Vương Sư Sát Thát

Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây
Quân tiếp ứng của Vương Sư ào xuất trận
Và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Hiện ra như một vị thần linh…

Vũ Hoàng Chương – Bài Ca Sát Thát (1962)

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương của chúng ta đã viết về lũ Thiên triều:

“Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát.
Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư, Bạch Đát.
Trở về Hoa Hạ, Yên Kinh.
Lũ Thiên triều từng Bắc Chiến, Tây Chinh.
Lẽ nào để một phương không xéo nát?
Trời Nam riêng cõi thanh bình
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát.
Ba chân trời Đại Lục đứng chênh vênh!...”

Nhà viết sử của chúng ta thì kể lại: “Từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông, người Mông Nguyên đã ba lần đưa quân xâm lược nước ta".

Lần thứ nhất vào cuối năm Đinh Tỵ đầu năm Mậu Ngọ 1258, chiến dịch Bình Lễ đại bại, quân giặc rút chạy hiền khô nên được gọi là “giặc Phật”. Lần thứ hai vào cuối năm Giáp Thân đầu năm Ất Dậu 1285, sau khi nhà Tống đã tan, nhưng rồi quân Nguyên cũng thảm bại. Lần thứ ba là trận phục thù của Thiên triều vào cuối năm Đinh Hợi 1287 đến cuối Tháng Tư năm 1288. Với kết quả là biên giới Việt-Hoa vắng bóng người vì quân dân gì của đất Hán cũng tháo chạy lên miền Bắc. Đến gà chó cũng nín thinh vì khiếp sợ "Xìn Tầy Voòng" - Trần Đại Vương.

Trong ba chục năm, ba chục lần Thiên triều gắng sức - mà hoài công!

Muốn luận sử thì nên xem lịch: quân Mông Cố đều mở trận vào mùa Đông, nên thảm bại không vì khí trời nóng bức. Mà vì hùng khí trời Nam!

Khi ấy, nhà địa dư học mới vạch ra sự tất yếu của việc chinh phục từ Bắc phương.

Từ sa mạc nổi lên, quân Mông Cổ đã khuất phục Âu-Á để lập ra một đế quốc rộng nhất cổ kim. Khi đã làm chủ Trung Nguyên rồi thôn tính nhà Tống, lãnh đạo mấy đời Nguyên Mông, từ Thành Cát Tư Hãn đến Hốt Tất Liệt, đều hiểu ra quy luật ngàn đời của địa dư hình thể Trung Hoa: từ phương Bắc mà muốn tràn xuống miền Nam thì không thể vượt Hy Mã Lạp Sơn đưa quân vào Ấn Độ. Cùng lắm thì thôn tính Miến Điện chứ cũng khó đi xa hơn khe ải gập ghềnh.

Nơi duy nhất khả dĩ “nhất đới nhất lộ” để đưa bộ binh và hạm đội xuống Đông Nam Á là miền Bắc nước Việt và vùng biển Đông Hải. Chuyện rất hiện đại! Từ Mông Nguyên qua Mãn Thanh xâm lược năm 1789 cho mãi đến gần đây, cũng ngần ấy con đường.

Và bây giờ vẫn vậy….

Từ thời ấy rồi, lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát, ba chân trời đại lục đứng chênh vênh? Hóa ra, việc thôn tính Việt Nam đã nằm trong sử sách và dư đồ của bọn hung đồ!

Vì vậy, trong những năm củng cố thế lực tại Trung Nguyên, từ cuộc xâm lược đầu tiên đến lần thứ nhì, quân Mông Cổ đã chín lần sai sứ qua triều Trần, đòi sáu điều này, chục chuyện kia hay dăm ba nghị quyết nọ - để khuất phục dân Việt…. Nhưng triều Trần của Đại Việt vẫn nhu hòa bên ngoài mà cứng cỏi bên trong: không một lần vua nước Nam chịu triều kiến ngai vàng Thát Đát.

Vì vậy, việc phải đến đã đến. Lũ con nuông bất trị của trời xanh phải hưng binh “cho dân Việt một bài học” và biến nước Nam thành quận huyện của Thiên Triều. Thời sự chừng nào!

Nhưng việc phải đến cũng đã đến. Vì khi ấy cõi Nam thiên có Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Trần Hưng Đạo Vương hiện ra như một vị thần linh, cầm gươm tiết chế điều động ba quân và, lại phải thơ Vũ Hoàng Chương mới tả được, rằng hùng khí “Nuốt sao Ngưu” chẳng phải việc hoang đường:

Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử,
Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới
Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới,
Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong
Tay chèo nổi ngược cơn dông
Tiếng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ.

***

Giờ này, nơi đây, hãy nhớ chuyện xưa….

Sau khi tràn qua hai đại lục Á-Âu nối liền và thôn tính trước sau 40 nước, lãnh đạo Mông Cổ  có dưới trướng những tinh hoa quân sự Âu-Á, thuộc đủ loại sắc tộc Mông-Hồi-Thổ-Hán lẫn Tây Hạ, Đại Lý hay cả Di tộc Lô Lô ở mạn ngược của nước ta. Ngần ấy trận đều có sự tham dự của các danh tướng bốn phương.

Chỉ vì:

Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con hoang bất trị của trời xanh
Chỉ nhắp có hơi men sung sát,
Chỉ say sưa bằng những miếng giao tranh,
Nhằm hướng Phi Châu
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải
Cờ phất Âu Châu,
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi
Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...

Cho nên, biết bao danh tính rất lạ, như Ngột Lương Hợp Thai Uriyangqatai, hay Aju, Triệu Triệt Đô, Phò mã Mông Cổ Quaidu Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí đất Đại Lý, Triệu Ngột Lương, hay Toa Đô Sogetu, Lý Hằng đất Tây Hạ, Koncak Khoan Triệt người Uzbek, Manqudai cùng Tangutai, Thoát Hoan Toghan - con trai thứ chín của Hốt Tất Liệt - Sài Thung, Gugar, Triệu Ngột Lương, Hồ Lã Trừng, Ariq Qaya người Đột Quyết Uigur, Omar Ô Mã Nhi người Á Rập Hồi giáo, A Bát Xích Abai, Áo Lỗ Xích Ayruyshi, Trình Bằng Phi, Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh, Trần Trọng Đạt, Bố Tý Thành, v.v…. cho thấy một sự thật: quân Mông của nhà Nguyên tập trung mũi nhọn của “liên quân Âu-Á” để nhất quyết làm chủ nước Nam. Quân số của họ có thể là 50 vạn, chiến thuyền thì hàng ngàn, với kinh nghiệm chiến trường trải ngang lục địa Âu-Á tới Trung Đông và xuống đến Chiêm Thành.

Còn trời Nam chênh vênh, đất đai thì chưa đầy một vóc tay Mông Nguyên, quân số mươi vạn, có huy động thêm dân vào trận địa của lần kháng chiến thứ ba thì cũng chỉ tới 30 vạn.

Vậy mà ngần ấy trận địa đều lừng danh chiến sử: Bình Lê Nguyên, Đông Bộ Đầu tại Triều Đông của Thăng Long, Quy Hóa, Ôn Khâu, Nội Bàng, Chi Lăng, Vạn Kiếp, Chí Linh, Vân Đồn, Bình Than, Phả Lại, Đà Mạc, Hải Thị, Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương, nhiều lắm, kể sao cho xiết?

Và ngần ấy con sông miền Bắc đều nổi sóng chống giặc. Như con rồng thiêng tái xuất từ thời Ngô Vương Quyền, sông Bạch Đằng lại hội kiến lịch sử. Lòng sông là bàn chông, lòng dân là tiếng thét: “Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!” Trên cánh tay, mọi chiến binh đều xâm lời tâm nguyện, là giết giặc Thát Đát. Vì chữ Sát Thát trong tim mà:

Hán Hồ cũng đến chôn thây
Trước sau một khúc sông này mà thôi...

Khi ấy ta mới giật mình: từ hơn ngàn năm nay, lần nào Bắc phương vượt ải vào Nam thì cũng để lại thủ cấp của vài chục danh tướng!

Sau cùng, có chi tiết nhỏ mà sao thấm thía: trong đạo quân bảo vệ phương Nam thời ấy đã có những... thuyền nhân đầu tiên!

Sử ta viết: “Mùa Đông, tháng 10 năm Giáp Tuất 1274, người Tống sang theo ta… Từ Lâm An họ đem 30 chiếc thuyền chở vợ con và của cải vượt biển đến Cát La Nguyên. Họ được an trí ở phường Giai Tuân, gọi là Hồi Kê vì dân ta gọi nhà Tống là Kê quốc.” Khi quân Mông tràn xuống, di thần nạn dân người Tống đã chọn nơi này làm quê hương, họ tự Việt hóa và tham gia chống giặc. Dưới trướng của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật có nhiều gia tướng Tống-Việt gốc thuyền nhân!


Lễ an vị di tượng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại Mile Square Park,
Fountain Valley giữa Quận Cam của California ngày 17 Tháng Giêng 2016.

***

Bây giờ mới đến vị thần linh.

Tượng Đức Thánh Trần tại xưởng đúc ở tiểu bang Delaware Hoa Kỳ. Chân dung táctheo tấm tranh trên tờ giấy bạc có ngạch số cao nhất của Việt Nam Cộng Hòa là 500 đồng, thân hình được tính theo khoa pháp y (forensic) cho sát nhất với cơ thể và nhân chủng học.

Lãnh đạo ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên là ba vị vua anh hùng đời Trần, Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Nhưng phò cả ba đời vua và chỉ huy ba trận sinh tử với kẻ thù chính là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Cầm binh phù Tiết chế từ tuổi 30, Ngài có mặt trong ngần ấy lần công thủ tiến thoái, và chủ trương là ta có thể thua trận nhỏ để bảo toàn lực lượng, chứ phải dứt điểm ở trận sau cùng. Để đẩy giặc vào thế cùng mà bỏ chạy. Và bỏ lại thi hài của các kiện tướng Âu Á Mông Nguyên. Cũng nhiều lắm, kể không thể xiết.

So với những ưu binh kiêu tướng của Hốt Tất Liệt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, mới là danh tướng muôn đời. Của cổ kim, của thế giới.

Không chỉ là một chiến lược gia quân sự và nhà cầm binh thiên tài, Trần Hưng Đạo Vương còn là một lãnh tụ chính trị của Triều Trần vừa dựng nghiệp trong buổi giao thời Lý-Trần đã trải nhiều sóng gió vì nội loạn lẫn ngoại xâm. Qua ngần ấy biến động, Ngài đã có thể lên ngôi như trở bàn tay. Vậy mà Ngài vẫn bẻ mũi nhọn trên đầu trượng, tầm lòng vằng vặc nét trung chính và kiên nhẫn giải tỏa mọi mâu thuẫn nghi ngại ở chung quanh để trước sau giữ phận bề tôi. Sơn hà xã tắc mới là ước nguyện, tìm nhân tài cho đất nước mới là điều chính đáng.

Với tài ấy, chí ấy, Trần Hưng Đạo Vương là nhân vật duy nhất trong lịch sử được dân ta thành kính tôn thờ từ khi còn sống. Và cũng là người duy nhất được dân ta phong thánh.

Dù triều Trần có phong Ngài có là Thượng Quốc Công, Đại Vương hay Tiết Chế, với dân Nam, đấy là Đức Thánh Trần. Vỏn vẹn ba chữ thiêng liêng cho một vị anh hùng dân tộc.

Vì vậy, nếu mọi nơi đều có dựng tượng Đức Thánh Trần thì đấy là điều hợp với lòng dân, còn cao cả hơn ý trời. Lòng dân có vị thần linh của Triều Trần ở trong, từ đời này truyền qua đời khác, trên hai chục địa danh của nước Việt và ở những nơi nào có người Việt sinh sống cũng có nơi thờ cúng bậc anh hùng.

Cũng chính vì tấm lòng sắt son với Tổ quốc thiêng liêng mà con cháu Ngài, vào đời sau, đã hy sinh và đổ máu để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới bóng thần linh Trần Hưng Đạo Vương, con dân Việt từ nơi nơi vẫn hướng về Tổ quốc. Và nhà thơ nhắc nhở chúng ta:

Ấy ai qua chốn giang biên
Khói đầy khoang giấc sầu miên lạnh lùng
Tiếng kình vang đợt sóng rung
Có nghe chăng có thẹn thùng người xưa?

Bài này mở đầu với thơ Vũ Hoàng Chương, xin cũng kết với người thơ đã mất đúng 40 năm trước dưới tay Cộng sản:

Lệ chảy, chảy xuôi tràn Bến Nghé,
Giật mình… Nam Hải sóng lô xô.

Bài “Đường Xa Nghĩ Nỗi” được Vũ Hoàng Chương viết từ một năm Thân - Mậu Thân 1968. Mà đã tiên báo cái nỗi đoạn trường và nạn thuyền nhân ngoài biển Nam Hải sau 1975? Hay là nhà thơ khóc về chuyện thời nay?

Nhìn lên, thấy ngón tay Đức Thánh Trần chỉ xuống, trong đầu mình bỗng thấy âm vang:

Có nghe chăng? Có thẹn thùng người xưa không?

____

Viết nhân lễ an vị di tượng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại Mile Square Park, Fountain Valley giữa Quận Cam của California ngày 17 Tháng Giêng 2016.

dainamaxtribune.blogspot.com