quyền tự do ngôn luận quy định trong Hiến pháp Việt Nam 2013 và các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết. Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam và Người Bảo vệ Nhân quyền kịch liệt phản đối việc kết án ông Phương trong cả hai phiên toà năm 2021 và hôm nay. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam xoá bỏ các cáo buộc chống lại ông, và trả tự do cho ông ngay lập tức. Chúng tôi cũng yêu cầu Việt Nam phóng thích các tù nhân lương tâm, những người bị kết án tù chỉ vì thực thi ôn hoà các quyền tự do biểu đạt và truyền bá thông tin. Việt Nam không thể phát triển bền vững khi công an hoá bộ máy nhà nước và dập tắt mọi tiếng nói trái chiều. Chúng tôi kêu gọi các quốc gia dân chủ trên thế giới sử dụng các đòn bẩy kinh tế, ngoại giao, quốc phòng… để gây sức ép buộc Hà Nội phải tuân thủ các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên.   Thay mặt Người Bảo vệ Nhân quyền                Thay mặt Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam Vũ Quốc Ngữ                                 Nguyễn Bá Tùng Giám đốc                                    Giám đốc Điều hành  
......

Lối đi nào cho Việt Nam

Dương Hào Nam Khi nhìn ra thế giới, ta đang thấy một biển lửa sôi sùng sục. Lửa từ Paris rực trời vì bất công. Lửa từ Hong Kong, Bangkok, Myanmar, Cam, Lào, Nepal và hầu như tất cả các nước trong khu vực, lửa rực cháy nơi những người trẻ bị bóp cổ đến nghẹt thở bởi độc tài, tham nhũng, đàn áp. Lửa từ những cuộc bạo loạn, xuống đường, tiếng gào khóc, tiếng súng và máu. Và giữa biển lửa ấy, có một dải đất hình chữ S vẫn còn đứng vững sau 50 năm. Nhưng liệu đứng yên có nghĩa là bình yên? Hay đó chỉ là một sự im lặng trước cơn giông bão, khi trong lòng đất, ngùn ngụt hàng ngàn mồi lửa đang rình rập bùng cháy bất cứ lúc nào? Tham nhũng: quốc nạn hóa quốc  Hãy bắt đầu từ sự thật trần trụi nhất. Việt Nam không thiếu đường cao tốc, nhưng mỗi km lại được lát bằng hàng tấn bê tông… dối trá. Hàng chục quan chức ký tên, hàng trăm văn bản được đóng dấu đỏ, hàng nghìn tỷ đồng rót xuống, nhưng khi mưa xuống, đường sụp. Khi nắng lên, đường trồi. Và khi tai nạn xảy ra, mạng người biến mất như giọt nước bốc hơi trên nhựa nóng. Câu hỏi đặt ra không phải là “có tham nhũng không”? mà là “ai đang bảo kê cho chúng”? Tham nhũng giờ không còn là cá nhân. Nó là mạng lưới. Nó có hệ thống. Nó mang hình thù của những nhóm lợi ích, của những con “linh cẩu” béo tốt sống ký sinh trên từng đồng tiền thuế của dân. Họ không chỉ ăn. Họ nhai nát tương lai dân tộc này. Bất công: liều thuốc độc đang ngấm từng ngày Một sinh viên giỏi không quen biết, không tiền, không “hậu duệ”, bị đánh rớt bởi một người học kém hơn nhưng “con ông cháu cha”. Một nông dân mất đất, nhận được vài đồng bạc lẻ, trong khi “doanh nghiệp” đằng sau bán lại với giá gấp nghìn lần. Một người dân đợi hàng giờ ở bệnh viện công, trong khi “người quen” chỉ cần một cuộc điện thoại là vào thẳng phòng VIP. Việt Nam không thiếu người tài, nhưng người tài đã mòn mỏi, rơi rụng như lá úa trước gió chướng của sự bất công. Khi sự nỗ lực không còn được tưởng thưởng, mà bị giẫm đạp bởi mối quan hệ, phong bì và quyền lực, thì đó là khi xã hội bắt đầu mục ruỗng từ bên trong. Cải cách nửa vời: thuốc đắng nhưng không đủ liều Chúng ta đã nói quá nhiều về cải cách. Cải cách giáo dục, cải cách hành chính, cải cách thể chế. Nhưng có một điều cay đắng: hầu hết đều dừng ở khẩu hiệu. Một đất nước không thể đi lên nếu lãnh đạo chỉ dám vá víu mà không dám cắt bỏ. Không có bác sĩ nào trị ung thư bằng cao dán Salonpas. Không có quốc gia nào vượt khỏi vũng lầy trì trệ bằng những bản báo cáo dối trá tô hồng. Chúng ta cần cải cách, nhưng phải là cải cách thật sự, đủ đau để chữa lành, đủ mạnh để xé toang những tầng lớp quyền lực đang trục lợi trên nỗi đau của nhân dân và của hàng triệu sinh linh hai miền đã ngã xuống. Lối đi nào, khi lửa đã bén gót giầy? Đừng nghĩ rằng nhân dân Việt Nam nhẫn nhịn là vì không biết. Đừng nghĩ rằng sự im lặng là sự bằng lòng. Trong im lặng ấy là hàng triệu tiếng thở dài, là cái nhìn u uẩn của những người cha, người mẹ khi không biết làm sao để con cái có một tương lai sạch sẽ. Lối đi nào cho Việt Nam? Không còn là lúc để hỏi “có nên thay đổi không”, mà là “thay đổi ngay bây giờ hay là tan rã”? Chúng ta cần một cuộc thanh lọc toàn diện. Không phải chỉ bắt vài con cá bé, không phải chỉ dừng ở các chiến dịch “đốt lò” mang tính trình diễn. Mà là dũng cảm mổ xẻ tận gốc, cắt bỏ ung nhọt, dù đau đớn, dù phải trả giá. Phải trả lại giá trị cho lao động chân chính. Phải dựng lại niềm tin vào công lý. Phải đập tan những đặc quyền đang che chắn cho sự tha hóa ở đỉnh cao. Không có đường tắt, chỉ có con đường đúng. Việt Nam không thiếu người yêu nước. Nhưng đất nước không thể sống mãi bằng lòng yêu nước cảm tính. Nó cần một thể chế biết lắng nghe, một nhà nước liêm chính thật sự, và một xã hội nơi công lý không nằm trong két sắt của kẻ bạo quyền. Đã đến lúc những người lãnh đạo phải hiểu: giữ chiếc ghế không khó bằng giữ được lòng dân. Và khi lòng dân đã cạn, thì mọi chiếc ghế đều trở nên vô nghĩa. Việt Nam phải bước tiếp. Nhưng bước đi không phải bằng đôi chân run rẩy của sự sợ hãi, mà bằng cột sống thẳng đứng của lẽ phải, công bằng và trí tuệ. Nếu không, chúng ta sẽ là ngọn đuốc kế tiếp trong biển lửa của một thế giới đang sụp đổ vì chính sự giả dối và tham tàn của mình. “Nếu không thay đổi hôm nay, ngày mai sẽ không còn gì để hối tiếc”. So với Nepal và các nước tiên phong, Việt Nam thù hận ngút trời, không ôm nhau được, thì chỉ có giết nhau thôi./.
......

Ở đâu có tham nhũng là ở đó có dân chúng xuống đường biểu tình

Trương Nhân Tuấn Người dân khắp các nơi, đặc biệt ở châu Á, rầm rộ xuống đường biểu tình chống nạn tham nhũng nơi tầng lớp lãnh đạo. Ở một số nước, các cuộc biểu tình diễn ra mãnh liệt đến mức nội các chính phủ bị lật đổ, một số lãnh đạo phải chạy trốn ra nước ngoài. Bangladesh, Nepal… là các thí dụ về sự sụp đổ của các chính phủ. Các quốc gia khác như Indonesia, Mã Lai, Philippines… nhiều cuộc biểu tình chống tham nhũng cũng đã diễn ra. Thủ tướng Mã Lai, ông Nagib Razak bị tù nhiều năm. Đặc biệt Hàn Quốc, mới đây Đệ nhứt phu nhân Kim Keon Hee bị truy tố về tội tham nhũng, phải vịn vào suy yếu sức khỏe để đeo vòng điện tử, tránh bị ngồi tù… Ta thấy mọi nơi, ở đâu có tham nhũng là nơi đó có hàng hàng lớp lớp dân chúng xuống đường biểu tình. Ngoại lệ Việt Nam – nơi tham nhũng “từ trên xuống dưới”, đến đỗi bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan có lần nói là cán bộ nhà nước “ăn của dân không từ một thứ gì”. Còn ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang than thở là, cả đảng là một “nồi sâu, không sâu lớn thì sâu nhỏ”. Thật vậy, có nơi nào cán bộ nhà nước “xiết” bốn tấm ván hòm của một người dân đang nằm trên giường bịnh chờ chết, vì người này “còn nợ tiền nhà nước”? Có nơi nào trên trái đất này, cả một bộ máy nhà nước, từ chủ tịch nước cho tới bộ quốc phòng, bộ ngoại giao, bộ y tế, bộ khoa học… tất cả các bộ đều trở thành những con kền kền “ăn xác chết” người dân hay không? Vụ Covid-19, cán bộ đảng viên CSVN tất cả đều bị rớt mặt nạ. Họ là những con người không có trái tim. Họ đã lợi dụng dịch bịnh để ăn bòn từng giọt máu của nhân dân khốn khổ… Ở bất cứ nơi nào trên trái đất này, nếu có một sự việc xảy ra như vậy, người dân sẽ xuống đường để lôi đầu đám hút máu đồng bào ra trị tội. Tại sao người dân Việt Nam có thể dửng dưng, nếu không nói là hèn mạt và nhu nhược đến như vậy? Đừng tìm nguyên nhân đâu xa. Vụ cả lớp “kéo rèm” để học sinh lôi đầu đánh cô giáo lùm xùm hôm kia cho ta thấy tất cả. Tại sao cả lớp dửng dưng trong lúc học trò lôi đầu đánh cô giáo? Tại vì những họ trò khác đều tự nhủ rằng đó không phải là chuyện của mình. Cán bộ “ăn của dân không từ một thứ gì” thì tại sao tôi phải lo cho cô giáo? Chủ nghĩa “mạnh ai nấy lo” đã trở thành lối sống của mọi cá nhân, mọi gia đình Việt Nam. Tôi dám khẳng định rằng, người dân Việt Nam không hề có khái niệm về “công lý”. Công lý chỉ là một diễn viên “hề”. Cũng không có cán bộ nào, đặc biệt cán bộ ngành công an, có tinh thần “trọng luật”. Các vụ lừa đảo bất động sản, người dân từng cá nhân vác biểu ngữ ra đường phản đối. Thì từng cá nhân đó đã bị công an “hốt” về đồn vì tội “gây rối trật tự công cộng”. Công an thay vì bảo vệ dân, thay vì nhận đơn tố cáo của nạn nhân để lôi đầu thằng bịp, thì công an lại hùa với thằng bịp bợm bắt nạn nhân bỏ tù. Những chuyện bất công như vậy không thể nào xảy ra ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới này. Nhưng nó lại xảy ra hàng ngày ở Việt nam. Tại sao? Là tại vì các giá trị nền tảng về đạo đức cấu thành một dân tộc đã không còn. Khái niệm về yêu nước bị đánh tráo thành thù hận. Yêu nước khó. Rất ít ai biết yêu nước là gì, phải làm gì để chứng minh lòng yêu nước. Nhưng thù hận thì rất dễ bộc lộ. Chỉ cần tuyên truyền “thù giặc Mỹ cướp nước” và “thù bọn Ngụy tay sai”. Mọi tầng lớp trong xã hội có thể “thi đua yêu nước”. Lớp trí thức trở thành những nhà “tuyên giáo”, thành “những chiến sĩ trên mặt trận tuyên truyền”. Họ viết những bài văn, bài thơ, những bản nhạc “đỏ”… họ tưởng tượng ra tội ác của Mỹ Ngụy để người dân hùa theo “thi đua yêu nước”. Hát nhạc đỏ là yêu nước. Giết giặc Mỹ là yêu nước. Đắp mô, đào đường, ám sát, giết người… là yêu nước. Yêu nước là bạo lực, là hận thù. Hai vụ ăn mừng 50 năm 30-4 và 80 năm ngày “sinh nhựt” tổ quốc đã cho ta thấy thế nào là lòng yêu nước. Cán binh Việt Nam được dạy dỗ lòng “yêu nước xã hội chủ nghĩa” và buộc phải tuyên thệ “bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Người dân Hà nội vô tư yêu nước bằng cách phất cờ, bằng cách chen lấn, đánh lộn, chửi rủa, xả rác, phóng uế trên vỉa hè… Người lính không có trách nhiệm với nhân dân, với đất nước. Công an không có trách nhiệm bảo vệ công lý. Người dân thì không ai quan tâm tới ai. Không ai có ý thức cái “của chung” có nghĩa là cái “của mình”. Của chung trở thành cái mà ai cũng có thể phá hoại. Của chung lớn hơn hết là “đất nước” và “dân tộc”. Hai giá trị cao nhứt, cốt lõi nhứt cấu thành quốc gia bị bỏ không. Vì vậy nhân dân Việt Nam không ai xuống đường biểu tình chống tham nhũng. Vì ai cũng quan niệm rằng chuyện đó không phải chuyện của tôi. “Đảng dẫn dắt thiếu nhi thành trộm cướp”. Đúng quá phải không ? Như một lời tiên tri. Cô giáo bị học trò lôi đầu là sự phá sản của đạo đức học đường và luân lý xã hội. Họ trò cầm dao vô lớp học là mầm mống tặc tử. Không xử học trò cầm vũ khí vô lớp bây giờ thì học trò sẽ trở thành trộm cướp ngày sau./.  
......

Phản hồi về phim "Mưa Đỏ"

Tan Daniel Tôi xin lên tiếng về bộ phim Mưa Đỏ ,vì sự thật lịch sử cần được tôn trọng, không bị bóp méo Hơn nửa thế kỷ sau Hiệp định Paris, phim ảnh cần nối liền dân tộc, không khoét sâu vết thương Phim ảnh có thể hư cấu. Nhưng hư cấu để bịa đặt cảnh “thiêu sống” bộ đội tại Thành Cổ Quảng Trị — trong khi lịch sử không hề có — thì đó không còn là nghệ thuật, mà là một sự xúc phạm, gieo thêm hận thù dân tộc. Chính cựu chiến binh Thành Cổ Quảng Trị, ông Vinh Nguyễn, đã viết rõ: “Chuyện thiêu sống chỉ có trong tiểu thuyết Mưa Đỏ, phim chiếu Mưa Đỏ thôi. Ở Quảng Trị không có.” - Trong thực tế, khi hầm trú ẩn bị thất thủ sáng 16/9/1972, lính Thủy quân Lục chiến VNCH đã bắt sống một số chiến sĩ còn lại, thậm chí còn băng bó, cứu thương cho tù binh. Nếu có “thiêu sống”, sẽ không bao giờ có những nhân chứng sống như anh Phong, anh Dong… để kể lại. - Tiếng nói của một nhân chứng tại trận địa như ông Vinh Nguyễn là bằng chứng lịch sử. Không ai có quyền xuyên tạc, không ai có quyền biến máu xương thành trò câu khách trên màn ảnh. Cựu biệt động vũ trang, cựu tù Côn Đảo như anh SonLong đã đặt câu hỏi : "Hư cấu kiểu đó là tội gì ?” - Một khán giả bình thường như anh Nam Cường Nguyễn cũng khẳng định: “Thiếu hòa giải, thiếu nhân ái, thiếu cao thượng… họ sẽ phải hối hận.” -Tôi, một cựu tù Côn Đảo, nhớ lại đêm 1973, khi bản Hiệp định Paris vừa ký, cả trại nữ cấm cố chúng tôi tại Trại 4 Côn Đảo đã đồng loạt hô vang: “Hoan hô Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam !” -Ngày ấy, chúng tôi tin chắc dân tộc mình sẽ biết hòa hợp, tha thứ, yêu thương nhau. -Thế mà hôm nay, 52 năm sau, phim ảnh lại dựng lên một chi tiết bịa đặt để khoét sâu thêm vết thương đã qua. -Nghệ thuật phải gieo nhân ái, không gieo oán thù. - Phim ảnh phải nối liền dân tộc, không được phép chia rẽ. -Xin trân trọng góp ý và nhắc nhở như trên với nhà làm phim Mưa Đỏ. Một nhân chứng của Hòa Hợp Dân Tộc Thiều Thị Tân–Cựu biệt động Sài Gòn, Cựu tù Côn Đảo./. Thiều Thị Tân
......

Đúng 67 năm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm ngày 14-9-1958

Nhân Tuấn Trương Tập quán quốc tế cho rằng sự im lặng của quốc gia trước một vấn đề có liên quan buộc quốc gia phải lên tiếng, thì sự im lặng của quốc gia được xem là sự đồng thuận. Hôm nay là đúng 67 năm ngày Công hàm này được công bố trước quốc tế. Công hàm này được lưu chiểu tại văn phòng TTK LHQ, cùng với các tuyên bố của TQ về lãnh hải năm 1958, cũng như các bộ luật 1992, 1996, 1998, 2000, 2002… của TQ liên quan đến hải phận EEZ, vùng lãnh hải, hệ thống đường cơ sở… trên các vùng lãnh thổ của TQ. Về tên gọi, “Công hàm 1958” là ngôn từ phổ cập tiếng Việt để chỉ một văn bản ngoại giao chứa đựng một thông điệp của một quốc gia gởi đến một quốc gia khác. “Văn kiện” ngày 14-9-1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tên với danh nghĩa “Thủ tướng chính phủ nước VNDCCH”, gởi trực tiếp đến “đồng chí Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa”. “Văn kiện” 14-9-1958 như vậy chứa đựng một thông điệp của nước VNDCCH đến nước CHNDTH. Người ta gọi đó là “công hàm” là điều hợp lý. Về hiệu lực Công hàm 1958. Hôm qua tôi có đặt giả thuyết rằng “nếu công hàm này không hiện hữu”. Tức là ông Phạm Văn Đồng chưa bao giờ viết và gởi đến Chu Ân Lai bất kỳ thông điệp nào để đáp từ Tuyên bố ngày 4-9-1958 của TQ về Lãnh hải. Thì kết quả vẫn là VN bị ràng buộc về pháp lý ở những điều mà TQ đã ghi trong Tuyên bố 4-9-1958. Tập quán quốc tế cho rằng sự im lặng của quốc gia trước một vấn đề có liên quan buộc quốc gia phải lên tiếng, thì sự im lặng của quốc gia được xem là sự đồng thuận. VN đã “im lặng” về tuyên bố lãnh hải 12 hải lý trên các đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của TQ. Điều này hàm ý rằng VN đã mặc nhiên đồng thuận, không chỉ về lãnh hải 12 hải lý trên các đảo của TQ, mà còn mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Trở lại nội hàm của “yêu nước”. Yêu nước, vào thời chiến người ta mỗi người có cách riêng để đóng góp vào công cuộc giữ nước. Có người cầm súng, có người cầm cày, có người cầm dụng cụ trong nhà máy… Mỗi người tận tụy làm đúng công việc của mình, đó là yêu nước. Nhưng trong thời bình thì “yêu nước” sẽ thể hiện ra sao ?  Làm thế nào người VN có thể “giữ nước”, bảo vệ đất nước trong trường hợp Hoàng Sa và Trường Sa? Dĩ nhiên đây là công chuyện của học giả, của những nhà chuyên môn về lịch sử, về pháp lý. Câu hỏi là, đã 50 năm sau ngày thống nhứt đất nước. Học giả, chuyên gia, luật gia… của Việt Nam đã có những đóng góp nào trong công cuộc bảo vệ đất nước (tại Trường Sa) và giành lại lãnh thổ (Hoàng Sa)? Câu hỏi hơi bị khó vì học giả, chuyên gia VN nào giờ làm việc dưới “cây gậy chỉ đường” của đảng. Đến nay hầu như chưa có một tác phẩm nào của học giả VN xã hội chủ nghĩa có thể thuyết phục được dư luận thế giới. Những lập luận có thể thuyết phục được thì lại xuất phát từ “chính quyền Ngụy VNCH”. Những ngày qua ta đã thấy dân VN thể hiện tình yêu nước như thế nào, trong hai ngày lễ lớn 30-4 và 2-9. Nói cả nước lên đồng cũng đúng lắm. Đảng CSVN ăn mừng ngày thống nhứt và ngày quốc khánh bằng sự chà đạp lên lịch sử, đặc biệt nhục mạ di sản của VNCH đến mức tận cùng, mặc dầu thực thể chính trị này đã chết 50 năm và nó không còn cách nào để sống lại. Hôm nay tôi đăng lại những dòng chữ và các hình ảnh, bản đồ, văn kiện… từ một bản dịch tiếng Việt của một bài nghiên cứu từ Bejing Review (link dẫn lại bên dưới comment). Bài nghiên cứu này đã đưa ra những bằng chứng pháp lý và lịch sử để chứng minh rằng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền của Trung quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TQ gọi lần lượt là Tây sa và Nam sa). Đây là gì nếu không phải là một cách “xâm lược mềm” của TQ, làm tổn hại đến chủ quyền lãnh thổ của VN ? Câu hỏi đặt ra là, học giả, chuyên gia VNXHCN có thể phản biện lại những điều trong bài nghiên cứu này, như là một cách “bảo vệ lãnh thổ” trong thời bình hay không? ******* Trong một thời gian rất dài phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức công nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ từ thời xa xưa của Trung Quốc, thông qua các bản tuyên bố và công hàm của họ, hay trên báo, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của họ. Vào ngày 15 tháng Sáu, 1956 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Lý Chí Mẫn, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Nhân dịp này Ung Văn Khiêm nói với Lý Chí Mẫn rằng “theo tư liệu Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa về mặt lịch sử thuộc về lãnh thổ Trung Quốc”. Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam, có mặt trong buổi đón tiếp, đã trích dẫn chính xác tư liệu Việt Nam và chỉ ra rõ rằng “xét theo lịch sử, hai quần đảo này đã thuộc về Trung Quốc vào thời triều đại nhà Tống.” Trong bản Tuyên bố vào ngày 4 tháng Chín năm 1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chiều rộng hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và tuyên bố rất rõ ràng “điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, bao gồm… Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc.” Vào ngày 6 tháng Chín năm 1958, báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, đăng trang trọng trên trang nhất nội dung chi tiết bản tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc. Tờ báo viết: “Vào ngày 4 tháng Chín, 1958 Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận của Trung Quốc. Bản tuyên bố quy định chiều rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý (hơn 22 km). Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục Trung Quốc và các đảo duyên hải của Trung Quốc, cũng như Đài Loan và những đảo xung quanh, Quần đảo Bành Hồ, Quần đảo Đông Sa, Quần đảo Tây Sa, Quần đảo Trung Sa, Quần đảo Nam Sa và tất cả những đảo khác thuộc về Trung Quốc ở ngoài biển khơi cách xa đại lục và các đảo duyên hải của Trung Quốc.” Vào ngày 14 tháng Chín cùng năm, trong công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng long trọng tuyên bố “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.” và “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy”. Bức công hàm của Phạm Văn Đồng chứng minh rõ ràng Chính phủ Việt Nam đã công nhận Quần đảo Tây Sa và Quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Trong bản tuyên bố vào ngày 9 tháng Năm năm 1965 về việc Chính phủ Mỹ chỉ định “khu vực chiến đấu” cho lực lượng Mỹ tại Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sự chỉ định ấy là “mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc gia láng giềng” vì “Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson coi toàn thể nước Việt Nam và vùng biển kế cận mà trải dài độ 100 dặm từ bờ biển Việt Nam và một phần hải phận của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa tại Quần đảo Tây Sa là “khu vực chiến đấu” của lực lượng vũ trang Mỹ”. Ở đây một lần nữa Chính phủ Việt Nam rõ ràng công nhận Quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Khi tường thuật những vụ xâm nhập của nước ngoài vào Quần đảo Tây Sa, báo chí Việt Nam cũng công nhận những đảo này thuộc về Trung Quốc. Chẳng hạn, vào ngày 13 tháng Năm, 1969 báo Nhân Dân tường thuật rằng “vào ngày 10 tháng Năm máy bay quân đội Mỹ đã xâm phạm không phận của Trung Quốc trên Đảo Vĩnh Hưng (1) và Đảo Đông Đạo (2) thuộc Quần đảo Tây Sa của Tỉnh Quảng Đông”. Báo chí Việt Nam đã đăng nhiều bài tường thuật tương tự. Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới do Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung. Một trường hợp khác, bài học tựa đề “Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” trong sách giáo khoa địa lý dành cho học sinh lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản vào năm 1974 viết một đoạn như sau: “Chuỗi quần đảo từ Quần đảo Nam sa và Tây Sa đến Đảo Hải Nam, Đảo Đài Loan, Quần đảo Bành Hồ và Quần đảo Chu San… hình dạng như cây cung và tạo thành một Vạn Lý Trường Thành bảo vệ đại lục Trung Quốc.” Việt Nam nhấn mạnh một cách nghiêm túc rõ ràng rằng để xác lập chủ quyền lãnh thổ cần thiết phải đưa ra “những tài liệu nhà nước chính thức” và “những văn kiện có giá trị pháp lý”. Những điều chúng tôi đã trích dẫn ở trên chính xác là “những tài liệu nhà nước chính thức” và “những văn kiện có giá trị pháp lý” của Việt Nam. Điều này chứng minh rõ ràng từ trước cho đến năm 1974 Chính phủ Việt Nam đã công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Giờ đây, chính quyền Việt Nam đã nuốt lời và tráo trở từ bỏ lập trường công nhận hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc ban đầu của họ và theo luật quốc tế đây là điều tuyệt đối không thể nào cho phép. ______________ Nguồn: Bài viết trên Facebook Nhân Tuấn Trương https://www.facebook.com/share/p/1APH4jQ4Sm/?mibextid=wwXIfr
......

Hạ nhục anh em

Ngọc Vinh Chỉ có một Tổ Quốc, nhưng lính Bắc Việt giành Tổ Quốc đó về mình khi giương cờ sao vàng xâm chiếm thành cổ Quảng Trị thuộc bên này vĩ tuyến 17, được hiệp định Geneva 1954 chia cho Việt Nam Cộng Hòa. Khi nổ súng lấy lại thành cổ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng giương cờ ba sọc đỏ bảo Tổ Quốc đó thuộc về mình. Hai anh em chung một Tổ Quốc nhưng chia phe đánh nhau và tự lập nên hai Tổ Quốc khác nhau. Sai lầm lớn nhất của Bảo Ninh và Chu Lai là hạ nhục một nửa Tổ Quốc và một nửa dân Việt bên nay vĩ tuyến 17, khi khoác áo cầm thú cho người anh em đồng bào của mình. Những người lính và người dân Miền Nam không bao giờ mổ bụng đồng bào mình để ăn sống nội tạng (Nỗi buồn chiến tranh) hay thiêu sống quân địch chung dòng máu Việt với mình (Mưa đỏ). Nhà văn có quyền hư cấu nhưng đừng phóng đại hiện thực. Sáng tạo kiểu phi văn chương như thế, thì làm sao Phan Nhật Nam có thể nhìn mặt và bắt tay Bảo Ninh với Chu Lai trong tinh thần hòa hợp như những bạn văn ? Và làm sao cựu đại úy Cộng Hòa Phan Nhật Nam có thể tha thứ cho hai cựu chiến binh Việt cộng Bảo Ninh và Chu Lai, dù họ cùng là người dùng ngòi bút để viết về lịch sử của dân tộc mình. (Sài Gòn 10-09-2025) NGỌC VINH  
......

Đôi điều về Thư ngỏ của ông Lê Thân gửi ông Tô Lâm…

Hồ Phú Bông Đọc Thư ngỏ của ông Lê Thân (*), xin có đôi điều về cựu Bộ trưởng Công an Tô Lâm. – Qua nước Anh ông Tô Lâm đi viếng mả Karl Marx, sau đó là hình ảnh bữa tiệc được “thánh” rắc muối Salt Bae đút miếng thịt bò dát vàng làm dư luận dậy sóng. Một bộ trưởng công an đâu dễ gì sơ hở chuyện nhỏ như thế? Đó có thể là thủ đoạn tinh vi, ông dùng tiếng vang lớn của dư luận để Tập Cận Bình lưu ý, biết việc ông viếng mả Marx. Là cách khẳng định vẫn trung thành với chủ nghĩa cộng sản, với cộng sản Tàu. Việc làm vô cùng tinh tế đó đồng thời cũng cho Tập biết khả năng của ông để được Tập tin tưởng! – Vì thế, ngay sau khi nhận chức Tổng Bí thư, ông được Tập Cận Bình trải thảm đỏ đón tiếp. Hình ảnh những con dấu ấn trên số văn kiện ký kết là bằng chứng lòng trung thành với Bắc Kinh dù quan điểm của ông trái ngược với ông Nguyễn Phú Trọng, cố Tổng Bí thư, người được Tập trao Huân chương Hữu nghị cao quý nhất dành cho người nước ngoài. Được Tập tin tưởng, Tô Lâm mới dám tuyên truyền có vẻ thuận theo văn minh phương Tây. Ông phát biểu tại diễn đàn Liên Hiệp quốc có nội dung, “coi con người là chủ thể trung tâm của mọi chính sách và hành động”, “nâng cao phẩm giá và quyền lợi của con người”… Phát ngôn như thế hoàn toàn trái ngược với thực tế ông đã làm khi là bộ trưởng công an. – Trực tiếp chỉ huy bắt cóc Trịnh Xuân Thanh bất chấp quốc thể và luật pháp quốc tế, thể hiện tính “cách mạng trên nòng súng”, không khoan nhượng. – Về chính trị, thành tích nổi bật là bắt cóc nhiều người bất đồng chính kiến đã trốn ra nước ngoài đem về xét xử. Đàn áp người trong nước dù họ chỉ bày tỏ quan điểm hoàn toàn ôn hòa. Đánh đến tàn phế nhà báo Phạm Đoan Trang, giết đảng viên già Lê Đình Kình vì đảng viên này quyết chống việc cướp đất… chỉ là hai ví dụ. Bắt giam tù người vô tội, bất chấp Hiến pháp ghi về quyền tự do của công dân. Ngành tư pháp phải hợp thức hóa cáo trạng của công an với nhiều bản án phi pháp và bất nhân. Luật sư bào chữa chỉ là hình thức. – Về hình sự, cả trăm nghi can bị đánh chết ngay từ lúc mới bị bắt vô đồn, xảy ra khắp nước, mà hầu hết công an sở tại đều vô sự. Dĩ nhiên còn rất nhiều sự kiện không thể ghi ra hết được nhưng cũng tạm đủ để nhận diện bản chất bộ trưởng công an Tô Lâm. *** Trở lại bức thư ngỏ của ông Lê Thân, ông đặt vấn đề với Tổng Bí thư Tô Lâm, “Đạo đức suy thoái, bất công xã hội tràn lan, lòng tin nhân dân bị lung lay” nên đòi hỏi phải “đổi mới thật sự, sâu sắc và toàn diện”. Ông Lê Thân nhấn mạnh: “Cách mạng tháng Tám đã trao cho đất nước chủ quyền. Nhiệm kỳ tới có thể trao cho dân tộc cả tự do, dân chủ lẫn thịnh vượng hay không? Đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên của tự do, dân chủ, và thịnh vượng”. Phần chắc Tô Lâm thừa hiểu tất cả điều ông Lê Thân nói nhưng để dân được tự do, dân chủ thì chế độ XHCN sẽ sụp đổ, vì qua internet người dân biết rõ họ bị cướp quyền làm người. Quyền làm người không phải là xin – cho, được chút nào hay chút đó, do chế độ ban phát! Huỵch toẹt như cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Với Tô Lâm “điểm nghẽn của điểm nghẽn là thể chế” nên ông tìm cách giải tỏa phần nào điểm nghẽn đó bằng cách thổi làn gió “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Ông tô vẽ tương lai tươi sáng để người dân xả bớt căm phẫn, chóng quên bản chất khốn nạn của chế độ. Đưa kinh tế tư nhân lên hàng ưu tiên. Kinh tế tư nhân phát triển là thỏa mãn được mong muốn của người dân. Tóm lại, mục đích của Tô Lâm là dùng kinh tế để cứu vớt hình ảnh tệ hại của đảng như bài học Đặng Tiểu Bình. “Bất kể mèo trắng hay mèo đen, miễn bắt được chuột”! Còn về chính trị thì vẫn “trước sau như một” đảng lãnh đạo toàn diện! Xem xét những gì bộ trưởng công an Tô Lâm đã làm và những gì đang nói thì câu trả lời đã có sẵn rồi! *** Thêm đôi chút trong Thư ngỏ. Đầu Thư ngỏ viết “Cựu tù chính trị Côn Đảo”, đã hẳn là niềm tự hào? Thử so sánh Tù chính trị Côn Đảo với Tù chính trị Cải Tạo khác nhau thế nào. – Tù Côn Đảo được xét xử đúng người, đúng tội theo luật của chính quyền VNCH, vì họ tranh đấu bạo lực, gây hỗn loạn xã hội, đặt chất nổ, ném lựu đạn, ám sát, giết người. Tù Cải Tạo không được xét xử theo bất cứ luật nào, họ hoàn toàn không có hành vi bạo lực. Họ đi tù vì tin vào nội dung cái gọi là “Thông cáo” tập trung học tập cải tạo của CSVN. – Tù Côn Đảo có thời hạn, mãn hạn thì về. Tù Cải Tạo vô thời hạn, khi nào học tập “tốt” thì về. Nhưng thế nào là “tốt” thì không hề có bất cứ văn bản nào giải thích. – Tù Côn Đảo tự hào “chống ngụy quân, ngụy quyền bán nước cầu vinh” nhưng thủ tướng của Tù Côn Đảo, ông Phạm Văn Đồng, ký công hàm công nhận Hoàng Sa là của Tàu cộng. Tù Cải Tạo thì trái lại, chống cộng sản để bảo vệ miền Nam. Chiến sĩ VNCH hy sinh tại Hoàng Sa để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ là minh chứng hùng hồn. – Tù Côn Đảo vì gây hỗn loạn xã hội trong thời chiến ác liệt. Tù Cải Tạo không hề gây bất ổn thời hậu chiến. Sự thật như thế thì chế độ nào ngụy danh? Tù Côn Đảo phục vụ cho chế độ đó có đáng tự hào? *** Ngày 2 tháng 9 vừa rồi tại Hà Nội, hàng ngàn người giẫm nát hoa cỏ trang hoàng cho lễ hội, giành giật, chửi bới, đánh nhau chiếm từng ô vuông trên vỉa hè. Ăn ngủ tại chỗ bất kể đêm, ngày, mưa, nắng. Rác xả đầy đường chỉ để… chờ được xem diễn binh! Thế thái nhân tình người thủ đô mà như thế là tấm kiếng phản ánh rất trung thực diện mạo và “tài lãnh đạo” ưu việt của đảng. Rồi so sánh với hình ảnh con người thanh lịch của Hòn ngọc Viễn Đông 50 năm trước, câu hỏi phải nảy ra trong đầu: Tại sao tương phản đến kỳ lạ như thế? Câu trả lời thật đơn giản. Chế độ nào dùng bạo lực để cai trị, con người xã hội đó lạc hậu. Chế độ nào tôn trọng quyền tự do, con người xã hội đó văn minh./. (*)  https://baotiengdan.com/2025/09/02/thu-ngo-goi-ong-to-lam-tong-bi-thu-dang-csvn-nhan-dip-80-nam-quoc-khanh-2-9-2025/
......

Chuyện cướp

Hồ Phú Bông Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Việt Minh cướp được chính quyền. Chữ “cướp chính quyền” chính đảng cộng sản viết vào lịch sử đảng. Gọi “chính quyền”, là chính phủ Trần Trọng Kim hợp pháp. Cướp một chính quyền hợp pháp là phi pháp. Đó là khởi đầu của chế độ hiện tại. Vì thế chuyện cướp vẫn tiếp diễn. – 100 năm thực dân Pháp cai trị tàn độc nên toàn dân quyết chống Pháp, kể cả vua triều Nguyễn. Rất nhiều đảng phái ra đời, nhiều nhân sĩ, trí thức dấn thân. Nhiều người bị tử hình, bị tù chung thân hay lưu đày khổ sai, biệt xứ. Cuối cùng là chiến thắng Điện Biên phủ. Nhưng Việt Minh tự nhận là công sức của riêng mình. Không những thế họ còn ám sát, thủ tiêu nhiều lãnh đạo đảng phái hoặc người khác chính kiến để độc quyền cai trị. Đó là sự cướp công trắng trợn. Thật bất hạnh thay cho người cướp được chính quyền 80 năm trước, vì sau khi chết ông đã bị người kế nhiệm cướp đi tất cả. Ngày ông chết, trùng với ngày ông cướp được chính quyền, nên người kế nhiệm cướp ngày chết của ông, cho ông sống thêm một ngày nữa để tránh xui (?) Đã thế, di chúc của ông là được thiêu xác thì người kế nhiệm cướp xác ông đem ướp để tuyên truyền. – Khi đất nước bị chia đôi do áp lực quốc tế, Việt Minh cai trị miền Bắc tuân theo chỉ thị của Mao, thi hành cải cách ruộng đất. “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” làm bật gốc nền tảng đạo đức dân tộc. Nhân danh nông dân bị bóc lột, đảng cướp đất, giết hàng trăm ngàn người vô tội. – Theo hiệp định “Giơ-ne-vơ”, người theo Việt Minh phải tập kết ra Bắc. Người theo quốc gia di cư vào Nam. Thế nhưng Lê Duẩn ngụy trá ban ngày lên tàu tập kết, đến đêm thì lén rời tàu ở lại miền Nam tổ chức chiến tranh. Cuộc nội chiến đã cướp mạng sống hàng triệu người cùng nòi giống. – Miền Bắc tuyên truyền Mặt trận Giải phóng miền Nam là do người miền Nam chống Diệm, Nhu, Thiệu, Kỳ… nhưng ngay sau ngày 30 tháng 4 rõ ràng là tổ chức của họ bị họ giải thể vì đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Cộng sản Việt Nam đã cướp chính danh chống cộng của người miền Nam. – Cướp miền Nam xong, Lê Duẩn hô hào cả nước “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”. Gia sản người miền Nam bị cướp với chiêu bài đánh tư sản mại bản, chống “ăn bám”, chống “trây lười lao động”, “lao động là quang vinh” nên đuổi đi kinh tế mới. Hợp thức hóa tài sản của người miền Nam cho quan chức, cán bộ và người miền Bắc kéo vào… là băng đảng cướp. – Đối diện sự dã man kinh hoàng, dù người miền Nam vốn hiền hòa cũng phải liều chết, vượt biên. Chớp lấy cơ hội, công an tổ chức vượt biên bằng tàu sắt, bán bãi, chặn bắt nạn nhân để moi vàng. Hệ thống tổ chức kinh tài như thế thì chỉ một chữ cướp liệu có thể mô tả hết được không? – Viết Hiến pháp “đảng lãnh đạo toàn diện”, “đất đai là sở hữu của toàn dân do nhà nước quản lý”. Là cướp tất cả tài sản đất đai của người dân cả nước bằng pháp lý! Hiện đảng là vua, sử dụng ban phát đất theo ý riêng của vua. – Đảng viên lãnh đạo cao cấp như vua chúa thời phong kiến, được chọn nơi chôn cất. Nhìn mả của các ông Võ Nguyên Giáp, Trần Đại Quang, Phùng Quang Thanh, Trần Đức Lương thấy rất rõ. – Doanh nghiệp và phe cánh được đảng ban đất dồi dào. Có thể nói không có tỷ phú đô la nào không dính đến đất còn dân thì bị cướp đất công khai, trấn áp không khoan nhượng. Giết đảng viên (vẫn trung với đảng) Lê Đình Kình chỉ vì ông quyết giữ đất đồng Sênh. Không chỉ thế, còn xử tử hình, chung thân con và cháu ông. Xử tù hàng chục năm gia đình ông bà Trịnh Bá Khiêm, Cấn Thị Thêu cùng hai con vì gia đình này quyết bảo vệ đất ở Dương Nội. Việt Minh tuyên truyền chống phong kiến bóc lột. Bây giờ đảng là chủ đất quay ra bóc lột nông dân và giết hoặc xử tù dài hạn! Nhân vật Jacquou của phim truyện Người Nông Dân Nổi Dậy được chiếu nhiều kỳ sau 30 tháng 4 năm 1975 liệu có thấm vào đâu so với Lê Đình Kình, Trịnh Bá Khiêm, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư và còn rất nhiều người khác nữa? [1] *** Diễn binh, hiểu cách đơn giản, về đối ngoại là khoe sức mạnh cho kẻ thù gờm nếu có ý xâm lăng và cũng hăm dọa nước yếu hơn. Về đối nội là kể công trạng, khoe thành tích để thu phục nhân tâm. Tạm bỏ qua chuyện đối ngoại. Dù một ngày nữa mới có diễn binh nhưng việc khoe công trạng thì đã thấy ngay được “công trạng” về giáo dục. Người người cầm cờ đỏ, mặc áo đỏ có ngôi sao trước ngực tranh giành, chửi bới, đánh nhau để giành chỗ ngồi xem diễn tập. Có người dùng mũ bảo hiểm “sắp hàng”, giữ chỗ, rồi bán lại. Xem xong thì rác ngập đầy đường, hoa trang trí, cây cảnh bị giẫm nát không thương tiếc… 50 năm trước “đảng ta (đã) là đỉnh cao của trí tuệ loài người”, “Hà Nội (đã) là thủ đô của phẩm giá con người” cộng thêm 50 năm vừa qua, kể từ năm 1975, được chương trình giáo dục ưu việt đào tạo thành “con người mới XHCN”, “mình vì mọi người” tại sao xảy ra tình trạng như vừa nói trên? Chuyện lớn hơn nhiều, là quan chức đủ mọi cấp, bậc, 100% trưởng thành dưới mái trường XHCN, họ lãnh đạo bất cứ cơ quan đảng và nhà nước nào cũng đều “ăn không chừa thứ gì”. Từ chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư tỉnh ủy… Đã thế, họ còn coi đồng bào bị đại nạn dịch covid-19 với hàng ngàn người chết cùng lúc, lò thiêu không kịp… là dịp may hiếm có để kiếm tiền. Vấn đề lớn nhứt là, mặc dù có hàng hàng lớp lớp tai to mặt lớn phạm tội như thế nhưng đảng cộng sản Việt Nam vẫn tự hào. Vẫn “quang vinh muôn năm”! Câu chuyện ngụ ngôn “ông vua không mặc quần” của Andersen khá thích hợp với ông “vua cộng sản Việt Nam” vì cứ tự khen và thích được khen nhưng bản chất đã trần truồng 100% trước mắt mọi người [2]. *** Trở lại chuyện cướp, thật bất hạnh thay cho người cướp được chính quyền 80 năm trước, vì sau khi chết ông đã bị người kế nhiệm cướp đi tất cả. Ngày ông chết, trùng với ngày ông cướp được chính quyền, nên người kế nhiệm cướp ngày chết của ông, cho ông sống thêm một ngày nữa để tránh xui (?) Đã thế, di chúc của ông là được thiêu xác thì người kế nhiệm cướp xác ông đem ướp để tuyên truyền. Không biết dưới suối vàng (nếu có suối vàng) ông có bình yên không? ________ Chú thích [1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacquou,_người_nông_dân_nổi_dậy_(phim) [2] https://vi.wikipedia.org/wiki/Bộ_quần_áo_mới_của_hoàng_đế
......

Ngày “độc lập 2 tháng 9” nên dẹp bỏ

Trương Nhân Tuấn Ngày “độc lập 2 tháng 9” nên dẹp bỏ. Lý do? Vì dân tộc Việt Nam đã có bản Tuyên ngôn độc lập từ ngàn năm trước rồi. Nước Việt Nam đã hiện hữu và đã độc lập hơn ngàn năm nay rồi. Trước kia là ông Nguyễn Phú Trọng, nay là ông Tô Lâm. Hai ông này đã ban hành các văn bản mà trong đó người ta thấy được nội dung “mừng 80 năm ngày khai sinh đất nước”. Ngày khai sinh đất nước đó là ngày 2 tháng 9 năm 1945 và đất nước đó là “đất nước của bác Hồ”. Nước Việt Nam là của dân tộc Việt Nam. Nước này đã hiện hữu, đã độc lập hơn ngàn năm rồi. Dân tộc Việt Nam đã có bản Tuyên ngôn độc lập hơn ngàn năm nay rồi. Dân tộc Việt Nam không cần một bản tuyên ngôn độc lập mới. Vì nó dư thừa, vừa không đúng với thực tế lịch sử, lại vừa gây chia rẽ dân tộc. Bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mang tên là “Nam quốc sơn hà”. Bản Tuyên ngôn ngắn gọn, lời lẽ hào hùng, ý chí quyết liệt. Là một bài thơ “thất ngôn tứ tuyệt”, được sáng tác trong bối cảnh dân tộc Việt Nam đang mở cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần một (năm 981): Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Ý nghĩa bản Tuyên ngôn qua từng câu thơ: Câu 1: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Nam quốc sơn hà: Sông núi nước Nam. Nam đế cư: Vua nước Nam ở. “Sông núi nước Nam” là lãnh thổ của người Việt Nam. Người cai trị lãnh thổ đó là “vua nước Nam”. Câu này khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Nước Nam do vua nước Nam trị vì, phân biệt lãnh thổ phương Bắc với hoàng đế phương Bắc. Câu này nói rõ sự khác biệt về lãnh thổ “nước sông không phạm tới nước giếng” giữa hai dân tộc Hán ở phương Bắc và Việt ở phương Nam. Câu 2: Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Tiệt nhiên có nghĩa là rõ ràng, dứt khoát. Phận định: Số phận đã được xác định, phận sự đã được xác định. Tại thiên thư: Ở sách trời Câu này nhấn mạnh tính chính danh của quyền lực và tính thiêng liêng của chủ quyền. Nước Nam có chủ quyền, có lãnh thổ riêng và việc này đã được “sách trời” ghi nhận và xác định. “Sách trời” ở đây mang ý nghĩa là ý chí của tạo hóa, là chân lý tối cao, không thể thay đổi. Điều này làm cho sự tồn tại độc lập của Việt Nam trở nên bất khả xâm phạm. Câu 3: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Như hà: Cớ sao, vì sao. Nghịch lỗ: Giặc Tống. Lai xâm phạm: Đến xâm phạm Câu này là một lời chất vấn đanh thép. “Nghịch lỗ” là cách gọi khinh miệt, thể hiện thái độ căm phẫn trước hành động xâm lược. Câu thơ, thực tế là một câu hỏi: Tại sao quân xâm lược lại dám vi phạm một điều đã được trời định? Đây không chỉ là một câu hỏi tu từ, mà còn là lời thách thức trực diện đối với kẻ thù. Câu 4: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Nhữ đẳng: Bọn bay, chúng bay. Hành khan: Sẽ thấy, hãy xem. Thủ bại hư: Phải chuốc lấy thất bại, bị đánh cho tan nát. Đây là lời tuyên bố đanh thép và là lời cảnh cáo cuối cùng. “Bọn bay” (quân Tống) sẽ sớm phải nhận lấy thất bại thảm hại. Câu thơ khẳng định niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng của quân và dân ta, đồng thời dự báo trước kết cục bi thảm của kẻ xâm lược. Bài “Tuyên ngôn” ngắn gọn nhưng lời lẽ rõ rệt và đanh thép, khẳng định một ý chí hào hùng “lãnh thổ của nước Nam là của vua nước Nam”. Các sử gia Việt Nam bao nhiêu thế hệ đều nhìn nhận rằng bài thơ này là bản “tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của Việt Nam. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang bị giặc Tống phương Bắc xâm lăng. Mục tiêu bài thơ là vận động toàn dân chống giặc, giữ vững cõi bờ. Bời thơ này hầu như người Việt nào cũng thuộc. Lời lẽ hùng tráng, hào khí ngất trời, vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu. Tuyên ngôn độc lập 2-9 của ông Hồ, các việc “bài phong đả thực”, “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” để “cướp chính quyền” giành độc lập đều là chuyện bịa đặt. Không hề có vụ “đánh Pháp” vì Pháp đã bị Nhật đuổi đi. Cũng không có vụ “đuổi Nhật”, vì quân Nhật đầu hàng Đồng minh. Cũng không hề có vụ “chạy đua với Đồng minh” để “giành chính quyền” mà chỉ có vụ Đồng minh vô tới đâu Việt minh chạy tới đó. Lời lẽ ý tứ trong bản văn của ông Hồ lại còn cóp nhặt từ bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Ngay ở văn từ của một bản Tuyên ngôn độc lập mà còn dựa dẫm ý tứ vào ngoại bang thì đó là một nền độc lập thực sự à? Tổ tiên người Việt đã giành độc lập từ tay giặc Tàu từ ngàn năm trước. Không hề có chuyện ông Hồ và Việt Minh giành độc lập ngày 2-9-1945. Ngày “độc lập 2 tháng 9” nên dẹp bỏ./.  
......

Lời kêu gọi người dân Việt Nam tẩy chay Vinfast

Nguyễn Văn Đài  Chúng ta – những người dân Việt Nam – có quyền được sống an toàn, được bảo vệ tính mạng và tài sản của mình. Quyền này không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp nước Việt Nam, mà còn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) cùng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.   Mọi doanh nghiệp khi sản xuất, kinh doanh sản phẩm đều phải bảo đảm sự an toàn, minh bạch thông tin và chịu trách nhiệm với thiệt hại do sản phẩm gây ra. Đây là nghĩa vụ pháp lý, cũng là đạo lý tối thiểu trong một xã hội văn minh. Thế nhưng, thực tiễn đã cho thấy:   1. Nguy cơ cháy nổ từ pin xe điện: Đã có nhiều trường hợp xe điện Vinfast bị phản ánh cháy nổ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng và tài sản của người dân. 2. Sự cố kỹ thuật nguy hiểm: Xe Vinfast liên tiếp gặp các lỗi nghiêm trọng như long bánh, dừng đột ngột, tự chạy, tự mở nắp capo, thậm chí tự gây tai nạn – đặt tính mạng người điều khiển và cộng đồng vào hiểm họa thường trực. 3. Thiếu minh bạch, chèn ép khách hàng: Thay vì nhận lỗi, xin lỗi và khắc phục, nhiều khách hàng phản ánh bị đe dọa, bị gây áp lực khi công khai sự cố. Đây là hành vi coi thường đạo đức kinh doanh và xúc phạm quyền lợi người tiêu dùng. 4. Hệ lụy kinh tế – xã hội nặng nề: Vinfast đang thua lỗ hơn chục tỷ đô la, để lại nguy cơ mất mát đất đai, tài nguyên quốc gia và biến người dân thành “nhà đầu tư bất đắc dĩ” phải gánh khoản nợ khổng lồ này.   Với tất cả những lý do trên, chúng tôi kêu gọi:   * Người dân hãy tẩy chay sản phẩm Vinfast để bảo vệ chính mình và gia đình khỏi rủi ro tai nạn, cháy nổ. * Người tiêu dùng hãy lên tiếng về các sự cố đã gặp phải, không im lặng trước những bất công và sức ép từ doanh nghiệp. * Xã hội hãy cùng nhau tạo sức ép đòi hỏi trách nhiệm từ Vinfast và những người đứng sau nó, để ngăn chặn việc lợi ích nhóm tiếp tục hy sinh an toàn, quyền lợi và tương lai của dân tộc.   Một sản phẩm không an toàn, một doanh nghiệp không minh bạch, một tập đoàn chỉ biết lấy tài nguyên đất nước và tiền thuế của dân để bù lỗ – không xứng đáng nhận được sự tin tưởng và ủng hộ của người dân Việt Nam.   Tẩy chay Vinfast chính là tự bảo vệ quyền sống, quyền an toàn và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi chúng ta.
......

Vinfast: Xe điện quốc dân hay xe điện quốc tang?

Một vụ tai nạn thảm khốc xảy ra rạng sáng ngày 5 tháng Tám trên quốc lộ 1 tại Vĩnh Long, liên quan đến chiếc xe điện VinFast VF3.Đụng vào một xe chở rác đang dừng ven đường, chiếc xe điện VinFast VF3 bị biến dạng nghiêm trọng, làm hai người thiệt mạng và một người khác bị thương nặng.   Tương tự như những lần trước, VinFast đã mau chóng nhảy vào can thiệp và cho gỡ bỏ tên thương hiệu và các hình ảnh cận cảnh lấy tại hiện trường ở các trang báo tin tức nội địa Việt Nam vì những bức ảnh này đã phơi bày một thực tế đáng báo động về cấu trúc của chiếc xe, đặt ra câu hỏi lớn về sự cam kết an toàn mà nơi sản xuất, do ông Phạm Nhật Vượng đứng đầu, dành cho người tiêu dùng. Thiết kế cấu trúc an toàn thật “ngược đời” Thảm kịch an toàn xe hơi này dường như được phơi bày một cách trần trụi qua những gì còn sót lại ở của chiếc xe VF3 gặp nạn. Những hình ảnh của vụ tai nạn cho thấy một nghịch lý c.hết người trong cách thiết kế an toàn của xe Vinfast. Cấu trúc của một chiếc xe hơi hiện đại được chia thành các vùng với chức năng riêng biệt khi xảy ra va chạm. Phần đầu và đuôi xe được thiết kế như những “vùng hấp thụ xung lực” (crumple zone), bao gồm các “dầm và cản trước” (bumper). Nhiệm vụ của chúng là khi bị biến dạng, phải được co cụm lại một cách có kiểm soát để cho triệt tiêu và phân tán sức nặng của vụ va chạm, kéo dài thời gian bị tác động và giảm áp lực truyền vào khoang hành khách. Ngược lại, khoang hành khách được ví như một “khung lồng an toàn”, phải được chế tạo từ vật liệu siêu cứng để giữ vững cấu trúc, bảo vệ không gian sống còn cho người ngồi bên trong. Các bộ phận chính của khung lồng này là các cột đỡ. Cột A là hai cột ở hai bên kính chắn gió trước, đóng vai trò then chốt trong việc chống lại lực va đập từ phía trước và chống bị bẹp dúm khi chiếc xe bị lật do va chạm. Cột B là cột nằm giữa cửa trước và cửa sau, chịu trách nhiệm chính trong các va chạm bên hông. Các thanh dầm bên trong cửa xe có nhiệm vụ truyền lực giữa cột A và cột B, góp phần duy trì sự toàn vẹn của khoang cabin. Thế nhưng, trong vụ tai nạn của chiếc VF3, mọi thứ dường như diễn ra theo chiều ngược lại. Phần “cản trước” (bumper) và các dầm hấp thụ xung lực gần như không có hề hấn gì, trong khi toàn bộ phần khoang lái lại hứng chịu hậu quả thật thảm khốc. Cửa xe bị xé toạc bay mất, và đáng sợ hơn, cột A, xương sống của cabin, bị gãy gập và đứt lìa hoàn toàn. Thiết kế này không khác gì một sự sắp đặt khá ngược đời: bộ phận cần mềm để hấp thụ lực thì lại cứng trơ, trong khi kết cấu phải cứng để bảo vệ thì lại tan nát, không khác nào “cầm đèn chạy trước xe, mở đường cho tử thần”. Thêm vào đó, việc thiết kế cột A của VF3 có phần thẳng đứng, dù tạo cảm giác không gian rộng rãi, nhưng lại bỏ qua khả năng cho phân tán lực khi bị va chạm, đẩy người lái xe vào thế nguy hiểm hơn. Cách tiếp cận thiết kế này gợi lên một hình ảnh đáng lo ngại: chiếc xe chỉ như một cái khung cho lợp tôn, hoàn toàn không được tính toán kỹ lưỡng về yếu tố an toàn cho người sử dụng. Coi thường tiêu chuẩn quốc tế và mạng sống của con người Đừng nên vội cho rằng nếu là xe nhỏ thì phải chấp nhận mức độ kém an toàn hơn. Các quy định an toàn tại châu Âu và Mỹ từ lâu đã có những tiêu chuẩn bắt buộc về “tính tương thích khi bị va chạm” (Crash Compatibility). Điều này bắt buộc các hãng xe phải bảo đảm rằng, khi một chiếc xe nhỏ va chạm với một chiếc SUV lớn hơn, cả hai đều phải bị biến dạng một cách hợp lý để hấp thụ lực va chạm, bảo vệ an toàn cho hành khách ở cả hai chiếc xe. Trước đây, nhiều hãng sản xuất chỉ tập trung vào việc cho tối ưu hóa độ an toàn bằng cách thiết kế xe có khả năng chịu lực cao khi va chạm với vật cản cố định (như bờ tường). Phương pháp này vô tình tạo ra các thiết kế loại xe chạy “hung hăng” hơn, gây ra tổn thương lớn hơn cho phương tiện khác trong một vụ tai nạn. Cụ thể hơn, các mẫu SUV và xe bán tải thường có cấu trúc khung gầm cao hơn, cứng hơn, dễ va chạm vào cabin của xe con thay vì vào vùng hấp thụ xung lực (crumple zone). Để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia thiết kế xe hơi đã sáng chế các phương pháp nhằm cải thiện “tính tương thích khi bị va chạm”. Thay vì làm cho xe nhỏ cứng hơn, giải pháp là gia tăng khả năng hấp thụ xung lực của xe nhỏ và giảm độ “hung hăng” của xe lớn. Điều này có nghĩa là cấu trúc phía trước của loại xe lớn (như SUV) cần được thiết kế để cho “mềm” hơn, cho phép sự biến dạng được kiểm soát để hấp thụ lực va chạm và giảm lực truyền vào xe nhỏ hơn. Đồng thời, các hãng xe cũng tập trung vào việc cho điều chỉnh chiều cao của các cấu trúc chính (frame rail) của xe lớn để chúng được thẳng hàng với các cấu trúc tương tự trên xe con, bảo đảm rằng lực va chạm sẽ được phân tán ra hiệu quả vào các khu vực hấp thụ xung lực thay vì xuyên thẳng vào khoang chứa hành khách. Một trong những giải pháp được đề xuất là thêm một cấu trúc hấp thụ lực phụ (Secondary Energy Absorbing Structure) vào các mẫu xe lớn để bảo đảm có sự thẳng hàng theo chiều dọc với xe con. Mục tiêu là khi bị va chạm, cả hai xe đều có thể hấp thụ lực một cách hiệu quả, giúp bảo vệ tối đa tính mạng người ngồi trong cả hai phương tiện, chứ không phải chỉ có một bên. Một ví dụ điển hình là các bài thử nghiệm va chạm giữa một chiếc Fiat 500 nhỏ bé với một chiếc SUV hạng sang lớn như Audi Q7 tại châu Âu. Kết quả cho thấy dù nhỏ hơn, Fiat 500 vẫn bảo đảm được không gian an toàn cho khoang hành khách nhờ cách thiết kế thông minh và tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn khắt khe của Euro NCAP. – https://www.youtube.com/watch?v=6pVF1Wr7GLQ Việc một chiếc VF3 có cấu trúc an toàn “có cũng như không” lại được bán ra thị trường với doanh số được báo là số 1 ở Việt Nam đã phơi bày một sự thật tàn nhẫn, một sự thật không thể tồn tại nếu thiếu đi bóng dáng sự bao che từ các cơ quan chức năng. Vụ tai nạn này chính là hồi chuông cảnh tỉnh đanh thép, lột trần không chỉ sự khiếm khuyết về kỹ thuật, mà còn là hành vi vô trách nhiệm, một sự phản bội trắng trợn của VinFast và cá nhân ông Phạm Nhật Vượng đối với niềm tin của khách hàng. Bởi vì trước một tập đoàn có tầm ảnh hưởng bao trùm như Vingroup, sự im lặng của giới quản lý sẽ chẳng khác nào như một lời thú tội, cho phép canh bạc tốc độ của ông Vượng được tiến hành trên chính mạng sống của những “người tiên phong” đã ủng hộ mình. Cái giá cho canh bạc đó là việc biến “xe điện quốc dân thành một cỗ quan tài chực chờ”, khiến nỗi lo về một “xe điện quốc tang” không còn là chuyện ẩn dụ xa xôi mà là định mệnh được cài sẵn trong từng chiếc xe được bán ra. Vì vậy, yêu cầu về sự minh bạch tuyệt đối trong kết quả cho thử nghiệm về độ an toàn lúc này không chỉ để nắm biết chiếc xe có được an toàn hay không, mà là để cho người tiêu dùng Việt Nam có câu trả lời cuối cùng rằng họ có đang phải tự lái một cái bẫy di động, một sản phẩm được dựng lên từ sự cẩu thả của nơi sản xuất và sự coi thường mạng sống người dân của cả một hệ thống chính quyền.
......

Cố GS Phạm Biểu Tâm được đặt tượng

Lê Bá Vận   Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh cho đúc tượng các cố giáo sư Phạm Biểu Tâm và Trương Công Trung. Buổi lễ đặt tượng đã được long trọng tổ chức tại khuôn viên Đại học Y - Dược TPHCM vào ngày kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam, sáng 18-11- 2024. Các tượng được đúc bằng đồng khối nguyên chất, cao 65cm, nặng 40 kg mỗi tượng, được đặt trên bệ đá granite cao 1,45m.   GS Trương Công Trung (1919-2006) quê ở Mỹ Tho là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động. Sau hơn nửa thế kỷ lặn lội ở khắp núi rừng của chiến trường Nam bộ, ông đã cứu sống biết bao đồng đội, đào tạo nhiều thế hệ học trò ngành Y từ chiến khu trong điều kiện vô vàn khó khăn, thiếu thốn. Sau năm 1975 ông là hiệu trưởng đầu tiên của trường ĐHYD TPHCM.   GS Phạm Biểu Tâm (1913-1999) người Huế, là khoa trưởng trường ĐHYK Sài Gòn từ năm 1955- 1967. Ông đa tài, vô cùng nổi tiếng, được xem là chuyên gia về phẫu thuật tài ba, một người thầy đáng kính của nền Y Khoa Việt Nam. Ông không có bạn hũu thân tình và cũng ít nguòi hiểu ông. Khác GS TC Trung, ông không có thiện cảm gì với cách mạng. Lỗi thứ nhất là năm 1954 ông đã không ở lại Hà Nội, nơi ông thành danh Giáo sư Thạc sĩ mà bỏ chạy vào Nam theo đoàn di cư.   Sau 1975 ông kẹt lại trong nước, được lưu dụng như nhiều người khác có tay nghề cao nhưng “Chế độ mới cần tới uy tín Thầy nhưng họ vẫn không bao giờ tin nơi Thầy. Bằng cớ là nhà của thầy Tâm ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì thì Thành Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là hành động sai trái của thuộc cấp. Sự giải thích ấy thật ra là hai bản mặt của chế độ.” (Lời môn sinh BS Ngô Quang Vinh thuật lại). GS PB Tâm cho tất cả các con vượt biên. BS VĐL, 'Loi Vo' via Y Khoa Hue Hai Ngoai. Sat, Jul 26 at 12:13 a.m. viết trong email:   “GS PBT không vượt biên mà con cái ông vượt biên năm 1978. Con cái của ông 5 người có tên như phòng mổ: Bông, Gạc, Băng, Kim và Chỉ… Đến năm 1989 Kim Chỉ bảo lãnh cho GS và vợ đến Mỹ theo diện đoàn tụ.”  LV Sent from my iPhone   Rút cục GS PBTâm là Việt kiều, người Mỹ gốc Việt. Nhưng nay được Đảng ủy TPHCM đặt tượng!! Một số bác sĩ nêu thắc mắc: Phải chăng là để thi hành Nghị Quyết 36 của Đảng? ____ Câu chuyện GS Phạm Biểu Tâm và đặt tượng xuất hiện ở hải ngoại trong giới bác sĩ, những người có biết về GS PB Tâm. Một số nhận xét nhanh chóng được ghi nhận:   - Tượng không giống. - Bức tượng của Gs PBT trông không giống gs mấy. – Ý đồ gì đây? - Đợi xem Tỉnh ủy Huế có cho dựng lại tượng đài của các GS người Đức bị sát hại trong Mậu Thân.   1- Tượng đồng GS PBTâm. 2- Khoa trưởng PBT. 3- GS Phạm Biểu Tâm (80+tuổi) Các sinh viên Y Dược đến trường, bước qua cổng chính thấy bức tượng đồng bán thân lồ lộ thì cứ cho đấy là nét mặt hiên ngang của một lãnh tụ cách mạng tiền bối. Khuôn mặt dài, cằm vuông, tóc mai dài, thẳng. Và tin tưởng ngay tượng chính là cố GS Phạm Biểu Tâm, vì có khắc tên phía dưới, ở bệ đá, có đại công với cách mạng nên được dựng tượng.   Tuy nhiên lúc là khoa trưởng, GS PB Tâm được chụp rất nhiều ảnh, trong nhiều dịp. Ảnh cho thấy ông có trán rộng, cằm nhọn, tóc quăn nhiều ở hai mái, hai mắt nằm xa nhau (hypertelorism).   Theo sách tướng những người có nét tướng 2 mắt cách xa nhau thường có đầu óc nhạy bén, thông minh, nhìn xa trông rộng, thích sự thoải mái không gò bó.   Các bệnh nhân và môn sinh của GS PB Tâm, nếu còn sống, nay cũng đã sáu bảy mươi tuổi trở lên thì đều kinh ngạc khi thấy bức tượng đồng xa lạ của ai đó dưới đề tên Thầy của họ, song mảy may chẳng có lấy một nét nhỏ giống Thầy và nhất là sững sờ về thái độ bất cần, tắc trách của người đúc tượng lẫn của người thuê mướn đúc. Với họ có tượng nét mặt quắc thước là được, không ai kiểm chứng, bắt bẻ, giống hay không họ không quan tâm!   Hiện tại chi phí đặt hoặc mua tượng đồng là vào khoảng từ 3 triệu đồng trở lên song may ra chỉ tượng Bác Hồ là có thể giống ít nhiều. Các tượng người khác thiếu chòm râu khó đúc giống!   Tôi có bài viết: “Quan hệ xưng hô thày trò ở đại học “ phổ biến trên trang Web của YK Huế Hải ngoại tháng 2/2022. Trong 25 dòng viết về GS PB Tâm, lúc ở Hà Nội, tôi dành vài dòng nói vói về diện mạo của ông: “Tôi háo hức chờ đợi. GS Tâm bước nhanh vào lớp mặc áo blouse trắng gài nút sau lưng. Tôi hơi thất vọng vì trái với danh tiếng nổi như cồn, ở tuổi 40 ông xem ra không có bề ngoài. Người không thấp song ông nhỏ xương, nét mặt gầy, nước da không sáng, lại tàn nhang, tóc hơi quăn. Tuy nhiên Giáo sư PB Tâm là một bậc thầy tài cao đức trọng được mọi người kính ngưỡng”.   Một nhận xét khác: “Sinh viên y khoa (YKSG) lớp chúng tôi chỉ bắt đầu gặp Giáo Sư Pham Biểu Tâm vào năm thứ hai, sau năm dự bị và năm thứ nhất, khi được đi thực tập lâm sàng và được thầy giảng môn triệu chứng học trong giảng đường. Ông giản dị, từ tốn, giọng nhỏ nhẹ nhưng thâm thúy, người ông trông không có gì hấp dẫn khi mới tiếp xúc, người ốm, mặt gầy, tóc quăn.” (Việt Nguyên. Blog BS Dương Diệu Ophthalmologist).   Ở Huế thì GS Lê Văn Bách (1930-2002) được các bác sĩ học trò cũ khóa YKH#15, trong tinh thần “Tôn sư trọng đạo” đúc tượng đồng, nhớ ơn.   + BS Bùi An Bình, YKH # 1 tay cầm bó hoa tặng Thầy . + Tượng đồng BS Lê Văn Bách. Tất nhiên tượng phải có nét giống người thật mới làm vui lòng gia đình người nhận.   Bằng không thì chỉ việc ra phố chọn mua một tượng đồng đẹp nào đó, rồi khắc tên ở bệ dưới.   Tương tự trường hợp GS Phạm Biểu Tâm, biết tượng ai đó mà bấm bụng tâm lĩnh nhận vơ./.  
......

« Bom Nữ » Dương Nguyệt Ánh

Nguyễn Văn Tuấn Hôm qua, tôi đọc được một bài thú vị trên tờ New York Times viết về chị Dương Nguyệt Ánh [1]. Được Thời báo Nữu Ước viết một bài dài là đủ biết chị ấy quan trọng ra sao. Thấy bài hay nên tôi dịch sang tiếng Việt và chia sẻ cùng các bạn. Chị Dương Nguyệt Ánh (nay đã 65 tuổi) là người sáng chế ra bom BLU-118/B được dùng trong cuộc chiến chống Al Qaeda ở A Phú Hãn / Afghanistan. Tôi lược dịch dưới đây để chia sẻ cùng các bạn. Theo bài báo mô tả, chị ấy xuất thân từ một gia đình trung lưu ở Sài Gòn, thuộc dòng dõi Dương Khuê ở Hà Đông (1839-1902) [2]. Tháng 4/1975, chị và gia đình xin tị nạn ở Mỹ. Ở Mỹ, chị học giỏi, và sau khi tốt nghiệp, được bổ nhiệm làm trong một trung tâm nghiên cứu vũ khí của Hải quân. Sau này chị lãnh đạo một nhóm chuyên chế tạo bom, và chị nổi tiếng với loại bom BLU. Đây là loại bom tiền thân của bom GBU-57 mới được dùng ở Ba Tư / Iran.  Khi không quân Mỹ thả mấy trái bom GBU-57 vào các trung tâm hạch tâm của Ba Tư, người ta đồn rằng đó là bom chị sáng chế. Nhưng qua bài này, chị nói rõ là chị không phải là người sáng chế ra GBU-57, nhưng trái bom BLU chị sáng chế là tiền thân của GBU-57. Cuộc đời và sự nghiệp của chị ấy đúng là tiêu biểu của một người tị nạn thời đó : Tới Mỹ với hai bàn tay trắng, tiếng Anh lôm côm, nhưng nhờ phấn đấu nên vượt qua nghịch cảnh và có những đóng góp quan trọng cho quê hương mới.  « Bom Nữ » và tiền thân của loại bom Bunker Buster được sử dụng ở Ba Tư (Iran) Lúc còn nhỏ, sống trong khói lửa chiến tranh ở Việt Nam, Dương Nguyệt Ánh đã từng thầm hứa với lòng mình rằng một ngày nào đó, cô sẽ làm điều gì đó để giúp những người lính từng bảo vệ cô và gia đình. Vài chục năm sau, cô bé năm xưa trở thành người đứng đầu một nhóm khoa học gia của Hải quân Mỹ. Cô đã góp phần phát triển loại chất nổ có sức công phá đặc biệt, chính là tiền thân của bom "bunker buster" mà Mỹ sử dụng để đánh vào các cơ sở hạch tâm của Ba Tư / Iran. Khi đọc lại các thông số kỹ thuật của loại bom đó trên mạng, cô nhận ra ngay : đây chính là « đứa con » quen thuộc do nhóm của cô từng phát triển. Dương Nguyệt Ánh, nay đã 65 tuổi, là một người tị nạn. Bà rời khỏi Sài Gòn trước ngày miền Nam sụp đổ vào năm 1975. Bà cùng gia đình sang Mỹ định cư tại Hoa Thạnh Đốn / Washington. Bà luôn mang trong lòng lòng biết ơn sâu sắc với đất nước đã cưu mang mình. Và rồi, cơ hội đền đáp đến không lâu sau vụ khủng bố 11/9. Khi đó, bà là trưởng nhóm nghiên cứu tại một trung tâm nghiên cứu thuộc Hải quân Mỹ. Nhóm của bà tạo ra loại bom BLU-118/B, được dẫn đường bằng laser, có thể xuyên sâu vào hầm trú ẩn của Al Qaeda ở A Phú Hãn / Afghanistan - nơi mà binh sĩ khó lòng tới gần một cách an toàn. “Loại bom này tạo ra nhiệt độ cực cao, có thể thiêu rụi mục tiêu mà không cần bộ binh phải mạo hiểm tánh mạng,” bà chia sẻ. Cũng nhờ loại vũ khí này mà nhiều chuyên gia cho rằng cuộc chiến ở A Phú Hãn đã được rút ngắn đáng kể. Trước đó, nhóm của bà đã mất nhiều năm nghiên cứu để tạo ra loại chất nổ mới, vừa mạnh, vừa bền vững, có thể chịu được va đập khi xuyên qua bê tông hoặc đá dày. Chính công nghệ này sau đó đã được sử dụng trong loại bom phá boong-ke GBU-57 mà quân đội Mỹ dùng trong chiến dịch ở Ba Tư - trong đó có đợt không kích nhắm vào cơ sở hạch tâm nằm sâu dưới lòng đất ở Fordo và Natanz. Dù không đưa ra bình luận gì về mức độ thiệt hại thực tế, bà Dương thẳng thắn : “Đánh vào một cơ sở ngầm chứa vật liệu hạch tâm, sẽ phải mất rất lâu mới có thể kiểm tra trực tiếp. Không thể biết chính xác được chuyện gì đang xảy ra bên trong lúc này.” Nhưng khi tình cờ thấy công thức chất nổ trên mạng, bà mỉm cười : “Tôi nhớ ngay đến những gương mặt thân quen của đồng nghiệp. Ngành chất nổ không lớn, tụi tôi biết nhau và luôn phối hợp chặt chẽ. Không ai làm một mình cả”. Cái tên « Bom Nữ » / Bomb Lady đến lúc nào bà cũng không nhớ rõ, nhưng sau này, bà trở thành niềm tự hào của cộng đồng người Việt ở Mỹ.  Cô bé bên cánh cổng Sài Gòn năm xưa Hành trình đặc biệt của bà bắt đầu từ cuối thập niên 1960, tại cánh cổng nhà ở Sài Gòn. Khi đó, Dương Nguyệt Ánh mới 7 tuổi. Ba cô là quan chức nông nghiệp cấp cao của chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Anh trai là phi công trực thăng. Mỗi lần anh lên đường làm nhiệm vụ, cô bé lại đứng bên cổng, nước mắt lưng tròng, ước gì mình có cây đũa thần để tặng anh trai thứ vũ khí tốt nhứt, giúp anh sống sót trở về. Hình ảnh ấy lặp đi lặp lại mãi, cho đến một ngày, cô bé tự hứa : "Sau này, nếu có thể, mình sẽ làm ra vũ khí tốt nhứt để bảo vệ những người lính". Tháng 4/1975, khi Sài Gòn gần thất thủ, anh trai bà và một người bạn đã đưa cả gia đình - cha mẹ, anh chị em, họ hàng - lên một tàu hải quân chạy về phía Phi Luật Tân. Họ may mắn thoát được. Sau này, hàng triệu người Việt khác vượt biên, nhưng không phải ai cũng sống sót. Theo Liên Hiệp Quốc, có tới 250.000 người bỏ mạng trên biển. Gia đình bà sau đó định cư ở vùng Hoa Thạnh Đốn, nhờ sự bảo trợ của một nhà thờ Baptist. “Chúng tôi đến Mỹ với hai bàn tay trắng, nghèo rớt mồng tơi, nhưng lại được những con người tốt bụng đón nhận”, bà nhớ lại. Chính điều đó càng khiến bà quyết tâm học hành thật giỏi để báo đáp. Với học lực xuất sắc, bà Dương tốt nghiệp kĩ sư hóa học hạng ưu tại Đại học Maryland, rồi học tiếp cao học ngành quản trị công. Sau đó, bà đầu quân cho Hải quân Mỹ với niềm đam mê “những thứ kêu rít rồi nổ đùng”, như bà từng dí dỏm nói. "Chúng tôi đã trúng số vì được sống ở đây" Năm 2020, sau gần 40 năm cống hiến, bà Dương nghỉ hưu. Chồng bà, cũng là một người Việt tị nạn, từng là kĩ sư điện toán cho một nhà thầu quốc phòng. Cả hai sống bình yên ở gần Hagerstown, tiểu bang Maryland, cùng con gái và ba con trai. Mỗi khi cả nhà xem tivi thấy tin người trúng xổ số Powerball, bà lại nói đùa với các con : “Nhà mình trúng số rồi đó chớ, được sống ở đây là trúng độc đắc rồi.” Và rồi bà mỉm cườ i: “Nơi nào cũng có chỗ cần cải thiện, nhưng Mỹ là một thiên đường - đôi khi phải là người ngoài cuộc mới thấy rõ điều đó”.  Năm 2007, bà được trao Huy chương Công vụ Samuel J. Heyman - một giải thưởng danh giá của chánh phủ Mỹ. Khi kể lại câu chuyện vượt biên, đứng ở cánh cổng năm xưa và hành trình gầy dựng cuộc sống, bà đã khiến cả hội trường xúc động đứng dậy vỗ tay. Bà nghẹn ngào : “Tôi không bao giờ quên 58.000 lính Mỹ và hơn 260.000 binh sĩ miền Nam Việt Nam đã ngã xuống. Tôi nợ họ cuộc sống thứ hai của mình”. Sau đó, bà đảm nhiệm vị trí lãnh đạo an ninh biên giới và hàng hải tại Bộ Nội An (Department of Homeland Security). Công việc của bà là rà soát và thẩm định công nghệ bảo vệ biên giới và cảng biển. “Từ tấn công chuyển sang phòng thủ,” bà cười. Khoảng năm 2013, khi phát biểu tại một hội nghị an ninh ở Arizona, bà được giới thiệu là người đứng sau một trong những công nghệ quân sự sau sự kiện 11/9. Sau buổi nói chuyện, một cựu chiến binh từng phục vụ ở Afghanistan đến gặp bà. “Anh ấy nói : ‘Cảm ơn chị, chị đã cứu mạng tôi và đồng đội,’” bà kể. “Tôi đáp lại : ‘Không, tôi mới là người phải cảm ơn anh vì đã mạo hiểm cả mạng sống’”. Cả hai chia tay trước khi bà kịp hỏi tên. Bà bảo : “Tôi không kể chuyện đó với ai cả, vì có những điều không nên khoe. Nhưng thật lòng mà nói, đó là phần thưởng lớn nhứt tôi từng nhận được. Hơn cả huy chương, tiền thưởng hay chức vụ – là lời cảm ơn của một người lính trở về”. NGUYỄN VĂN TUẤN 15.07.2025 [1] Nguyên văn bài "‘The Bomb Lady’ and the Forerunner of the ‘Bunker Buster’ Used in Iran" [2] Theo wiki thì Dương Nguyệt Ánh thuộc dòng họ danh gia thế phiệt. Ông nội của chị là nhà thơ và quan chức nổi tiếng dòng dõi cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, quê ở làng Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Ngoài ra, "bà còn có một số họ hàng như quan Dương Thiệu Tường (vị tiến sĩ đầu tiên của khoa thi An Nam), bà cùng vai vế với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và giáo sư Dương Thiệu Tống, trong khi nhiều người dựa vào tuổi tác cho rằng bà gọi hai người là bác."  
......

Transshipment là gì và vì sao hàng Việt có thể vẫn bị đánh thuế cao ở Mỹ?

Vũ Đức Khanh Tổng thống Donald Trump, hôm nay 2/7, vừa công bố một thỏa thuận thương mại “đột phá” với Việt Nam, trong đó nêu rõ: hàng hóa từ Việt Nam vào Mỹ sẽ chịu thuế 20%, còn hàng nào bị nghi “transshipping” thì phải chịu tới 40%. Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi: “Transshipment là gì?”, và quan trọng hơn, “Hàng hóa ghi ‘Made in Vietnam’ liệu có thực sự là hàng Việt hay không?”. Hãy cùng làm rõ vấn đề này qua ba bước: (1) định nghĩa và giải thích, (2) khung pháp lý hiện hành, và (3) minh họa bằng tình huống thực tế – để từ đó, mỗi người dân có thể tự đánh giá và đưa ra kết luận cho riêng mình. Bước 1: Hiểu rõ khái niệm "transshipment" – tái xuất trá hình là gì? “Transshipment” là thuật ngữ tiếng Anh chỉ việc hàng hóa từ một nước (ví dụ Trung Quốc) được chuyển đến một nước thứ ba (ví dụ Việt Nam), rồi từ đó được tái xuất sang Mỹ hoặc nước khác, mà không trải qua quá trình sản xuất đáng kể tại nước trung gian (Việt Nam). Cách nói dễ hiểu hơn: đó là hàng hóa “đi đường vòng” để tránh thuế. Khi Mỹ áp thuế cao lên hàng Trung Quốc, một số công ty chuyển hàng sang Việt Nam để gắn nhãn “Made in Vietnam”, dù thực chất Việt Nam không làm gì nhiều ngoài việc lắp ráp, đóng gói hoặc thay bao bì. Mỹ coi đây là hành vi gian lận thương mại. Đó là lý do vì sao ông Trump muốn áp thuế 40% lên hàng nào bị nghi là “transshipment” (hàng trung chuyển), dù có gắn nhãn “Made in Vietnam”. Bước 2: Pháp luật quốc tế quy định thế nào là “hàng của Việt Nam”? Trong thương mại toàn cầu, có những quy tắc rõ ràng để xác định một món hàng có thực sự là sản phẩm của một nước nào đó hay không. Quy tắc này gọi là “quy tắc xuất xứ” (Rules of Origin). Có hai cách tính phổ biến: Theo tỷ lệ nội địa hóa – “giá trị gia tăng nội địa” Hàng hóa được coi là “Made in Vietnam” nếu giá trị gia tăng thực sự tại Việt Nam đạt từ 40% trở lên trong tổng giá trị thành phẩm. Phần nhập khẩu từ nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, không được vượt quá 60% giá trị sản phẩm. Theo mức độ thay đổi cấu trúc sản phẩm – “chuyển đổi mã HS” (Harmonized System) Nếu hàng nhập về chỉ đóng gói lại, hay chỉ thay tem, thay bao bì thì không được coi là sản phẩm Việt Nam. Nhưng nếu qua Việt Nam để được chế biến thực chất, ví dụ cắt, may, lắp ráp toàn bộ mới thành ra một sản phẩm mới, thì mới đủ điều kiện là hàng Việt. Mỹ không chỉ căn cứ vào nhãn mác, mà xem xét kỹ hồ sơ nhập nguyên liệu, quá trình sản xuất, tỷ lệ nội địa hóa, và bản chất công đoạn gia công tại Việt Nam. Nếu nghi ngờ, họ có quyền kiểm tra và áp thuế như hàng Trung Quốc. Bước 3: Ví dụ thực tế – không phải cứ ghi “Made in Vietnam” là được yên tâm Trường hợp 1: Hàng thực sự sản xuất tại Việt Nam Một doanh nghiệp Việt nhập linh kiện từ nhiều nước (trong đó có Trung Quốc), nhưng thiết kế, sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam, chiếm 60% giá trị. Trong trường hợp này, hàng hóa đủ điều kiện là “Made in Vietnam” và được hưởng mức thuế 20% theo thỏa thuận mới. Trường hợp 2: Hàng “đi đường vòng” Một công ty Trung Quốc đưa 80% linh kiện xe đạp sang Việt Nam, thuê một xưởng lắp ráp đơn giản rồi xuất sang Mỹ. Dù tem ghi “Made in Vietnam”, nhưng Mỹ sẽ xem đây là transshipment vì giá trị gia tăng tại Việt Nam quá thấp. Kết quả: hàng đó bị đánh thuế 40%. Trường hợp 3: Vòng vèo qua nhiều nước Một lô hàng gốc Trung Quốc được đưa sang Thái Lan, lắp ráp thêm một số bộ phận, rồi xuất sang Việt Nam để hoàn thiện. Tại Việt Nam, công ty Trung Quốc sở hữu 100% vốn lắp nốt phần cuối và dán nhãn “Made in Vietnam”. Dù nhìn có vẻ hợp lệ, nhưng khi Mỹ điều tra ra nguồn gốc và xác định bản chất chuỗi cung ứng vẫn thuộc Trung Quốc, hàng vẫn có thể bị xếp vào diện transshipment trá hình. Tổng hợp và kết luận Thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và Việt Nam mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra những yêu cầu rất cụ thể và nghiêm ngặt. Trong đó, việc phân biệt đâu là “hàng Việt thật” và đâu là “hàng giả mạo xuất xứ” trở thành vấn đề sống còn – không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho uy tín quốc gia. Người dân không nên hiểu đơn giản rằng: “Miễn có ghi Made in Vietnam là được.” Thực tế là nhãn mác không đủ – cái Mỹ (và các thị trường nghiêm ngặt khác) quan tâm là quy trình sản xuất, tỷ lệ nội địa hóa, và mức độ làm chủ chuỗi cung ứng. Thái độ đúng đắn không phải là hoảng sợ hay chống đối, mà là nhìn rõ vấn đề để cải tổ mô hình kinh tế: giảm lệ thuộc vào đầu vào Trung Quốc, nâng năng lực sản xuất nội địa, và minh bạch hóa chuỗi cung ứng. Nếu Việt Nam làm được điều đó, không chỉ tránh được thuế cao, mà còn có thể từng bước khẳng định vị thế “cường quốc công xưởng sạch” trong một thế giới ngày càng khắt khe và minh bạch hơn./.
......

Chính sách visa mới của Hoa Kỳ lột trần mặt thật của dư luận viên cực đoan

Nam Việt Hoa Kỳ gần đây đã có chính sách mới, siết chặt quy trình phỏng vấn cấp visa, đặc biệt là đối với diện du học, định cư và du lịch. Theo đó, đương đơn được yêu cầu phải công khai tài khoản mạng xã hội và chứng minh thái độ không thù địch với nước Mỹ. Sự kiện này có vẻ bình thường trong bối cảnh thế giới phức tạp hôm nay, nhưng với một số quốc gia, cụ thể là Việt Nam, nơi dư luận về “kẻ thù đế quốc Mỹ” được nuôi dưỡng bằng cả hệ thống tuyên truyền, thì chính sách duyệt visa mới gây chấn động không nhỏ với nhiều thành phần. Họ tin rằng lời nói trên mạng là không dấu vết, không ai biết ai, Internet là nơi có thể thoát khỏi mọi ràng buộc. Trong một bình luận hài hước trên facebook, một người dùng đã ví von điều đó như cú “sét đánh giữa trời quang” đối với một bộ phận dư luận viên, tuyên truyền viên cực đoan tại Việt Nam – những kẻ vốn sống bằng khẩu hiệu “chửi Mỹ là nhiệm vụ, đi Mỹ là cuộc sống”. Mặt nạ tự hào và sự hoang mang ngầm Trên các nền tảng như Facebook, TikTok, YouTube..., người ta không khó để thấy những tài khoản vô danh, hoặc có vẻ ngoài “Việt Nam rất đỏ”, hàng ngày vẫn đăng đàn mạt sát Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, còn gọi cộng đồng người Việt tự do là “Cali” là “ba que lưu vong”… Những bài tuyên truyền chê cười nền dân chủ phương Tây, xuyên tạc chính sách đối ngoại, phủ nhận các giá trị nhân quyền phổ quát... Thế nhưng, khi chính sách visa thay đổi, họ nộp đơn xin visa đi Mỹ với yêu cầu công khai tài khoản mạng xã hội, lập tức sự xét lại im lặng bao trùm. Những người này, nếu thật sự không thù địch, sao lại sợ bị kiểm tra lời nói trong quá khứ? Anh Tr, chủ một dịch vụ du lịch và làm visa đi nước ngoài ở Sài Gòn, kể rằng trong những tháng gần đây khi nhận điền hồ sơ xin visa cho những người trẻ đi du lịch hay du học, để bảo đảm việc xin visa được chấp thuận, anh đã phải nhắc rằng nếu đương đơn có chửi bới hay nói gì không tốt với nước Mỹ ở trên Facebook, thì phải xóa đi. “Điều này phải được làm sạch trong 5 năm,” anh Tr. nói rằng “đề cập chuyện chính trị thì rất là tế nghị ở Việt Nam vào lúc này bây giờ, nhưng nếu không nói thì xác suất bị rớt Visa rất cao.” Đúng là nhạy cảm. Vì không phải ngẫu nhiên mà một số bài báo nhà nước Việt Nam đã gián tiếp dẫn lại các tâm sự lo sợ của du học sinh Hàn Quốc khi phải “dọn dẹp” tài khoản mạng trước khi phỏng vấn visa. Phải chăng, đó là cách nói để gợi mở vấn đề mà báo chí không dám trực diện đề cập – rằng ở Việt Nam, cũng có cả một “mặt trận truyền thông đỏ” đang vào thế khó. Một chế độ hai mặt và hệ lụy Nhà nước cộng sản Việt Nam từ lâu đã vận hành bằng logic hai mặt: bên ngoài thì bắt tay, ký kết đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ; bên trong thì vẫn nuôi dưỡng hệ thống tuyên truyền chống Mỹ bằng ngôn từ hằn học, phi lý trí và đậm đặc thù hận lịch sử. Những dư luận viên – vốn hoạt động dưới sự chỉ đạo ngầm của hệ thống chính trị – không những được dung dưỡng mà còn được hậu thuẫn để tấn công, bóp méo các giá trị phương Tây. Họ vẫn tự tin rằng lời nói trên mạng là “không dấu vết”, là “không ai biết ai”, và Internet là nơi có thể thoát khỏi mọi ràng buộc. Nhìn vào mối quan hệ Việt-Mỹ, đôi khi thật ngớ ngẩn, với một xã hội đầy những bài viết xuyên tạc, hình ảnh bôi nhọ Mỹ được lan truyền rộng rãi, trong khi các quan chức cao cấp vẫn đều đặn đặt chân đến Washington để đàm phán. Hà Nội đang xum xoe hợp tác để hưởng lợi kinh tế, và mặt khác nuôi dưỡng tư tưởng bài ngoại nhằm củng cố chủ nghĩa dân tộc cực đoan? Câu trả lời có lẽ đã rõ, nhưng chính sách visa mới của Mỹ sẽ khiến trò chơi này khó lòng tiếp diễn. Chính sách mới về nhập cảnh của Mỹ như một tấm gương phản chiếu lại bản chất thật của những người từng rao giảng chủ nghĩa bài Mỹ bằng khẩu hiệu rỗng. Giọng điệu xấc xược quen thuộc vẫn tấn công vào các trang của các Tòa đại sứ hay trang bài liên quan về nhân quyền, chính sách quốc tế… đã có sự “chọn lựa” từ ngữ hơn. Hiển nhiên trong tương lai gần, việc “gột rửa” hồ sơ mạng, xóa bài, đổi tên tài khoản, hay thậm chí thuê dịch vụ “tẩy trắng” quá khứ số, như một hiện tượng đang nở rộ ở Hàn Quốc, nhiều khả năng sẽ âm thầm lan tới Việt Nam. Thực tế đáng buồn và mỉa mai là không ít con cháu của những người từng công khai bài Mỹ lại đang sống yên ổn tại California, Texas, hoặc các bang khác của Mỹ – đi học bằng học bổng, đầu tư bất động sản, sinh con để nhập quốc tịch Mỹ. Họ tận hưởng mọi thành quả của nền dân chủ và tự do, trong khi ở quê nhà, những người cùng lứa tuổi thì được khuyến khích, xả thân để phủ nhận chính những điều ấy. Sự đạo đức giả đó chính là một trong những khủng hoảng niềm tin lớn nhất mà xã hội Việt Nam đang đối mặt. Hầu hết những người trẻ, khi hỏi về ước mơ đi du lịch, hưởng thụ cuộc sống… thường đều chọn Mỹ là nơi để đến một lần trong đời, chứ không phải Trung Quốc hay Nga, các quốc gia “anh em” mà họ vẫn hàng ngày ca ngợi và bảo vệ. Thậm chí khi hiểu những điều tồi tệ thì cũng cố lấp liếm cho qua. Đó chính là sự hỗn loạn trong đời sống Việt Nam: vừa căm ghét Mỹ - phương Tây trên mạng, vừa mơ ước được đặt chân đến trong đời. Lời cảnh báo cho những ai “sống hai mặt” Chính sách visa mới của Hoa Kỳ không chỉ đơn thuần là một biện pháp hành chính, mà còn là thông điệp mạnh mẽ cho giới tuyên truyền cộng sản ở Việt Nam: Bạn không thể vừa mạt sát chúng tôi, vừa muốn sống trong lòng chúng tôi. Bạn không thể vừa hô hào bài Mỹ, vừa nuôi giấc mơ gửi con sang Mỹ định cư. Chính xác là bạn không thể vừa là công cụ tuyên truyền trong nước, vừa kỳ vọng được hưởng tự do ở nước ngoài. Một trật tự mới trên không gian số đang được thiết lập. Sự dối trá sẽ ngày càng khó che đậy, và quá khứ trên mạng sẽ trở thành tấm căn cước lặng lẽ nhưng rõ ràng nhất để người ta đánh giá bạn là ai, bạn đã từng chọn đứng về phía nào. Dù có xóa đi, nó vẫn có thể khôi phục và giới thiệu rõ chân dung về một con người. Thế giới đang dần minh bạch hóa mọi mối quan hệ, và Internet không còn chỗ cho các vỏ bọc gian trá./.
......

Xóm Bình Khang Bảy Viễn 1953 có gì hiểu nhầm?

Lê Bá Vận I. SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN THỜI CUỘC Từ giữa thập niên 1940 đến giữa thập niên 1950 (1945-1955), miền Nam Việt Nam phức tạp. Ngoài Pháp, Cộng sản, Quốc Gia Việt Nam (từ 1949), lại còn quân giáo phái Hòa Hảo (Châu Đốc), giáo phái Cao Đài (Tây Ninh), Bình Xuyên (Quận 8, Sài Gòn) cùng 1 số nhóm nhỏ khác. Năm 1948, Pháp chiêu dụ Binh Xuyên ly khai kháng chiến về thành, gắn lon Đại tá cho Bảy Viễn – Thủ lĩnh Bình Xuyên, giao nhiệm vụ hoạt động quanh Sài Gòn dưới danh xưng Công an Xung phong. Năm 1951, Lực lượng Bình Xuyên giải tỏa thành công con lộ 15 Sài Gòn-Vũng Tàu. Ngày 22/4/1952, Quốc trưởng Bảo Đại phong Bảy Viễn lên cấp Thiếu tướng Quân đội Quốc gia và bổ nhiệm vào chức vụ Tổng trấn Sài Gòn-Chợ Lớn, kiêm nhiệm trông coi ngành Cảnh sát-Công an. Nắm trong tay quyền lực to lớn, vừa là tướng quân đội, vừa nắm toàn quyền ngành an ninh, hiếm ai được như vậy! Bảy Viễn thao túng các hoạt động kinh doanh tệ nạn xã hội, làm chủ sòng bạc Đại Thế Giới (Casino Grand Monde), thành lập khu mại dâm Bình Khang. Trước ngày ký Hiệp định Genève (20/7/1954) chia cắt đất nước, ngày 16/6/1954 Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, kế nhiệm Hoàng thân Bửu Lộc từ chức. Bình Xuyên phải sáp nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng ngầm không phục tùng. Thủ tướng Diệm quyết định dẹp bỏ sòng bạc Đại Thế Giới và bài trừ tệ nạn xã hội, mại dâm. Bình Xuyên bị đe dọa cắt đứt nguồn thu nhập tài chánh, phản kháng, nổi loạn. Song, tháng 5/1955, Quân đội Quốc gia đánh dẹp, lực lượng Bình Xuyên phải rút về Rừng Sác, tan rã dần. Tướng Bảy Viễn đào tẩu sang Pháp, sống sung túc cho đến cuối đời.   II. XÓM BÌNH KHANG RA ĐỜI Bình Khang là nơi ở của các kỹ nữ. Ở Sài Gòn xưa dân gian hiểu là nơi mại dâm hợp pháp để chính quyền kiểm soát, thu thuế và hạn chế tác dụng xấu về thuần phong mỹ tục cho cộng đồng. Năm 1953, tướng Bảy Viễn ra lệnh tất cả địa điểm kinh doanh dịch vụ mại dâm ở thành phố đều phải vào mướn nhà trong xóm Bình Khang. Người bán dâm vào đó hành nghề dưới sự kiểm soát của nhân viên y tế nhà nước. Các tụ điểm mại dâm khác ngoài xóm Bình Khang đều phải có giấy phép và nộp thuế. (1) Trang Nguyên (TRẺ Magazine) viết: “xóm Bình Khang ở đâu? Khi tôi hỏi chuyện này với vài người quen lớn tuổi, ai cũng khẳng định rằng, xóm này ở bến xe Ngã Bảy (bến xe Petrus Ký)… Phía ngoài mặt tiền đường là các tiệm buôn, trên đường Petrus Ký (nay Lê Hồng Phong, Quận 10) xe đò lục tỉnh ra vô tấp nập… Phía bên trong là mê trận các con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo tối tăm, nhà cửa thấp tè, luộm thuộm. Nơi đây là chỗ ngụ cư của dân lao động nghèo kiếm sống ở bến xe, chợ búa ngoài trời xen lẫn các nhà chứa gái…”. Tuy nhiên, những thông tin được nêu trên là sai; sự thực là khác, cần làm sáng tỏ. Trong xóm là các con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo, bốc mùi, ẩm mốc ấn tượng; những ngôi nhà chứa xập xệ, dơ bẩn thì không thể vào mướn nhà để kinh doanh tốt. Tác giả có hỏi chuyện với vài người quen lớn tuổi, song hồi đó họ cũng còn nhỏ. Mặt khác đó là bức tranh đầu thập niên 1990 của xóm Bình Khang cũ (đã bị TT Ngô Đình Diệm dẹp bỏ), được dân chơi nay gọi là xóm Cây Điệp, Ngã Bảy, phát triển gấp bội. (2) Ở đây bán dâm có những “căn hộ nửa ván, nửa bê tông, nền xi măng ẩm ướt, được ngăn cách bởi các tấm nilon đùng đục. Có năm hay sáu ngăn gì đó. Trên gác cũng chia làm nhiều ngăn tương tự…”. Đến đây, ít tốn, trả 5.000 đồng! Khác xa xóm Bình Khang của Bảy Viễn trước đó. Thực sự xóm Bình Khang Bảy Viễn Sài Gòn giai đoạn 1953-1955 ra sao? Năm 1953, Bảy Viễn tập trung các cô gái bán dâm vào một tụ điểm, gọi là ”xóm Bình Khang”, được xây cất khang trang tại khu Ngã Bảy, Quận 10 mà còn khá nhiều đất trống, thưa dân, nếp sống chất phác, an lành. xóm tiên khởi Bình Khang này, chính hiệu, tồn tại gần 3 năm. Do thiếu tài liệu và nhân chứng, các tác giả viết phóng sự sau này hoàn toàn bỏ sót, đánh mất điểm chính then chốt của vấn đề. Hầu hết, mọi tác giả tường thuật đều hiểu nhầm về Bình Khang hậu Bảy Viễn. Sau 1955 thì tình trạng được xem là tồi tệ, nhếch nhác kéo dài đến năm 1995 thì chính quyền dứt khoát dẹp bỏ. Nhà cha mẹ ở miền Trung, tôi vào Huế rồi Sài Gòn học, đỗ Tú tài Pháp (Bac II) và đầu thập niên 1950 ra Hà Nội học ĐH Y. Đến năm 1954, Hiệp định Genève, vào lại Sài Gòn học Y tiếp. Một buổi sáng cuối năm 1954 tôi cùng bạn tò mò, đến thăm, để xem tận mắt cơ sở phòng ốc kinh doanh của Bảy Viễn ở khu Bình Khang, mà lúc trước được nghe nói đến nhiều, khéo tổ chức. Đến nơi tôi không ngạc nhiên khi thấy một công trình khá lớn. Đầu tiên, đây những dãy nhà gạch lợp ngói vững chắc, trông tựa một trường tiểu học hoặc một bệnh viện. Có tường gạch xây bao quanh, kín mít, tọa lạc cách biệt trên một khu đất trống, quang đãng, rộng ước hơn nửa sân bóng đá. Xung quanh không thấy nhà dân ở gần. Nói đúng thì những năm đầu thập niên 1950 ở Sài Gòn, ngoài các vùng đông đúc sẵn như chợ Bến Thành, chợ Cũ, chợ Tân Định… thì dọc đường Trần Hưng Đạo dẫn xuống Chợ Lớn, dọc đường Lê Văn Duyệt (nay CMT8)… nhà cửa còn thưa thớt, xen đất bỏ hoang. Khu Bàn Cờ ở Quận 3 còn nhiều đầm lầy, bèo rau thưa thớt. Một lần tôi đi xe đạp ngang qua, suýt té xuống vũng nước rau bèo vì vướng một sợi dây thép treo băng ngang đường, khó thấy. Nhớ mãi! Trở lại với khu Bình Khang. Mặt tiền có trổ cổng lớn ra vào, có lính Bình Xuyên mũ bê rê xanh ngồi và đứng canh nghiêm chỉnh, không gây sợ hãi mà còn có cảm giác tin tưởng. Bên cạnh là một quầy bán vé (ticket), mỗi ticket giá 100 đồng. Cơ sở bán dâm, có bán vé vào cửa, thật độc đáo! Trong suốt thập niên 1950 giá cả sinh hoạt ổn định. 100 đồng lúc bấy giờ là một số tiền lớn đối với dân lao động nghèo. Giá một bữa cơm là 4-5 đồng ở hàng, quán ăn bình thường. Ở nhà tự nấu ăn thì rẻ hơn nhiều. Tiền ăn ở trọ cho học sinh (sinh viên) là 400 đến 500 mỗi tháng tùy nhà cửa rộng hẹp. Đi học xa nhà, ăn ở trọ nhiều nơi như Sài Gòn hay Hà Nội thì tôi tất biết. Ở Hà Nội thì rẻ hơn. Có ticket cầm tay, khách vào cổng đi thẳng, chẳng ai gọi khám xét, hoặc trình giấy tờ. Qua một sân nhỏ bước vào ngôi nhà ngay chính giữa. Có nhiều cô gái trong căn phòng lớn. Năm sáu cô thấy khách chạy ùa đến tíu tít, khách vừa ngồi xuống ghế thì các cô kẻ níu tay, người quàng vai, mời mọc, khó thoái thác. Các cô trông đều trẻ, đều trang điểm đẹp đẽ sàn sàn ngang nhau, mỗi người một vẻ. Nhưng dù có người đẹp hơn hẳn, tài mạo song toàn cỡ cô Kiều, đàn ca múa hát đều giỏi thì ở đây cũng vô dụng. ‘Cá đối bằng đầu’ giá cả đồng hạng, là ticket 100 đồng. Gặp lúc đông khách thì dám hết chọn? Vớ được một cô, khỏi chờ đợi là tốt rồi! Trao ticket cho một cô vừa ý, khách đi cùng nàng đến một dãy nhà kế cận, vào một căn phòng còn trống. Mở cửa thấy phòng khá rộng, ước độ 9-10 mét vuông, trang nhã, tươm tất, dù bày biện khá đơn sơ. Một giường đôi, có nệm gối vải trắng tinh, ngay ngắn, kê sát tường và có gắn gương soi chạy dọc. Ngoài ra, trong phòng còn có một tủ gỗ thấp; có nhiều hộc chứa bao gối, khăn trải giường và một bồn lavabo rửa tay có đặt giỏ rác ở dưới. Thời lượng ngầm của ticket là nửa giờ. Chẳng mấy chốc thấy khách y phục chỉnh tề, mở cửa phòng vội vã ra về, ít kẻ nán ở lại tâm sự thêm. Ra cổng khách đi thẳng không ai để ý hỏi. Khu Bình Khang này thấy mở cửa suốt đêm ngày. Tấp nập nhất là từ chiều tối và ngày lễ. Ngoài bán dâm ở đây không mở dịch vụ nào khác (ca nhạc, ăn uống…). Trong nhà thấy chỉ các mỹ nhân, tự quản lý với nhau. Ai mệt nhọc thì vào phòng nằm nghỉ. Nghỉ nhiều thì đánh mất cơ hội kiếm ticket! Khách vào chơi an tâm được pháp luật che chở, nhà cửa, phòng ốc đàng hoàng và kẻ bán hoa được bảo đảm không ai quấy rầy. Trùm du đãng, băng đảng giang hồ nào dám đụng chạm vuốt râu hùm lính cảnh sát an ninh Bình Xuyên, dữ như cọp! Khu Bình Khang được Chính phủ TT Diệm ra lệnh chính thức đóng cửa ngày 1/12/1955, tính ra đã hoạt động chưa trọn ba năm. Sau Bảy Viễn, mại dâm trở lại lén lút và giá 100 đồng một lượt đi khách được giữ là giá “chuẩn”. Tuy nhiên, khách nay không còn nhiều giai nhân để lựa chọn như hồi ở xóm Bình Khang trước đó. Người dắt mối hoặc chủ chứa chỉ đưa ra một cô em. Khách còn nỗi sợ nhân viên kiểm tục nên hối hả. Chẳng bì đến lầu xanh mụ Tú Bà hồi xưa an toàn, có nhiều kỹ nữ để chọn theo giá cả. Lại có thể: “Cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm”. Tiền ít thì gái kém sắc, lớn tuổi. Khu Bình Khang cũ bây giờ ra sao, còn dấu tích gi? Tiếc thay tôi không có dịp viếng lại nơi xưa. Thương tình các em gái xinh tươi năm nào, thân gái lưu lạc về đâu, Bình Khang đóng cửa! Đầu thập niên 1990, mại dâm vẫn còn là một vấn nạn nghiêm trọng ở TP Hồ Chí Minh. Nhiều cô gái đứng đường hoặc la cà trong các công viên đón khách. “Thành phố từng muốn gom tất cả các cơ sở kinh doanh dịch vụ, nhạy cảm vào một chỗ để dễ quản lý. Các nữ tiếp viên sẽ được trả lương, đóng bảo hiểm, khám sức khỏe định kỳ và được pháp luật bảo vệ”. (3) Ở Bắc Kỳ thời Pháp thuộc cũng đã có những dự trù tương tự. (Vũ Trọng Phụng. Lục Xì 1937). Với quyền lực Bảy Viễn làm được, trải nghiệm độc đáo; song ý đồ là thu lợi nhuận, là trục lợi. Thực tế Bảy Viễn đã làm chủ cơ đồ Bình Khang do ông xây dựng được 2 năm vài tháng. Điều này là chắc chắn. Hai năm rõ mười. Tháng 5/1955, quân Bình Xuyên thua trận, bỏ chạy về Rừng Sác, cầm cự cho đến cuối năm thì đầu hàng và tiêu diệt. TT Diệm ra lệnh đóng cửa xóm Bình Khang vào ngày 1/12/1955. Có một khoảng trống thời gian về quản lý cần tìm hiểu. Một bộ phận dân sự của Bình Xuyên đứng canh tại cổng khu Bình Khang còn tồn tại? Tình cảnh các cô gái, con em, con cháu chúng ta lắm lúc bi đát gây cảm khái, lòng bất nhẫn. Nhà cầm quyền không thể nhắm mắt làm ngơ mà phải tận lực có biện pháp giúp đỡ.   ___________________ Tham khảo: (1) Trang Nguyên (TRẺ Magazine. Xóm Bình Khang. Jul 7, 2022) (2) WordPress.com- Nov 25,2022: https://anle20.wordpress.com/2022/11/25/chuyen-ve-xom-binh-khang-khu-mai-dam-lon-nhat-sai- gon-mot-thoi/ (3) Xóm Bình Khang. VnExpress. Dec 28, 2015  
......

Tự do báo chí và lời nhắn gửi từ Phan Đăng Lưu

Vũ Đức Khanh Ngày 10 tháng 11 năm 1938, nhà cách mạng Phan Đăng Lưu viết một bài ngắn mang tên “Về tự do báo chí”, đăng trên báo Dân Tiến. Chỉ trong vài trăm chữ, ông đã phác họa một cách sâu sắc vai trò và bản chất của tự do báo chí – không chỉ như một công cụ truyền thông, mà như một biểu hiện căn bản của một xã hội dân chủ và nhân bản. Gần một thế kỷ đã trôi qua. Câu hỏi đặt ra là: Nếu ông Phan Đăng Lưu sống lại vào năm 2025, ông sẽ nghĩ gì về nền “báo chí cách mạng” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang ca ngợi và điều hành? Câu trả lời, nếu trung thực, chắc chắn sẽ khiến nhiều người phải đỏ mặt. Báo chí – Sống nhờ vào dân hay nhờ vào Đảng? Ngay ở luận điểm đầu tiên, Phan Đăng Lưu đã nói rõ: “Khi các báo được tự do xuất bản thì chỉ những tờ báo có dân chúng ủng hộ mới có thể sống.” Đây là một nguyên lý căn bản: Báo chí sống bằng niềm tin và sự ủng hộ của công chúng. Nhưng tại Việt Nam hôm nay, báo chí không cần dân chúng để tồn tại. Các cơ quan báo chí không phải là doanh nghiệp độc lập, mà là “cơ quan ngôn luận” của các tổ chức đảng, đoàn, bộ ngành – sống nhờ ngân sách nhà nước hoặc doanh thu từ quảng cáo mang tính chính trị. Không có cạnh tranh thực sự. Không có tự do lựa chọn thông tin. Và quan trọng hơn, không có sự kiểm chứng của công luận. Điều này lý giải vì sao người dân Việt Nam ngày càng quay lưng với báo chí nhà nước và tìm đến mạng xã hội – nơi dẫu hỗn loạn nhưng ít nhất còn có tiếng nói phản biện. Báo chí – đại diện cho dân hay công cụ của nhà nước? Ông Phan Đăng Lưu khẳng định rằng: “Một tờ báo đã sống, đương nhiên nó đại diện cho một tầng lớp dân chúng, nó diễn đạt tất cả hoài vọng và chí hướng của dân ấy.” Nhưng báo chí cách mạng Việt Nam ngày nay lại là công cụ để diễn đạt ý chí của Đảng, không phải của nhân dân. Những tờ báo lớn như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Báo Đảng địa phương… đều mang danh là cơ quan tuyên truyền chính sách – nghĩa là “nói cho dân nghe” chứ không phải “nghe dân nói.” Mọi sự kiện nhạy cảm – từ các cuộc biểu tình môi trường, các vụ cưỡng chế đất đai, tham nhũng nội bộ – đều bị kiểm duyệt, cấm đưa tin hoặc bị định hướng theo cách đánh tráo bản chất vấn đề. Báo chí không được điều tra sự thật, mà chỉ được thuật lại “chỉ đạo.” Tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền – nếu nhà cầm quyền không sợ sự thật Một lập luận sâu sắc khác của Phan Đăng Lưu là: “Tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền.” Ông nhấn mạnh: Nếu chính quyền là chính danh, nếu họ tự tin vào năng lực lãnh đạo, thì báo chí tự do sẽ giúp họ nhận diện sai lầm để điều chỉnh. Ngược lại, chỉ những chính quyền lo sợ mất độc quyền tư tưởng, sợ dân biết sự thật, mới đàn áp báo chí độc lập. Không ngạc nhiên khi Việt Nam luôn nằm trong nhóm 10 quốc gia tồi tệ nhất thế giới về tự do báo chí, theo tổ chức Reporters Without Borders. Các nhà báo độc lập, blogger phản biện, hay những Facebooker dám lên tiếng đều đối diện với các cáo buộc mơ hồ như “lợi dụng quyền tự do dân chủ” hay “tuyên truyền chống Nhà nước.” Nếu Phan Đăng Lưu sống lại, ông sẽ nói gì? Thật cay đắng khi một người như Phan Đăng Lưu – người từng đấu tranh dưới thời thực dân Pháp để đòi quyền tự do báo chí – lại bị gán ghép là “tiền bối” của một mô hình báo chí hiện nay, vốn phản lại những giá trị tự do mà ông theo đuổi. Ông sẽ hỏi: Tại sao sau bao năm đấu tranh giành độc lập, Việt Nam vẫn không có một nền báo chí tự do đúng nghĩa? Ông sẽ đau xót khi thấy báo chí bị biến thành “loa phát thanh” thay vì “ánh sáng dẫn đường.” Và có lẽ ông sẽ lên tiếng để nhắc nhở rằng: Tự do báo chí không phải là một đặc ân để ban phát, mà là một quyền phổ quát để bảo vệ sự thật, công lý và phẩm giá con người. Một quốc gia không có tự do báo chí là một quốc gia mù lòa Việt Nam có thể phát triển kinh tế, xây cầu, mở khu công nghiệp – nhưng nếu không có báo chí tự do, thì nền phát triển ấy đứng trên một nền tảng dễ sụp đổ: Không có sự thật, không có minh bạch, không có kiểm soát quyền lực. Trong thế kỷ 21, nơi thông tin là tài sản lớn nhất, một quốc gia không có tự do báo chí là một quốc gia đang tự che mắt mình. Nếu cần một lời kết… Tôi viết bài này không phải để công kích hay phủ định toàn bộ những gì Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm. Nhưng tôi tha thiết mong rằng, những đảng viên vẫn còn tự hào là người cộng sản chân chính, có tâm huyết và trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, hãy một lần tự vấn mình. Hãy đọc lại bài viết của Phan Đăng Lưu – không chỉ như một di sản lịch sử, mà như một lời cảnh tỉnh vang vọng đến hôm nay. Nếu Việt Nam thực sự muốn bước ra khỏi cái bóng của độc quyền tư tưởng, muốn xây dựng một xã hội văn minh, minh bạch và nhân bản, thì báo chí phải được trả lại cho xã hội, cho công chúng – chứ không thể mãi là công cụ tuyên truyền phục vụ cho một nhóm người cầm quyền. Bởi vì, tự do báo chí, xét đến cùng, không bao giờ là mối đe dọa với bất kỳ chế độ nào – trừ khi chế độ ấy sợ đối diện với sự thật. _____ Ghi chú: Bài viết này được khơi nguồn từ văn bản gốc của Phan Đăng Lưu đăng trên báo Dân Tiến ngày 10/11/1938, kết hợp với đối chiếu thực trạng báo chí Việt Nam năm 2025. Tư liệu được tham khảo từ trang Facebook của cựu ký giả Phuc Hoang, ngày 21/06/2025.
......

Ông Tô Lâm cổ súy kinh tế tư nhân, nhưng bằng tư duy thời Lê Duẩn

Dư Lan Khác các nhà lãnh đạo cộng sản khác, Tổng Bí thư Tô Lâm muốn phát triển kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, cách làm của hệ thống chính trị mà ông mới nắm quyền lãnh đạo chưa lâu vẫn giống như hệ thống dưới thời các nhà lãnh đạo cộng sản khác: áp đặt và bạo lực. Hậu quả là những nghị định, nghị quyết có thể vốn có mục đích tốt đẹp, từ Nghị định 168 về giao thông vào tháng 1 năm 2025 đến nghị quyết khiến cho tiểu thương buộc phải giao dịch bằng chuyển khoản vào tháng Năm 2025, lại tạo ra hỗn loạn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Là người sinh ra từ chế độ đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cho đến thời điểm này, vẫn bị nhốt trong bẫy thể chế.  Ông Tô Lâm hiện là nhà lãnh đạo có quyền lực bao trùm, với tầm ảnh hưởng mạnh mẽ lên tất cả các trụ cột quyền lực khác của bộ máy nhà nước. Ông muốn “cải cách” để đất nước “vươn mình”. Tuy nhiên, các trụ cột quyền lực này vẫn hoạt động theo cách cũ, đã ra những quyết định nhanh chóng đến mức không cho người dân thời gian cần thiết để chuẩn bị về nguồn lực và kĩ năng. Quốc hội của ông ra nghị quyết giữa tháng Năm thì chính phủ của ông thực thi ngay hai tuần sau. Người dân không kịp trở tay, tiểu thương cả nước đồng loạt đóng cửa vì sợ hãi. Chính phủ của ông lại huy động công an đi kiểm tra những cửa hàng có hàng hóa không hóa đơn. Nó khiến tiểu thương khắp cả nước đóng cửa, nền kinh tế gần như dừng hoạt động. Cách làm này của hệ thống chính trị không khác gì hệ thống dưới thời một lãnh tụ cộng sản khác, hoàn toàn đối lập với ông Tô Lâm về mục tiêu ý thức hệ: Lê Duẩn. Phát triển kinh tế kiểu Lê Duẩn: đánh tư sản miền Nam Đổi tiền bất ngờ, áp đặt giá trị đồng tiền một cách cưỡng bách, làm cho toàn bộ tiền tiết kiệm của người dân Miền Nam thành giấy vụn chỉ trong một đêm. Đánh úp doanh nghiệp tư nhân, ra quân đồng loạt, xông vào các công ty tư nhân, tịch thu tài sản, bắt giữ một số chủ doanh nghiệp, một số đông bị đưa đi vùng kinh tế mới. Đó là những gì ông Lê Duẩn đã làm sau chiến thắng quân sự đối với VNCH năm 1975. Mục đích của Lê Duẩn rất tốt đẹp. Ông muốn Sài Gòn tư sản xe hơi chạy đầy đường “theo kịp” Hà Nội trâu bò đi lại thong dong trên phố. Cả nước tiến lên thiên đường cộng sản. Hậu quả: xóa sổ hoàn toàn nền kinh tế tư nhân ở Miền Nam. Người dân chìm trong đói nghèo, xã hội chìm trong khủng hoảng, quốc lực suy kiệt. Ngày nay, ông Tô Lâm cũng ôm ấp những ước mơ tốt đẹp. Singapore năm 1965 chỉ là một làng chài, thua xa Sài Gòn, ngày nay thu nhập bình quân đầu người hơn 90 ngàn đô la một năm, vượt xa Việt Nam. Việt Nam phải vươn mình, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành một nước giàu mạnh. Muốn vậy phải phát triển khoa học công nghệ, phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, phải xây dựng tầng lớp doanh nhân dân tộc. Đó là tư duy của ông Tô Lâm. Tư duy đó của ông Tô Lâm trái ngược với Lê Duẩn một cách căn bản về mặt ý thức hệ. Nhà lãnh đạo quá cố sử dụng lực lượng vũ trang để tiêu diệt doanh nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà lãnh đạo đương nhiệm muốn phát triển doanh nghiệp tư nhân. Thế nhưng, liệu ông Tô Lâm có thể đem lại kết quả khác, nếu hệ thống chính trị mà ông kế thừa vẫn làm việc theo cách cũ? Hệ thống của ông Tô Lâm vẫn chỉ là Lê Duẩn 2.0? Nghị định 168: ảnh hưởng vận tải, khi chế tài thời gian lái xe của tài xế đường dài, một quy định khiến cho các công ty vận tải và tài xế không thể đáp ứng trên thực tế, hoặc để đáp ứng thì phải tăng chi phí lên rất lớn. Đối với tầng lớp tiểu thương với hàng triệu hộ gia đình thì quản trị bằng cách đánh úp và dùng công an. Trong khi những nước giàu có như Trung Quốc không đánh thuế kinh doanh nhỏ, Hoa Kỳ có đánh thuế nhưng lại hoàn thuế một cách tự động dựa theo doanh thu để hỗ trợ cho kinh doanh nhỏ, Việt Nam đột ngột bắt phải hàng triệu hộ tiểu thương phải có hóa đơn đầu vào và đầu ra, trong khi bản chất của kinh doanh nhỏ có rất nhiều thứ không thể có hóa đơn. Khi nền kinh tế phi chính thức gần như tê liệt toàn quốc, chính quyền huy động công an đi khám xét tiểu thương có hàng hóa không hóa đơn đầu vào. Câu hỏi đặt ra là tại sao Tổng Bí thư Tô Lâm có quan điểm ngược với ông Lê Duẩn nhưng hệ thống của họ lại gây ra những hậu quả gần giống nhau là nền kinh tế tê liệt. Tại sao ông Tô Lâm không thể hay không làm khác Lê Duẩn, dù phương hướng trái ngược nhau? Tại sao cả hai hệ thống đều thích dùng biện pháp cưỡng bách trong điều hành kinh tế? Theo nhiều nhà nghiên cứu, câu trả lời vẫn nằm ở cái gốc là thể chế. Theo ông Hồ Như Ý, nhà nghiên cứu độc lập về Trung Quốc ở Ba Lan, Lê Duẩn khác với Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc ở chỗ đầu óc của ông bị Liên Xô hoá quá mạnh. Lê Duẩn thậm chí sửa đổi nhiều di sản của Hồ Chí Minh theo hướng sao chép Liên Xô. Cho đến ngày nay, hệ thống đó chưa thay đổi một cách cơ bản mà chỉ thay đổi theo cách vá víu phần ngọn, tuỳ theo tình thế bắt buộc. Ông Tô Lâm là người kế thừa hệ thống này, và rất khó để thoát ra, trừ khi ông Tô Lâm đủ mạnh mẽ và tầm nhìn. Mặc dù nắm quyền lực tối cao, là người sinh ra từ thể chế đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cho đến thời điểm này, vẫn bị nhốt trong bẫy thể chế. Hiện những gì ông Tô Lâm có thể làm chỉ là cải cách hành chính, không khác gì sử dụng cao hoàn toán, thuốc mỡ ngoài da để chữa ung thư huyết. Nói cách khác, ông chỉ làm gọn bộ máy, chứ không thay đổi cấu trúc. Một cấu trúc không khác thời Lê Duẩn lắm thì cách làm của hệ thống đó cũng khó mà khác biệt một cách căn bản. Đó là nhận xét của nhà nghiên cứu Hồ Như Ý. Ông nói: “Cả ông Lê Duẩn và ông Tô Lâm tuy tư duy trái ngược nhau nhưng họ đều chung một tổ tiên tinh thần là chủ nghĩa toàn trị của Lenin. Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc thì khác. Ông Đặng đã Tây phương hoá rất mạnh về tư duy. Những cải cách hành chính hiện tại ở Việt Nam đơn giản là không có tác dụng gì cả. Chưa cần có những từ ngữ đao to búa lớn gì, chỉ khi Việt Nam sửa đổi những căn bản trong hiến pháp, chẳng hạn mở cửa về báo chí, cải cách về tư pháp thì mới có động lực căn bản để khích lệ kinh tế tư doanh. Vì sao? Vì kinh tế tư nhân cần có công cụ để tự vệ là tự do báo chí và tư pháp vững mạnh, trong sạch. Sửa đổi tư pháp không chỉ là các từ ngữ sáo rỗng trên giấy, quan trọng là chính phủ phải đi đầu trong việc thực thi một cách rõ ràng những luật pháp mà họ đưa ra trước, có như vậy thì xã hội mới có niềm tin bước đầu để xây dựng pháp chế vững mạnh, hội nhập với dòng chảy văn minh thế giới, từng bước tạo dựng thể chế pháp trị, minh bạch hoá...” Theo nhà nghiên cứu Hồ Như Ý, đây mới là cái gốc rễ, căn bản của vấn đề. Hiện tại Việt Nam đang dùng ưu thế của quốc gia phát triển đi sau để tăng trưởng kinh tế. Một khi dùng hết phúc lợi dân số, kinh tế Việt Nam mất đi sức cạnh tranh, khi đó sẽ vĩnh viễn không thể trở thành một quốc gia phát triển được. Vũng lầy thể chế cần có quyết tâm lớn, tầm nhìn xa để mà bước đi. Để làm được điều đó thì chế độ cần rất nhiều kiểu người tài khác nhau, còn các tướng công an chỉ có thể dùng để bảo vệ cái gốc rễ là an ninh, không thể dùng cho phát triển được. “Đối mặt nan đề này, cách giải quyết cần đồng bộ, từ thực thi luật pháp trong việc quan lý thị trường, đánh hàng lậu, thay thế và phổ cập hệ thống thuế, tạo hoá đơn... không thể một lúc ăn hai bát cơm rồi bùng lên thành Thánh Gióng. Có vẻ người Việt Nam từ quan tới đân đều khoái làm Thánh Gióng. Cái này là bất khả thi.” Đó là nhận xét của nhà nghiên cứu về Trung Quốc ở Ba Lan. Ý định tốt, nhưng càng hành động càng xa mục đích Nhìn từ phía quản lý nhà nước, việc minh bạch dòng tiền vào và ra tại mỗi doanh nghiệp là việc bất kì quốc gia phát triển nào cũng làm một cách nghiêm ngặt. Báo Tiền Phong dẫn lời một nhà quản lý sàn thương mại điện tử cho biết nếu xét nghiêm ngặt về hoá đơn đầu vào, chỉ 2% hàng hóa trên các sàn thương mại điện tử được coi là hợp pháp. Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh đó là vấn nạn mà chắc chắn là chính quyền nào cũng phải làm. Tuy nhiên, khi Việt Nam thực thi điều đó, kinh tế tư nhân gặp rủi ro: Hàng triệu hộ kinh doanh đóng cửa khắp cả nước. Theo Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ, vấn đề của Việt Nam là không xác định được làm cái gì trước, cái gì sau, để không làm cho thị trường đóng băng và lại đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Ông lấy ví dụ một cái áo giả hiệu Adidas nó khác với một viên thuốc giả. Cho nên chính quyền trước hết phải xử lý các vấn nạn về thuốc giả, thực phẩm giả… Khi xử lý xong, tạo được lòng tin của nhân dân thì mới tiến tới những mặt hàng giả khác. Lúc đó sẽ nhận được sự ủng hộ của dân chúng. Mặt khác, không thể quy chụp bất cứ mặt hàng nào tiểu thương mua vào mà không có hoá đơn cũng là hàng giả, không có nguồn gốc. Đặc thù của kinh doanh nhỏ là có rất nhiều giao dịch không có hoá đơn. Do đó, cần phải cho hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ này một khoảng thời gian hợp lý để chuẩn bị thay đổi, không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của họ. Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ nhận xét trước thực trạng hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ đóng cửa khắp cả nước từ hôm Một tháng Sáu đến nay: “Dù hoàn cảnh và quy mô khác nhau, hậu quả mà ông Tô Lâm và ông Lê Duẩn gây ra cho nền kinh tế khá là giống nhau, bởi vì cả hai đều đến từ não trạng muốn chỉ huy nền kinh tế, muốn nền kinh tế làm theo ý mình, và muốn nền kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách quốc gia. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, rất nhiều hộ doanh nghiệp nhỏ không có hoá đơn, và vì thế người mua hàng của họ cũng phải chấp nhận thực tế đó. Khi mua hàng không có hoá đơn rõ ràng thì khó mà chứng minh nguồn gốc hàng hoá. Hơn nữa, đối với các hộ doanh nghiệp gia đình, nơi mà doanh thu và lợi nhuận quá thấp, việc phải đầu tư thêm các công cụ để làm kiểm toán và theo dõi doanh thu thực sự làm cho chi phí kinh doanh tăng lên gấp nhiều lần”. Việt Nam đánh tiểu thương, Trung Quốc hưởng lợi Với một tâm lý sợ hãi kinh doanh bao trùm và việc đóng cửa hàng loạt, trước sau gì hàng Trung Quốc cũng sẽ chiếm lĩnh thị trường và đẩy lùi hàng Việt Nam ngay chính trong sân nhà của mình. Đó là hậu quả nhãn tiền, theo lời cảnh báo của TS. Nguyễn Huy Vũ. Nói cách khác, chính sách của Việt Nam không hỗ trợ sản xuất trong nước mà hỗ trợ sản xuất của Trung Quốc, dù họ không muốn như vậy. Buôn bán nhỏ trong nước bị áp thuế nên phải tăng giá, trong khi hàng tiêu dùng Trung Quốc có thể đến thẳng từng gia đình qua thương mại điện tử. Cách đây hơn một năm, RFA đã cảnh báo về hệ thống tổng kho dọc biên giới mà Trung Quốc đã hoàn thành từ lâu. Hàng hoá bán lẻ xuyên biên giới, gần như chủ yếu đến từ Trung Quốc, từ lâu đã tràn ngập trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, TikTok Shop, Lazada… Theo một doanh nhân trong nước, hàng hoá Trung Quốc tràn vào Việt Nam thông qua các sàn thương mại điện tử hiện nay chỉ chịu thuế giá trị gia tăng VAT 10%, nhưng chỉ áp dụng cho đơn hàng trên một triệu đồng. Các công ty Trung Quốc có thể chia nhỏ món hàng xuống dưới một triệu đồng để tránh thuế, tương tự như họ chia nhỏ món hàng xuống dưới 800 đô la để tránh thuế khi đưa hàng vào Hoa Kỳ. Trong khi đó, các hộ kinh doanh nhỏ lẻ của Việt Nam cũng như các doanh nghiệp sản xuất nhỏ trong nước phải kê khai và nộp thuế minh bạch, dựa trên doanh thu. Nếu như Hoa Kỳ có chính sách “khấu trừ thuế tiêu chuẩn” cho các doanh nghiệp nhỏ, cá nhân kinh doanh nhỏ mà không căn cứ trên hóa đơn đầu vào, Việt Nam không có chính sách như vậy. Trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một chuyên gia công nghệ và kinh doanh với nhiều năm kinh nghiệm làm việc ở Trung Quốc và Đông Nam Á, cho biết doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh nhỏ ở Trung Quốc còn không phải gánh chịu những chi phí vận tải quá lớn như ở Việt Nam. Lý do là hệ thống giao thông vận tải của Trung Quốc hoàn toàn trong sạch, tương tự như các nước văn minh, tuyệt đối không có hiện tượng mãi lộ. Gần đây, chính quyền cho cán bộ đi “đánh úp” hàng tồn kho của các hộ kinh doanh nhỏ, tịch thu nếu họ không có hoá đơn đầu vào. Điều này gây ra sự hoảng sợ thực sự trong giới tiểu thương. Hậu quả là người tiêu dùng Việt Nam sẽ ngả sang hàng Trung Quốc do giá cả rẻ hơn, hàng Việt bị chèn ép đến mức không sản xuất được, mà nếu sản xuất được cũng khó mà bán được. Nền kinh tế bị chiếm hữu từng bước, nhà nước thất thu thuế, trong khi hàng tỷ đô la thông qua các sàn thương mại điện tử đang chảy ra nước ngoài. Trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn nói: “Việt Nam không chống hội nhập, nhưng cũng không thể hội nhập một cách máy móc, áp đặt với tốc độ quá nhanh, gây ra hậu quả chính mình không lường trước là làm cho doanh nghiệp nhỏ Việt Nam không kịp trở tay và bị thiệt hại. Muốn kinh tế tư nhân Việt phát triển được thì cần thiết kế một sân chơi công bằng và có lợi cho doanh nghiệp mình. Nếu Việt Nam không điều chỉnh kịp thời, vẫn là cái chợ Việt Nam đó nhưng hàng hoá là hàng ngoại nhập, nhà nước không thu được thuế còn ngoại tệ thì chảy ra nước ngoài”. RFA
......

Dân chủ và phát triển: những huyền thoại cần hóa giải và hòa hợp cho Việt Nam

Vũ Đức Khanh   Dân chủ không phải là xa xỉ phẩm của những nước giàu, mà là điều kiện để một quốc gia trở nên giàu có một cách công bằng, chính đáng và lâu dài.   Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị cho Đại hội Đảng XIV giữa một thế giới đầy biến động, câu hỏi về mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Một số người tiếp tục lập luận rằng tăng trưởng kinh tế có thể được duy trì mà không cần dân chủ, thậm chí còn cho rằng dân chủ phương Tây là nguyên nhân của bất ổn xã hội, bất công và trì trệ. Nhưng quan điểm này bỏ qua sự thật cơ bản: tăng trưởng không đồng nghĩa với phát triển bền vững, và ổn định không có nghĩa là tiến bộ. Đã đến lúc Việt Nam cần hóa giải những huyền thoại về dân chủ và phát triển, để tìm kiếm một mô hình hòa hợp hơn cho thế kỷ XXI.   Mô hình Singapore: Ảo ảnh về phát triển không dân chủ Singapore thường được dẫn ra như hình mẫu của phát triển không cần dân chủ. Đây là lập luận được giới lãnh đạo Việt Nam nhắc lại nhiều lần để củng cố cho mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng sự thật là Singapore là một ngoại lệ, không phải quy luật. Đó là một quốc gia-thành phố, dân số chỉ tương đương một vài quận lớn ở Sài Gòn (TP.HCM), với điều kiện địa chính trị, nhân khẩu và lịch sử hoàn toàn đặc thù. Việc trích dẫn Singapore để biện minh cho mô hình “phát triển không cần dân chủ” ở Việt Nam là một thao tác tù mù về mặt học thuật và lừa mị về mặt chính trị. Nhiều quốc gia độc tài khác từng cố sao chép mô hình Singapore — như Kazakhstan, Belarus, Turkmenistan hay Ai Cập — đều rơi vào khủng hoảng thể chế, với các thể chế pháp trị yếu, xã hội dân sự bị bóp nghẹt và nền kinh tế lệ thuộc vào ngoại viện hoặc tài nguyên thô. Miến Điện (Myanmar: 2011-2021) trước cuộc đảo chính ngày 1 tháng Hai năm 2021 từng được xem là ví dụ của mở cửa kinh tế kiểu “độc đoán mềm”, nhưng sự thiếu dân chủ đã khiến đất nước nhanh chóng trượt vào hỗn loạn khi quân đội đảo chính. Những ví dụ này cho thấy: thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, sự phát triển dựa trên ổn định cưỡng ép chỉ là tạm bợ và nguy hiểm.   Từ Đài Loan, Hàn Quốc đến Ba Lan: Dân chủ vẫn có thể ổn định và thịnh vượng Thay vì Singapore, Việt Nam nên nhìn về những quốc gia đã chuyển hóa thành công từ mô hình phát triển độc đoán sang dân chủ mà không đánh mất tăng trưởng và ổn định. Đài Loan và Hàn Quốc là hai ví dụ điển hình: cả hai đều từng là chế độ quân sự hoặc độc tài đảng trị, nhưng bằng các cải cách dân chủ trong thập niên 1980–1990, họ đã xây dựng được xã hội dân sự năng động, nền pháp trị hiệu quả và nền kinh tế dựa trên sáng tạo, công nghệ cao. Cả hai hiện là những quốc gia tiên tiến, có thu nhập cao và có chỉ số dân chủ lẫn năng lực quản trị cao hơn nhiều quốc gia độc tài giàu tài nguyên. Ba Lan là một trường hợp đặc biệt đáng chú ý. Là quốc gia từng nằm trong khối xã hội chủ nghĩa, Ba Lan bước vào quá trình chuyển đổi dân chủ đầy thách thức sau 1989, nhưng vẫn giữ được tính chủ động chính trị, tránh lệ thuộc hoàn toàn vào Đông hay Tây. Mô hình Ba Lan chứng minh rằng sự hòa giải lịch sử và cải cách thể chế có thể cùng tồn tại với phát triển kinh tế và bản sắc dân tộc.   Việt Nam và bài toán hòa hợp: Thế kỷ XXI cần một mô hình mới Mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Việt Nam đang theo đuổi không còn đáp ứng được yêu cầu của một xã hội năng động, đa dạng và có khát vọng hội nhập toàn diện. Đây là một biến thể của mô hình Trung Quốc thời Giang Trạch Dân – nơi ưu tiên kiểm soát chính trị, coi nhẹ các quyền tự do cơ bản và đánh đổi năng lượng sáng tạo của xã hội để giữ lại sự độc quyền quyền lực. Trong một thế giới đang dịch chuyển theo hướng đa cực, mô hình này không chỉ lạc hậu mà còn tiềm ẩn những bất ổn lâu dài cho chính tính chính danh của nhà nước. Đã đến lúc Việt Nam cần xác lập một tầm nhìn phát triển mới: thay vì đặt ổn định lên trên dân chủ, hãy hiểu rằng một nền dân chủ thực chất, với pháp quyền mạnh mẽ, tự do báo chí và xã hội dân sự lành mạnh, chính là nền tảng vững chắc nhất cho phát triển bền vững. Dân chủ không phải là xa xỉ phẩm của những nước giàu, mà là điều kiện để một quốc gia trở nên giàu có một cách công bằng, chính đáng và lâu dài. Chỉ khi dám từ bỏ những huyền thoại cũ và hướng đến sự hòa hợp giữa tự do và phát triển, Việt Nam mới có thể thật sự bước vào thế kỷ XXI như một quốc gia có phẩm giá. Để xây dựng một nước Việt Nam mới tự do, dân chủ và thịnh vượng cho toàn dân, chúng ta cần một mô hình không dựa trên nỗi sợ, mà dựa trên niềm tin vào người dân và tiềm năng khai phóng của toàn xã hội. (VNTB)    
......

Giải cứu công dân: CSVN tranh thủ cơ hội kiếm tiền, kiếm danh

 Cảnh Chân CSVN vừa có thông báo về việc đưa 681 công dân Việt Nam từ các tụ điểm lừa đảo ở Myanmar về nước. Trong đó có mấy vấn đề đáng lưu tâm. Một là các nạn nhân bị cưỡng bức lao động và mua bán người này sẽ phải đóng 12,2 triệu đồng cho Cục Lãnh sự Việt Nam để lo chi phí về nước. Bao gồm tiền thuê phương tiện đường bộ, chi phí ăn uống trên đường di chuyển, tiền vé máy bay thương mại và lệ phí cấp phát giấy tờ đi lại phù hợp. Theo nhà chức trách CSVN, hiện nay Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài đã gửi thông báo qua các địa phương nơi công dân sinh sống để yêu cầu nhân thân, gia đình nộp tiền tạm ứng. Đặc biệt, sau khi nhận được tiền tạm ứng, quỹ sẽ lập danh sách, thông báo để các cơ quan đại diện chi cho việc thuê phương tiện, mua vé máy bay đưa công dân về nước, cấp phát giấy tờ đi lại cần thiết… (1) Tức là những công dân Việt Nam bị lừa vô các hang ổ tội phạm phải tự bỏ thêm tiền để được về nước, ai không có tiền tạm ứng thì không về được. Chuyện này làm người ta nhớ tới phi vụ “chuyến bay giải cứu” hồi đại dịch cúm Tàu 2020-2021. Giá vé máy bay một chiều từ Myanmar về Việt Nam chỉ khoảng 3-4 triệu. Với số lượng 681 người thì hoàn toàn có thể lo một mức giá tốt hơn. Các chi phí thủ tục giấy tờ thì hoàn toàn có thể làm miễn phí cho dân. Thậm chí có tốn thì cũng không thể tới phân nửa con số 12,2 triệu mà cục lãnh sự muốn thu. Tuy nhiên, ít nhất thì lần này cũng công khai giá tiền, chứ không ép giá như vụ chuyến bay giải cứu. Hai là vụ giải cứu này không phải do nhà chức trách Việt Nam thực hiện. Các công dân Việt Nam này được lực lượng chức năng Myanmar phối hợp với cảnh sát Thái Lan giải cứu trong chiến dịch truy quét các cơ sở cờ bạc trực tuyến dọc khu vực biên giới Thái-Miến. Mặc dù không tham gia giải cứu, nhưng phía CSVN vẫn cho báo chí tuyên truyền chẳng khác nào là Việt Nam tham gia trực tiếp vào chiến dịch này. Không có bỏ công sức gì nhưng vẫn ca ngợi là nhờ ơn đảng, ơn nhà nước thì những nạn nhân mới được cứu giúp. Ba là đổ lỗi cho người dân tham “việc nhẹ lương cao”. Trong buổi họp báo ngày 15/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho rằng công dân Việt Nam tham tiền, lười lao động nên mới trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người. Bà Hằng nói: “Bộ Ngoại giao tiếp tục khuyến cáo công dân Việt Nam cảnh giác trước những lời mời chào ra làm việc tại nước ngoài với ‘việc nhẹ, lương cao’. Trước khi đi làm việc ở nước ngoài, công dân cần tìm hiểu kỹ về nội dung, chế độ, địa điểm dự kiến làm việc để tránh sa vào bẫy lừa đảo, trở thành người cư trú và làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài”. (2) Như vậy tức là CSVN không tham gia giải cứu công dân, mà còn bắt công dân phải nộp tiền mới được về nước, đồng thời đổ lỗi cho người dân tham và lười nên mới trở thành nạn nhân. Trơ trẽn hơn là sau tất cả thì họ vẫn bắt người dân phải biết ơn đảng và nhà nước. Với một lực lượng bộ đội biên phòng, công an biên giới dày đặc, hàng năm tốn bao nhiêu là thuế của dân, nhưng không hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ người dân. Để cho người dân nước mình bị lừa, dắt từ Việt Nam qua Lào, Cam, rồi tới tận Thái Lan, Myanmar. Chẳng lẽ biên giới Việt Nam dễ qua lại tự tiện vậy sao? Tới khi người dân trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người xuyên biên giới thì không ai đứng ra chịu trách nhiệm hết. Vậy những lực lượng này tồn tại để làm gì? Đổ lỗi cho dân lười và tham, nhưng không chịu đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế để người dân có thể làm ăn dễ dàng. Chỉ toàn tìm cách tham nhũng, gây khó dễ cho công dân, báo cáo láo về tình trạng thất nghiệp, thất mùa… Không phải dân lười và tham mà vì không có việc làm nên họ mới bị lạc lối. Bây giờ không lo nhìn nhận thực tế mà cứ đổ cho dân thì càng ngày càng nhiều tệ nạn, xã hội nào cũng vậy, không có việc làm thì trộm cướp lừa đảo mại dâm sẽ tràn lan. ____________________ Tham khảo: (1) https://vietnamnet.vn/cong-khai-chi-phi-dua-hon-600-cong-dan-viet-nam-tu-myanmar-ve-nuoc-2402151.html (2) https://vnexpress.net/viet-nam-da-hoi-huong-hon-450-cong-dan-tu-myanmar-4886468.html (VNTB)
......

Góc khuất lịch sử: Ai làm nên chiến thắng thế chiến thứ II

Duc Tu Duong 80 năm trôi qua, chiến thắng chủ nghĩa Quốc xã vẫn là kỳ tích vĩ đại của nhân loại. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: Ai thực sự đứng sau chiến thắng đó? Một quốc gia "anh hùng đơn độc"? Hay hàng triệu con người từ khắp thế giới, cùng máu, mồ hôi và nước mắt? Hãy cùng lật mở những góc khuất lịch sử, nơi sự thật bị che mờ bởi tuyên truyền, để hiểu rõ hơn về công lao của cả nhân loại và để không ai bị lãng quên. Một chiến thắng không của riêng ai Thế chiến II là cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử, cướp đi hàng chục triệu sinh mạng. Để đánh bại cỗ máy chiến tranh của Hitler, cả thế giới đã chung tay: Liên Xô với máu và lửa trên mặt trận phía Đông. Hoa Kỳ với nguồn lực hậu cần khổng lồ, là "lá phổi" của chiến tranh. Vương quốc Anh với những phi công quả cảm và chiến dịch trên không, trên biển. Ukraine, trái tim quả cảm của Hồng quân, với hàng triệu người hy sinh. Và hàng chục quốc gia khác, từ du kích Pháp đến lính Australia, từ công nhân Canada đến dân quân Trung Quốc. Nhưng tại sao, 80 năm sau, nhiều người vẫn chỉ nghe về "chiến thắng của một quốc gia"? Tại sao công lao của Ukraine, của Mỹ, của Anh bị lu mờ? Hiểu rõ về sự thật không phải để chỉ trích, mà để khai sáng và tôn vinh tất cả những người đã hy sinh. Sức mạnh liên minh: Công lao của cả thế giới Liên Xô – Bức tường thép bất khuất 20 triệu người Liên Xô thiệt mạng, từ binh sĩ đến dân thường. Các trận chiến như Stalingrad hay Kursk đã trở thành biểu tượng của lòng quả cảm. Người dân Liên Xô không chỉ chiến đấu vì quê hương, mà vì cả thế giới tự do. Họ là ngọn lửa không bao giờ tắt trước mũi súng Đức Quốc xã. Hoa Kỳ - "Nhà máy" của chiến thắng Chương trình Lend-Lease (cho vay - cho thuê): Mỹ cung cấp cho Liên Xô, viện trợ trị giá 10,8 tỷ USD (tương đương 160 tỷ USD hiện nay), bao gồm: * 22.150 máy bay (như P-39 Airacobra, giúp Hồng quân chiếm ưu thế trên không). * 12.700 xe tăng (Sherman, Valentine, tăng cường sức mạnh cơ giới). * 375.883 xe tải (Studebaker, "con ngựa thồ" của Hồng quân). * 4,5 triệu tấn thực phẩm, cứu đói hàng triệu binh sĩ và dân thường. Lời thú nhận từ Liên Xô: Stalin từng nói tại Hội nghị Tehran (1943): "Không có Lend-Lease, chúng tôi đã thua cuộc chiến." Nguyên soái Zhukov cũng thừa nhận: "Không có xe tải và thép Mỹ, chúng tôi không thể tiếp tục chiến tranh." Mặt trận Thái Bình Dương: Mỹ ngăn Nhật Bản tấn công Liên Xô từ phía Đông, giúp Hồng quân tập trung vào Đức. Vương quốc Anh và các đồng minh – Những chiến trường thầm lặng Trận chiến Đại Tây Dương: Hải quân Anh và đồng minh tiêu diệt tàu ngầm Đức, bảo vệ các tuyến vận chuyển Lend-Lease đến Liên Xô. Ném bom chiến lược: Máy bay Anh-Mỹ phá hủy nhà máy, cầu đường Đức, làm suy yếu hậu cần của Hitler. Chiến dịch châu Phi và Ý: Làm phân tán lực lượng Đức, giảm áp lực cho mặt trận phía Đông. Ukraine – Trái tim bị lãng quên của Hồng quân. 10 triệu người Ukraine (nửa tổng số người Liên Xô thiệt mạng) đã ngã xuống. 6 triệu binh sĩ và sĩ quan Ukraine chiến đấu trên khắp các mặt trận. Hơn nửa số mặt trận Liên Xô do các nguyên soái Ukraine chỉ huy, như: Semyon Tymoshenko, người dẫn dắt các chiến dịch then chốt. Rodion Malinovsky, bậc thầy chiến thuật. Ivan Chernyakhovsky, vị tướng trẻ tuổi tài ba. Danh hiệu Anh hùng: 2.069 binh sĩ Ukraine được phong Anh hùng Liên Xô, chiếm 1/3 số người được phong nhiều lần. Góc khuất lịch sử: Sự thật bị tuyên truyền che mờ Tuyên truyền của Liên Xô và Nga hiện nay Liên Xô không muốn thừa nhận công lao của các nước tư bản như Mỹ hay Anh, vì điều đó mâu thuẫn với câu chuyện "chủ nghĩa xã hội chiến thắng"- Ý thức hệ Chiến tranh Lạnh Niềm tự hào dân tộc: Sau chiến tranh, Liên Xô và Nga hiện đại xây dựng hình ảnh "người hùng đơn độc', giảm nhẹ vai trò của Lend-Lease và các đồng minh. Kết quả: Các tài liệu chính thống hiếm khi nhắc đến 76% đồng hay 106% nhôm từ Mỹ, hay vai trò của các chiến dịch Anh-Mỹ ở châu Phi, Ý. Công lao Ukraine bị xóa nhòa Sự thật lịch sử: Ukraine là lực lượng nòng cốt của Hồng quân, nhưng công lao của họ bị xem nhẹ sau chiến tranh. Tuyên bố gây sốc của Putin (2010): "Nếu không có Ukraine, chúng ta vẫn chiến thắng." Phát ngôn này không chỉ phủ nhận 10 triệu người Ukraine hy sinh, mà còn xúc phạm hàng triệu tướng sĩ đã dẫn dắt Hồng quân. Hậu quả: Lịch sử bị bóp méo, tạo ra huyền thoại "chiến thắng của riêng Nga", trong khi Ukraine – trái tim của Liên Xô – bị đẩy vào bóng tối. Những mảng tối khác Hiệp ước Molotov-Ribbentrop (1939): Stalin từng bắt tay Hitler chia đôi Ba Lan, vô tình châm ngòi cho Thế chiến II. Sự thật này hiếm khi được nhắc đến trong sách giáo khoa Liên Xô. Tuyên truyền hậu chiến: Liên Xô cố tình giảm nhẹ vai trò của đồng minh để củng cố vị thế chính trị, tạo ra một câu chuyện lịch sử "một chiều". Bài học lịch sử: Tôn vinh sự thật, tránh lặp lại sai lầm Chiến thắng là của cả nhân loại: Không có Hồng quân, không có Lend-Lease, không có phi công Anh hay du kích Pháp, chiến thắng có thể đã không xảy ra. Mỗi người, từ người lính Ukraine trên chiến hào đến công nhân Mỹ trong nhà máy, đều là một mảnh ghép của kỳ tích. Khi lịch sử bị bóp méo, nó không chỉ xúc phạm những người hy sinh, mà còn gieo mầm chia rẽ, hận thù. Mỗi chúng ta cần có trách nhiệm khám phá để hiểu, đừng chỉ tin vào một câu chuyện lịch sử. Hãy khám phá các góc khuất để hiểu toàn cảnh: Từ người lính Ukraine đến phi công Anh, tất cả đều xứng đáng được nhớ đến. Cảnh giác với "anh hùng đơn độc". Những câu chuyện thần thánh hóa thường che giấu sự thật. 80 năm sau Thế chiến II, hãy cùng nhau ghi nhớ: Chiến công không thuộc về một quốc gia nào, mà thuộc về cả nhân loại. Đừng để tuyên truyền che mờ sự thật. Hãy tôn vinh tất cả những người đã hy sinh – người lính Nga, người lính Ukraine trên chiến trường, công nhân Mỹ trong nhà máy, phi công Anh trên bầu trời. Cùng nhau, chúng ta có thể khai sáng nhận thức, để lịch sử không chỉ là câu chuyện của kẻ mạnh, mà là bài ca của cả nhân loại./.
......

Dòng Sông và Nguồn: Người Việt hải ngoại và khát vọng tự do cho quê hương

Quang Nguyên   Một dòng sông không thể lớn nếu thiếu nước nguồn. Nhưng nguồn sẽ cạn nếu không tìm đường đến với dòng sông.   Sau gần nửa thế kỷ kể từ biến cố 30 tháng Tư 1975, người Việt hải ngoại đã có mặt khắp năm châu. Họ thành công trong nhiều lĩnh vực – từ khoa học, kinh tế đến chính trị, văn hóa. Từ một cộng đồng tị nạn ban đầu chỉ lo tìm cách sinh tồn, người Việt hải ngoại đã dần khẳng định được vị thế vững chắc trong xã hội sở tại. Thành công ấy là điều đáng tự hào. Nhưng một câu hỏi âm thầm vẫn vang lên trong lòng nhiều người: sự thành đạt đó đã trọn vẹn chưa, nếu quê hương vẫn còn trong vòng kềm tỏa của chế độ kiểm duyệt, độc đoán và bất công?   Thành công không chỉ là chuyện cá nhân. Nhiều người Việt ra đi sau 1975 không phải vì mưu sinh mà vì sự đổ vỡ của một chế độ và khát vọng tự do. Thành công của họ ở nước ngoài, vì vậy, không chỉ là sự vươn lên về vật chất hay địa vị – mà còn mang theo một gánh nặng vô hình: trách nhiệm với những người còn ở lại, và với một đất nước chưa thể cất lời một cách tự do. Không phải ai cũng chọn con đường trở thành tiếng nói đấu tranh. Nhưng vẫn có nhiều người, trong âm thầm hoặc công khai, đã dùng thành quả của mình để trở thành dòng nước tưới lại mảnh đất quê hương.   Những cá nhân tiêu biểu Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, không thiếu những trường hợp đã vượt lên để không chỉ thành công mà còn truyền lửa trở về VN. Từ ông Lê Minh Nguyên, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, nay là nhà hoạt động dân chủ tại Mỹ, đến Nghệ sị Nam Lộc, Trịnh Hội, luật sư và người sáng lập tổ chức VOICE đã giúp nhiều người tị nạn Việt còn kẹt lại ở Thái Lan. Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng với tổ chức BPSOS đấu tranh không mệt mỏi cho nhân quyền đồng thời vận động mạnh mẽ các diễn đàn quốc tế lên tiếng về tự do tôn giáo tại Việt Nam, huấn luyện hàng trăm nhóm gồm nhiều người dân tộc kinh, dân tộc thiểu số, dân tộc bản địa về hoạt động đấu tranh cho dân chủ, viết báo cáo vi phạm tự do tôn giáo, nhân quyền đến Liên Hiệp Quốc, và mới đây nhất là Luật sư Derek Trần trở thành Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ, hay như bà Vũ Thị Minh Khánh, vợ của Luật sư Nguyễn Văn Đài, đã không im lặng khi chồng bị bắt. Từ Đức, bà trở thành người phát ngôn kiên cường cho tự do tôn giáo và dân chủ tại Việt Nam – xuất hiện bên lề nhiều hội nghị quốc tế, từ Quốc hội Đức đến các tổ chức nhân quyền toàn cầu. Những người như thế chưa đông đảo, nhưng họ là những dòng nước ngầm âm thầm nuôi dưỡng hy vọng và thức tỉnh nhận thức. Họ cho thấy: thành công thực sự không dừng lại ở việc “thoát được”, mà là có thể quay lại – bằng tiếng nói, hành động và lòng nhân ái.   Khi kết nối là một hành vi chính trị và nhân văn. Trong thời đại số, người Việt trong và ngoài nước không còn cách biệt như trước. Một bản tin, một đoạn video, một podcast có thể vượt biên giới chỉ trong vài giây. Sự kết nối này – nếu biết gìn giữ – chính là nền tảng cho một tương lai Việt Nam không còn chia rẽ và nghi kỵ. Nó cũng là một hình thức hành động chính trị tuy âm thầm, nhưng lâu dài và có sức lan tỏa. Không kèn trống, không xuống đường, nhưng mỗi chia sẻ thông tin trung thực, mỗi lời động viên, mỗi sự hỗ trợ âm thầm cho những tiếng nói độc lập trong nước đều là hành vi xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới, nơi đối thoại và lòng tin có thể nảy nở.   Mỗi người một vai, cùng một trách nhiệm. Người Việt trong nước có thể bị giới hạn bởi môi trường chính trị, nhưng không vì thế mà họ ngồi yên. Họ hành động trong khả năng của mình. Là giáo viên, họ dạy học trò, sinh viên tư duy độc lập. Là blogger họ ẩn danh chia sẻ bài viết sự thật về xã hội hay tổ chức nhóm thảo luận nhỏ… Người Việt hải ngoại, nhờ điều kiện an toàn hơn, có thể là người giữ lửa và tiếp lửa qua viết lách, làm truyền thông, tài trợ dự án xã hội, bảo vệ người bị đàn áp hoặc chỉ đơn giản là đứng về phía sự thật. Không ai là thừa trong vai trò đấu tranh cho dân tộc. Và không có sự trở về nào ý nghĩa hơn sự trở về bằng trái tim và hành động. Một dòng sông không thể lớn nếu thiếu nước nguồn. Nhưng nguồn sẽ cạn nếu không tìm đường đến với dòng sông. Người hải ngoại chỉ thành công thật sự khi trở thành nguồn nước đổ vào dòng sông dân chủ trong nước, chuyên chở phù sa làm phù trú quê hương. Người Việt hải ngoại đã thành công. Thành công ấy sẽ rực rỡ và sâu sắc hơn nhiều lần, nếu nó hòa vào dòng chảy dân chủ, nhân quyền và phẩm giá của chính dân tộc mình. (VNTB)    
......

Xá lợi trái tim Thích Quảng Đức có thật không?

Cảnh Chân  Theo thông báo mới nhất vào chiều ngày 3/5, Ban tổ chức Đại lễ Vesak 2025 sẽ tổ chức cho người dân chiêm bái xá lợi trái tim Thích Quảng Đức từ ngày 6/5 tại Việt Nam Quốc tự, Quận 10. Đây là thay đổi khá bất ngờ, vì trước đó một ngày, chiều 2/5, cũng ban tổ chức này đã thông báo tạm hoãn việc cung thỉnh, tôn trí và chiêm bái xá lợi trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức trong ngày 3/5. Lý do được đưa ra khá mơ hồ: “Nhân duyên chưa hội đủ nên việc cung thỉnh, chiêm bái xá lợi trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức về Việt Nam Quốc Tự theo Đề án Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 chưa được diễn ra vào sáng ngày 3/5”. Tức là nếu lịch “chiêm bái” đã bị dời lại 3 ngày, “vì nhân duyên”. Việc dời ngày này cũng đã ảnh hưởng tới hàng chục ngàn người. Vì theo ban tổ chức, tính tời chiều ngày 2/5, đã có 1.088 phái đoàn với gần 50.000 người đăng ký chiêm bái. Riêng trong chiều 3/5 (buổi đầu tiên dự kiến mở cửa chiêm bái) có gần 10.000 người đã đăng ký trực tuyến và đặt lịch thời gian mong muốn theo đoàn, trong đó có nhiều phái đoàn trên 1.000 người. Như vậy, bị dời lịch lại 3 ngày thì có khoảng mấy chục ngàn người bị “hố”.   Nhưng chiêm bái không phải là vấn đề lớn. Mà quan trọng là chiêm bái cái gì? Phật giáo cộng sản gần đây lộ ra nhiều bê bối “treo đầu dê bán thịt chó”, như vụ xá lợi tóc Phật ở chùa Ba Vàng hồi cuối tháng 12/2023. Hoà thượng Thích Trúc Thái Minh tuyên truyền là “xá lợi tóc Đức Phật”, “bảo vật quốc gia thiêng liêng” của Myanmar. Nhưng người dân lại phát hiện ra đó là cỏ Pili (hoặc cỏ Phi Tiêu) mọc khá phổ biến ở miền Nam Việt Nam và có thể chuyển động khi tiếp xúc với nước. Bởi vậy không thể không nghi ngờ về “xá lợi tim bồ tát” này. CSVN tuyên truyền rằng sau khi Thích Quảng Đức chết cháy* vào năm 1963 thì thi thể ông này được thiêu tại Đài hỏa táng An dưỡng địa ở Phú Lâm (Sài Gòn). Nhục thân bị hoá thành tro, nhưng trái tim thì “được đưa trở lại lò thiêu trong 24 giờ liền, với 4000 độ C nhưng vẫn không cháy, trở thành một khối rắn như đá”. Từ đó mới có câu chuyện “trái tim kim cương bất diệt”. Thế nhưng nhìn lại cả câu chuyện ông Thích Quảng Đức bị hoả thiêu mới thấy đây là một chiến dịch tuyên truyền bài bản của CSVN. Theo CSVN thì Thích Quảng Đức “tự thiêu” để chống lại các chính sách tôn giáo dưới thời Ngô Đình Diệm. Nhưng cái cách tự thiêu này rất lạ: một hoà thượng khác đổ xăng lên người ông Thích Quảng Đức và một hoà thượng khác châm lửa. Như vậy ông Thích Quảng Đức bị hoả thiêu chứ đâu phải tự thiêu! Trước đó, ông Thích Quảng Đức cũng có trạng thái mê man, khi cháy, cơ thể không hề cử động một cơ bắp nào, khác hẳn với việc một người bình thường bị cháy thì các cơ bắp phải có phản xạ co quắp. Cho nên cái chết này có rất nhiều ẩn khuất, không thể gọi là tự thiêu, nên chỉ có thể dùng từ chết cháy (như ghi dấu * ở trên) mới chính xác. Từ những tuyên truyền này thì người dân hoàn toàn có thể nghi ngờ về việc một trái tim bị đốt trong 24 giờ liền, dưới 4000 độ C mà vẫn “rắn như đá”. Trừ khi nó là cục đá thật bị dùng làm “đạo cụ” để lừa dân. Chưa biết việc “chiêm bái” sẽ diễn ra như thế nào, người dân được nhìn xá lợi qua một lớp kính, hay che phủ hoàn toàn rồi chỉ vái lạy từ xa thôi. Nhưng dù có sờ nắn như xá lợi tóc Phật ở chùa Ba Vàng thì cũng khó biết thật giả. Còn đưa chuyên gia xác minh thì chắc chắn là CSVN sẽ không bao giờ cho phép. Đây có lẽ sẽ là một trong những bí mật quốc gia giống như xác chết ông Hồ Chí Minh ở Ba Đình. (VNTB)  
......

Kế sách “Rút Củi Đáy Nồi” và ngày 30/4/1975 chiến thắng

Lê Bá Vận Giải phóng miền Nam trấn lột làm hoen ố và thay đổi ý nghĩa ngày 30/4 chiến thắng, phơi bày mặt trái. Ngày 30/4/1975 Sài Gòn, thủ đô miền Nam thất thủ, cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc. Từ đó đến nay, nửa thế kỷ trôi qua. Lễ kỷ niệm 50 năm ngày 30/4 được tổ chức trọng thể hơn bao giờ hết nơi nơi trong và ngoài nước, nhưng mang những ý nghĩa đối nghịch. Do trên thực tế ngày 30/4 có các tên gọi khác nhau. Và có nhiều đặc điểm. Bắc Việt thắng cuộc thì ca ngợi, gọi là ngày 30/4/1975 đại thắng chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước… vĩ đại nhất trong lịch sử… tự sướng. Miền Nam thua cuộc thì nói đến tháng Tư đen chết chóc và 30/4/1975 Quốc hận, “Ngày miền Nam khiếp sợ giải phóng”, tán gia bại sản, trắng tay mất sạch vào túi kẻ xâm lăng đội lốt giải phóng. Người ngoại cuộc gọi chiến tranh VN kết thúc năm 1975 là một cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn giữa Bắc và Nam. Mỗi bên đều có chính phủ được dân bầu, có Hiến pháp, được quốc tế công nhận. Có vẻ là một cuộc chiến giữa 2 lý tưởng Mác Lê và tự do, dân chủ phi Mác Lê. Cao siêu hơn thì vạch ra đây là một cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” (proxy war). Bắc Việt được Sô - Tàu cung cấp toàn bộ quân viện để đánh thuê cho chủ nghĩa cộng sản. Miền Nam được Mỹ và Đông minh giúp đỡ, chiến đấu tự vệ cho thế giới tự do. Nhìn một cách thực tế thì chiến tranh VN kết thúc năm 1975 là để giúp kẻ thắng thoát nghèo. Người dân miền Nam nói đến ngày 30/4/1975 thì gợi lại hình ảnh xe tăng Bắc Việt húc cổng sắt tiến vào dinh Độc lập xen lẫn hình ảnh kẻ thắng thu hoạch lợi phẩm, thuyền nhân chết trên biển cả, những trại tù cải tạo rùng rợn, những vùng kinh tế mới cằn cỗi… đã 50 năm trôi qua. ____ Cuộc chiến ở Việt Nam có nhiều sắc thái, đặc điểm, hơn bất cứ một cuộc chiến tranh nào.   1) Đó là một cuộc chiến phát khởi chậm chạp, tăng cường độ dữ dội vào phút chót. Điều này khác với thông thường, chiến tranh ác liệt ngay từ đầu, điển hình giữa Nga và Ukraina hiện tại.   2) Kết thúc dứt khoát, có kẻ thắng người thua, không hòa, vd. Thế chiến II (1939-1945). Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) thì hòa, cắt đôi đất nước thành lập Nam Hàn và Bắc Hàn.   3) Nhiều huyền thoại chiến tranh. Lái phi cơ núp trong mây, chờ địch bay ngang, nổ máy xông ra bắn hạ 7 máy bay địch gồm cả B-52, vừa lấy tay bít các lỗ đạn trên thân máy bay mình (Nguyễn Văn Bảy). Lấy thân lấp ổ châu mai (Phan đình Giót); lấy thân chèn vào càng pháo, ghìm giữ không cho khẩu pháo cao xạ 37 mm bị lăn xuống vực (Tô Vĩnh Diện). Nhỏ người nhưng tay không từ dưới nhảy vọt lên níu càng máy bay trực thăng địch, ghìm không cho bay lên (Bùi Minh Kiểm)…   4) Điều nghịch lý bên thắng là bên nghèo. Ăn mặc thiếu thốn, có được chiếc đồng hồ Liên Sô đeo tay, chiếc xe đạp, đã là một tài sản lớn, ước mơ cả cuộc đời. Bên thua thì xe hơi, xe gắn máy chạy rợp đường, trong nhà thì tivi, tủ lạnh, bếp điện, máy giặt. Ấy thế mà thua đau, mất sạch. Thì ra miền Bắc nghèo thật nhưng có không thiếu súng đạn, tăng pháo Sô-Tàu cung cấp, lại đánh thí mạng cùi.   Và trong Nam thì cực khổ lắm, bị Mỹ ngụy kìm kẹp, mất tự do, miền Bắc phải vào giải cứu! Kẻ nghèo mạt đi giải phóng một anh nhà giàu, nghe lạ tai, chưa hề có. Tất phải có nguyên do. Thực tế thấy rõ giải phóng hoàn tất là của cải miền Nam đổ tràn ra Bắc như nước vỡ đê. Nhà cửa, phố xá không biết đi thì được chia chác, phân phối cho đảng viên, cán bộ làm chủ. Đó là giải phóng miền Nam cướp bóc trắng trợn toàn diện làm hoen ố và thay đổi ý nghĩa ngày 30/4 chiến thắng.   Để giữ thể diện lãnh đạo miền Bắc biện minh bằng cách ‘làm tới’, buộc tội “chống phá, phản bội, nợ máu, tay sai”… tăng cường khủng bố, cải tạo công thương tịch thu tài sản, ba lần đột ngột đổi tiền, vơ vét, cắt hộ khẩu buộc đi kinh tế mới ở đồi núi cằn cỗi. (1).   Lập trại tù học tập cải tạo để thể hiện sự khoan hồng của chế độ song ở các nơi sơn lam chướng khí, hành hạ man rợ thân xác, hạ nhục nhân phẩm…. Trại học tập hay để trả thù? Nhiều trại viên trí thức miền Nam lao động tốt, được dạy Mác-Lê 10 đến 20 năm ròng vẫn chưa tiếp thu đạt mức tối thiểu tốt nghiệp vớt, cho ra trại.   Phước lớn là trại viên chỉ được dạy Mác-Lê, tư tưởng, đạo đức HCM chưa kịp ra lò, tai biến tẩu hỏa nhập ma khó xẩy.   5) Hai sự kiện độc đáo, “Dấu ấn” của ngày 30.4/1975, không đâu có, là:   a) Di tản Vượt biển. Tiếng Anh gọi là “Vietnamese boat people” (Thuyền nhân Việt Nam). Gần một triệu người đã liều minh ra đi trên những chiếc thuyền nhỏ chở đấy ắp người, nam nữ già trẻ.   Tất nhiên hơn một nửa gởi thân xác trên biển cả (năm 1954 di cư trật tự, an toàn), số còn lại đến được bờ bến tự do. Một số đông bị công an đuổi bắt trở lại, tịch thu tiền của, giam tù vì tội vượt biên trái phép.Trong lịch sử di tản do chiến tranh là nhiều song theo đường bộ và tử vong rất thấp.   b) Áp đặt chế độ cai trị thuộc địa lên miền được giải phóng với mỹ từ ‘Thống nhất đất nước’. Còn nhớ thời Đế quốc Pháp thống trị nước ta (1884-1945) Chúng gởi đến một số quan chức Pháp cầm đầu nền hành chánh song vẫn duy trì triều Nguyễn với quyền hành tiếp xúc với dân. Pháp tôn trọng văn hóa, phong tục tập quán bản địa.   Cộng sản thì từ rất sớm đã lên kế hoạch cai trị miền Nam triệt để, toàn diện. Bị tiêu hủy tận gốc văn hóa miền Nam, đốt sạch toàn bộ văn, nhạc phẩm, sách báo… Cả một cỗ máy cai trị hoàn chỉnh được bê vào Nam để thay thế, từ A đến Z, trường kỳ. Như thế chúng gọi là “Giải phóng miền Nam (!?).   Minh họa điển hình là vụ bạo loạn vũ trang của người Thượng ở Đắk Lắk, Tây Nguyên ngày 11/6/2023, đang đêm tấn công vào trụ sở UBND và đồn công an ở 2 xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin. Bốn công an bị giết, 2 bị thương nặng gồm Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá. Hai đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND thì đều hy sinh. Các cán bộ được gởi đến công tác ở chốn xa xôi này và chịu thương vong là người miền Bắc từ Nghệ An, Thanh Hóa đến Bắc Giang, Hưng Yên.   Hiện tại ở bộ Ngoại giao mọi cấp tùng sự trong và ngoài nước hầu như toàn người Bắc độc chiếm.   Có thể thấy qua vụ tham nhũng ”Các chuyến bay giải cứu” năm 2021-22 thời dịch Covid-19. Xướng ngôn viên, MC truyền thanh, truyền hình trên khắp nước hầu như đều phát âm giọng Bắc.   Các Đại tướng QĐND và CAND tại chức đều là người miền Bắc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nhờ đó ta đánh nhau rất giỏi, siết chặt an ninh, kinh tế thoái trưởng!   Nói về Đảng thì Tổng bí thư hiện nay phải không được là người miền Nam… Nói chung, trong Nam ở đâu thì người ngoài Bắc cũng được đưa vào chiếm đa số áp đảo về chức vụ và số lượng.   6) Một đặc điểm quan trọng của miền Bắc về chiến lược dẫn đến ngày 30/4/1945 là sử dụng kế sách thứ 19 “Rút củi đáy nồi” (Phủ để trừu tân (釜底抽薪) trong ‘Tam thập lục kế‘, đánh tiêu hao hậu cần. Thi hành Hiệp định Hòa bình Paris kêu gọi ngừng bắn (và cấm Bắc Việt đưa thêm quân vào Nam Việt Nam), Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1970, và những người lính cuối cùng trở về vào tháng 1 năm 1973, xem như Mỹ tác chiến bị CS Băc Việt vô hiệu hóa.   Ngay sau Hiệp định hòa bình Paris, Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm ngân sách lớn cho viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam. Cọng với mất sự cộng tác trực tiếp của binh lính Mỹ về nước, bị rút củi đáy nồi QLVNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn. Mặc dù vẫn là lực lượng chiến đấu hiệu quả trong suốt năm 1973 và 1974, nhưng đến năm 1975, lực lượng này đã tan rã.   Sài Gòn, thủ đô của Nam Việt Nam, đã bị QĐND Việt Nam vũ trang hùng hậu với đại pháo, xe tăng Sô-Tàu chiếm vào ngày 30/4/1975 và Chiến tranh Việt Nam kết thúc.   Kế 20 - Hỗn thủy mạc ngư (混水摸魚) Đục nước bắt cá. Bắc Việt lợi dụng tình thế hỗn loạn để bắt trọn địch quân và thi hành các mục tiêu kinh tế, chính trị của mình. ____   Lời Kết.   Thông thường với một chiến thắng lớn, bên thắng tổ chức kỷ niệm, lâu dần nhắc nhở cho có lệ.   Năm nay 2025 lễ kỷ niệm đánh dấu 50 năm ngày 30/4/1975 rất lớn song có ý nghĩa vô cùng tiêu cực. Với thời gian chia rẽ và thù hận càng sâu sắc. Lỗi tại bên nào?   Hàng triệu người Việt Nam sống ở nước ngoài, khắp năm châu từ Úc qua Âu châu sang Canada, Mỹ đã tưởng niệm ngày 30/4 năm nay với chủ đề “Hành trinh 50 năm tìm Tự do”. Lễ lạc gồm Thượng kỳ, hội thảo, văn nghệ trình diễn, công chiếu các bộ phim Thuyền nhân vượt biển; radio và Đặc san 50 năm rời quê hương, lột trần mặt trái giải phóng, tri ân nước đón nhận.   Một bảo tàng trưng bày chứng tích tội ác của “Giải phóng trấn lột miền Nam” được lên kế hoạch.   Tại quốc nội năm nay 2025, ngày 30/4/1975 được gọi là ngày Đại thắng giải phóng miền Nam. Ngày lễ kỷ niệm 50 năm thì được gọi là ngày Đại lễ Kỷ niệm 50 năm. Thêm chữ ‘Đại’. Cộng sản cho triển khai một chương trình đại lễ đồ sộ, tráng lệ, gây tiếng vang quốc tế, làm nên lịch sử. Khối quần chúng mọi tầng lớp và kiều bào thì diễu hành; diễu binh thì với 3 ngàn binh sĩ và công an đáp xe lửa từ Bắc vào nhập cuộc cùng quân đội ba nước lân cận tham gia, rất độc đáo. Có hơn 13 ngàn người đồng diễu. Khối vũ trang mặc quân phục mới toanh, màu sắc tùy theo binh chủng, động tác nhịp nhàng, oai vệ, đẹp mắt; chia thành nhiều toán, mỗi toán hàng ngang 10, dọc 10, thêm 1+3 người đi trước mang cờ. Đoàn người đi dài có đến vài cây số. Điều bất lợi là quân phục cùng mẫu mã, diễu binh cùng bộ điệu, kéo dài có thể làm nhàm chán khán giả?   Hơn nữa vắng mặt trình diễu cơ giới, pháo lớn, tên lửa… Song có đợt bắn pháo bông tại 30 địa điểm, bắn 21 loạt đại bác, trình diễn thiết bị bay không người lái (drone) trên sông Sài Gòn. Đoàn trực thăng bay lượn giăng cờ sao vàng búa liềm trông ngoạn mục, phi đội tiêm kích nhào lộn, xả khói dài trên bầu trời, xếp hình xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập…   Làm linh đình cho lắm cũng không rửa sạch được các tội ác tày trời đi kèm giải phóng! Đai lễ còn gồm thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, thi đua, khen thưởng, hội thảo, tọa đàm, triển lãm văn hóa, văn nghệ, hòa nhạc, thể thao ở mỗi cơ quan, mỗi địa phương.   Có gần 7.000 bài dự thi tìm hiểu 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Giá dự thi có bài nói đến nỗi thống khổ của đồng bào miền Nam bị giải phóng lột sạch song cũng vui thầm đã giúp ích đồng bào miền Bắc thoát cảnh nghèo và tiếp cận lối sống phóng khoáng tự do dân chủ, công bằng bác ái, văn minh đa chiều!   Thói thường “Giấu (ẩn) ác khai thiện”. Cộng sản làm thế. Để duy trì ủng hộ cho thể chế độc đảng, mỗi năm đến ngày 30/4/1975 CSVN lại thừa cơ khơi dậy hận thù và lòng yêu nước, lôi Mỹ ra sỉ nhục, gán ghép các tội ác trong chiến tranh Việt Nam và kể công đã oai hùng đánh tên đầu sỏ Đế quốc cút về nước! Mỹ thì chỉ thị các quan chức ngoại giao không đến dự Đại lễ 30/4.   Lê Bá Vận _____ Chú Thích. (1) Cố Tổng bí thư Đỗ Mười (nhiệm kỳ 1991-1997) lúc ông đang là ủy viên ban bí thư Trung ương Đảng phụ trách đánh tư sản, kiểm kê và tịch thu tài sản nhân dân miền Nam, ngày 20/02/1976 vào lúc 10 giờ 15 phút, trước sân tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, được kể lại là đã từng tuyên bố: “Giải phóng miền Nam chúng ta có quyền tịch thu tài sản trưng dụng nhà cửa, hãng xưởng, ruộng đất chúng nó [ám chỉ người dân miền Nam], xe chúng nó ta đi, vợ chúng ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi kinh tế mới và nơi rừng sâu nước độc, chúng nó sẽ chết lần mòn”. (nguồn: Thầy giáo trong trại tù cải tạo https://conganhuynh.com › ThayGi... ). _____   Hai khía cạnh của ngày 30/4/1975 chiến thắng oai hùng giải phóng miền Nam.    
......

50 Năm (1975 – 2025) Ngày 30 Tháng 4

Lý Thái Hùng Thấm thoát biến cố ngày 30 tháng 4 đã tròn nửa thế kỷ. Dù gọi bằng nhiều tên khác nhau tùy theo vị trí của từng người liên hệ, nhưng chắc chắn một điều: đây không phải là ngày vui. Người Cộng sản gọi đây là ngày giải phóng. Người Việt Nam gọi đây là ngày Quốc hận. Mặc dù đã có rất nhiều tài liệu, sách báo viết về biến cố 30 tháng 4 dưới nhiều góc nhìn; nhưng một biến cố đã khiến cho hàng triệu người phải rời bỏ đất nước thân yêu của mình ra đi tìm tự do, không chỉ ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt mà còn kéo dài cả đến ngày hôm nay, không thể nào gọi đó là ngày giải phóng. Biến cố 30 tháng 4 không phải là biến cố có “triệu người vui và triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói ở cuối đời, mà đúng ra chỉ có một thiểu số vui mừng, trong khi đại khối dân tộc thất vọng và nhục nhã vì thảm kịch này. Không chỉ có những người dân miền Nam gọi biến cố 30 tháng 4 là ngày quốc hận khi Sài Gòn sụp đổ, mà những năm sau đó ở miền Bắc và kéo dài cho đến ngày hôm nay những người đã từng đi theo đảng Cộng sản “giải phóng” miền Nam đã lần lượt nhìn ra đó không phải là “cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” mà là “đánh cho Liên Xô, Trung Cộng” để nhuộm đỏ Đông Dương. Đây là cuộc chiến không có chính nghĩa như họ từng bị nhồi sọ. Nhân danh điều phi nghĩa để áp đặt sự lãnh đạo một cách ngạo mạn và độc tài trên cả nước trong 5 thập niên qua, đã cho chúng ta thấy ngay hệ quả: Đất nước luôn luôn bất ổn vì đại đa số người dân bất phục tùng và tìm mọi cách chống lại. Một đảng cầm quyền mà liên tục phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác trong nhiều năm dài nhưng lại tiếp tục nắm giữ quyền lực trong tay, đã dẫn đến hai hậu quả: Một là lãnh đạo và cán bộ liên hệ tạo thành những băng nhóm mafia trong các cơ chế và dùng quyền lực chi phối các sinh hoạt xã hội theo nhu cầu riêng của họ chứ không phải nhu cầu của người dân hay của quốc gia. Hai là tài nguyên quốc gia lần lượt chạy vào túi riêng của một thiểu số có quyền, có chức, được bảo bọc hay che chắn bởi bộ máy an ninh. Chúng không chỉ cấu kết nuôi dưỡng guồng máy tham ô mà còn ngăn chận tiến trình phát triển lành mạnh và dân chủ hóa Việt Nam. Vì thế, những kẻ có quyền và có tiền trong tay tại Việt Nam không bao giờ dám thay đổi thật sự vì họ không chỉ sợ mất những quyền lợi đang thụ hưởng mà còn lo sợ sự thay đổi có thể dẫn đến những nguy hiểm cho chính họ khi xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Đó là lý do tại sao lãnh đạo Hà Nội nói đến đổi mới, cải cách và ngay cả nói đến “hòa hợp” dân tộc cũng phải luôn luôn đi theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì đó là lằn mức sau cùng mà họ có thể lùi trong an toàn. Muốn phát triển và vươn lên cùng với thế giới bên ngoài, mỗi đất nước phải có một nền tảng chung để tạo sự đồng thuận trong lòng dân tộc. Nền tảng chung của Việt Nam không thể nào là “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì đó chỉ là định hướng của một đảng, một nhóm người; không thể áp đặt lên toàn thể xã hội. Ngay cả vấn đề “hòa hợp dân tộc” mà ông Tô Lâm đề cập trong bài viết mới đây cũng là nhân danh “đảng và nhà nước”, từ tầng cao nhìn xuống ban phát một ân huệ cho những ai muốn đến với họ để xây dựng “xã hội chủ nghĩa” như hơn 50 năm về trước họ đã từng dụ dỗ đi “giải phóng miền Nam” nghèo đói.  Nếu ông Tô Lâm và đảng Cộng sản muốn chứng tỏ thiện chí thì hãy trả tự do cho tất cả những Tù Nhân Lương Tâm đang bị giam giữ vì đã lên tiếng cho các quyền tự do của con người. Khát vọng mà dân tộc Việt Nam theo đuổi, không chỉ mới có trong 50 năm qua mà đã khởi đi từ năm 1858 khi người Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho chính sách thực dân tại Việt Nam. Đó là một Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường thật sự bằng chính sự chọn lựa của người dân. Không nhìn thấy khát vọng này của dân tộc mà cố tình áp đặt lên người dân những chủ thuyết ngoại lai và dùng bạo lực trấn áp những ai không đồng ý kiến thì chỉ là những kẻ cản đường tiến tới tương lai của dân tộc mà thôi. Mỗi người có những cảm nhận khác nhau khi đối diện ngày 30 tháng 4. Nhưng có một cảm nhận chung là không một ai hài lòng về hiện tình đất nước ngày nay kể từ 30 tháng 4 năm 1975. Tại sao những người Việt tỵ nạn chỉ mất 20 năm từ hai bàn tay trắng đã dựng nên cơ nghiệp rất thành công ở xứ người, trong khi đất nước Việt Nam vẫn lẹt đẹt đi sau nhân loại với đa số người dân vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc sống nghèo khó. Nhà cầm quyền Hà Nội thường hay đổ lỗi cho hậu quả tàn phá của những năm tháng chiến tranh, rồi lại đổ lỗi cho sự chống phá của các thế lực thù địch. Nhưng họ đã không nhìn ra chính họ mới là nguyên nhân tạo ra tình trạng trì trệ của đất nước hiện nay. Nếu chúng ta cùng tưởng niệm biến cố 30 tháng 4 trên ý thức như vậy, mỗi người sẽ phải là một "cánh bướm tự do" để góp phần tạo những chuyển đổi thật sự tại Việt Nam trong những năm trước mặt./.  
......

Thống nhất đất nước người và thống nhất đất nước ta

Nước Cộng Hòa Liên Bang Đức, một đất nước đã từng bị phân chia làm hai, một bên là dân chủ tự do, một bên là độc tài cộng sản. Một nước Đức mà vào năm 1990 được thống nhất mà đã không tốn một viên đạn; không có cụm từ „giải phóng“; không có cái gọi là „bên thua cuộc“ hay „bên thắng cuộc“; không chính sách trả thù, cướp bóc người dân qua cái gọi „đánh tư sản“, rồi cưỡng bức người dân đi vùng kinh tế mới; không có cảnh lùa những người gọi là „bên thua cuộc“ vào các trại tập trung cải tạo mà thực chất là đi tù; không có cảnh hàng triệu người dân phải liều mình vượt biên, vượt biển ra đi tìm tự do, mặc cho bao cái chết oan kiên, mà cho đến hôm nay ở thế kỷ 21 dòng người vẫn còn tiếp tục ra đi. Nước Đức và dân tộc Đức quả thật là vô cùng may mắn và hạnh phúc khi được thống nhất trong xu hướng tự do, dân chủ. Ngược lại với dân tộc Đức, dân tộc VN của chúng ta là một dân tộc vô cùng bất hạnh. Bất hạnh ngay từ cái ngày mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã nói đến trong bài thơ „Vì Ấu Trĩ“ sáng tác vào năm 1975: Cả nước đã quy về một mối Một mối hận thù, một mối đau thương! Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường Đảng (CSVN) tới là tan nát cả!   30 tháng Tư 1975 là ngày đen tối nhất trong lịch sử dân tộc VN./.  
......

Ngoại giao kiểu “Cô gái vót chông”

Nguyễn Huy Cường Kiểu ngoại giao lấy cây tre đem vót chông thọc vào lòng tự trọng của một đối tác toàn diện nhưng không chừa ra cái “diện” là thể diện cho Mỹ. Có vài câu chuyện hầu các bạn trong ngày này. Thứ nhất: Năm 1964-1966 Liên Xô, Trung Quốc dàn quân oánh nhau chí tử bên bờ sông Ô-Tô-Lý sát biên giới Xô – Trung. Hồi đó ở Việt Nam lưu hành những cuốn Hoạ báo bề thế như hoạ báo Liên Xô, Trung Quốc, Poland… rất đẹp. Giấy bóng láng, dầy, ảnh đẹp. Hoạ báo Liên Xô chửi Trung Quốc thậm tệ. Hoạ báo Trung Quốc tổng sỉ vả Liên Xô không còn lời nào tệ hơn. Sự thiệt thòi của cuộc chửi nhau này là nguồn vũ khí Liên Xô viện trợ cho Việt Nam đi qua Trung Quốc về Việt Nam rất khó khăn. Xong ta thực hiện cú “lách luật” đầu tiên trong lịch sử là ghi trên xe pháo của Liên Xô dòng chữ bằng tiếng Việt là “sản xuất tại Liên Xô” thì thông quan được. Ta giải thích cho anh hai là cái này của Việt Nam, Việt Nam làm, nhờ bên Liên Xô để về “oánh Mỹ”. Sau 4-5 năm hai ông anh chửi nhau quyết liệt, khoảng năm 1972 bỗng dưng… tịt. Im ắng lạ thường. Khi ấy tôi có người bạn cực thân sống bên Hợp Phì – Trung Quốc, nhờ tìm hiểu thì biết: Hai nước đã ký một Hiệp định “Không công kích nhau”. Năm mươi năm nay họ chung sống hoà bình và cùng phát triển. Thứ hai: Năm 1978, nước ta dành hẳn một tháng nồng nhiệt kỷ niệm quốc khánh Liên Xô, ở ngã tư phố huyện cũng có những băng-rôn nhiệt liệt chúc mừng quốc khánh Liên Xô như những nơi này là một xã của Liên Xô vậy. Cùng trong năm này tôi theo dõi rất kỹ quốc khánh Trung Quốc thì thấy… không có gì. Sát ngày quốc khánh trên báo Nhân Dân chỉ có một bản tin ngắn vài chục chữ “Nhân dịp Quốc khánh Trung Quốc, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội tổ chức chiếu phim mừng quốc khánh Trung Quốc, đến dự buổi chiếu gồm có đồng chí A, B, C”. Là xong. Tôi đem chuyện này nói với bác Chúc, là bố bạn Tước cùng học phổ thông, bác hơn tuổi bố tôi nhưng yêu mến tôi lắm, bác nghe chăm chú và ngẫm nghĩ khá lâu rồi nói, lời nói như không phải trả lời tôi mà như buột mồm ra: “Chết đấy cháu ạ!” Một năm sau, mà là cả mười năm sau, cho đến 1989 câu tự thán của bác Chúc “Chết đấy cháu ạ!” thành sự thật. Toàn vòng cung biên giới phía Bắc tan hoang, bom mìn dày đặc, hàng ngàn thanh niên hy sinh… Thứ ba: Cô gái vót chông. Đã có một cô gái đẹp Việt Nam tham dự một sinh hoạt gì đó có Việt, có Mỹ cô ta chơi bài “Cô gái vót chông” làm quà. Vì Việt-Mỹ chưa ký hiệp định “ngừng công kích” để Việt Nam ngừng công kích Mỹ như đã có thời gian dài ngừng bặt công kích Trung Quốc nhưng phía Mỹ bỏ qua, miễn chấp dù bị gọi là “giặc Mỹ cọp beo”. Theo cái đà đấy “ta” cứ vống lên những bài ca, những áng văn, những bộ phim lung linh lộng lẫy của ta và mô tả cái tả tơi rơi dụng, tàn ác của Mỹ. Việc này xem ra… lành tính và không thấy Mỹ chấp nê gì. Vậy là kiểu ngoại giao lấy cây tre đem vót chông thọc vào lòng tự trọng của một siêu cường cứ tà tà diễn. Chửi cứ chửi, buôn bán cứ buôn bán, xuất khẩu cứ xuất khẩu, đối tác cứ toàn diện nhưng không chừa ra cái “diện” là thể diện cho Mỹ, quất cho bằng thích để thế giới biết Mỹ là kẻ bại trận, thua trắng bụng ở Việt Nam. Tình hình này đã sang trang khác. Ngày 20/4/2025 Tổng thống Mỹ đã lệnh cho thuộc cấp không sang Sài Gòn nghe hát “cô gái vót chông” nữa, ở nhà làm việc khác. Có lẽ kiểu ngoại giao cây tre và cắm chông không thích hợp nữa giữa thời đại văn minh này, bắt đầu từ hôm nay các bác ạ./.
......

Vì sao CSVN phải viết bài cảm ơn Trung Cộng vào thời điểm này?

Trần Anh Quân CSVN ca ngợi Trung Cộng sau khi bị Tập Cận Bình nhắc nhở mối quan hệ “như cây có cội, như suối có nguồn” Ngày 20/4, CSVN cho đăng bài viết của Thiếu tá Lê Minh Nam – thạc sỹ, tại Viện Chiến lược và lịch sử quốc phòng Việt Nam với tựa đề “Sự giúp đỡ của Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. CSVN thừa nhận làm tay sai cho Trung Cộng Một số thông tin được dư luận quan tâm là việc CSVN nhắc lại những viện trợ của Trung Cộng cho Bắc Việt trước 1975. Như “những năm 1955-1975, tổng khối lượng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam là 1.594.724 tấn”, gồm súng, đạn, pháo, tên lửa, máy bay, tàu chiến, xe tăng, thiết bị quân sự…. Cùng với đó là “từ năm 1965-1968, Trung Quốc đã cử 346 chuyên gia cùng 310.011 bộ đội sang Việt Nam, gồm bộ đội cao xạ, xây dựng công trình, làm đường sắt và đường bộ. Bộ đội Trung Quốc tham gia chiến đấu 1.659 trận, bắn rơi 126 máy bay (phía Trung Quốc tổng kết là 1.068 máy bay), hy sinh 771 người, bị thương 1.675 người”. (1) Trước nay, CSVN vẫn lập luận rằng Mỹ xâm lược Việt Nam bằng cách hỗ trợ Việt Nam Cộng Hoà về tài chánh, vũ khí và quân đội để chống lại Bắc Việt. CSVN tuyên truyền rằng Việt Nam Cộng Hoà là nguỵ quân nguỵ quyền, là tay sai, là bù nhìn cho Mỹ. Nhưng với những thừa nhận này thì khác nào CSVN tự vạch áo cho người xem lưng, rằng Bắc Việt mới chính là nguỵ quân nguỵ quyền, là tay sai giúp Trung Cộng xâm lược Việt Nam Cộng Hoà. Thôi thì chuyện CSVN thừa nhận là chư hầu của Trung Cộng coi như đã rõ. Tuy nhiên, trong bài viết của Thiếu tá Lê Minh Nam các thông tin này đều được tác giả dẫn chứng nguồn rất rõ ràng. Có mở ngoặc đóng ngoặc từng chỗ trích dẫn, như để chứng minh rằng từ trước tới nay CSVN vẫn thừa nhận công ơn của Trung Cộng trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hoà, chứ không phải tới bây giờ thiếu tá Nam mới viết ra. Bởi vậy phải coi bài viết này là một lời khẳng định với Trung Cộng về lòng trung thành của chư hầu CSVN từ trước tới nay. Chứ không đơn giản chỉ là một bài báo vô thưởng vô phạt. Vì sao phải trần tình vào lúc này? Về thời điểm đăng bài, bài báo này xuất hiện ngay sau khi Tập Cận Bình vi hành tới Việt Nam và trong lúc CSVN chuẩn bị lễ kỷ niệm 50 năm thành công xâm lược Việt Nam Cộng Hoà. Trong chuyến vi hành tới Việt Nam, ngày 15/4, Tập Cận Bình có nhấn mạnh rằng: “quan hệ Trung – Việt ‘như cây có cội, như suối có nguồn’, trong đó tất cả nguồn cội, huyết mạch và sức mạnh của quan hệ hai Đảng, hai nước đều nằm ở nhân dân, ở tình cảm hữu nghị của người dân”. (2) Đây chính là lời nhắc nhở của thiên triều với chư hầu rằng phải biết nguồn cội từ đâu mà ra. Quan hệ Trung Cộng – Việt Cộng thì đâu là nguồn, đâu là cội thì chắc không phải bàn. Nhưng có lẽ Tập Cận Bình sợ CSVN quên, nên trong phát biểu hôm đó, họ Tập có nhắc thêm về “cuộc đời hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh” và yêu cầu phía Việt Nam phải “tuyên truyền giáo dục, làm cho thế hệ trẻ hai nước hiểu biết sâu sắc hơn về chặng đường cách mạng giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước để nâng cao nhận thức về tình hữu nghị truyền thống và ý nghĩa quan trọng của quan hệ hai Đảng, hai nước”. (2) Tập Cận Bình có ý nhắc khéo với CSVN rằng Hồ Chí Minh từng phục vụ quân đội cộng sản Trung Quốc với bí danh Hồ Quang, quân hàm thiếu tá, phụ trách vệ sinh tại văn phòng Bát Lộ Quân, Quế Lâm, Trung Quốc. Ngoài ra, lời nhắc của Tập Cận Bình cũng mang tính đe doạ, vì phía Trung Cộng nắm toàn bộ lý lịch gia đình họ Hồ và thậm chí là của tất cả các quan chức CSVN hiện tại. Nếu chư hầu làm phật ý thiên triều, họ sẽ công khai các dữ liệu này thì coi như CSVN mất hết lòng dân. Đọc tới đây chắc cũng đã rõ lý do vì sao CSVN phải đăng bài viết của Thiếu tá Lê Minh Nam. Chắc chắn thời gian tới CSVN sẽ phải có thêm nhiều bài viết tuyên truyền ca ngợi Trung Cộng để khẳng định lòng trung thành với thiên triều. Để không bị Tập Cận Bình tiếp tục răn đe về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” nữa. Một điểm đáng chú ý khác trong bài viết này là đoạn viết về chính sách ngoại giao hai mặt của CSVN khi Liên Xô và Trung Cộng quay lưng với nhau hồi chiến tranh lạnh. “Khi các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đã xuất hiện những bất đồng, phần nào ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam luôn chủ động, tế nhị trong quan hệ với 2 nước, không tham gia các cuộc tranh luận công khai giữa 2 bên, tránh gây ra những hiểu lầm không cần thiết. Bằng đường lối đối ngoại phù hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ được Trung Quốc từng bước đồng tình, đi đến ủng hộ đường lối, mục tiêu, lập trường và quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam”. Có thể thấy đây là lời trần tình với thiên triều về chính sách ngoại giao cây tre hiện nay. Rằng trước đây CSVN phải đu dây giữa Xô – Trung là có lý do, bây giờ đu dây Mỹ – Trung cũng vậy, nhưng dù gì cũng mong thiên triều thông cảm, mong “tranh thủ được Trung Quốc từng bước đồng tình, đi đến ủng hộ”… Đu dây nhưng vẫn cam kết trung thành với thiên triều, vẫn nhấn nhá rằng chơi với Mỹ là để kiếm tiền, nhưng phải làm chư hầu với Trung Cộng mới bảo vệ được chế độ. Trong nước, CSVN nguỵ biện với dân như thế nào? Đối ngoại thì phải phân bua, giải thích với Trung Cộng, nhưng đối nội thì phải cố lừa dân. Thế nên Thiếu tá Lê Minh Nam đã khôn khéo lôi Hồ Chí Minh ra làm bia đỡ đạn cho cái phận chư hầu của CSVN. Trong bài viết, Thiếu tá Nam dẫn chứng lại lời ông Hồ Chí Minh về mối quan hệ Trung Cộng – Việt Cộng rằng: “Mọi âm mưu của đế quốc Mỹ hòng chia rẽ Việt Nam với Trung Quốc và chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, sẽ bị thất bại thảm hại” [2]. Lập luận như vậy tức là bây giờ CSVN làm chư hầu cho Trung Cộng là làm theo ý nguyện Hồ Chí Minh. Hoá ra mọi chuyện đều đổ lên đầu ông Hồ, chứ quan chức CSVN không có lỗi. Kiểu dẫn chứng này rất giống cách Nguyễn Phú Trọng từng dùng khi ca ngợi công lao của nước Mỹ hồi lúc nâng cấp quan hệ hai nước lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tháng 9/2023, Nguyễn Phú Trọng dùng chuyện “năm 1945 Hồ Chí Minh từng gửi thư qua Mỹ xin thiết lập quan hệ”, để làm lý do giải thích với người dân chuyện ông Trọng thiết lập đối tác cấp cao nhất với Mỹ. Hoặc tháng 9/2024, Tô Lâm đi Mỹ cũng đem Hồ Chí Minh ra để biện minh cho việc đu càng của mình. Tại đại học Columbia, New York, Tô Lâm phát biểu: “Trong Cách mạng Tháng 8, những người bạn Mỹ là lực lượng nước ngoài duy nhất bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được mời tham dự Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 và chứng kiến Hồ Chủ tịch trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ. Hôm đó, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trên khán đài nổi bật khẩu hiệu “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”. (3) Nhắc lại những chuyện này để thấy rằng bây giờ chuyện gì lãnh đạo CSVN cũng đều đem ông Hồ Chí Minh ra làm bia đỡ đạn. Chơi với Mỹ cũng là làm theo ý Hồ Chí Minh, mà làm chư hầu cho Trung Cộng cũng bởi Hồ Chí Minh mà ra. Hoá ra, công ơn cũng ông Hồ, mà tội lỗi cũng do ông Hồ, dân có trách thì trách ông Hồ chứ lãnh đạo CSVN bây giờ không có tội tình gì. Cuối cùng, trong bối cảnh thương chiến Mỹ – Trung đang gây cấn, CSVN lại ca ngợi công ơn Trung Cộng, đồng thời làm lễ ăn mừng thắng Mỹ xâm lược, thì cũng biết các lãnh đạo Việt Cộng chọn phe nào rồi. Nếu Mỹ có tăng thuế cho Việt Nam thì cũng không trách Mỹ được, người dân có trách thì trách đảng CSVN, rồi CSVN lại đổ hết tội lỗi cho Hồ Chí Minh… Và rồi, tội thì ông Hồ chịu, thuế thì dân gánh, quan chức CSVN vẫn vơ vét, vẫn giữ được chế độ nhờ làm chư hầu cho Trung Cộng. __________________ Tham khảo: (1) https://vietnamnet.vn/su-giup-do-cua-trung-quoc-trong-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-2391788.html (2) https://dantri.com.vn/xa-hoi/ong-tap-can-binh-quan-he-trung-viet-nhu-cay-co-coi-nhu-suoi-co-nguon-20250415150546348.htm (3) https://dantri.com.vn/tam-diem/chuyen-cong-du-mang-tinh-than-ngoai-giao-tam-cong-20240929071758604.htm VNTB
......

Ai là “Phật” – ai là “ma”

Dân Trần Ai đi tu mà không gia nhập vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì sẽ bị chụp mũ là “tà đạo”, nhưng Giáo hội càng ngày càng tỏ ra là một ổ ma tăng… Trong lịch sử Phật giáo, chưa từng có thời đại nào mà người ta phải hỏi lại một câu tưởng như đơn giản: “Ai mới là người tu thật sự?” Nhưng ở Việt Nam hôm nay, giữa một nền Phật giáo vốn dĩ nên là chốn nương tựa tâm linh, đang nổi lên nghịch lý: kẻ tu hành khổ hạnh, sống đời giản dị thì bị vùi dập; còn những người ngồi ghế cao, học vị đầy mình, giảng pháp trên YouTube hàng triệu lượt xem, lại cư xử như quan chức – thậm chí còn tệ hơn thế. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), xét trên phương diện pháp lý, là tổ chức tôn giáo duy nhất được nhà nước CSVN công nhận. Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là: Tổ chức ấy hiện đang phụng sự đạo pháp, hay đang quản lý đạo pháp? Người dân thấy rõ rằng họ đang hành xử không khác gì một cơ quan nhà nước mang dáng dấp tôn giáo, với hệ thống hành chính chặt chẽ, ban bệ đủ kiểu, công văn đi công văn về như thể họ là một bộ ngành nào đó – chứ không còn là cộng đồng những người tu học. Tiêu biểu cho lối hành xử đầy quyền lực ấy là những nhân vật như Thích Nhật Từ và Thích Chân Quang – hai vị “thượng tọa” nổi danh trên mạng xã hội với những bài giảng triết lý, ngôn từ hoa mỹ, học hàm học vị hoành tráng, nhưng lại thiếu vắng một thứ căn bản nhất: tinh thần từ bi, vô ngã và bao dung mà Đức Phật Thích Ca đã dạy. Trong khi Phật dạy “lấy từ bi làm gốc, lấy trí tuệ làm nghiệp”, thì hai vị này lại hành xử theo kiểu “ai không giống ta là tà đạo”. Họ không chấp nhận sự khác biệt. Họ không đối thoại với tinh thần bình đẳng và chân lý. Họ độc quyền quản lý phật tử, độc đoán truyền bá tư tưởng như thể mình là người phát minh ra Phật pháp. Và khi không thể tranh luận bằng lý lẽ hay đạo lý, họ chọn cách sử dụng quyền lực tổ chức để đàn áp, triệt tiêu. Một minh chứng rõ rệt và đau lòng là trường hợp của Ngài Minh Tuệ – một người không tự xưng là sư, không thuộc biên chế GHPGVN, không giảng đạo bằng micro, không ở chùa lớn hay xe sang, mà chọn con đường khổ hạnh – đi bộ khắp ba miền đất nước, sống nhờ cơm bố thí, ngủ nhờ mái hiên dân nghèo. Ngài không hô hào đạo lý, mà để đạo lý tự thấm qua từng bước chân, từng cách hành xử. Ngài không cần giảng về vô ngã, bởi Ngài chính là hiện thân của sự vô ngã. Và chính vì sự chân thực, giản dị, từ tốn ấy mà Ngài đã lay động hàng vạn trái tim – những người dân bình thường, không học triết lý cao siêu, nhưng biết phân biệt đâu là người tu thật. Ấy vậy mà Ngài lại bị chính những người mang danh “thượng tọa” công kích thậm tệ. Thích Chân Quang từng công khai chỉ trích Ngài Minh Tuệ là “tà đạo”, là “gây loạn”, mà không cần bất kỳ sự đối thoại hay kiểm chứng nào. Một cách kết luận thiếu đạo lý, thiếu cả tinh thần pháp lý. Còn Thích Nhật Từ thì đi xa hơn, gửi hẳn một văn bản ngoại giao đến tận Sri Lanka – yêu cầu trục xuất đoàn hành hương của Ngài Minh Tuệ. Một lá thư mà nếu xóa tên người gửi đi, chẳng ai nghĩ đó là thư của một nhà sư. Bởi nó chẳng hề mang mùi từ bi, mà toàn ngôn ngữ hành chính, khô cứng, lạnh lùng, loại trừ – thậm chí sặc mùi chính trị. Một nhà sư thật sự sẽ không gửi công văn để loại bỏ người khác. Một nhà sư thật sự sẽ không “tố cáo” ai ra nước ngoài. Một nhà sư thật sự sẽ hỏi: “Người ấy đang hại ai? Người ấy có gieo ác nghiệp gì chưa? Hay chỉ đơn giản là họ đi con đường khác mình?” Nếu ngay cả một người sống khổ hạnh, yên bình, không tham vọng gì cũng bị quy chụp, vậy thì Phật giáo sẽ còn gì là chốn an trú cho những tâm hồn lạc lối? Câu chuyện về Ngài Minh Tuệ và cách GHPGVN đối xử với Ngài, không chỉ là câu chuyện của một cá nhân – mà là sự cảnh tỉnh cho toàn bộ hệ thống đang ngày càng rời xa bản chất ban đầu của Phật giáo. Khi chiếc áo cà sa trở thành công cụ quyền lực. Khi pháp tòa trở thành bục diễn thuyết để tôn vinh bản ngã. Khi người ta giảng về vô thường, nhưng bám víu chức danh đến hơi thở cuối cùng. Khi người ta nói về từ bi, nhưng lại trừng phạt kẻ yếu hơn bằng mọi giá. Người ta thường nói: “Đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Nhưng cũng có câu khác sâu sắc hơn: “Chân lý bị vùi lấp, vẫn là chân lý.” Ngài Minh Tuệ không cần phải lên tiếng phản biện, vì từng bước chân của Ngài đã là câu trả lời lớn nhất. Ngài không cần phải chứng minh đạo hạnh, vì từng hành động đã tự chứng minh. Còn những người nhân danh đạo pháp để loại trừ, để thao túng, để triệt tiêu cái khác – thì sớm muộn gì cũng phải đối diện với “Luật nhân quả”. VNTB
......

Đã đến lúc hòa giải dân tộc

Vũ Đức Khanh Ngày 30 tháng 4 năm 2025 đánh dấu 50 năm kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, khi tiếng súng ngưng nổ, khi đất nước liền một dải chữ S từ Bắc chí Nam. Nhưng nửa thế kỷ trôi qua, sự thống nhất trên bản đồ chưa đồng nghĩa với sự thống nhất trong lòng người Việt. Vết cắt lịch sử vẫn chưa thực sự liền sẹo; dòng máu chảy chung của dân tộc vẫn chưa thể hòa cùng nhịp đập giữa những người con mang ký ức, lý tưởng và niềm tin từng khác biệt. Một dân tộc trưởng thành không chỉ vì chiến thắng trong quá khứ, mà còn vì khả năng vượt lên quá khứ. Sự cao thượng chính trị không thể hiện ở chỗ ai đã đúng, ai đã sai trong cuộc chiến năm xưa, mà ở chỗ ai dám đưa tay ra trước trong thời bình, để kiến tạo một tương lai chung cho tất cả. Tổng Bí thư Tô Lâm – người đang nắm giữ cương vị quyền lực cao nhất đất nước – tuyên bố rằng ông sẽ dẫn dắt Việt Nam bước vào một “kỷ nguyên mới”. Nhưng liệu kỷ nguyên mới ấy sẽ được định nghĩa như thế nào? Bằng tăng trưởng GDP? Bằng đô thị hóa? Hay bằng những dự án mang tính biểu tượng? Tất cả những điều đó đều quan trọng. Nhưng không gì có thể thay thế cho sự hòa hợp tinh thần dân tộc, cho khả năng sống chung giữa những người Việt còn đang ly tán trong lòng nhau – vì chiến tranh, vì ý thức hệ, vì bất đồng tư tưởng. Hòa giải là điều kiện để trở thành quốc dân của một đất nước văn minh Từ góc nhìn triết học chính trị, hòa giải không đơn thuần là một tiến trình kỹ thuật chính trị hay một “chính sách mềm” trong sách lược cầm quyền. Hòa giải là nền tảng để khôi phục phẩm giá của tất cả các bên đã trải qua đau thương. Không có hòa giải, sẽ không có công lý thực sự – vì công lý không phải là sự áp đặt một chân lý, mà là khả năng cùng nhau tồn tại trong sự khác biệt mà không loại trừ lẫn nhau. Tư tưởng của nhà triết học người Đức Jürgen Habermas từng khẳng định: một nền dân chủ đúng nghĩa phải mở ra không gian đối thoại tự do – nơi mỗi con người đều được lắng nghe như một chủ thể đạo đức và chính trị. Ở đó, lý trí công cộng được xây dựng trên sự thừa nhận rằng: không ai độc quyền chân lý. Chỉ có qua đối thoại – không phải bằng súng đạn hay nhà tù – ta mới có thể kiến tạo được đồng thuận xã hội. Thế nhưng, cho đến hôm nay, Việt Nam vẫn chưa có một tiến trình hòa giải dân tộc đúng nghĩa. Trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ hữu nghị và chiến lược toàn diện với những cựu thù như Mỹ, Pháp, Nhật Bản hay Trung Quốc, thì những người từng là đồng bào – dù ở bên kia chiến tuyến hay chỉ đơn thuần mang lý tưởng khác – vẫn chưa được đối xử như những người con chính danh của Tổ quốc. Hòa giải không phải là quên lãng Có người sợ rằng hòa giải sẽ dẫn đến lãng quên lịch sử, làm lu mờ “chính nghĩa cách mạng”. Nhưng hòa giải không phải là sự xóa bỏ ký ức. Đó là hành động chủ động thừa nhận quá khứ – trong tất cả sự phức tạp, đau đớn, và mâu thuẫn của nó – để cùng nhau bước tới. Hòa giải không yêu cầu một bên phải xin lỗi, một bên phải tha thứ. Nó chỉ yêu cầu chúng ta chấp nhận rằng: những con người có thể khác nhau về lý tưởng, về kinh nghiệm lịch sử, nhưng vẫn cùng thuộc về một cộng đồng dân tộc – và vì thế, phải có khả năng sống chung. Tư tưởng của triết gia người Pháp Paul Ricœur nhấn mạnh vai trò của ký ức trong việc xây dựng bản sắc và đạo đức cộng đồng. Ông nói đến “ký ức công bằng” – không phải là ký ức chỉ kể về nỗi đau của mình, mà là ký ức biết lắng nghe nỗi đau của người khác. Nếu ký ức bị thao túng bởi quyền lực chính trị, nó trở thành công cụ của sự khép kín và đối đầu. Nhưng nếu ký ức được mở ra bởi tinh thần nhân văn, nó trở thành nhịp cầu nối giữa các linh hồn từng bị tổn thương. Tổ quốc là không gian chung, không thể độc quyền Chúng ta không thể nói về lòng yêu nước nếu chúng ta không thừa nhận quyền tồn tại của những quan điểm khác nhau trong một không gian chính trị. Một nửa dân tộc không thể bị buộc phải im lặng vì quá khứ của họ “sai lý lịch,” vì tư tưởng của họ “trái chiều,” hay vì họ dám nói một điều gì đó khác biệt. Nếu chính quyền tiếp tục dùng luật pháp để bịt miệng bất đồng, tiếp tục xem sự đa nguyên là mối đe dọa, thì không thể nào có được một nền dân chủ thực chất. Chủ nghĩa nhân văn chính trị – vốn đặt con người làm trung tâm – yêu cầu chúng ta phải vượt qua thói quen phân chia “ta và địch,” “chính thống và phản động”. Đã đến lúc người Việt – từ trong nước đến hải ngoại, từ quan chức đến dân thường, từ đảng viên đến trí thức bất đồng – được nhìn nhận như những quốc dân bình đẳng, có quyền mơ ước, cất tiếng nói, và góp phần định hình tương lai quốc gia. Tổ quốc không phải là tài sản riêng của bất kỳ ai, dù đó là một đảng phái, một tổ chức hay một tầng lớp. Tổ quốc là không gian thiêng liêng mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ – không phải vì cùng một quá khứ, mà vì cùng một tương lai. Hòa giải là bản lĩnh của kẻ mạnh Người yếu thì sợ khác biệt. Người mạnh thì đủ tự tin để chung sống với nó. Một nhà lãnh đạo thực sự vĩ đại không phải là người củng cố quyền lực bằng nỗi sợ hãi, mà là người dám trao quyền bằng niềm tin. Lịch sử hiện đại đã chứng minh: những quốc gia có thể vượt qua chia rẽ sau nội chiến hay độc tài – như Nam Phi hậu apartheid, Tây Ban Nha hậu Franco, hoặc Chile hậu Pinochet – đều có một điểm chung: họ đã đặt hòa giải và đối thoại lên trên thù hận và báo thù. Nelson Mandela không thể trở thành huyền thoại nếu ông không bắt tay với những người từng giam cầm ông 27 năm. Và Chile không thể trở thành nền dân chủ hàng đầu Nam Mỹ nếu không dám đối diện với quá khứ đầy máu và nước mắt. Việt Nam cũng có thể bước vào trang sử mới – nếu có một người dám khởi đầu. Với vị trí hiện tại, Tổng Bí thư Tô Lâm có đủ thẩm quyền và cơ hội để làm điều đó. Không phải bằng khẩu hiệu, mà bằng hành động cụ thể: khởi động một tiến trình hòa giải dân tộc, trả lại quyền công dân và tiếng nói cho những ai từng bị loại trừ, và cam kết xây dựng một không gian chính trị nơi mọi người Việt – dù khác nhau – đều có thể cùng tồn tại trong tôn trọng và tình thương. Hòa giải không chờ đợi! Hòa giải không thể chờ đến khi mọi vết thương lành. Chính hòa giải là thuốc chữa lành. Và không thể có hòa giải nếu chỉ đòi hỏi sự “hối cải” từ phía những người bị xem là “lầm đường lạc lối”. Hòa giải đòi hỏi chính quyền phải mở lòng trước, dừng mọi hành vi trấn áp ôn hòa, và khẳng định rằng bất đồng chính kiến là một phần tất yếu – và lành mạnh – của một quốc gia trưởng thành. Nếu ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày chiến tranh kết thúc, thì ngày 30 tháng 4 năm 2025 có thể là ngày hòa giải bắt đầu. Chúng ta không thể làm sống lại những người đã chết, nhưng chúng ta có thể làm cho những người đang sống tìm lại nhau. Tương lai không thuộc về những người giữ khư khư một quá khứ đóng kín. Tương lai thuộc về những người dám mở cửa tâm hồn, để lịch sử không còn là gánh nặng – mà trở thành điểm tựa. Và lịch sử – như thường lệ – sẽ chỉ ghi tên những ai dám hành động. Nhưng không phải vì quyền lực, quyền lợi hay danh vọng, mà vì chính nghĩa, công lý và sự công bằng./.    
......

Công văn của Thích Nhật Từ nói gì về sư Minh Tuệ

Công văn từ Ban Phật giáo Quốc tế – TP. Hồ Chí Minh VIỆT NAM PHẬT GIÁO SANGHA – TP. HỒ CHÍ MINH BAN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ Số: 12/2025/CV-BPGQT   CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM – Độc lập – Tự do – Hạnh phúc TP. Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 4 năm 2025 Gửi: Đại Tăng thống Tông phái Malwatta V/v: Yêu cầu can thiệp liên quan đến hành vi vi phạm luật pháp Việt Nam và Giới luật Phật giáo của ông Lê Anh Tú Kính Bạch Đức Tăng Thống, Ban Phật giáo Quốc tế thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Chi hội TP. Hồ Chí Minh trân trọng gửi đến Ngài văn bản này để trình bày một số vấn đề nghiêm trọng liên quan đến hành vi của ông Lê Anh Tú (tức Thích Minh Tuệ), người đã công khai mặc y phục tu sĩ mặc dù chưa từng thọ giới và được truyền giới hợp pháp theo quy định của giới luật Phật giáo. Dựa trên các tài liệu xác minh được, chúng tôi xin trình bày ba điểm chính như sau: Giả danh tu sĩ Phật giáo: Ông Lê Anh Tú đã bất hợp pháp khoác lên mình y phục tu sĩ Phật giáo mà chưa từng thọ giới Tăng sĩ (Samanera hoặc Bhikkhu) theo giới luật Phật giáo. Hành vi này vi phạm luật Tín ngưỡng, Tôn giáo của Việt Nam. Đính kèm theo đây là bản ghi nhớ từ Văn phòng Phật giáo Quốc gia Thái Lan, khẳng định rõ ràng rằng ông Lê Anh Tú không được công nhận là một tu sĩ hợp pháp, mà chỉ là một người giả danh. Cố ý lập giáo phái ly khai, gây chia rẽ: Ông Lê Anh Tú có ý định thành lập một nhóm tu sĩ tự xưng tên là “Giáo phái khổ hạnh”, không phù hợp với quy định Phật giáo Việt Nam. Trong những tháng gần đây, ông đã tập hợp khoảng 30 người có lý lịch không rõ ràng để tham gia nhóm khất thực, gây tổn hại đến uy tín và sự đoàn kết của Phật giáo Việt Nam. Gây rối trật tự công cộng và ảnh hưởng danh tiếng quốc gia: Theo các báo cáo từ truyền thông Việt Nam, ông Lê Anh Tú từng gây rối công cộng năm 2021. Hiện tại, ông được hậu thuẫn bởi các tổ chức chống chính phủ tại Mỹ, Úc và một số cộng đồng hải ngoại nhằm bôi nhọ chính phủ Việt Nam và chia rẽ Phật giáo. ⸻ Bản ghi nhớ từ Văn phòng Quốc gia Phật giáo Thái Lan BẢN GHI NHỚ Cơ quan: Văn phòng Quốc gia Phật giáo, Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Tăng Thống Tối cao Số hiệu: 0001/554 Ngày: 13 tháng 2 năm 2567 (2025) V/v: Yêu cầu xác minh và ủy quyền thông tin liên quan đến việc đưa các tu sĩ Thái Lan đi Ấn Độ học tập và tham gia hoạt động tôn giáo Gửi: Giám đốc các Văn phòng Phật giáo cấp tỉnh trên toàn quốc Chúng tôi được biết qua các nguồn trực tuyến rằng có một số cá nhân đang tổ chức các chuyến đi cho các tu sĩ Thái đến Ấn Độ nhằm học tập và tham gia các hoạt động tôn giáo với các mục đích được công bố là tích cực. Tuy nhiên, chúng tôi lo ngại về nguy cơ bị lợi dụng, thiếu an toàn, và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần của các tu sĩ, đặc biệt khi các thông tin này lan truyền trên mạng xã hội. Do đó, để giải quyết các lo ngại này, chúng tôi yêu cầu phải xác minh kỹ lưỡng tính xác thực và chi tiết các hoạt động này theo đúng thủ tục pháp lý quy định. Văn phòng Quốc gia Phật giáo nhắc nhở rằng bất kỳ nhóm tu sĩ hoặc tổ chức nào có ý định tổ chức hành hương hay các chuyến đi đến Ấn Độ đều phải xin phép và được sự đồng ý chính thức từ Văn phòng Quốc gia Phật giáo. Văn phòng sẽ kiểm tra kỹ lưỡng tất cả các thông tin và giấy tờ trước khi ra quyết định. Chúng tôi mong các Văn phòng Phật giáo tỉnh sẽ phối hợp giám sát và đảm bảo tuân thủ quy định hiện hành. Trân trọng, (Đã ký) Phra Ajahn Suchit Kittitharadhammo Phó Tổng Thư ký – Văn phòng Quốc gia Phật giáo (Thay mặt Bộ phận Quản lý Hoạt động) ⸻ Trang cuối công văn Việt Nam gửi cho Sri Lanka Cũng xin lưu ý, chính quyền Indonesia đã từ chối cho phép ông Lê Anh Tú hành khất công khai trên lãnh thổ nước họ vào đầu tháng 4/2025. Tương tự, chính phủ Singapore đã cấm các hoạt động tương tự vào ngày 9/4/2025. Có báo cáo cho rằng nhóm của ông đã đến Sri Lanka. Do đó, chúng tôi kính đề nghị sự hợp tác như sau: Hợp tác với chính quyền Sri Lanka: Kính đề nghị quý cơ quan phối hợp với các cơ quan chức năng Sri Lanka để xác minh và ngăn chặn ông Lê Anh Tú cùng nhóm người của ông ta thực hiện các hoạt động tôn giáo hay công cộng trái phép tại Sri Lanka trong thời gian tới. Tăng cường hợp tác quốc tế: Chúng tôi mong được hỗ trợ trong việc phối hợp với các cơ quan quốc tế và đối tác để ngăn chặn việc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo cho mục đích chính trị, gây chia rẽ Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia. Chúng tôi tin rằng, dưới sự lãnh đạo yêu nước, công tâm và vì giá trị đạo đức của Phật giáo, quý cơ quan sẽ xem xét nghiêm túc và hợp tác chặt chẽ nhằm bảo vệ sự tôn nghiêm của Phật giáo Việt Nam cũng như giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của quý vị và mong nhận được phản hồi sớm. (Đóng dấu, ký tên) HT. TS. Thích Nhật Từ (Chủ tịch)
......

Công du VN, xe của ông Tập chỉ cắm cờ Trung Quốc, không cắm cờ Việt Nam

Lương Ngọc Huỳnh Các cụ nói: “ Thằng cha nó lú thì có thằng chú nó khôn” Những hình ảnh trong hai ngày qua khi TBT-CTN Trung Quốc Tập Cận Bình đến thăm chính thức nước ta qua theo dõi và quan sát, tôi có mấy ý kiến sau: Tại sao xe chở chủ tịch Trung Quốc không cắm cờ Việt Nam? Việc này có ý nghĩa gì? Việc xe chở Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến thăm Việt Nam không cắm cờ Việt Nam, kể cả khi đoàn xe đó tiến vào Phủ Chủ Tịch Nước, nơi linh khí mạnh nhất của đất nước! Bất luận lý do an ninh từ phía Trung Quốc hay lỗi từ Lễ Tân Bộ Ngoại Giao Việt Nam đều không thể chấp nhận được! 1- Theo nghi thức quốc tế, khi nguyên thủ quốc gia đến thăm chính thức một nước khác, xe chở nguyên thủ thường phải cắm hai lá cờ: Một lá cờ nước chủ nhà, một lá cờ của quốc gia khách mời. Điều này biểu thị sự tôn trọng chủ quyền và bình đẳng giữa tình hữu nghị song phương. 2- Nếu do phía Trung Quốc cố tình không cắm cờ Việt Nam trên xe chở Chủ tịch nước của họ, điều đó có thể được hiểu là: - Họ muốn thể hiện địa vị vượt trội quyền lực mềm. Trung Quốc có thể muốn ngầm truyền đi thông điệp rằng: “Chúng tôi đến đây với vị thế cao hơn, không cần phải thể hiện sự song phương ngang hàng”! - Đây là một lối tuyên truyền hình ảnh một cách tinh vi, để định hình nhận thức rằng Việt Nam là nước nhỏ thuộc phạm vi ảnh hưởng! 3- Thử phản ứng của Việt Nam: - Đây có thể là một phép thử để xem phía Việt Nam có lên tiếng phản đối, hay im lặng chấp nhận? - Nếu không phản ứng, Trung Quốc có thể củng cố luận điệu “Việt Nam đã chấp nhận sự ảnh hưởng từ Trung Quốc”! 4- Thông điệp nội bộ: - Với báo chí và công chúng trong nước họ, hình ảnh xe không cắm cờ nước chủ nhà có thể được tuyên truyền như một sự thể hiện sức mạnh ngoại giao của Trung Quốc trên trường quốc tế, nhất là với láng giềng Việt Nam! 5- Góc nhìn Phong thủy: Họ đã áp trường lực mềm trong việc không cắm cờ Việt Nam! - Thứ nhất là: Cắt bớt “khí tượng chủ quyền” của Việt Nam trong không gian nghi lễ ngoại giao. - Thứ hai là: Khi xe lăn bánh mà chỉ có cờ Trung Quốc, trường năng lượng lệch về một phía, là áp đặt từ trường bởi thế lực tâm linh và chính trị vào Việt Nam! “Đây là thủ pháp năng lượng mềm, tương tự như việc lập một trận pháp âm thầm, không cần lời nói nhưng vẫn truyền năng lượng rất mạnh khi xe đi dọc các tuyến phố trục Huyết Long của Hà Nội tiến vào phủ chủ tịch nước Việt Nam là làm tổn thương nội khí địa vận của nước ta! Thưa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Nhân dân: Cờ tổ quốc là một dạng pháp kỳ, tượng trưng cho linh khí quốc gia. Không có cờ Việt Nam đối xứng trên xe nguyên thủ Trung Quốc là cắt mạch khí tượng chủ quyền ngay từ biểu tượng đầu tiên khi nhập cảnh! Khi đoàn xe lao vào phủ chủ tịch nước Việt Nam, họ vẫn không cắm cờ Việt Nam! Cắm riêng cờ Trung Quốc trên xe nguyên thủ của họ, là đặt long khí thần quyền một chiều, mang năng lượng áp đảo về tâm linh và chính trị, làm tổn thương nguyên khí của dân tộc và xúc phạm tới công lao tổ tiên dựng nước và giữ nước! Tôi đề nghị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bộ ngoại giao nước ta cần rất cẩn trọng và tỉnh táo trước những thủ thuật biểu tượng kiểu này, đồng thời cần phản hồi một cách khôn khéo và bản lĩnh, không để tổn hại đến khí phách quốc gia và làm tổn thương tinh thần Việt Nam bất diệt! Hà Nội ngày 15/4/2025 Gs-Vs Lương Ngọc Huỳnh
......

Tô Lâm bỏ cờ đảng trong buổi điện đàm với Tổng thống Mỹ

Trần Anh Quân (VNTB) Đòn thuế của Donal Trump đã khiến Việt Nam chính thức rơi vào khủng hoảng tài chính lớn nhất lịch sử. Một động thái bất thường trong cuộc điện đàm giữa Tổng bí thư CSVN Tô Lâm với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump là quang cảnh buổi họp không treo lá cờ búa liềm của đảng mà chỉ có lá cờ đỏ sao vàng. Những người giữ vai trò tổng bí thư CSVN không bao giờ tiếp khách, điện đàm tại Trụ sở Trung ương Đảng mà thiếu cờ búa liềm. Lá cờ búa liềm được chuẩn bị rất kỹ chứ không có chuyện sơ xuất trong một buổi điện đàm hoặc hội nghị quan trọng, phải đặc biệt nhấn mạnh rằng buổi điện đàm này diễn ra ngay tại Trụ sở Trung ương Đảng CSVN. Không cần bàn tới các đời tổng bí thư trước đây, chỉ tính người đương nhiệm, thì từ khi lên ghế tổng bí thư, những cuộc điện đàm của Tô Lâm tại Trụ sở Trung ương Đảng cũng thường xuyên có cờ búa liềm ngay bên cạnh cờ đỏ sao vàng. Ví dụ ngày 3/9/2024, Tô Lâm, khi đó là tổng bí thư kiêm nhiệm chủ tịch nước, đã có buổi điện đàm với Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc Yoon Suk Yeol, hình ảnh cho thấy Tô Lâm ngồi dưới tượng ông Hồ Chí Minh, bên phải là cờ đỏ sao vàng và cờ búa liềm. Hoặc ngày ngày 15/1/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng có điện đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhân dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Buổi điện đàm cũng diễn ra tại Trụ sở Trung ương Đảng, cũng ngay tại vị trí mà tổng bí thư thường ngồi: dưới tượng Hồ Chí Minh và bên phải có cờ đỏ sao vàng cùng cờ búa liềm. Tuy nhiên, trong cả hai cuộc điện đàm mà Tô Lâm gọi cho tổng thống Mỹ đều không có sự xuất hiện của cờ búa liềm. Cuộc gọi đầu tiên diễn ra vào tối 11/11/2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tô Lâm đã điện đàm chúc mừng ông Donald Trump đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Quang cảnh cho thấy chỉ có quốc kỳ CSVN và quốc kỳ Hoa Kỳ. Đây là điều hiếm có, nhưng dễ giải thích, vì lúc đó Tô Lâm và bộ chính trị CSVN rất tự tin vào vị thế của mình, muốn gửi thông điệp “rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó sợ gì” tới tân tổng thống Hoa Kỳ. Đồng thời, Tô Lâm cũng muốn thể hiện rằng tổng bí thư (chứ không phải Chủ tịch nước Lương Cường) mới là người nắm quyền lực tuyệt đối để đại diện Việt Nam nói chuyện với Hoa Kỳ. Buổi toạ đàm đó, các quan chức CSVN cũng có bàn ghế bày trí rất trang trọng hai bên Tô Lâm. Vậy nhưng, cuộc gọi tối ngày 4/4 vừa rồi rất bất thường. Cũng tại Trụ sở Trung ương Đảng, cũng trước tượng Hồ Chí Minh, nhưng chỉ có một lá cờ đỏ sao vàng, bên tay trái Tô Lâm. Không có cờ búa liềm, không cờ Hoa Kỳ, mà thậm chí, hai bên văn võ bá quan còn không có ai dãy bàn như thường thấy. Phải nói là “trống huơ trống hoác”. Kèm với đó là hình ảnh Thủ tướng Phạm Minh Chính trong buổi điện đàm này cũng rất khúm núm và lo lắng. Khác hẳn với phong thái thường thấy. Nhất là Phạm Minh Chính từng dõng dạc ngay tại đất Hoa Kỳ rằng “rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó sợ gì”. Video buổi điện đàm cho thấy Tô Lâm liên tục gọi “ngài tổng thống là người bạn tốt”, hi vọng mối quan hệ tiếp tục phát triển, “cảm ơn ngài tổng thống”, thái độ nói chuyện rất nịnh bợ và bạc nhược so với phong cách của họ Tô khi tới Hoa Kỳ hồi năm ngoái. Đặc biệt cần quan tâm diễn biến khi Tô Lâm xuống nước cầu xin Trump xem xét lại mức thuế. Ban đầu thì người đứng đầu CSVN nói rằng “Việt Nam sẵn sàng đàm phán để có mức thuế hợp lý”. Sau một hồi lòng vòng thì Tô Lâm mới đặt vấn đề giảm thuế xuống mức 0% với Hoa Kỳ. Rõ ràng ý đồ của Tô Lâm là muốn đàm phán kiếm để giữ “mức thuế hợp lý” với Hoa Kỳ, nhưng sau một hồi nói chuyện thì tổng bí thư CSVN buộc phải nói ra con số 0% chứ con số này không hề được nhắc tới ngay từ đầu. Chứng tỏ đây là một buổi ngã giá “kỳ kèo bớt một thêm hai” chẳng khác gì khi đi mua đồ ngoài chợ. Và Tô Lâm đã thua ngay tại sân nhà – Trụ sở Trung ương Đảng, trước mặt bá quan văn võ và được phát trên sóng truyền hình. Khi có sự kỳ kèo này thì phải nhớ tới câu nói nổi tiếng của Cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn thật kỹ những gì cộng sản làm”. Rơi vào khủng hoảng, cộng sản có thể nhân nhượng, nhưng chắc chắn họ sẽ trở mặt. Trước mắt, CSVN có thể tính thuế nhập khẩu với Hoa Kỳ ở mức 0%, nhưng khi hàng Mỹ vào lãnh thổ Việt Nam thì người dân vẫn có thể dính các loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, và nhiều loại phí khác… Cũng cần nhắc lại bối cảnh dẫn tới tâm lý sợ hãi này diễn ra ngay sau khi tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố áp thuế 46% với Việt Nam. Ngay sau tuyên bố, chứng khoán Việt Nam ngày 3/4 mất 88 điểm (giảm mạnh nhất châu Á), vốn hoá toàn thị trường bốc hơi 500.000 tỷ đồng trong một ngày, từ mức 7,3 triệu tỷ đồng xuống còn 6,8 triệu tỷ đồng. Một ngày sau, 4/4, chứng khoán lao dốc thêm gần 50 điểm nữa. Đây là hồi chuông báo hiệu rằng Việt Nam đã chính thức rơi vào khủng hoảng tài chính. Và tài chính chỉ là bước khởi đầu, tiếp sau đó sẽ là khủng hoảng trên tất cả các lãnh vực khác của nền kinh tế quốc gia. Đòn thuế của tổng thống Trump lần này đã khiến CSVN đã biết họ là ai, ai cần ai hơn, ai sợ ai hơn, vị thế như thế nào với Hoa Kỳ, và biết cách chơi như thế nào là “rõ ràng”, “sòng phẳng” với Hoa Kỳ. Cùng với “cuộc đại tinh gọn” gần đây, việc Tô Lâm đề nghị áp thuế 0% với Hoa Kỳ và cách trang khí phòng họp không có cờ búa liềm có thể khiến một số người liên tưởng tới chuyện Tô Lâm sẽ noi gương Gorbachev: giải tán đảng cộng sản. Tuy nhiên, như phân tích về việc kỳ kèo ngã giá ở trên, thì động thái xuống nước này chỉ là biện pháp cấp bách để giải quyết những cuộc khủng hoảng trước mắt. Lưu ý, báo chí CSVN không hề đăng ảnh toàn cảnh cả phòng họp Trụ sở Trung ương Đảng, mà chỉ chụp cận mặt Tô Lâm. Phải tìm những video quay lại trên trang Youtube của đài VTV thì mới thấy hình toàn cảnh. Điều này cho thấy Tô Lâm chỉ muốn cất lá cờ đảng để tiện xin xỏ tổng thống Hoa Kỳ. Còn trong nước thì CSVN muốn hạn chế tuyệt đối hình ảnh đó bị người dân phát hiện. Bởi vậy, khó có chuyện Tô Lâm sẽ học theo cách Gorbachev. Vì trước nay CSVN vẫn trung thành với tôn chỉ “thà mất nước chứ không để mất chế độ”, và phía sau CSVN vẫn còn cộng sản Trung Quốc với rất nhiều ràng buộc phức tạp. Hơn nữa Tô Lâm còn là một nhà độc tài có lịch sử đàn áp nhân quyền tàn bạo, sẵn sàng bắt cóc, bỏ tù và hạ độc thủ các đối thủ chính trị để thâu tóm quyền lực. Với những “công sức” đã bỏ ra, khó có chuyện Tô Lâm chấp nhận nhượng quyền cho ai, chứ đừng nói tới chuyện giải thể đảng cộng sản; trừ khi có một đại chính biến gây ảnh hưởng tới toàn bộ khối cộng sản Á Châu hiện nay./.
......

Không đồng ý việc Trung quốc diễu binh trong lễ kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước

Xuân Sơn Võ Tôi nhớ, trong hồi kí của Frank Snepp có nói đến cuộc thương thuyết giữa Mỹ và chính quyền Việt Nam DCCH (Bắc Việt) và CHMN Việt Nam (Việt Cộng) những ngày cuối tháng 4 năm 1975. Theo đó, phía VNDCCH và CHMNVN nói sẽ pháo kích bao nhiêu phát đạn (tôi không nhớ rõ số liệu) vô Dinh Độc Lập. Theo tinh toán của phía Mỹ, thì với “sai số cho phép”, Đại sứ quán Mỹ cũng sẽ trúng hàng ngàn phát pháo kích. Lúc đó, Mỹ rất lo ngại việc chính quyền Việt nam Cộng Hòa sẽ tử thủ, dẫn đến cuộc pháo kích làm mất mặt nước Mỹ kia. Theo những nguồn tin khác, trước khi Tổng thống Dương Văn Minh trong giờ phút quyết định, đã có kẻ đại diện cho chính quyền Bắc Kinh khi đó, đến và yêu cầu Tổng thống Dương Văn Minh tử thủ, họ sẽ thay thế Mỹ chống lưng cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Thế nhưng, để tránh một cuộc tắm máu cho Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng. Theo một số thông tin, trước đó, vào năm 1954, Trung Quốc đã chủ động đưa ra phương án chia cắt đất nước Việt Nam làm hai miền Bắc, Nam, bằng đường phân định Vĩ tuyến 17. Đất nước ta, vì Trung Quốc (và tất nhiên là cả những yếu tố chủ quan khác), đã bị chia cắt thêm 21 năm. Hàng triệu sinh mạng đã phải hi sinh cho ý chí thống nhất nước nhà. Ngay sau khi đất nước Việt Nam thống nhất, ngày 30/4/1975 chỉ 1 ngày, Khơ Me đỏ, dưới sự bảo trợ của chính quyền Trung Quốc, đã đánh vào đảo Thổ Chu, tiến hành cuộc thảm sát, giết hại hàng ngàn đồng bào ta. Kể từ đó, Khơ Me đỏ được Trung Quốc hậu thuẫn, đã liên tục quấy rối, gây ra những vụ thảm sát dã man ở biên giới Tây Nam, dẫn đến việc Việt Nam phải đưa quân sang đánh tan bọn Khơ Me đỏ vào tháng 1 năm 1979. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc, do muốn cứu vãn cho Khơ Me đỏ, đồng thời cũng muốn thực hiện dã tâm xâm chiếm nước ta, đã xua quân xâm lược nước ta qua toàn tuyến biên giới phía Bắc. Chúng đã giết hại bao nhiêu chiến sĩ và đồng bào của chúng ta. Cuộc chiến ấy kéo dài, ít nhất là đến năm 1984 ở Vị Xuyên, Hà Giang, và đến 1988, trên Biển Đông, tại Gạc Ma. Do không có thông tin, chúng ta không biết cuộc đối đầu quân sự trên đất liền ở biên giới phía Bắc, và trên Biển Đông kéo dài đến bao giờ. Tuy nhiên, năm 2018, Trung Quốc vẫn còn cho tàu HD 981 xâm phạm vùng biển nước ta, và bây giờ, chúng vẫn thỉnh thoảng khiêu khích chúng ta. Đặc biệt, chúng luôn khẳng định chủ quyền trên Biển Đông bằng đường lưỡi bò, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển đảo của chúng ta. Cột mốc 30/4 lịch sử, khi đất nước chúng ta thống nhất, đã có được, nhờ tinh thần dân tộc, không để Trung Quốc, kẻ kiên quyết chia cắt đất nước chúng ta, phá hoại. Sau ngày thống nhất đất nước, bao nhiêu xương máu của đồng bào, chiến sĩ ta đã phải đổ xuống, bao nhiêu sinh mạng phải hi sinh, để chống lại Trung Quốc, bảo vệ sự thống nhất, toàn vẹn đất nước ta. Vì vậy, việc quân đội Trung Quốc đến Hà Nội diễu binh trong lễ kỉ niệm 50 ngày thống nhất đất nước 30/4/2025 là hết sức vô lí. Hành động cho Trung Quốc diễu binh trong lễ kỉ niệm 50 ngày thống nhất đất nước làm cho tôi liên tưởng đến Hịch Tướng sĩ của Trần Hưng Đạo: “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…”. Không thể để cho bọn người luôn phá hoại sự thống nhất đất nước ta, luôn nuôi ý định và thực hiện việc xâm chiếm nước ta, lại có thể diễu binh trên đất nước ta vào chính ngày kỉ niệm 50 năm thống nhất đất nước. Hành động này xúc phạm những điều thiêng liêng của hàng triệu sinh mạng đã hi sinh vì sự thống nhất đất nước chúng ta. Tôi không đồng ý với việc để cho quân đội Trung Quốc diễu binh trong lễ kỉ niệm 50 ngày thống nhất đất nước. Nếu việc này vẫn diễn ra, tôi sẽ không xem, dù trực tiếp hay gián tiếp, kể cả chiếu lại, trên TV, facebook, youtube, tiktok… hay bất cứ nền tảng nào. Người bạn nào của tôi chiếu những cảnh này, tôi sẽ unfriend ngay lập tức. Kẻ nào gởi cho tôi những đoạn hình ảnh này, tôi sẽ block ngay./.  
......

Sự thật không chết –Nó chỉ chờ ngày sáng tỏ

Trần Huỳnh Duy Thức Năm 2006 tôi từng nói rằng: “Doanh nghiệp tư nhân mới chính là lực đẩy quan trọng và lành mạnh nhất cho sự phát triển của đất nước.” Đó là một sự thật hiển nhiên ai cũng thấy rõ. Nhưng khi ấy lại bị xem là “diễn biến hoà bình”, là “phản động”. Và tôi đi tù vì đã dám nói ra lẽ phải, sự thật. Gần 20 năm sau chính quyền lại thừa nhận: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước.” Sự thật không chết. Nó chỉ bị trì hoãn. Và nó luôn có ngày trở lại. Lâu nay có người lên tiếng về nhân quyền – bị gán nhãn “gây rối”. Có người nói về chủ quyền quốc gia – bị coi là “kích động”. Có người cảnh báo về những mối lệ thuộc nguy hiểm – bị quy là “xuyên tạc”. Nếu những lẽ phải ấy vẫn tiếp tục bị bóp nghẹt, đất nước sẽ lại đánh mất thêm những thập kỷ quý báu – và cái giá của sự trì hoãn đó sẽ là những cơ hội phát triển không thể lấy lại. Tôi hiểu cảm giác này của người dân. Và tôi cũng biết một điều: Chính quyền có thể lờ đi, đàn áp sự thật, nhưng không thể làm nó biến mất. Nó sẽ bừng sáng một ngày nào đó khi đã được nói lên. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà im lặng được khuyến khích như một lối sống an toàn, còn nói thật – dù ôn hòa, dù vì thiện chí – lại dễ bị gán nhãn là “chống đối”. Khi những điều đúng đắn chỉ được thì thầm. Còn những điều sai trái lại được hô lớn bằng loa. Thì không phải xã hội đang phát triển – mà là đang tự làm mình mù lòa. Sẽ còn bao nhiêu lần 20 năm nữa để dân tộc có thể vươn mình?  
......

Vũ Quang Thuận, Huy Đức và Tô Lâm

TS Phạm Đình Bá Trường hợp của Thuận phản ánh xu hướng đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến, đặc biệt dưới thời lãnh đạo Tô Lâm và Phạm Minh Chính. Nhận định của nhà báo Huy Đức trước khi bị bắt về việc “công an kiểm soát Bộ Chính trị” dường như được củng cố qua cách xử lý vụ Thuận. Vũ Quang Thuận đồng sáng lập “Phong Trào Dân tộc Chấn Hưng Nước Việt” vào năm 2007 cùng với Lê Thăng Long, ủng hộ nền dân chủ đa đảng theo phương châm “Dân chủ, Tiến bộ, Nhân đạo, Hòa bình”. Sau khi Long bị bắt vào năm 2009, Thuận đã trốn sang Malaysia, nơi anh tổ chức các cuộc biểu tình đòi quyền lợi cho người lao động Việt Nam và cố gắng tự thiêu vào năm 2010 để phản đối việc trục xuất những người hoạt động khác. Chính quyền Malaysia đã trục xuất anh về Việt Nam vào năm 2011, nơi anh bị giam giữ trong một bệnh viện tâm thần trước khi tiếp tục hoạt động. Từ năm 2015, Thuận và cộng sự Nguyễn Văn Điển đã điều hành một kênh YouTube thảo luận về nhân quyền và các phương pháp biểu tình hợp pháp, dẫn đến việc họ bị bắt vào năm 2017. Năm 2018, Thuận bị kết án tám năm theo Điều 88 vì tội “tuyên truyền chống nhà nước”. Tổ chức Ân xá Quốc tế và Đại sứ quán Hoa Kỳ lên án việc giam giữ ông là có động cơ chính trị, viện dẫn tình trạng sức khỏe của ông suy yếu do bị bỏ bê y tế trong tù. Được trả tự do sớm tám ngày vào tháng 2 năm 2025 trong tình trạng bệnh nặng, trường hợp của ông nêu bật sự đàn áp có hệ thống của Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến. Ngày 25/03/2025, Chị Huệ Như đưa tin trên mạng facebook về tin anh Vũ Quang Thuận đã về nhà và anh nhờ tôi lên tiếng phản đối An Ninh Thái Bình tự ý lắp đặt 2 camera giám sát trong nhà và ngoài sân nhà anh ấy. Anh ấy có cho tôi biết về việc đã mất khá nhiều tiền được mọi người hỗ trợ thông qua những tài khoản của người thân. Nên mọi người chú ý khi có ý định giúp đỡ anh ấy qua người nhà nhé! Tin đưa của chị Huệ Như được đọc bởi 853 facebookers, với 179 đóng góp và 143 trao chuyển chỉ trong vòng 1 ngày. Hợp Tiên Sanh đóng góp “Mấy thằng cộng sản bây giờ nó coi dân như bù nhìn, sống như chết rồi. Dân này cũng dễ đạp lên đầu lên cổ quá mà, dân càng ngu thì chính quyền càng ác thôi, lẽ dĩ nhiên.” Trung Kiên Pham viết “Hu hu, bẩn bựa và hèn mạt đến thế là cùng, đúng là chế độ “bám sát quần chúng” xúc phạm QUYỀN sống của người dân… Một chế độ như thế có đáng tồn tại không, thưa ông Tổng Tô Lâm?” Nguyen Hung viết “Nhân quyền và tự do dân chủ ở Việt nam hiện tại là như thế nào? Khi an ninh Thái Bình tự cho quyền mình lắp đặt camera trong nhà người dân? Quyền bất khả xâm phạm chỗ ở của công dân là ở chỗ nào?” Lê Minh Tuấn – “Thực sự nản sống dưới một chế độ này.” Theo báo Vietnamese ngày 24/03/2025, cựu tù nhân chính trị Vũ Quang Thuận được cho là đang trong tình trạng nguy kịch sau khi được thả khỏi tù chỉ tám ngày trước khi kết thúc bản án. Ông được đưa về nhà từ Nhà tù Nam Hà vào ngày 22 tháng 2 năm 2025, sau khi các viên chức nhà tù được cảnh báo rằng ông có thể chết bất cứ lúc nào do bệnh nặng. Cũng theo báo Vietnamese, Thuận, 59 tuổi, mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) giai đoạn cuối, suy hô hấp và các bệnh mãn tính khác. Dung tích phổi của ông được cho là chỉ bằng 8% so với bình thường. Trong tám năm bị giam cầm, tình trạng y tế bị bỏ bê, chẩn đoán sai và không được điều trị đúng cách khiến ông bị suy nhược nghiêm trọng—hiện ông chỉ nặng 38 kg (84 pound). Mặc dù cần phẫu thuật gấp tại Hà Nội, công an Thái Bình đã chặn không cho ông tiếp cận dịch vụ chăm sóc tại bệnh viện. Ngày 17/3/2025, cảnh sát được cho là đã buộc ông phải trở về nhà từ một bệnh viện ở Hà Nội. Ông sớm ngã quỵ và được đưa đi cấp cứu; tình trạng hiện tại của ông vẫn chưa được biết, mặc dù một số nguồn tin cho biết ông đang hôn mê, vẫn theo báo Vietnamese. Trang Tiếng Dân trích lời chị Nguyễn Thúy Hạnh đưa tin “Thuận vẫn chờ đợi để ra Hà Nội phẫu thuật mũi cho an toàn, nhưng căn cước công dân của Thuận chưa được tạo điều kiện cho làm lại. Hôm thứ 3 tuần trước Thuận gọi cho tôi thông báo rằng đã ra Hà Nội và đang chờ để mổ … Cách đây hai hôm, Thuận gọi cho tôi, nói rằng hôm đó Công an Thái Bình đã bắt Thuận về ngay trong đêm, không cho phẫu thuật ở Hà Nội. Thuận muốn tôi rủ mọi người về Thái Bình thăm Thuận.”, tạm trích lời của chị Nguyễn Thúy Hạnh. Trước khi bị bắt nhà báo Huy Đức nhận định về mối quan hệ giữa bộ công an và bộ chính trị. Một trong những quan điểm táo bạo nhất của Huy Đức là so sánh với mô hình của Trung Quốc. Ông viết: “Việt Nam đang duy trì một thể chế tương đồng với Trung Quốc. Việt Nam nên học Trung Quốc ở những điều họ đúng: Bộ trưởng công an không phải là ủy viên bộ chính trị”. Ông còn bổ sung: “Có lẽ Đảng Cộng sản Trung Quốc coi công an là công cụ của bộ chính trị chứ không để bộ chính trị trở thành con tin của công an“. Đây là một quan điểm khá trực diện về cấu trúc quyền lực trong hệ thống chính trị của đảng, đặc biệt là mối quan hệ giữa lực lượng công an và cơ quan lãnh đạo cao nhất. Những nhận định của nhà báo Huy Đức có tính “tiên tri” cho những gì đang xảy ra trên quê hương do ông Tô Lâm chỉ đạo và bộ máy công an toàn trị đang triển khai. Những nhận định này có những hệ lụy chính trị và xã hội đáng chú ý trong bối cảnh hiện nay. Quan điểm của Huy Đức về việc “không để bộ chính trị trở thành con tin của công an” trực tiếp thách thức cấu trúc quyền lực hiện tại của đảng. Những bài đăng Facebook của ông trước khi bị bắt vào tháng 6/2024 đã chỉ trích việc tập trung quyền lực vào Bộ Công an. Trong bài “Một quốc gia không thể phát triển trong sợ hãi“, ông lập luận rằng cảnh sát địa phương nên báo cáo với chính quyền địa phương, không phải với cấp cao hơn của Bộ Công an, và quyền điều tra nên tách biệt với quyền trừng phạt. Thực tế hiện nay với việc ông Tô Lâm (cựu Bộ trưởng Công an) giữ chức Tổng Bí thư và ông Phạm Minh Chính (cũng từ hệ thống an ninh) làm Thủ tướng xác nhận mối lo ngại của Huy Đức về sự an ninh hóa trong chính trị của đảng. Bộ Chính trị hiện nay được cho là do các cá nhân từ bộ công an chiếm ưu thế, với khối quân đội đứng thứ hai. Một nhà phân tích đã nhận xét: “Sức mạnh của đảng là phải kiểm soát súng để kiểm soát đảng. Nhưng hiện nay dường như súng đã thực sự kiểm soát đảng“, phản ánh chính xác quan điểm mà Huy Đức đã cảnh báo khi so sánh với mô hình Trung Quốc. Sự gia tăng ảnh hưởng của khối an ninh đã dẫn đến môi trường xã hội ngày càng hạn chế. Theo các nhà phân tích, khối an ninh thống trị Bộ Chính trị “nhìn mọi thứ qua lăng kính an ninh và sự sống còn của chế độ“. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc đến người dân bên nhà và định hình Internet, mạng xã hội, xã hội dân sự và nền kinh tế. Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị ban hành tháng 7/2023 không chỉ cảnh báo về “diễn biến hòa bình” và “cách mạng màu”, mà còn áp dụng tư duy hiện tại của Trung Quốc về mối đe dọa từ các nhà đầu tư quốc tế và cộng đồng tài trợ. Điều này phản ánh môi trường xã hội ngày càng hạn chế tự do ngôn luận. Hậu quả dài hạn của sự thống trị của khối an ninh trong chính trị, như Huy Đức đã cảnh báo, có động thái tiềm ẩn nhưng vài khía cạnh này thì nổi lên khỏi một tảng băng chìm rất khủng. 1. Gia tăng kiểm soát đối với truyền thông và mạng xã hội, như đã thấy trong nghị định mới buộc các nền tảng như Facebook và TikTok xác minh danh tính người dùng và cung cấp dữ liệu cho chính phủ. 2. Tiếp tục đàn áp đối với xã hội dân sự và tiếng nói độc lập, với Việt Nam được xếp hạng là một trong những quốc gia giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới. 3. Môi trường chính trị ngày càng thiếu minh bạch và đóng kín, với việc ra quyết định chính sách ngày càng mờ đục hơn bởi các ủy ban đảng trong tay công an. Trường hợp của Thuận phản ánh xu hướng đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến, đặc biệt dưới thời lãnh đạo từ khối an ninh với Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính. Nhận định của nhà báo Huy Đức trước khi bị bắt về việc “công an kiểm soát Bộ Chính trị” dường như được củng cố qua cách xử lý vụ Thuận. ____________________ Tham khảo:  https://www.aljazeera.com/news/2025/2/27/vietnam-court-jails-journalist-huy-duc-for-30-months-over-facebook-posts (VNTB) 
......

Pages