Ai đã bắn rơi máy bay của ông John McCain?

Câu chuyện về Jonh McCain nóng lên khi mới đây ông được bí thư thành ủy Việt Nam, ông Phạm Quang Nghị tặng món quà chính là tấm bia kỉ niệm mà Hà Nội mới dựng ghi lại chiến tích bắn hạ chiếc máy bay do John McCain lái. “Hai tấm hình chụp tấm bia, ghi hình ảnh viên phi công đang giơ tay đầu hàng, cạnh đó là những thanh thiếu niên đang thong dong đi dạo ven hồ đã làm cho ngài thượng nghị sĩ thật sự hào hứng và xúc động. Nó gợi lại cho con người mà chúng tôi đang ngồi bên cạnh nhớ lại quá khứ – một quá khứ thật khốc liệt và đầy ý nghĩa với cả người “từ trên trời rơi xuống” theo đúng nghĩa đen, và những người “từ dưới đất xông lên”, vít cổ chiếc máy bay của vị thiếu tá phi công năm xưa, bây giờ là một thượng nghị sĩ có thâm niên và uy tín lớn trong chính giới Hoa Kỳ.” Quà tặng của ông Nghị đã gây bão trong cộng đồng mạng khi nhiều bình luận cho rằng, nó kém tính ngoại giao, sỉ nhục người nhận, là ‘ngu xuẩn’… John McCain sau khi rơi xuống hồ, được một nông dân vớt lên, trong tình trạng bị thương, ông bị giam ở Hỏa Lò và sau này được trao trả. Trong những lần thăm lại Việt Nam. có lần John đã gặp người cứu mình từ lòng hồ, trong tình trạng bị dây dù quấn và đã gẫy chân. Nhưng ai là người đã bắn rơi máy bay của John McCain thì không thấy báo chí Việt Nam nhắc đến, dù những năm gần đây, cái tên John McCain trở nên quen thuộc với truyền thông Việt Nam như một biểu tượng về thành công của chính sách ngoại giao của nhà nước cộng sản, hay một biểu tượng của quan hệ Việt – Mỹ. Mới đây, một facebooker đã phát hiện điều này. Người bắn rơi máy bay do John McCai lái là một chuyên gia huấn luyện của Nga. Mẩu chuyện bên dưới chia sẻ điều này: Năm 2008 khi ông Yury Trushyekin lên tiếng trên báo chí Nga rằng chính ông mới là người bắn rớt máy bay của ông Thượng Nghị Sĩ Mỹ John Mc Cain , lúc ấy còn là thiếu tá hải quân Mỹ , thì đài truyền hình Nga đã nhiều lần phỏng vấn vị ” anh hùng ” này. Ông này về cuối đời sống nghèo khổ trong 1 căn hộ ở ngoại ô St Petersburg. Ông Yury Trushyekin cho biết trong suốt thập niên 1960 -1970 , đã có hàng ngàn binh lính và sĩ quan Nga được điều động sang miền Bắc Việt Nam để giúp quân cộng sản Bắc Việt chống Mỹ . Phần lớn làm công tác cố vấn, ngoài ra còn có mặt trực tiếp tại chiến trường để huấn luyện cho bộ đội CSVN cách sử dụng những vũ khí mà Nga cung cấp. Đài Nga đưa tin Ông trưng ra hình ảnh, hộ chiếu và cả 1 bằng khen của nhà nước CS Bắc Việt làm bằng chứng. Bộ đội Việt Nam toàn bắn trượt Riêng về việc bắn hạ máy bay của ông John Mc Cain , ông Yury Trushyekin cho biết bộ đội VN toàn bắn hụt , ngày hôm đó đã bắn hết 12 quả đạn tên lửa mà chẳng trúng quả nào! Khi chỉ còn 1 quả cuối cùng , ông đã phải thân chinh nhắm bắn mới hạ được phi cơ của ông Mc Cain. Hộ chiếu và bằng khen của ông Yury Trushyeki Ông còn cho biết chính ông đã cứu mạng ông John. Vì khi bộ đội CSVN vớt ông này lên , lúc đó đã bị gãy hết 2 tay và 1 chân , thì với lòng căm thù cao độ được huấn luyện sẵn , 1 đám đông đã nhào vào đánh đập , đâm ông này suýt chết . Ông Yury Trushyekin và đồng đội đã phải can thiệp và ra lệnh cho bộ đội ngừng tay và chỉ được bắt sống. Trong cuốn hồi ký của mình , ông Mc Cain cũng kể lúc bị bắt , mặc dù bị trọng thương mình mẩy đầy máu và lúc ngất lúc tỉnh , ông đã bị hàng trăm tên bộ đội xông vào đấm đá , nhổ nước bọt và có ai đó còn cầm cả lưỡi lê đâm vào hông và chân ông! Ông Yury Trushyekin kể tiếp rằng sau đó ông có vài lần vào thăm ông Mc Cain trong Hỏa Lò , nơi còn được gọi mỉa mai là “khách sạn Hà Nội Hilton ” . Ông nói CSVN đã cố gắng ” cải tạo tư tưởng ” cho ông John bằng cách bắt ông này đọc những quyển sách giáo điều cộng sản dày cộm , bao gồm cuốn của Karl Marx . Khi được hỏi nếu bây giờ gặp lại ông John Mc Cain thì ông sẽ nói gì ? Ông Yury Trushyekin cười và bảo ông sẽ hỏi ông John đã đọc hết cuốn Marx chưa! Riêng ông Mc Cain cho biết lúc đầu ông bị đối xử rất tệ hại , nhưng sau khi biết được ông là con trai và cháu nội của 2 vị tướng lừng danh của Mỹ thì ông được ưu đãi hơn , vì CS Bắc Việt biết ông có giá trị trao đổi . Lúc đó ông mới được chữa trị vết thương , và cái chân gãy được mổ , nhưng các bác sĩ làm việc quá dở làm dứt hết mấy sợi gân , khiến chân ông bị tật cho đến bây giờ .\. Tổng hợp theo heraldsun.com.au, englishrussia.com và FB Ngoc Nhi Nguyen
......

Bạch hoá Hội nghị Thành Đô?

Hoang mang, lúng túng trước sự tan rã nhanh chóng của khối cộng sản ở châu Âu, lo sợ khả năng mất kiểm soát và độc quyền lãnh đạo, vào đầu tháng 9 năm 1990, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đã xúc tiến cuộc gặp gỡ với lãnh đạo Trung Nam Hải tại Thành Đô, để bình thường hoá quan hệ sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Những thoả thuận của cuộc hội nghị này là nền móng cho mọi mối quan hệ hợp tác giữa CHXHCN Việt Nam và Trung Quốc. Mối quan hệ hết sức bất bình đẳng, thể hiện chính sách hèn mạt, nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam.   Trên đất liền, được ưu đãi đặc biệt, Trung Quốc thực hiện cuộc xâm thực khống chế Việt Nam, không mất một viên đạn nào. Ngoài biển, Trung Quốc băt đầu từ việc xua đuổi bắt giữ ngư dân, cấm bắt cá, đến cắt cáp tàu của Việt Nam và cuối cùng là đưa giàn khoan vào khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hiện đang phổ biến lá thư ngỏ của ông Lê Văn Mật, Thiếu tướng, cựu phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 2 và Tư lệnh Mặt trận 1979-1984 (Hà Giang), nêu thắc mắc và kiến nghị Đảng Cộng sản Việt Nam công khai nội dung thoả thuận của Hội nghị thành Đô ngày 3-4 tháng 9 năm 1990. Lấy nguồn từ báo chí Trung Quốc, bức thư có đoạn viết: "Chúng tôi cho rằng nguyên nhân sâu xa là ở Thỏa hiệp Thành Đô ngày 4/9/1990 của một số vị lãnh đạo. Chúng tôi chưa rõ thực hư thế nào mà chỉ biết sau này những hiện tượng tiêu cực xảy ra đã thể hiện nội dung của bản Thỏa hiệp đó. "Xin trích một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô:  “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. "Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc". [1] Ông Nguyễn Trung, một chuyên viên nghiên cứu, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, viết: [3] "Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau Hội nghị Thành Đô cũng đã trở thành một mối quan hệ vượt mức bình thường với những mỹ từ kèm theo như “tình hữu nghị giữa hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”, rồi lại còn “16 chữ vàng”… Những yếu tố bất bình thường này cũng đang là những nhân tố lấn át và có nguy cơ làm cho những nguyên tắc bình thường giữa hai quốc gia trở thành thứ yếu và phần thua thiệt tất nhiên bao giờ cũng thuộc về “đàn em” mà điều xấu nhất nếu xảy ra rất có thể sẽ là “Hoa quân nhập Việt”. Vì vậy, với một sự kiện sẽ đi vào lịch sử dân tộc như Hội nghị Thành Đô, thay vì nói đó là Hội nghị bình thường hóa quan hệ Việt – Trung như cách nói từ trước đến nay thì phải nói rằng đó là sự kiện mở ra một sự bất bình thường trong quan hệ giữa hai nước thì đúng hơn". Vào cùng thời gian với thiếu tướng Lê Duy Mật, có một lá thư khác của cựu đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, được đăng trên Blog Nguyễn Tường Thụy. [2] Đưa ra một số hiện tượng xâm thực mềm nguy hiểm, đẩy nền kinh tế Việt Nam vào sự phụ thuộc Bắc Kinh nghiêm trọng, như cho thuê hàng trăm ngàn rừng đầu nguồn 50 năm, khai thác bauxite Tây Nguyên, hơn 90% các dự án EPC lọt vào tay thầu Trung Quốc, v.v..., bức thư nhấn mạnh: "Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc  ở Thành Đô có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định, thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận... làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt-Trung, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô". Cho rằng, "Việt Nam gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" như là một khu vực tự trị giống như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... theo tôi chỉ là tin đồn đoán, nếu có trích từ nguồn báo chí Trung Quốc thì cũng là những ngôn ngữ điêu ngoa, phóng đại. Trung Quốc thực tâm muốn biến Việt Nam thành một nước chư hầu, hoàn toàn lệ thuộc về kinh tế và cả chính trị, chứ không thể nào biến Việt Nam thành một Tây Tạng hay Nội Mông được. Cho dù triều đại cộng sản có bán nước cầu vinh, thì tinh thần chống ngoại xâm phương Bắc từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam, vẫn nung nấu. Họ sẽ dễ dàng thao túng, điều khiển hơn khi có một tập đoàn thái thú ngoan ngoãn. Trung Quốc chẳng dại dột đối diện với sự chống đối quyết liệt nếu biến mình thành kẻ cai trị trực tiếp. Lịch sử hai nước đã chứng minh điều này. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, Trung Quốc đã không đồng hoá nổi dân tộc Việt và cuộc chiến đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng của Ngô Quyền, chính thức kết thúc ách đô hộ hơn một thiên niên kỉ, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Song song, dù ĐCSVN áp dụng chính sách phò Trung Quốc để duy trì độc quyền cai trị,  nhưng trong giới lãnh đạo không phải không có mâu thuẫn, chia rẽ. Vẫn tồn tại xu hướng hợp tác với Mỹ, Nhật Bản và các nước khác trong khu vực để kiềm chế Trung Quốc, cho dù ảnh hưởng của phe thân Trung Quốc đang mạnh hơn nhiều. Mang giàn khoan HD 981 vào vùng kinh tế Việt Nam là một bước đi quan trọng của Trung Quốc trong việc thăm dò phản ứng của Việt Nam và quốc tế, nhưng cuối cùng Bắc Kinh đã cho rút sớm hơn dự định một tháng, là do trong lúc này chưa thể vì một giàn khoan mà có thể mất đứt cả nước CHXHCN Việt Nam. Không thể bỗng dưng đánh mất một tập đoàn lãnh đạo dường như đang ngả hẳn về Trung Quốc. Không thể có đuợc ở bất cứ nơi nào những gì đang nắm trong tay như trên lãnh thổ Việt Nam. Không thể đánh mất một thị trường 100 triệu dân dễ dãi và thực dụng để tống khứ hàng hoá độc hại. "Dục tất bất đạt", Trung Nam Hải không thể vì mộng bành trướng mà quá vội vã. Họ cần có thêm thời gian. Trước mắt vẫn tiếp tục tiến hành mạnh mẽ cuộc xâm thực trên đất liền. Việc Nguyễn Tấn Dũng đồng ý để Trung Quốc tiếp tục xây dựng sân bay quốc tế Quảng Ninh hay thi công đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Ngãi, chưa nói tới khu Formosa năm ở Hà Tĩnh cho thuê 70 năm, chứng tỏ chính sách xâm lược mềm và khuynh loát Việt Nam bằng kinh tế rất hiệu quả. Thiết nghĩ chẳng bao giờ ĐCSVN bạch hoá nội dung Hội nghị Thành Đô, bởi vì chế độ cộng sản luôn đồng nghĩa với dối trá, bưng bít thông tin. Nhưng, dù có bạch hoá hay không cũng chẳng mấy quan trọng. Quan sát những gì mà họ làm với Trung Quốc và thẳng tay đàn áp mọi tư tuởng yêu nước chống Trung Quốc trong hơn hai thập niên qua, ta đã đủ hiểu được thực chất của những thoả thuận như thế nào.  Không đến nỗi trở thành Tây Tạng, Nội Mông, nhưng Việt Nam đang và sẽ trở thành một cứ điểm quan trọng trong chính sách bành trướng của Trung Quốc. ĐCSVN thực sự  nối giáo cho giặc, đã và đang dẫm đạp lên lợi ích lâu dài và chủ quyền của dân tộc. © Lê Diễn Đức -------------------------------------------------------------------------------- [1] - http://bongbvt.blogspot.com/2014/08/thieu-tuong-le-duy-mat-co-hay-khong-... [2] - http://nguyentuongthuy2012.wordpress.com/2014/08/04/phai-cong-bo-cac-tho... [3] - http://hahien.wordpress.com/2012/08/12/hoi-nghi-thanh-do-mo-dau-mot-giai...   Nguồn: rfavietnam.com
......

LÊ VĂN TÁM - " I NỚP U"

Anh yêu thương! Tính đến ngày em hết là "con lừa" thì em đã yêu anh ngót nghét được 20 năm có lẽ..., em bắt đầu yêu anh kể từ ngày em nhập học lớp 1, em bị nhét vào ngôi trường mang tên Lê Văn Tám, và thế là cái tên anh lúc nào cũng nằm chình ình ngay trên ngực áo em, phập phồng theo nhịp thở của trái tim em, sáng nào tung tăng đến trường em cũng hát vang toáng cả con đường như con điên bài hát về anh mà em đã bị bắt học thuộc, và điều đặc biệt là em đã được vinh dự chọn đi thi kể chuyện về "Lê Văn Tám - người anh hùng tí hon giả tưởng của chế độ"...em đã rinh 1 cái giải cộng với phần thưởng lớn lao bao gồm 1 tấm giấy khen, 1 bịch kẹo và 1 cuốn sổ. Ôi chao ơi cái đám bạn em "lồng lộn" lên vì ghen tức với em, cả lũ chúng nó cũng đều rất yêu anh nhưng chưa có đứa nào được vinh dự học thuộc lòng và kể vanh vách chiến công của anh trước "Trại súc vật" toàn tai to mặt lớn...trong cái đại hội gì đó em quên mẹ nó rồi. Em đành an ủi chúng nó bằng cách chia kẹo và cả lũ giơ tay "thề quyết tâm" sẽ noi gương anh là bọn lừa chúng em sẽ sẵng sàng là "ngọn đuốc sống" thiêu cháy tất cả những gì Đảng và NN cho là "phản động"...   Anh yêu! Em những tưởng tình yêu em dành cho anh sẽ theo em mãi mãi đến suốt đời suốt kiếp nhưng không ngờ tình chúng ta ngang trái quá. Em đã đau đớn vật vã, khóc lóc suýt đâm đầu vào xe bus tự tử mấy lần khi cái thằng "in tẹt nét" nó dám bảo là anh không có thật, anh là do một bọn chính trị khốn nạn vẽ vời xây dựng lên. Nó và một số người có tên tuổi như GS Phan Huy Lê khẳng định cái hình tượng chúng em yêu dấu là hình ảnh giả tưởng "láo toét, bịa đặt" do ông Trần Huy Liệu bị ép viết theo yêu cầu của chế độ. Em đau đớn đến bầm tím ruột gan, sao lại có sự thật phũ phàng đến thế? Sao tình yêu quê hương, đất nước, yêu anh hùng của em và các thế hệ chung "chuồng lừa" lại có thể bị "chà đạp" đến như vậy? Tụi em đã được "nhồi sọ" là phải yêu anh đến chết bỏ thì làm sao mà chúng em không đau đớn, vật vã cho được khi phát hiện ra Honey của em chỉ là sản phẩm của một sự tuyên truyền, dối trá, lừa lọc... Anh yêu thương! Dù sao em cũng đã lỡ yêu anh, vì yêu anh nên em phải nói cho cái bọn khốn nạn tạo dựng nên anh biết rằng: dù anh là ai? Anh là thật hay là giả thì tụi nó cũng là lũ vô lương tâm và bỉ ổi khi dùng thủ đoạn chính trị, dùng hình tượng "trẻ em" để tuyên truyền kích động trẻ em "tự sát". Bọn chúng chẳng khác gì các bọn khủng bố trên Thế Giới bắt trẻ em ôm bom tự sát, lợi dụng trẻ em cho những mưu đồ chính trị... Nói trắng ra tụi nó còn tàn độc và thâm hiểm hơn nhiều vì chúng dùng quyền của chúng ngụy tạo lịch sử, bơm đầy gian dối vào sách giáo khoa, chúng nhồi sọ, đóng gói biết bao điều tàn tệ, man trá, phi lí vào đầu hàng triệu hàng triệu đứa trẻ, từ thế hệ này sang thế hệ khác... để rồi lớp trẻ VN sau 1975 không khác gì những con cừu ngây ngô bảo sao nghe vậy, cho gì ăn nấy, chỉ biết ấm ức cúi đầu thinh lặng, vô cảm vô tình với quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước...Chúng đã sử dụng thuốc độc tiêm vacxin cho tụi em từ lúc mới học mẫu giáo cho đến lớp Đại học, chúng em đã miễn nhiễm với các từ "tự do, dân chủ, hạnh phúc", chúng em chỉ biết có mỗi "độc lập" và hả hê với vinh quang "chiến thắng quân thù" của đất nước VN. Chúng tạo dựng dây chuyền sản xuất và thải ra hàng loạt các thế hệ có mắt, có tai, có tim, có óc... cũng như mù, câm, điếc vì mắt chỉ thấy có mỗi Đảng CSVN quang vinh, tai chỉ nghe những được những thông tin gian dối 1 chiều bị bóp méo, óc chỉ luẩn quẩn nghĩ đến cơm ngày 3 bữa, tim luôn phập phồng nơm nớp lo sợ, hèn kém chưa bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi quyền lợi chung và đấu tranh vì chính nghĩa...Ôi, chúng đã thành công và hả hê trước "sự im lặng của bầy cừu"...!   Lê Văn Tám, anh là minh chứng hùng hồn nhất cho sự man trá của chế độ này. Nếu anh có "linh thiêng ", hãy châm ngọn lửa dũng cảm vào các thế hệ trẻ, hãy giúp họ nhận ra đâu là sự thật, hãy giúp họ cởi bỏ lốt cừu, lên tiếng và hành động để xứng đáng là thế hệ tiên phong trong công cuộc "giải phóng" đất nước. Your Love!
......

61…Rồi bao nhiêu nữa?

Lá Thư Ngỏ của 61 đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) mở đầu bằng câu "Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết", và đưa ra 3 yêu cầu cốt lõi sau: - Yêu cầu ĐCSVN "thay đổi Cương Lĩnh" - Yêu cầu ĐCSVN "từ bỏ xây dựng chủ nghiã xã hội" - Yêu cầu ĐCSVN chuyển từ toàn trị sang dân chủ   và yêu cầu ĐCSVN làm ngay 3 việc sau: - Chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập - Trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình. - Cho nhân dân biết sự thật về thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v… Từ ngày thành lập vào năm 1930, ĐCSVN có tổng cộng 4 cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh, đó là: - Chánh Cương Tháng 2, 1930 do ông Hồ Chí Minh soạn. - Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Tháng 10, 1930, do ông Trần Phú soạn. - Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Tháng 2, 1951, do ông Hồ Chí Minh và ông Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo. - Cương lĩnh năm 1991 được Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) thảo luận và thông qua. Trong 2 tài liệu đầu, cương lĩnh ĐCSVN đặt mục tiêu là chủ nghiã xã hội và chủ nghiã cộng sản. Trong 2 tài liệu sau thì mục tiêu chỉ là chủ nghiã xã hội. Xem vậy, quá trình 84 năm lịch sử, mục tiêu xuyên suốt và cập nhật của ĐCSVN vẫn là chủ nghiã xã hội. Con đường mà ĐCSVN dẫn dẫn dân tộc đi về chủ nghiã xã hội trong 84 năm qua đã đưa Việt Nam từ vị trí Hòn Ngọc Viễn Đông xuống vị trí thấp nhất tại khu vực trên tất cả mọi phương diện: đất nước mất tự chủ, ngày một lệ thuộc vào Trung Cộng với nguy cơ Bắc thuộc; kinh tế suy sụp và khủng hoảng, xã hội đồi trụy băng hoại; dân trí thấp kém; tham ô nhũng lạm tràn lan; dân oan đói khổ; các quyền tự do căn bản không còn. Tất cả ngày một tồi tệ hơn. Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng ĐCSVN, mới đây đã phát biểu là “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa."   Xét nhận định của người lãnh đạo cao cấp nhất của ĐCSVN, và nhìn những hậu quả vô cùng tệ hại mà con đường đi đến chủ nghiã xã hội đã gây ra cho đất nước Việt Nam, thì thấy rằng yêu cầu "từ bỏ chủ nghiã xã hội" và "chuyển từ toàn trị sang dân chủ" của các tác giả Thư Ngỏ là một yêu cầu hoàn toàn chính đáng. Về những yêu cầu cần làm ngay.   Hãy mường tượng một ngày đẹp trời, tất cả những nhà dân chủ, những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, tất cả những người tranh đấu cho quyền lợi của dân oan và của công nhân hiện đang bị giam cầm như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Trần Thị Thúy, Hồ Đức Hoà và các thanh niên Công Giáo, Trần Huỳnh Duy Thức, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Lê Quốc Quân, … và hàng trăm người nữa được trả tự do và không còn bị quản chế, không còn bị công an sách nhiễu, đóng chốt, cấm đi lại, hành hung, …, và những tổ chức xã hội dân sự được tự do hoạt động. Ngày đó quả thật sẽ là một ngày rất đẹp trời. Những con người ôn hoà, yêu quê hương và dân tộc này, với tấm lòng và trí tuệ của họ, chắc chắn sẽ dồn hết tâm huyết vào việc ngăn chận nguy cơ đến từ phương Bắc, và đóng góp tích cực vào tiến trình chọn ra một con đường khác thích hợp hơn cho tương lai của dân tộc. Thư Ngỏ cũng yêu cầu ĐCSVN cho người dân biết sự thật về thoả thuận Thành Đô 1990. Tới giờ phút này thì chẳng ai còn nghi ngờ gì nữa về việc tại Hội Nghị Thành Đô 1990 các lãnh đạo ĐCSVN Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đã ký kết những văn kiện bán nước, nhượng đất nhượng biển của tổ tiên cho Trung Cộng. Sự thật như thế nào, dù có hay không thì sự kiện cực kỳ hệ trọng như vậy người dân Việt Nam có quyền được biết và phải được biết để cùng giải quyết việc nước. Cứ giả thử như việc ký kết bán nước đó là có thật thì người dân Việt Nam ngày hôm nay có bắt buộc phải tuân thủ một quyết định cực kỳ sai trái và phản lại quyền lợi của dân tộc như vậy hay không? Dĩ nhiên là không! Việc bảo tồn đất đai của tổ tiên là việc phải làm cho dù cái giá phải trả có đắt đến đâu! Tổ tiên chúng ta cũng đã bao phen trải qua những khổ nạn như vậy, và xương máu Việt Nam đã đổ xuống để chúng ta còn dải đất Việt Nam hình chữ S ngày hôm nay. Không một ai, kể cả ĐCSVN, có quyền lén lút phạm tội tày đình này. Không biết sự thật thì không thể ngăn chặn nguy cơ mất nước. Do vậy, việc các tác giả Thư Ngỏ yêu cầu ĐCSVN cho biết sự thật về Hội Nghị Thành Đô là một đòi hỏi hoàn toàn chính đáng. 61 người đảng viên ĐCSVN ký tên Thư Ngỏ hẳn nhiên có những quá trình đấu tranh khác nhau và những động lực khác nhau khi cùng ký tên vào Thư Ngỏ. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là họ đã cùng đồng ý với nhau về đường hướng căn bản chung, và những nhu cầu cấp thiết vào giờ phút này, và cùng gióng lên tiếng nói chung. 61 người, với tổng số 2.997 tuổi Đảng, như hàng ngàn viên gạch xây dựng nên và giữ cho ĐCSVN còn tồn tại đến ngày hôm nay, tiếng nói của họ không còn là những tiếng nói đơn lẻ mà biểu hiện cho giòng suy tư đồng bộ của nhiều người, đại diện cho khối lớn những đảng viên có cùng suy nghĩ mà chưa tiện lên tiếng. 61 có đủ để những người lãnh đạo ĐCSVN tỉnh ngộ mà chọn con đường khác cho dân tộc hay không? Cả dân tộc đang chờ người đảng viên thứ 62, 63,…630, 6.300, 630.000, … lên tiếng./.   Nguồn: DienDanCTM
......

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam dự họp báo quốc tế về tự do tôn giáo tại Hà Nội

“Không hề hay biết” và sự thật trần trũi   (VNTB) Chuyến thăm của Báo cáo viên đặc biệt Liên hợp quốc tại Việt Nam, ông Heiner Bielefeldt, được tiến hành từ ngày 21 đến ngày 31/7/2014 đã kết thúc với cuộc họp báo tại Hà Nội và ra Tuyên bố báo chí về chuyến thăm Cộng Hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.     Báo cáo viên đặc biệt Liên hợp quốc tại Việt Nam, ông Heiner Bielefeldt.Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh.   Vi phạm nặng nề Bản Tuyên cáo báo chí đưa ra dài 13 trang với những nhận định về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng – một trong những quyền phổ quát, cơ bản của quyền con người – tại Việt Nam. Nhận định chung của bản Tuyên bố báo chí, là những vi phạm nặng nề của Việt Nam về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân. Không chỉ về sự thiếu hụt các cơ sở pháp luật, mà còn là những hành xử của nhà nước đối với quyền con người căn bản này. Buổi họp báo được quan tâm bởi nhiều hãng truyền thông quốc tế lớn, báo chí Việt Nam và nhiều nhân vật thuộc Đại sứ quán các nước tại Việt Nam như Hoa Kỳ và một số nước khác.   Họp báo. Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh. Điều đặc biệt ở cuộc họp báo này là ngoài các báo chí quốc tế, báo chí Việt Nam cử đại diện đến, thì thành viên Hội nhà báo Độc lập Việt Nam là ông J.B Nguyễn Hữu Vinh có mặt theo lời mời. Thời lượng cuộc họp báo trong khoảng 1h30 phút. Báo cáo viên đặc biệt LHQ đã trình bày tóm tắt các nội dung chính về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam qua những thu thập được sau chuyến công tác của mình. Bản tuyên bố và trình bày của ông Heiner Bielefeldt đã nêu bật những vi phạm trầm trọng của nhà nước Việt Nam, từ chính sách, luật pháp cho đến hành xử của chính quyền Trung ương và địa phương đối với các quyền tự do tôn giáo của công dân. Từ những vấn đề vi phạm bên ngoài xã hội dân sự cho đến những hạn chế, thiếu vắng sự chăm sóc đời sống tinh thần, tôn giáo của những người bị tù đày.   Bản Tuyên bố cũng đề cập đến những quyền căn bản của con người – quyền tự do tôn giáo của các quân nhân, một lực lượng mà dân chúng Việt Nam phải tham gia. Không hề hay biết!? Điều đặc biệt hài hước và vô lý, là hàng loạt những vi phạm nghiêm trọng của nhà cầm quyền Việt Nam trong lĩnh vực này đã thể hiện rõ, nhưng khi ông hỏi Tòa án Nhân dân Tối Cao và các cơ quan trung ương khác, thì đều nhận được câu trả lời là không hề hay biết hoặc nhận được phản ánh của người dân trong xã hội về những vi phạm quyền tự do tôn giáo. Ông lưu ý nhiều đến việc quản lý tôn giáo của nhà nước và hình thức bắt buộc các tôn giáo trong việc ‘đăng ký’ các hoạt động của mình. Ông phủ nhận việc đăng ký như một yêu cầu phải có để thực thi quyền tự do tôn giáo, ông nhấn mạnh: “Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Đúng ra là ngược lại, việc đăng ký phải là phương tiện cho quyền con người này, mà bản thân quyền ấy phải được tôn trọng là có trước bất kỳ việc đăng ký nào. Trên cơ sở nhận thức chung ấy, việc đăng ký phải là một đề nghị của Nhà nước, không phải một yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý”. Đặc biệt, ông nêu rõ quá trình làm việc của ông, nhóm Phật Giáo nhà nước đã cho ông biết rằng: “Dựa trên giả định rằng hầu hết các giá trị tôn giáo và lợi ích của Nhà nước trùng nhau, nhiều tôn giáo đã trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc là Giáo Hội Phật giáo Việt Nam… Tuy nhiên, trong khi công nhận sự đa dạng ngay trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi lưu ý thấy thái độ phủ nhận các thực hành Phật giáo bên ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Một vài chức sắc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết họ chưa bao giờ nghe thấy các nhóm Phật tử độc lập ở Việt Nam. Một số vị khác ám chỉ đến “quan điểm riêng” của một số cá nhân bị dẫn dắt bởi các tham vọng có vấn đề về mặt đạo đức và không đáng được chú ý nghiêm túc. Việc gán những mối quan tâm “ích kỷ” vặt vãnh cho những người đang thực hành Phật giáo hay các tổ chức tôn giáo ngoài các kênh chính thống là một điều được lặp đi lặp lại trong các cuộc trao đổi”. Ông cũng lên án việc nhà nước Việt Nam đã không giữ những cam kết với LHQ khi ứng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, bằng chứng là hai chuyến đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum đã không thể thực hiện được bởi có nhiều ngăn cản. Đồng thời nhiều người đã gặp khó khăn vì bị ngăn chặn khi có ý định gặp ông mà cam kết của Việt Nam là ông có thể đi bất cứ đâu và gặp bất cứ người nào mà không bị hạn chế. Ông đặc biệt lưu ý rằng tất cả mọi người đã gặp gỡ, cộng tác với ông đều phải được nhà nước Việt Nam tôn trọng như nghĩa vụ của mình đã cam kết trước HĐNQ LHQ. Bản tuyên bố còn nêu rõ các định nghĩa, các giá trị về quyền tự do tôn giáo được phổ cập và thế giới công nhận. Trong đó quyền tự do tôn giáo là một quyền căn bản trong các quyền con người mà người dân phải được hưởng như Việt Nam đã ký cam kết trong các văn bản quốc tế. Ông cũng cho biết rằng, phía nhà nước Việt Nam đã thông báo cho ông biết năm 2016 sẽ có Luật Tôn giáo ra đời và hi vọng sẽ là bước tiến để quyền tự do tôn giáo của người dân được đảm bảo hơn. Đối diện sự thật Sau đó, ông đã dành nhiều thời gian để trả lời các câu hỏi. Các nhà báo được thoải mái để đặt các câu hỏi và ông đã trả lời trực tiếp.     Một nhà báo của Đài Truyền hình Việt Nam đặt câu hỏi theo hình thức ‘rửa mặt’ cho nhà nước rằng: “Ông thấy gì qua việc thời gian qua, nhà nước Việt Nam đã cho nhiều tổ chức tôn giáo được đăng ký hoạt động”? Với câu hỏi này, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, ông Heiner Bielefeldt đã trả lời rõ ràng như sau: “Việc cấp các đăng ký hoạt động cho các nhóm tôn giáo nào đó, không thể hiện quyền tự do tôn giáo của người dân được tôn trọng. Bởi quyền tự do tôn giáo là hiển nhiên và nó có trước việc đăng ký. Quyền đó cao hơn cả việc đăng ký với nhà nước hoặc bất cứ tổ chức nào”. Nhà báo độc lập JB Nguyễn Hữu Vinh – thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam – đã đặt các câu hỏi như sau: - Thưa ông, ông có nói rằng có những thay đổi trong văn bản luật pháp và năm 2016 sẽ có Luật Tôn giáo ra đời để cải thiện tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Nhưng, ở Việt Nam việc có văn bản luật pháp, Hiến pháp và thực hiện các văn bản đó là một khoảng cách. Ví dụ các bản Hiến pháp từ 1946 đến 2013 đều ghi rõ: Các cơ sở tôn giáo được luật pháp bảo hộ. Tuy nhiên đến nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã bị nhà nước lấy mất 2.500 cơ sở tôn giáo. Đặc biệt nhiều cơ sở bị lấy đi trắng trợn mà không có bất cứ một văn bản nào hợp với luật pháp từng thời kỳ của chính nhà nước Việt Nam. Cần làm gì để khắc phục trình trạng này? Ông Heiner Bielefeldt đã trả lời rằng ông biết có những thông tin về việc tranh chấp đất đai, tài sản của các tôn giáo ở Việt Nam của nhà nước. Việc nhà nước tịch thu đất đai, không cấp các tư cách pháp nhân cho các tôn giáo và những hành động khác như là sự hạn chế quyền tự do tôn giáo của công dân. Việc cần khắc phục là nhà nước cần có các luật để quản lý xã hội, thực thi các luật ấy cách khách quan và công bằng. Trên hết là thừa nhận quyền tự do tôn giáo của công dân - dù được công nhận hay không - là bất khả xâm phạm. Một số blogger và facebooker cũng đã đặt câu hỏi liên quan đến cách quản lý tôn giáo ở các nước khác và vai trò của các tổ chức tôn giáo trong việc cổ vũ quyền tự do, dân chủ của công dân. Ông Heiner Bielefeldt cho rằng: Việc các tổ chức tôn giáo cổ vũ quyền tự do, dân chủ cho người dân là quyền của họ trong một xã hội tiến bộ, không ai có thể can thiệp được. Nhà báo độc lập JB Nguyễn Hữu Vinh – thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam – đã đặt các câu hỏi như sau: - Thưa ông, ông nói về bản Hiến pháp 2013 có những câu chữ tiến bộ hơn về quyền tự do tín ngưỡng. Vậy xin ông cho biết với một bản Hiến pháp mà trong đó ghi rõ rằng: Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh (là hệ chủ nghĩa và tư tưởng vô thần) làm cơ sở nền tảng cho đất nước. Vậy quyền tự do tư tưởng của công dân liệu có thể được đảm bảo hay không? Một vấn đề nữa là ở Việt Nam, giáo hội Công giáo VN với 1/10 dân số đến nay vẫn không được công nhận tư cách pháp nhân. Do đó một cá nhân có nhiều tiền, có thể mở trường đại học, bệnh viện…, trong khi đó thì Giáo hội Việt Nam không hề được công nhận chức năng này. Về báo chí, cả Giáo hội đến nay không có một tờ báo nào để thông tin cho giáo dân biết các vấn đề trong và ngoài Giáo hội. Đặc biệt, khi có những mâu thuẫn, hệ thống báo chí nhà nước đã vùi dập Giáo hội Công giáo bằng những trò vu cáo và dối trá. Ông nhận định thế nào và trong các cuộc làm việc với nhà nước Việt Nam, ông có đề cập vấn đề này hay không? Ông Heiner Bielefeldt cho biết, việc được tự do báo chí, tự do biểu đạt tiếng nói của mình là một trong những quyền căn bản của con người để đảm bảo tự do tôn giáo. Mặt khác, ở Việt Nam đã hạn chế quyền tự do tôn giáo bằng cách không công nhận tư cách pháp nhân cho các tổ chức tôn giáo, do vậy các tổ chức này không thể có các hoạt động bình thường như mua bán, giao dịch, thừa kế… Đây là sự vi phạm có hệ thống của nhà nước Việt Nam. Ông cũng nhấn mạnh rằng, ông có thông tin về việc Giáo hội Công giáo chỉ được mở một số lớp nhà trẻ mà không được tham gia vào việc giáo dục cho giáo dân cũng như công dân. Mới đây ông có thông tin rằng một Đại học Công giáo đã được khởi xướng và sẽ ra đời. Ông hi vọng sẽ có kết quả tốt đẹp hơn.   JB Nguyễn Hữu Vinh tại cuộc họp báo Không thể “hiểu lầm”   Một nhân viên Bộ Ngoại giao cũng đã phát biểu một số điều về công lao của Việt Nam trong việc đón tiếp đoàn của Báo cáo viên đặc biệt LHQ đến Việt Nam. Ông này không giới thiệu chức danh – ông cho biết: Đã một số lần đón tiếp các báo cáo viên và đây là nỗ lực lớn, cũng như là thiện chí của Việt Nam. Việc xảy ra sự cố không đi đến được An Giang, Gia Lai, Kon Tum, việc ông Heiner Bielefeldt nói rằng một số người bị ngăn cản là những việc do hiểu lầm mà tạo ra. Ông Heiner Bielefeldt trả lời: Như phần đầu bản Tuyên bố, ông đã cảm ơn nhà nước Việt Nam đã đón ông như đã cam kết với LHQ. Tuy nhiên việc một số người bị ngăn cản, việc không thể đi đến các tỉnh như kế hoạch của ông, không thể giải thích là sự hiểu lầm và dù có sự hiểu lầm, thì điều đó cũng hoàn toàn không giải thích được thỏa đáng việc bảo đảm quyền bí mật, riêng tư của Báo cáo viên đặc biệt của LHQ. J.B Nguyễn Hữu Vinh Nguồn: ijavn.org
......

Việt Nam sẽ lấy lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?

Việt Nam sẽ lấy lại quần đảo Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa bị China xâm lược trái phép trong trường hợp nào? Mặc dù China đã chiếm Hoàng Sa tròn 40 năm (1974-2014), chiếm một số đảo tại Trường Sa đã là 26 năm (1988-2014), và hiện tại họ đã đầu tư rất lớn cơ sở hạ tầng tại hai vị trí này…, nhưng không có nghĩa là Hoàng Sa, Trường Sa là của China. Mặc dù ngày 24 tháng 7 năm 2012, nhà cầm quyền China đã thành lập cái gọi là “Thành phố Tam Sa”, trực thuộc tỉnh Hải Nam, để quản lý cả vùng rộng lớn với hàng triệu km2 trên Biển Đông Việt Nam, và biển Tây Philippines…, nhưng điều này cũng không có nghĩa là Hoàng Sa, Trường Sa là của China. Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945, và để bảo đảm Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng quy định các nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc, các nguyên tắc chủ đạo gồm:   (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.   Như vậy, bằng việc xâm lược để có được sự chiếm hữu đối với Hoàng Sa và một phần Trường Sa, China đã vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Và đó là hành động phi pháp theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, mà China không chỉ là thành viên, mà là một trong năm thành viên thường trực. Lo sợ trước sự bền bỉ của người Việt trong việc đòi lại chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã bị China xâm lược trái phép và bất hợp pháp, cho nên, gần đây, với giọng điệu rất ngang ngược, kiểu nước lớn… Tân Hoa Xã, hãng thông tấn chính thức của nhà nước China, trong bài viết: “Việt Nam và “bốn không được”, kẻ biết thời thế mới là tuấn kiệt” (1), được báo điện tử vtc.vn lược dịch về “bốn không được” như sau: “Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông); thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa); thứ ba, không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải; cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”. Qua đó cho thấy rằng, việc Việt Nam tuyên truyền về chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã làm cho Bắc Kinh hết sức lo sợ. Đó không chỉ là duy trì tinh thần yêu nước của người Việt, vốn là khắc tinh của kẻ thủ xâm lược, mà còn là lời cảnh báo đến thế giới về sự quyết tâm của người Việt trong việc thu lại lãnh thổ hợp pháp của mình. Hiện nay, China đang là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, chỉ xếp thứ hai sau siêu cường là Mỹ. Tuy vậy, với nội bộ bất ổn toàn diện, gồm: Sự đấu đá giữa các phe phái chính trị; nền kinh tế phát triển nóng, không bền vững; môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng; các quan chức tham nhũng đang mang những đồng tiền cướp được của nhân dân chạy trốn ra nước ngoài; đặc biệt là sự phản kháng đòi độc lập của các Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ – Tân Cương, và Tây Tạng… tất cả đang đưa China đến bất ổn nội bộ và có thể sụp đổ bất cứ khi nào. Nếu như ai cũng biết được rằng, sau khi bị bại trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, thì Nhật Bản buộc phải trả lại tất cả các lãnh thổ mà nước Nhật chiếm đóng trước đó cho các quốc gia. Thì cũng hay tin rằng, người Việt sẽ lấy lại Hoàng Sa và Trường Sa từ China trong hoàn cảnh tương tự. Tại sao vậy? Để có được “đường lưỡi bò” theo như mưu đồ của Bắc Kinh, thì không còn cách nào khác, Bắc Kinh buộc phải thực hiện chiến tranh xâm lược trong tương lai. Và sự thảm bại đến với họ sẽ là điều không tránh khỏi. Hiện nay, do tình hình quốc tế thay đổi, Bắc Kinh đang thực hiện một hình thái chiến tranh xâm lược kiểu mới, bằng việc đưa hàng vạn tàu cá được nhà nước hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật (2) để thực hiện chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên, China đang gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. Chiếc mặt nạ “trỗi dậy hòa bình” đã chính thức được Bắc Kinh vứt bỏ, làm cho cộng đồng thế giới lại càng cảnh giác với Bắc Kinh. Tập Cận Bình và đội ngũ của ông ta tại Bắc Kinh đang thực hiện những bước phiêu lưu để rồi sẽ nhận được hậu quả đích đáng trong tương lai. 03.8.2014 H. M.   (1) http://vtc.vn/311-490509/quoc-te/tan-hoa-xa-lai-trang-tron-vu-khong-de-d... (2) http://dantri.com.vn/the-gioi/bao-anh-vach-tran-am-muu-dung-tau-ca-chiem... Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Tác hại của tuyên truyền

Theo cách hiểu thông thường, tuyên truyền là truyền bá những thông tin lệch lạc để quảng bá một mục tiêu chính trị hay một quan điểm. Theo cách hiểu này tôi thấy ở VN có nhiều hiểu lầm hay lệch lạc về các sự kiện lịch sử chỉ vì những sản phẩm của tuyên truyền.   Năm nay kỉ niệm đúng 50 năm ngày 3 tàu hải quân VN đụng độ với tàu khu trục Maddox của Mĩ (2/8/1964). Báo chí VN mô tả trận đánh đó như là một “chiến thắng giòn giã” của hải quân VN (1) vì đã đuổi được tàu Maddox. Nhưng tôi nghĩ đây là một sản phẩm tiêu biểu của tuyên truyền, và nó sẽ làm lệch lạc sự thật lịch sử. Trong thực tế, cuộc đụng độ không tương xứng đó làm cho 3 tàu của VN đều bị hư hỏng, 4 thuỷ thủ bị tử vong, 6 người bị thương. Còn tàu của Mĩ chẳng hề hấn gì; họ thậm chí phản công gây nhiều tổn hại cho VN. Tàu Maddox cũng chẳng “chạy trốn” mà nó còn quay lại với một tàu khác cùng máy bay oanh kích và gây tổn thất khá lớn trên đất liền. Đã 50 năm rồi, chẳng có gì phải giấu diếm, nên nói thật cho công chúng biết. Không nói thì họ (cũng như tôi đây) vẫn có thể tìm trên mạng để đọc và biết.   Trong quá khứ, tuyên truyền đã làm sai lệch lịch sử. Một trong những sản phẩm tuyệt vời của tuyên truyền là nhân vật Lê Văn Tám. Đó là một cậu bé được hư cấu hoàn toàn, mà tác giả của nó là Trần Huy Liệu (2), lúc đó (1946) là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động của VNDCCH. Ông Liệu sáng tác ra một thiếu niên 18 tuổi tên Lê Văn Tám, vì căm thù giặc Pháp, đã tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè vào ngày 1/1/1946. Người sáng tác câu chuyện Lê Văn Tám cho biết Tám chạy 50 mét để vào đến kho xăng. Nhưng người sáng tác có vẻ hơi cường điệu. Làm sao một đứa bé 10 tuổi, với sức nóng dữ dội của xăng, có thể chạy đến 50 mét? Nhưng sau này chúng ta biết rằng đó chỉ là hư cấu, chứ không có nhân vật Lê Văn Tám. Tác giả của nó thú nhận một cách chống chế: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.” Ấy vậy mà Lê Văn Tám đã đi vào lịch sử, vào sách giáo khoa, có tên công viên và đường phố. Mặc cho tác giả trần tình, rất nhiều người vẫn không tin rằng Lê Văn Tám là nhân vật hư cấu!   Tuyên truyền có thể gieo căm thù cho cả một cộng đồng. Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người; sĩ quan và quan chức Nguỵ sống phè phỡn, bê tha, truỵ lạc, trong khi đó thì người dân đói khổ đến nỗi không có chén để ăn cháo. Có lẽ người dân ngoài Bắc tưởng là thật, nên có lí do để vào Nam giải phóng cho dân miền Nam. Có lẽ tin là quân Nguỵ ác ôn, nên mới có tình trạng khi tù cải tạo từ miền Nam bị áp tải ra ngoài Bắc bị dân chúng quăng đá ném gạch và chửi rủa thậm tệ. Có vài người chết vì đòn thù này. Không biết bao nhiêu là đạo diễn (như thời Cải cách ruộng đất) và bao nhiêu là căm thù thực sự, nhưng hệ quả của tuyên truyền quả là ghê gớm. Cũng vì tuyên truyền mà đến nay người dân VN vẫn tin rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hoá thế giới do UNESCO công nhận. Sự thật thì UNESCO không có văn bản nào công nhận ông hay bất cứ ai là “danh nhân văn hoá thế giới” (3). Vậy mà báo chí và giới lãnh đạo vẫn cứ dùng cụm từ “danh nhân văn hoá thế giới”. Có lẽ họ đã bị nhập tâm cái sản phẩm tuyên truyền đó và nói như là một quán tính. Còn rất nhiều tác hại của tuyên truyền mà rất khó liệt kê hết ở đây. Có những câu nói gần như đi vào tâm tưởng của người dân mà khi nói ra họ cũng không để ý đến tính hợp lí của nó. Trước đây, có người phàn nàn về câu “Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước” người ta mới giật mình thấy có cái gì không đúng. Hay như từ một bài ca “đảng đã cho ta mùa xuân” đi vào câu khẩu hiệu mà chẳng ai để ý mùa xuân là kết tinh của đất trời hội tụ chứ có ai cho đâu. Tương tự, câu “Nước CHXNCN Việt Nam muôn năm” nếu nghĩ kĩ cũng khó có thể vì trên thế gian này chẳng có cái gì tồn tại vĩnh viễn cả. Các hoàng đế Tàu ngày xưa cũng thích “vạn tuế” mà có ai đạt được đâu. Những sản phẩm tuyên truyền đó nó được gieo vào tâm trí của nhiều thế hệ để rồi theo thời gian nó trở thành một loạt sự thật giả tạo.   Có thể nói không ngoa rằng VN là một xứ sở của tuyên truyền. Bật tivi, mở radio, đọc báo, tất cả đều có bóng dáng và cái air của tuyên truyền, đặc biệt là các bản tin và bài viết liên quan đến chính trị, xã hội, sử, văn học. Đó là chưa kể đến những pano nền đỏ chữ vàng xuất hiện trên khắp đường phố từ nông thôn đến thành thị, từ lộ nhỏ đến đường cao tốc đều mang nội dung tuyên truyền. Cái gì cũng tuyên truyền, từ chính trị, đóng thuế đến có con đều tuyên truyền. Tuyên truyền hàng phút, hàng giờ, hàng ngày, và ở bất cứ nơi nào. Thử tưởng tượng, người dân phải bị “exposed” (phơi nhiễm) với cường độ tuyên truyền như thế thì trước sau gì cũng bị nhiễm. Tổ sư về tuyên truyền của Đức Quốc Xã là Joseph Goebbels từng nói rằng một lời nói dối nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành chân lí. Điều này rất đúng với VN. N.V.T —– (1)http://danviet.vn/xa-hoi/50-nam-ngay-hai-quan-thang-tran-dau-dam-quyet-d... (2) Ông Trần Huy Liệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ nhận ấn kiếm của Vua Bảo Đại vào năm 1945. Bảo Đại mô tả ông Liệu như là “Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé”. http://www.viet-studies.info/kinhte/BaoDai_HCM_DL.htm (3) http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf Records of the General Conference Twenty-fourth Session Paris, 20 October to 20 November 1987 (xem trang 135)   Nguồn: FB Nguyen Tuan
......

Anh Hùng Lê Văn Tám Là Không Có Thật.

Lệ Rơi, Lê Văn Tám & Những suy ngẫm về giá trị ảo   Lệ Rơi, cái tên xuất hiện dày đặc mấy ngày nay trên các phương tiện truyền thông ở Việt Nam. Sự thật cho thấy, Lệ Rơi, nghệ danh của một chàng trai chân chất người Hải Dương hay hát ngô nghê với giọng hát bị lỗi nhịp sai tone, là một trường hợp đặc biệt đến mức khó hiểu. Lệ Rơi hát không hay nếu không muốn nói là thảm họa. Và những ai nghe Lệ Rơi hát chắc chắn sẽ bật cười hoặc nhăn mặt nhíu mày. Ấy vậy mà dư luận lại quan tâm quá mức. Tôi đi cà phê với bạn cũng nghe họ nhắc đến Lệ Rơi. Tôi đi vào một trường đại học quốc tế cũng nghe các bạn trẻ bàn luận về Lệ Rơi. Đã thế, Lệ Rơi đang nổi tiếng lại thêm nổi tiếng. Các bầu show ở Hà Nội đua nhau mời Lệ Rơi tham gia biểu diễn, cat-xê ngang tầm ca sĩ hạng trung ở Việt Nam.   Vậy vì sao Lệ Rơi lại nhanh chóng trở thành hiện tượng như vậy? Một chàng trai với ngoại hình bình thường, phát âm khi nói còn chưa tròn vành rõ chữ, giọng hát lại càng phải xem xét lại. Vậy mà dư luận lại quan tâm. Và chính vì dư luận quan tâm quá mức như vậy, kéo theo truyền thông phải vào cuộc và truy lùng gốc tích chàng trai nông dân chăm sóc vườn ổi Lệ Rơi. Theo tôi nghĩ, tất cả họ đang hiếu kỳ và xem Lệ Rơi như một trò giải trí. Thật trớ trêu! Dư luận rõ ràng đang tung hô một giá trị ảo. Một anh chàng không có tài năng bỗng dưng vụt nổi tiếng. Truyền thông giật tin hàng ngày. Không còn một thể thống gì. Một nghệ sĩ trẻ và nổi tiếng cũng đã lên tiếng về vụ việc, anh cho rằng dư luận quá “ác” khi cười cợt và tung hô quá lố về một chàng trai như vậy. Liệu “tài năng” đó rồi sẽ đi về đâu? Không thể có sự tồn tại lâu dài được. Giá trị ảo rồi sẽ biến mất, nhưng hệ lụy là sẽ còn xuất hiện bao nhiêu Lệ Rơi, Lệ Rớt, Lệ Nhỏ Giọt đây? Lại nhớ đến chuyện Lê Văn Tám. Thuở nhỏ đi học, sách giáo khoa tiểu học đã dạy câu chuyện của anh Lê Văn Tám. Vậy mà cách đây không lâu, chính cơ quan ngôn luận của chính phủ Việt Nam đã lên tiếng rằng nhân vật Lê Văn Tám là không có thật. Câu chuyện về nhân vật lịch sử Lê Văn Tám thường được biết đến là một cậu bé bán đậu phộng có tinh thần quả cảm đã dũng cảm tự thiêu để đốt kho xăng của Pháp ở Thị Nghè, Sài Gòn. Lê Văn Tám tẩm dầu lên người, tự thiêu và chạy vào kho xăng vào năm 1945. Hình tượng Lê Văn Tám luôn được ca ngợi là biểu tượng của sự anh dũng, quả cảm của tuổi trẻ. Câu chuyện “ngọn đuốc sống” Lê Văn Tám lan truyền theo những chính sách phổ cập giáo dục. Nhiều địa phương của Việt Nam cũng dùng tên Lê Văn Tám để đặt cho nhiều tuyến đường, công viên, quỹ học bổng, rạp phim,… Theo một bài viết trên tạp chí Xưa và Nay số tháng 10 năm 2009, giáo sư sử học Phan Huy Lê đã công bố rằng nhân vật Lê Văn Tám là một nhân vật hư cấu. Theo đó, vụ cháy kho xăng là có thật, nhưng nhân vật Lê Văn Tám là do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Xã hội lúc bấy giờ là ông Trần Huy Liệu dựng lên. Chính ông Trần Huy Liệu cũng đã thú nhận điều đó với Gs. Phan Huy Lê. Câu chuyện kho xăng bị cháy được đăng tải rộng rãi, thậm chí trên những tờ báo và tạp chí nước ngoài. Tuy nhiên, những bài báo ở nước ngoài đã nghi ngờ tính xác thật của câu chuyện về nhân vật Lê Văn Tám. Những bài báo ấy phân tích và đưa ra nhận định: khi một người tự thiêu cháy mình như “ngọn đuốc sống”, rõ ràng chỉ cần bước vài bước là đã gục xuống, không có chuyện chạy cả quãng dài để lao vào kho xăng. Ông Trần Huy Liệu sau đó cũng đã tự trách bản thân vì quá bất cẩn trong việc tham khảo khoa học mà dẫn đến tình huống trớ trêu thiếu hợp lý như vậy. Ông Trần Huy Liệu cho biết “vì nhiệm vụ tuyên truyền” nên phải dựng nên một câu chuyện về một thiếu niên anh dũng, quả cảm. Rõ ràng ông đã tiên liệu được sau này, sẽ có người đi tìm tung tích của nhân vật Lê Văn Tám. Đến giờ, khi mọi chuyện đã sáng tỏ, nhân vật Lê Văn Tám là không có thật, và cũng chẳng có thiếu niên nào anh dũng, quả cảm như câu chuyện hư cấu kia, liệu những con đường, những trường học, những quỹ học bổng mang tên Lê Văn Tám có còn ý nghĩa với công chúng? Và liệu rồi sau này, chúng ta có còn hoài nghi về tính trung thực của lịch sử? Sẽ có bao nhiêu câu chuyện được dựng nên? Bao nhiêu nhân vật chỉ là hư cấu? Giá trị lịch sử liệu có đáng để bao nhiêu thế hệ học sinh, sinh viên miệt mài tìm hiểu? Dẫu biết lịch sử chưa bao giờ phản ánh đúng 100% sự thật, nhưng rõ ràng câu chuyện về Lê Văn Tám đã là trò cười cho không chỉ dân Việt mà cả những nước khác.   Lệ Rơi, một tài năng ảo, bị những người rãnh rỗi mang ra làm trò cười. Lê Văn Tám, một anh hùng ảo, cũng trở thành trò cười về cách miêu tả lịch sử. Điểm chung của họ là đều mang giá trị ảo. Những giá trị ảo sẽ kéo theo những hệ lụy rất nguy hiểm. Giá trị lịch sử ảo làm cho con người mất lòng tin vào lịch sử, nghi ngờ những anh hùng mà họ tung hô, băn khoăn về tính xác thực của những sự kiện diễn ra trong quá khứ, được ghi chép và tuyên truyền cho đến hôm nay. Tài năng ảo dẫn đến sự xuống cấp về thẩm mỹ thưởng thức, tạo ra những sản phẩm nhảm nhí và được tung hô, khen thưởng, trả công một cách vô trách nhiệm. Hy vọng sau này, những giá trị, tài năng ảo như trên không còn xuất hiện nữa. Ðọc thêm Blog / Cao Huy Huân
......

THƯ TRẢ LỜI 61 ĐẢNG VIÊN LÃO THÀNH

Các bác kính mến, thú thực là em đã đọc kỹ thư kiến nghị của các bác trên trang Dân Luận, Với kiến nghị như thế này, thường trực ban bí thư TƯ ĐCS VN hay đại loại gì đấy, không bao giờ trả lời các bác đâu. Chẳng ai trả lời các bác cả. Em còn đây, các bác còn đấy, cứ chờ xem, em nói cấm có sai. Biết là chẳng bao giờ họ trả lời các bác, thì em mạo muội trả lời các bác vậy, để các bác khỏi mong thư hồi âm.     Thư các bác không dài, nhưng vấn đề không mới, ai cũng biết, 90 triệu dân VN biết tỏng lâu rồi, 16 ủy viên bộ CT cũng biết tỏng lâu rồi. Nhưng trả lời các bác làm sao đây. Các bác toàn kiến nghị khó, như đánh đó nhau.   Thôi, em trả lời các bác từng phần theo thứ tự từ trên xuống để phần nào các bác yên lòng. Bản kiến nghị, tựu chung lại có 2 phần. Phần 1 là hiện tình đất nước. Phần 2 có 2 kiến nghị cụ thể. Em thử trả lời như sau, các bác xem sao:   1. Các bác bảo xây dựng đất nước theo con đường CNXH là sai lầm, 30 năm đổi mới chưa triệt để nên gây ra nhiều mặt lũng đoạn trong xã hội …. Cái này đích thân đồng chí TBT Trọng đã trả lời rồi. Đại ý là “đổi mới“ chỉ là một giai đoạn ngắn để tháo gỡ tình thế về kinh tế thôi. Còn nền tảng là chính trị không thể thay đổi được”. Điều này có nghĩa là, các bác liệu chừng, đến một ngày đẹp trời nào đó các bác cùng toàn đân vác hộ khẩu lên phường nhận tem phiếu theo tiêu chuẩn lương thực thực phẩm hàng tháng nhé. Chợ búa dẹp hết nhé, tất cả vào HTX nhé… Có vậy mới xây dựng CNXH được, chứ cứ như nền kinh tế thị trường bát nháo hiện nay thì 100 năm nữa chưa chắc đã có ( Lời của TBT Trọng). Mà điều các bác phải nhớ, Hiên nay đồng chí TBT Trọng đang khao khát hàng ngày hàng giờ làm sao xây dựng CNXH trên đất nước ta thật mau. Kẻo 100 năm năm nữa bác ấy không kịp sống.   Các bác, 61 người ai cũng là đảng viên CS cả, thế mà các bác quên một điều căn bản sống còn: Nếu không vì mục tiêu xây dựng CNXH thì đảng CS tồn tại để làm gì? Xây được hay không được, không quan trọng. Cứ phải hô hào như vậy đã, để mà còn lý do tồn tại, lý do lãnh đạo. Chứ không nói như vậy để dân nó chửi cho là đồ ăn bám à. Bí lắm thì nói liều là sứ mệnh do dân tộc giao phó, do nhân dân lựa chọn Các bác bảo thôi đừng theo Mac-Lê nữa, chẳng hóa các bác muốn giải tán cái đảng này à? Cái này đồng chí Nguyễn MInh Triết đã nói rõ rồi “Hổng được đâu”… Thôi thì thế này, các bác làm gương trước đi: Trả lại thẻ Đảng, tự ý xin ra, như bác Đằng, anh Đức nghe còn thuyết phục hơn cái bản kiến nghị. Nói ngược lại, các bác còn là đảng viên CS thì các bác đừng khuyên từ bỏ chủ nghĩa Mac-Lê, nghe nó chối lắm. Làng nào chẳng thờ ông khai canh, nghề nào chẳng thờ ông tổ. Đến nghề làm… còn có nữa là.   2. Rồi các bảo đảng độc tài toàn trị, Thế chẳng nhẽ các bác muốn đa đảng à. Nếu muốn, các bác tự lập ra đảng mới đi. Pháp luật có cấm đâu. Khi nào an ninh CS bắt bớ các bác, các bác kiến nghị cũng chưa muộn kia mà. Còn quan điểm của đảng CS VN là không đa đảng. Cái này, cũng bác Triết nói rõ rồi “đa đảng là chết“ nói toạc ra, đa đảng dân không chết, mà đảng CSVN chết ngay, chết không kịp ngáp. Phải chăng các bác muốn như vậy? Em nghĩ các bác trên TƯ đảng không muốn như vậy. Nhìn Sadam bị treo cổ, Gradafi bị lôi ống cống là các bác ấy hãi lắm.   3. Rồi các bác bảo là kìm hãm tự do dân chủ chia rẽ dân tộc. Thế dân chủ, tự do là cái gì, mặt mũi nó ra sao? đã có bao giờ dân VN này được biết thế nào là tự do dân chủ đâu mà so sánh. Các bác nói vậy, em biết vậy, chứ bảo thế nào là tự do dân chủ thì em chịu, em chưa bao giờ qua Âu-Mỹ, em chưa biết. Em không dám đòi. Còn chia rẽ dân tộc thì các bác nói hơi mơ hồ. Trong nước thì khấu hiệu “Đoàn Kết, Kỷ Cương…” giăng đầy đường đấy, các bác không đọc à? Với bà con Việt kiều bác Triết có khúc ruột ngàn dặm của bác vắt qua tận bên Mỹ rồi. Các bác cũng không thấy sao? Rõ ràng chủ trương của đảng CSVN là không chia rẽ nhé. Chủ trương của đảng lâu nay là tập hợp thật đông quần chúng, càng đông càng tốt, một lòng theo đảng, đảng bảo gì nghe nấy, đừng ý kiến ý cò gì hêt. Còn lòng dân không theo là lỗi tại dân. Các bác nói thế là oan cho đảng ròi. Đảng không vui đâu.   4. Các bác bảo tham nhũng tràn lan, đất nước kiệt quệ, tụt hậu so với các nước trong khu vực. Cái này cũng đúng, ai cũng thấy. Nhưng bọn cán bộ địa phương các cấp, ban ngành đoàn thể, lương ba cọc ba đồng nó ăn gì để nó làm việc. Không tạo điều kiện cho nó chấm mút thì nó bỏ việc à? Lúc ấy các bác ra mà làm nhé. Có bọn nó mới có người phục vụ chế độ. Nói toạc ra, chế độ này còn tồn tại là nhờ bọn nó. Thằng nào làm cán bộ mà không ăn cắp là thằng đấy có nguy cơ chống phá đảng, không chóng thì chầy cũng bị các đồng chí “tận tụy phục vụ chế độ“ cho bật xới. Cho nên các bác muốn truy tìm, tố cáo tham nhũng, rất dễ. Các bác xem thằng nào luôn mồm hô to “Đảng cộng sản VN quang vinh muôn năm“ là thằng đấy tham nhũng nhiều nhất. Cái này bác Sang gọi là bầy sâu. Cứ xem thằng nào to mồm ca ngợi đảng CSVN, thằng đó là chính loại sâu bự. Như vậy phần tình hình chung em đã nói ró chân lý từng điểm cho các bác rồi nhé. Giờ đến phần 2, kiến nghị. Em cũng nói ngắn thôi:   5. Các bác kiến nghị chuyển đổi mô hình chính trị từ toàn trị sang mô hình dân chủ. Vậy cái mô hình ấy nó như thế nào. Sao các bác không đính kèm bản kiến nghị ấy một bản luận cương, xem nó cụ thể nó ra sao. Chứ các bác nói dân chủ chung chung ấy thì bố ông TBT cũng không sao mà hình dung ra được. Còn về dân chủ thì chị Doan thay mặt đảng và nhà nước cũng đã khẳng định rồi “nước ta có nền dân chủ gấp ngàn lần các nước tư bản chủ nghĩa“. Vậy thì các bác còn đòi dân chủ như thế nào nữa. Rõ là các bác được voi đòi tiên.   6. Nền kinh tế phụ thuộc vào Trung Quốc thì đúng rồi. Nhưng bảo không phụ thuộc vào nó thì mua bán với ai. Đồ của nó rẻ, toàn dân ai dùng cũng được. Cho nó trúng thầu thì phần lại quả lớn hơn bọn Nhật, lại đảm bảo không bị tố. Làm ăn với nó kiểu gì nó cũng mời qua TQ vài lần, ăn chơi không bị dòm ngó. Vậy thì các bác bảo nên chọn ai. Cho bọn trong nước trúng thầu thì vừa đắt, vừa làm ẩu. ăn xong còn bị nó tố ngược mới oan gia làm sao. Thôi tạm thời cứ chơi với nó vài chục năm nữa đã, cho lành.   7. Lâu nay chọn đại biểu đại hội đảng toàn quốc, thì cũng bầu từ cơ sở lên đấy thôi. Chứ bộ CT, ban chấp hành TƯ công đâu mà đi chọn cả nghìn đại biểu. Toàn là dưới cơ sở nó bầu lên đấy chứ. Nó phe cánh o bế cho nhau thì các bác phải chỉ ra nó không xứng đáng như thế nào chứ. Bây giờ mà hỏi 10 thằng thì cả 11 thằng nó bảo nó yêu nước đấy chứ, có thằng nào không yêu nước đâu. Nhưng yêu nước chung chung thì cũng chưa được, phải kèm thêm yêu đảng, yêu chế độ nữa, cái này thì bọn ấy có thừa tình yêu. Vì đảng là suối nguồn tươi trẻ của nó mà. 8. Bầu đại biểu Quốc hội cũng vậy, toàn là dân bầu lên chứ ai. Dân đi bầu là dân ngu thì các bác chịu, chứ biết kêu ai bây giờ. Em nhớ không nhầm, gần đây có vị đại biểu quốc hội thẳng thừng tuyên bố “quốc hội là của dân, quốc hội sai thì dân chịu“ (đảng vô can). Thế thì các bác còn thắc mắc gì nữa. ..   9. À còn cái chuyện biểu tình yêu nước nữa, “cái ni là mệ không ưng mô“. Nói thật với các bác, chế độ nào, chứ chế độ CS sợ biểu tình lắm. Từ biểu tình đến sụp đổ chế độ chỉ cách nhau một gang tay. Đi nhanh hơn ung thư giai đoạn cuối. Nên ở chế độ CS là không có biểu tình. Mít tinh ủng hộ thì được. Đại loại như mít tinh ủng hộ Putin chiếm trọn bán đảo Crưm thì OK. .. 10. Còn tù nhân chính trị nữa, nói gọn, đấy là con bài dự trữ để đối ngoại. Thả làm sao được, Có thả 1 thì bắt 10. Bọn Âu Mỹ nó yêu sách đủ điều. Bây giờ mà không lưu trữ vài chục tù nhân chính trị thì nó đòi hỏi nhiều điều mệt hơn. Nào là bầu cử tự do, nào là đa đảng, nào là công đoàn độc lập… Tù nhân chính trị là thứ dễ mặc cả nhất với phương tây. Khi nào cảm thấy có lợi (hoặc bất lợi quá) thì ta thả vài thằng, nom xem kho hơi cạn thì ta đi bắt dự trữ vài thằng nữa. Các bác thông cảm, đây là cái vốn lận lưng của đảng. ... Trả lời các bác như thế có lẽ tạm đủ rồi. Hy vọng các bác không thắc mắc nữa. Để kết thúc, em hầu các bác một bài thơ em vừa làm, để các bác thư giãn. Tên bài thơ là: CÂY ĐA Ở CỔ LOA   Ở Cổ Loa. Có một cây đa, Ngót một ngàn năm tuổi. Năm 939 Đức Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán. Chấm dứt Bắc thuộc ngàn năm. Ngài về lại Cổ Loa, Trồng một cây đa, Phục dựng vương triều cũ. Nhưng than ôi! Năm 90 thế kỷ 20. Triều đại nhà Hồ, Qua Thành Đô khấu đầu cúi lạy. Cây đa chết. Một ngàn năm Bắc thuộc bắt đầu. Bài thơ có dở các bác đừng cười nhé. Trần Sơn Nguồn: danluan.org
......

Ai là tác giả đích thực của đề nghị bán nước của CSVN ở Thành Đô 1990?

Cái kim lòi ra, cục phân bốc mùi, khối u độc di căn Mấy hôm nay lề dân sôi sục lên với những bài tin về nội dung thỏa thuận được cho là bán nước Việt cho Tàu ở Hội nghị Thành Đô của đảng CSVN với CSTQ năm 1990, mà Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks… vừa đưa ra, vì có câu: “Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….” Tất nhiên là đảng im lặng hoàn toàn. Chính cái thỏa thuận Thành Đô đảng CSVN ký với CSTQ đã 24 năm nay mà họ vẫn đang còn cố giấu diếm như mèo giấu cứt, dù nó đang bốc mùi lộ chất độc thối rồi, nên chưa biết họ sẽ “liếm láp” tiếp ra sao? Chẳng ngạc nhiên và cũng thật đáng mừng khi còn có những người dân Việt như thiếu tướng Lê Duy Mật với tư cách đảng viên đã yêu cầu đảng của mình công bố chính thức nội dung Thỏa thuận Thành Đô đó… Nếu tướng Mật đã đưa yêu cầu của mình theo đúng thủ tục “góp ý nội bộ” thì sẽ có hai khả năng: đảng sẽ lờ tịt đi hay sẽ… khai trừ ông ra khỏi đảng. Nay yêu cầu của ông đã được công khai trên lề dân –tức “không theo đúng qui trình”, thì khả năng sau cao hơn, cũng như đảng mới khai trừ ông Ls. Trừng vậy. Nhưng câu chuyện sẽ không thể kết ở đó. Tất cả mới bắt đầu… Với bài này, tôi muốn nói đến phần trước nữa, phần bắt nguồn, của Hội nghị Thành Đô 1990 của CSVN, và cố gắng thử trả lời câu hỏi như đầu bài đưa ra (tất nhiên, đó là nhóm chóp bu đảng CSVN rồi, nhưng bắt đầu từ ai?), hòng góp phần dự đoán “câu chuyện bán nước ở Thành Đô” của đảng CSVN sẽ tiếp diễn như thế nào?... Chứ chả lẽ dân Việt ta chỉ biết ngồi chờ “đảng ta dẫn dắt và lãnh đạo”, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác mãi?! Bối cảnh, hay điều gì dẫn đến Hội nghị Thành Đô? Tại “thằng” Gorbachốp! Đó là tuyên bố hùng hồn và lời giải thích chính thức đến tận hôm nay 2014 của đảng CSVN, lý giải nguyên nhân phải có Hội nghị Thành Đô của họ năm 1990 trong các hội nghị đảng, chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở và đến các chi bộ phường xóm, vỉa hè… Câu nói đó thể hiện văn hóa cao đặc thù của đảng CSVN – hôm qua đảng coi ông là vị Cứu tinh, là Giấc mơ, là Thiên đường mơ ước cho đảng theo, hôm nay ông là tội đồ bắt đảng phải theo mẹ đĩ già TQ! Câu nói đó thể hiện tâm thế hèn kém muôn đời của đảng CSVN, không bao giờ dám đối diện vấn đề và sự thật, chỉ luôn chỉ tay đổ lỗi cho người khác cho những hành động cơ hội luồn cúi bán dân hại nước của mình! Thực chất chuyện gì đã xảy ra? Đã có ba chuyện chính lớn xảy ra. Đến năm 1989 thì bức tường Berlin sụp đổ cùng hàng loạt các nước cộng sản tự gọi là XHCN ở Đông Âu và liên bang Xô viết tan rã - chiến tranh lạnh kết thúc với bên thua không có người để giương cờ trắng là bên cộng sản. Trong khi đó, Cộng sản VN đang dựa vào cộng sản Liên xô, nên chới với… Sự kiện thứ hai là ở Thiên An Môn tháng 6/1988 ở Bắc Kinh, cũng trước một phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên như đã bắt đầu ở Đông Âu trước đó mà kết thúc là bức tường Berlin bị đập tan theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, chính quyền cộng sản Bắc Kinh với lệnh từ Đặng Tiểu Bình, đã dùng súng và xe tăng bắn và nghiền nát hàng ngàn sinh viên đấu tranh tay không trên quảng trường đỏ ấy làm nó thực sự đỏ vì máu và thịt của những người Trung Hoa trẻ dũng cảm vô song đó… Sự kiện thứ ba là tình trạng khốn cùng của dân ở Việt Nam. 15 năm sau “chiến thắng vẻ vang”, đã nắm trong tay toàn đất nước, chính quyền cộng sản Việt nam đã hoàn toàn thấy bại trong công cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình, đưa kinh tế đất nước đến đáy bùn nghèo khốn tận cùng, đảng hèn kém tham nhũng và vô đạo đức đã mất hết uy tín trước dân và cả các đảng viên chân chính. Đảng CSVN lúc đó lại chống Tàu (vì Tàu đánh chiếm biên giới VN năm 1979) và dựa vào đảng CSLX đã tan rã, thì có nguy cơ cũng sẽ tan rã như thế… Thế là, đảng CSVN chọn đổi chủ, chọn đi theo chủ mới đang chính là kẻ thù số 1 của dân tộc mình, là đảng CSTQ. Thế là họ xin đến TQ, xin có Hội nghị Thành Đô để qui hàng để có thể tiếp tục giữ thể chế cộng sản của mình ở VN, bằng bạo lực Tàu như họ đã thể hiện trên Thiên An Môn. Nhưng mức độ thần phục TQ đến thế nào, tức nội dung cụ thể của thỏa thuận ở Thành Đô năm 1990 đó là gì, đảng CSVN đến nay vẫn chưa dám công bố cho đảng viên của mình biết. Nhưng lý do và mục đích của Hội nghị đó thì ai cũng rõ: vì đảng sợ nhân dân Việt Nam khai tử, như nhân dân các nước khác đã khai tử các đảng CS ở Đông Âu và cả Liên xô, vì lợi ích –vì sự thịnh vượng của các dân tộc đó. Với Hội nghị Thành Đô, đảng CSVN đã đặt lợi ích của đảng trên lợi ích dân tộc Việt Nam. Nhưng đến bán cả quốc gia cho TQ, như nội dung thỏa thuận đã hé lộ ra như trên, thì quả là CSVN đã đi quá xa, và dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận, không bao giờ tha thứ! Ai trong đảng CSVN đã đi bán nước ở Thành Đô 1990   Chúng ta biết, đoàn cán bộ chóp bu của CSVN bí mật đi TQ khi đó bao gồm: Cố vấn Phạm Văn Đồng, TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT (Thủ tướng) Đỗ Mười và một số ít phụ tá. Ngay cái cách họ lén lút ra đi đúng ngày Quốc khách VN 2/9/1990 đã thể hiện mục tiêu đen tối, mưu đồ không trong sáng và tâm địa hèn hạ của họ rồi. Nhưng vai trò cá nhân của ba nhân vật chóp bu trên của CSVN lúc đó trong thỏa thuận Thành Đô như thế nào, đó là câu hỏi của chúng ta ở đây.   Đồng, kẻ đã bán nước bằng công hàm 1958 lại có mặt trong đoàn đi bán nước lần này, thật không bất ngờ nhưng càng đáng nghi là một tác giả chính của nó, và không thể tha thứ! Đồng khi đó đã 84 tuổi, đã nghỉ hưu từ 1987, chỉ còn chức cố vấn hờ cho TBT Linh từ 1986, tại sao lại phải có mặt ở Thành Đô là câu hỏi then chốt? Linh, kẻ mới bất ngờ lên TBT t12 năm 1986 tại ĐH VI, đã để lại ấn tượng khá tốt trong những cải tổ bắt buộc ban đầu, gọi là đổi mới, của CSVN, tại sao đã quay ngoắt thái độ từ cấp tiến đổi mới sang bảo thủ theo Tàu, là câu hỏi rất quan trọng cần trả lời?   Và Mười, tên hoạn lợn vốn đã bị thần kinh, chỉ biết ăn tục nói phét mà được Hồ cho làm phó TTg của Đồng, nay lên được TTg cũng là ngạc nhiên lớn (câu hỏi sẽ được trả lời ở phần sau), có vai trò gì trong gánh xiếc bán nước này, cũng là câu hỏi hóc búa không thể bỏ qua để hiểu vở diễn này của CSVN? Chúng ta để ý là ngay trước Thành đô tên hoạn lơn này được bất ngờ lên Thủ tuongs để đại diện chính phủ ký thỏa thuận bán nước, rồi sau khi từ Thành Đô về, kẻ điên thiến lợn này còn được lên chức TBT thay Linh để triển khai thực hiện cam kết Thành Đô đó với Tàu cộng từ 1991 – ĐH-VII của CSVN và tái nhiệm cả ở ĐH -VIII? Vậy trong ba người đó, ai hay cả ba, hay ai khác nữa là tác giả đích thực của thỏa thuận bán nước Thành Đô? Ai là tác giả đích thực của đề nghị bán nước ở Thành Đô?   Chúng ta hãy bắt đầu nhìn lại từ sự nghiệp đỉnh cao của Linh - TBT. Tại sao Linh bất ngờ được lên TBT vào t12/1986 ở ĐH-VI? Đó là do t6/1986 Lê Duẩn chết, Trường Chinh được lên TBT lần 2 tạm thay Duẩn từ t6 đến ĐH6 t12/1986, rồi Chinh chọn Linh lên thay mình. Vậy tại sao Chinh lại chọn Linh từ trong Nam ra trong khi có nhiều ứng cử viên nặng ký hơn nhiều và gần gũi Chinh hơn? Có phải vì Linh đã cam kết sẽ làm cuộc đổi mới theo con đường Chinh vẽ ra? Mà chúng ta dã biết, Chinh là một trong bộ tứ Hồ-Đồng-Chinh-Giáp khét tiếng chỉ theo Tàu từ đầu đến cuối, và đổi mới của Chinh là CSVN quay lại theo TQ hoàn toàn? Từ 1975 đến 1986 CSVN do Duẩn thống trị đã hoàn toàn chống Tàu cộng, ghi cả trong hiến pháp tầu là kẻ thù só 1, nên khi Duẩn chết là lúc phe thân Tầu của Đồng-Chinh-Giáp vốn bị Duẩn “đì” nhưng đều còn sống (dù đã rất già và đã về hưu), nhưng đằng sau là Tàu cộng và Hoa Nam, có cơ hội phục thù và lên nắm lại quyền bính như thời Hồ, để lái VN theo Trung cộng lại hoàn toàn như Hồ mong muốn? Vậy cho nên, khi Chinh tạm giữ chức TBT, việc quan trọng nhất của Chinh là phải tìm ra nhân vật mới làm TBT sẽ theo phe thân Tàu của Chinh-Đồng-Giáp, đồng ý đưa VN quay về Tàu? Và đó chính là Linh (mà Hoa Nam tìm ra) – kẻ thật thà dễ bảo, không gian trá, không thủ đoạn, rất ngây thơ và ảo tưởng? Đó là lý do Linh bất ngờ vượt qua nhiều ứng viên nặng ký hơn nhiều, lên chức TBT đảng CSVN t12/1986 ở ĐH-VI? Và vì thế trong hơn nửa đầu nhiệm kỳ 1986-1991 của mình Linh đã khởi xướng đổi mới (thực ra là học theo Đặng chút it) và cởi trói cho văn nghệ sĩ chút đỉnh, để gây thanh thế, tạo uy tín, để lừa lấy lòng quần chúng nhân dân, song sang cuối nhiệm kỳ Linh lại “trói lại” và cương quyết “bảo vệ thành trì XHCN còn sót lại là TQ và VN” (ảo tưởng). Đó là lý do Linh đã chấp thuận bán nước ở Thành Đô cùng Đồng và Mười – để cứu phe XHCN cho nhân loại? Như vậy, thỏa thuận Thành Đô là theo đạo diễn của Trường Chinh, rồi giám sát của Đồng, mà Linh chỉ là kẻ đổ bô ảo tưởng rằng mình thực cứu cả phe XHCN? Và vì thế Linh đã hối hận (quá muộn) khi năm 1991 xin rút khỏi vũ đài chính trị VN (dù Linh dễ dàng có thể tái nhiệm chức TBT khóa VII 1991 sau “đại công tích” bán nước ở Thành Đô 1990?)   Tiếp theo là Đồng, năm 1990 Đồng đã về hưu 3 năm rồi, sao còn phải tháp tùng Linh đi Tàu, dù với chức danh cố vấn? Đó phải chăng là vì Đồng được bộ ba Động-Chinh-Giáp giao giám sát thực hiện ký kết thỏa thuận bán nước Thành Đô (mà Bắc Kinh giao bộ ba đệ tử Hồ đã lọm khộm đó phải làm cho xong trước khi chết?), hoàn tất sự nghiệp cướp/bán nước của Hồ và bộ ba đó? Hơn nữa, sau khi lừa được Linh làm TBT bán nước năm 1986, Chinh đã chết năm 1988, nên chỉ còn Đồng và Giáp trong bộ ba đã bán linh hồn cho Hồ/Tàu ngay từ 1940, thì Giáp lúc đó uy tín và chức vụ đã rơi quá thấp (mới vừa phụ trách sinh đẻ kế hoạch 1983), nên Đồng dù đã thân già vô sự vẫn cứ phải nhiễu sự theo Linh về chầu. Vì đó là việc quá quan trọng – hoàn tất sự nghiệp cướp nước Việt của Tàu/Hồ - mà nhất định Bắc Kinh/Hoa Nam không thể để Linh tự diễn không có thúc ép và giám sát của Đồng (cũng là để Bắc Kinh còn qua Đồng mà chỉ đạo nội dung thỏa thuận)… Chả thế mà cả đảng CSVN khi đó, trước và sau Thành Đô, đều “châu ống đu đủ” để thổi Linh lên thành “lãnh tụ cứu tinh” cho VN và cả phe XHCN… Và cuối cùng là tên hoạn heo chưa bao giờ đi học tử tế nhưng đã “Đỗ” Mười. Mười là kẻ rất ngu dốt nhưng vô cùng háo danh, hãnh tiến, và thủ đoạn độc ác luôn có thừa, được Hồ cho lên phó TTg từ 1968 mà đến 1988 vẫn chỉ chỉ là phó TTg (vì Đồng không cách chức ai trong 32 năm). Chúng ta nhớ, năm 1986 phe Đồng-Chinh-Giáp thân Tàu của Hồ nắm hai chức vụ chính là TBT (Chinh) và TTg (Đồng) nhưng ở ĐH VI t12/1986 đã chỉ giữ được chức TBT cho người của mình là Linh, còn chức TTg phải giao cho phái cấp tiến (của những người miền Nam) là Phạm Hùng. Nhưng t3 năm 1988 Phạm Hùng chết rất bất ngờ khi công tác tại Sài gòn (nghi vấn là do bị Hoa Nam sát hại), nhưng lẽ ra người lên thay phải là phó TTg Võ Văn Kiệt cùng phe Phạm Hùng, thì Mười bất ngờ được chọn (bởi Hoa Nam, kẻ đã giết TTg Phạm Hùng là cho mục đích đó?). Tại sao Hoa Nam chọn Mười? Chỉ vì Mười rất ngu nhưng quá háo danh/háo chức nên dễ điều khiển, có thể mua chuộc nếu cho danh/chức? Thế là kẻ hoạn lợn điên (lợn không bị điên) được Bắc Kinh đặt lên chức Thủ tướng (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng – vẫn theo cách tổ chức chính phủ của Liên xô/Duẩn cũ) từ 1988 là để chuẩn bị thay mặt chính phủ Việt Nam đi bán nước ở Thành Đô? Một lựa chọn hầu như tối ưu của Hoa Nam, tôi nghĩ thế. Kẻ như vậy cho làm TTg VN để hắn bán TQ cho Mỹ hay ngược lại, hắn cũng cam kết sẽ làm… Tóm lại, tác giả đích thực của thỏa thuận bán nước ở Thành Đô, từ cách chọn và chuẩn bị nhân sự đứng đầu của CSVN mấy năm trước đó đến cách đi Thành Đô và ký kết, chính là… Hoa Nam hay đảng CSTQ, qua Chinh và Đồng (có thể Chinh/Đồng/Giáp cũng được tham gia góp ý cách thực hiện, nhưng không phải tác giả hay đồng tác giả), đến Linh và Mười chỉ là hai kẻ ký kết đổ bô mà thôi (dù họ có đổ bô vì cái gì). Chúng ta thấy rõ ràng bóng đen của Hồ trong “cái bô” Thành Đô đó… Chính vì thế mà đến nay hết đời TBT Mười, đến Phiêu, đến Mạnh, rồi đến Trọng… tất cả đều cung cúc tuân thủ và thực hiện thỏa thuận bán nước ở Thành Đô như chúng đang đội trên đầu cái chúng gọi là “Tư tưởng đạo đức Hồ” và “4 tốt 16 vàng” Tàu vậy… Thế là sự nghiệp cướp nước Việt cho Tàu của Hồ được đàn em hoàn tất về thủ tục… Hội nghị Thành Đô 1990 bản chất nó là thế. Tôi không cần phải nói cụ thể cái gọi là Hội nghị Thành Đô đó đã diễn ra như thế nào nữa, các bạn đã biết hay có thể biết chi tiết dễ dàng. Rồi Lịch sử dân tộc ta sẽ còn phải phán xét nó dài dài chứ không chỉ hôm nay chúng ta đang muốn biết rõ nó, phản đối nó, phẫn nộ vì nó…thôi đâu. Nó là sự kiện nhục nhã nhất Lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam ta, vô tiền khoán hậu! Vì chưa bao giờ vua quan Việt Nam kéo nhau trốn dân đi bán nước bằng cả đoàn đại diện đứng đầu đảng cầm quyền mấy triệu người và đứng đầu chính phủ đương nhiệm như thế cả! Cả mấy nghìn năm chỉ lác đác có vài kẻ bán nước như Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống…- đếm chưa hết ngón tay trên một bàn tay, và họ muốn bán nước nhân danh cá nhân họ thôi, nhưng không thành… Điều đáng buồn và đau xót hơn nữa, là sau khi ký thỏa thuận bán nước đó, bọn bán nước vẫn ngấm ngầm thực hiện cam kết bán nước đó suốt 24 năm qua mà dân không biết, vì đảng CSVN không cần/thèm/phải công bố ra cho dân – những kẻ đã bị chúng bán đứng – biết! Có lẽ chúng tính để những kẻ “mua được” dân và nước Việt sẽ thông báo cho dân Việt luôn về “thương vụ” cho tiện! Chúng còn đang lo chước thứ 36: Tẩu! Vì đằng nào thì dân Việt cũng sẽ do bọn người khác ở Bắc Kinh “lãnh đạo” rồi! Và sự thể đã diễn ra đúng như thế, dân Việt được biết nước mình đã được bán cho Tàu cộng từ Tân Hoa xã và Thời báo Hoàn Cầu ở Bắc Kinh, và từ thế giới ảo - Wikileaks… Và những kẻ thực hiện cam kết bán nước Thành Đô Ký xong Hiệp định bán nước cho Tàu cộng ngày 4/9/1990 ở Thành Đô về, Linh không ra ứng cử TBT tiếp vì hối hận (là do tôi suy diễn thế thôi), và Linh đã hối hận suốt 8 năm sau trước khi chết hay không và thế nào thì chỉ có mà…Linh biết. Nhưng việc Linh không muốn làm TBT nữa đã tạo cơ hội cho kẻ thiến heo t6 năm 1991 leo lên “tột đỉnh danh vọng đảng” mà trước đó nếu có phải tự thiến chính mình chắc chắn lão cũng đồng ý làm để được thế. Câu hỏi là tại sao kẻ thiến heo đó may mắn được Hoa Nam chọn?   Câu trả lời khá đơn giản. Là vì Bắc Kinh phải cần những kẻ thực “ngu trung” nhất để thực hiện cam kết bán nước ở Thành Đô đó. Bắc Kinh/Hoa Nam vẫn biết “trung” với CSVN là không thể có, vì CSVN đã bán nước VN cho chúng/Tàu cộng tức CSVN không trung với cả đất nước và dân tộc Việt, thì ai ngu gì mà tin chúng nó/CSVN có thể trung với mình hay với bất kỳ ai. Khái niệm trung thành có lẽ không tồn tại với CSVN. Nhưng ngu thì chúng nhiều kẻ có thừa và Mười là kẻ có thừa nhiều nhất, nên để Mười làm TBT là tốt nhất cho Tàu. Vì còn ai sẽ tích cực thực hiện cam kết bán nước đó hơn kẻ hoạn lợn “rất tự hào đã được ký nó” nữa chứ?   Nhưng nước Việt có mấy ai ngu được cỡ như Mười, nên từ sau Mười, ngoài tiêu chuẩn “ngu không cần trung”, tiêu chuẩn và điều kiện để được Bắc Kinh bổ nhiệm làm TBT đảng CSVN và TTg VN là phải sang Bắc Kinh học thuộc cam kết Thành Đô 1990 và cam kết thực hiện nó trước mặt những kẻ cướp nước ở Bắc Kinh đó, rồi mới được về lên chức và phải thực hiện cam kết. Đến nay thì danh sách các chức vụ của CSVN phải sang Bắc Kinh khấu đầu cam kết bán nước trước đã mở rộng ra cho cả Bộ CT rồi (đến tên Nhân và mụ Ngân ngay sau khi được bổ sung vào BCT cũng phải sang Bắc triều cam kết thực hiện hiệp ước bán nước đó ngay rồi mới về nhận chức vụ mới). Còn gần hai trăm ủy viên TƯ đảng CSVN thì đều phải qua “đào tạo đặc biệt” bên Tàu và cam kết bán nước cho Tàu có ký kết… Rồi chúng triển hai cam kết bán nước đó trá hình trong dạng thực hiện phương châm 4 tốt, 16 chữ vàng đã suốt một phần tư thế kỷ nay, qua ĐH-VII 1991 đến ĐH-XI 2011, và sáp tới là ĐH-XII 2016… Thời hạn chót cho CSVN thực hiện xong cam kết bán nước, biến VN thành tỉnh tự trị của Tàu trong vòng 30 năm đã tới gần, đến 2020, chỉ còn một đợt “bàn và giao nhiệm vụ” bán nước của đảng ở ĐH-XII 2016 nữa thôi… Vài điều dự kết, hay: dân Việt ta tính sao đây? Thế là nó là thế rồi! Thế là chúng bán nước rồi ! Dân Việt ta biết tính sao đây !? Ai có thể sửa chữa, thay đổi, khắc phục hậu quả của thỏa thuận bán nước Thành Đô? Đó là nhân dân Việt Nam, và chỉ có thể là nhân dân Việt Nam. Tất nhiên, cụ thể về tổ chức, đó không thể là đảng CSVN hay tổ chức nào tương tự nó, con cháu nó, cánh tay nối dài hay hình bóng “ve sầu” của nó. Về cá nhân, đó không thể là những người đã từng tham gia tạo nên nó hay chấp nhận nó, giấu diếm nó, thực thi nó, đồng lõa với nó… vì bất cứ lý do gì – tức là tất cả bè lũ chóp bu của đảng CSVN từ 1990 đến nay, rồi tất cả bè lũ đảng viến cấp cao, cấp trung, cấp thấp đã và đang giấu diếm và thực thi thỏa thuận bán nước đó ở mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam hôm nay. Vì thế, đã nhiều lần tôi nói, chúng ta không thể hy vọng gì vào các lãnh đạo hay đảng viên CSVN “phản tỉnh” nếu họ còn bảo vệ đảng, bảo vê “Bác” – tức là còn bảo vệ Thỏa thuận Thành Đô hay công hàm PVĐ 1958. Nếu có, thì chúng ta có thể, chỉ có thể thôi, tin tưởng và hy vọng vào những cán bộ đảng viên cấp trung đến cấp thấp, như thiếu tương Lê Duy Mật, vì họ không dính vào không tham gia thực hiện những chủ trương bán nước của đảng như Thành Đô hay công hàm PVĐ, và vì họ nay không bảo vệ đảng và Bác “nữa” mà chỉ vì dân tộc trên hết – cái đặc tính thứ hai này mới là quyết định. Sửa chữa hay vượt qua thỏa thuận bán nước ở Thành Đô của CSVN như thế nào? Câu hỏi này thực là quá sức trả lời của tôi, dù là một cá nhân phản đối nó và sẽ không bao giờ thực hiện nó. Nó là câu hỏi lớn và vô cùng khó của cả dân tộc Việt Nam hôm nay, đầu thế kỷ 21 này, lớn và khó hơn cả việc vượt qua công hàm bán nước PVĐ. Trả lời nó là chúng ta phải quyết định đi liền hành động, với tư cách cả một dân tộc, chọn đi theo con đường nô lệ Bắc Kinh hay đi lên con đường Tự do dân chủ như đại đa số (trên 80%) các nước trên Thế giói này đang đi lên, mà dẫn đầu là các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada, Úc… và hàng trăm quốc gia khác đều thịnh vượng hơn Việt Nam nhiều nữa. Câu trả lời là của cả các bạn, cả của tôi, là của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng nhất định dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua nó để giữ gìn độc lập tự do của đất nước, như cha ông, Tổ tiên chúng ta đã làm bất lực các thỏa thuận bán nước của Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống ngày xưa! Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, hay cùng nhau đứng lên nói “Không! Không bao giờ!” với thỏa thuận bán nước ở Thành Đô 1990 của CSVN, Việt Nam ơi! Phan Châu Thành Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
......

Tường trình buổi làm việc với Báo cáo viên LHQ về tự do tôn giáo

Vĩnh Long – Ông Heiner Bielefeldt – Báo Cáo Viên Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc về Tự Do Tôn Giáo hoặc Tín Ngưỡng, cùng phái đoàn đến thăm viếng Tín Đồ Cao Đài Độc Lập tại tư gia Chánh Trị Sự Nguyễn Kim Lân, tỉnh Vĩnh Long. Kính thưa quí vị! Vào lúc 1g30 trưa chủ nhựt ngày 27-07-2014, phái đoàn của LHQ về Tự Do Tôn Giáo, có đến tại tư gia của Chánh Trị Sự Nguyễn Kim Lân để thăm viếng những tín đồ Cao Đài độc lập, không chịu dưới hệ thống quản lý của nhà nước CSVN.   Phái đoàn đi gồm có 5 vị: 1-Ông Heiner Bielefeldt –Người Đức – Trưởng Đoàn, ông là một chuyên gia độc lập do Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm, với nhiệm vụ Báo Cáo Viên Đặc Biệt về Tự Do Tôn Giáo hoặc Tín Ngưỡng. 2-Cô Chian Yew Lim – Người Malaysia – Phó đoàn 3- Ông Pokpong Lawansiri – Người Thái Lan 4- Cô Hương, cô Hoa – Người Việt Nam – Thông dịch viên. Về phía đạo có: 1-Chánh Trị Sự Hứa Phi – Trưởng Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài (BĐDKNSĐCĐ) -  Thành viên Hội Đồng Liên Tôn VN (HĐLTVN). 2- Chánh Trị Sự Nguyễn Kim Lân – Q.Đầu Tộc Đạo Châu Thành Vĩnh Long –kiêm phó BĐDKNSĐCĐ- Thành viên HĐLTVN. 3- Nữ Chánh Trị Sự Nguyễn Bạch Phụng Q.Nữ Đầu Tộc Đạo Châu Thành Vĩnh Long- kiêm Từ Hàn BĐDKNSĐCĐ- Thành viên HĐLTVN. 4- Chánh Trị Sự Nguyễn Thành Nghiệp – Thành viên BĐDKNSĐCĐ   5- Toàn thể Chức Việc, Tín Đồ Cao Đài độc lập Châu Đạo Vĩnh Long. (Gồm  37 người). Mở đầu buổi làm việc ông Heiner Bielefeldt phát biểu: – Cảm ơn bổn đạo đã tiếp đón chúng tôi một cách nồng hậu, chúng tôi đến có trể, bà con chờ quá lâu, nên chúng ta bắt đầu làm việc. Chánh Trị Sự Hứa Phi: Để lời chúc mừng đoàn và giới thiệu hai vị đại diện phát biểu ý kiến là CTS Nguyễn Kim Lân và nữ CTS Nguyễn Bạch Phụng.   Huyền huynh Kim Lân, thay mặt Tộc Đạo Vĩnh Long chào mừng Ngài Heiner Bielefeldt cùng phái đoàn, đã không ngại đường xa cách nửa vòng trái đất đến thăm viếng Tộc Đạo nhỏ bé của chúng tôi, làm cho chúng tôi vô cùng xúc động và cảm thấy ấm lòng sau những tháng năm bị bách hại, đàn áp khốc liệt của nhà cầm quyền CSVN đối với Đạo Cao Đài độc lập chúng tôi nói riêng, và các nền tôn giáo độc lập khác nói chung, nay đã được sáng tỏ trước LHQ. Hiền huynh Kim Lân nêu lên Đạo nạn của Tộc Đạo VL kể từ năm 2000 cho đến nay 2014. - Ngày 23-03-2000 chính quyền, công an tỉnh VL dùng áp lực cưỡng chiếm lấy Thánh Thất VL. Chức Sắc, Chức Việc, Tín Đồ về tu tại gia. Do không theo HĐCQ nên bị chính quyền, công an theo dõi, đàn áp, khống chế liên tục mỗi khi Thượng Tượng thờ Thượng Đế, Cầu Siêu, hội họp, đám giỗ…(Chúng tôi kèm theo chứng cứ đầy đủ). - Từ khi rời khỏi Thánh Thất VL đến nay, CTS Kim Lân và CTS Bạch Phụng bị  chính quyền, công an đưa thư mời áp lực lên cơ quan chính quyền để công an điều tra, trên dưới 20 lần (kèm theo thư mời). - Hiện tại nhà nước dùng Nghị Định 92 ép buộc chúng tôi cùng các tôn giáo độc lập khác như: PGVNTN, Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo phải đăng ký xin phép, không đăng ký thì họ khống chế, đàn áp, đánh đập, sách nhiểu, lập biên bản… - Chính quyền, công an ép chúng tôi phải tùng theo Cao Đài quốc doanh do họ dựng lên. Cụ thể: Đồng đạo xin phép chính quyền để hành lễ Thượng Tượng thì họ bảo phải đến Cai Quản Thánh Thất xin phép, Cai Quản cho thì nhà nước mới cho cúng. Hiến Chương của chúng tôi năm 1965 và Hiến Chương 2007 của HĐCQ hoàn toàn khác nhau: -       Hiến Chương 1965 do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chứng nhận và hành đạo theo Hiến Chương của đạo. -       Hiến Chương 2007 của HĐCQ do nhà nước CSVN chứng nhận, hành đạo theo luật pháp nước CHXHCNVN (Chúng tôi tặng cho đoàn 2 Hiến Chương). Chúng tôi CTS Hứa Phi, Kim Lân, Bạch Phụng tham gia HĐLTVN luôn bị công an Phường, Tỉnh, Bộ, Cục làm việc buộc chúng tôi không được tham gia,vì luật pháp nhà nước không cho phép. Mỗi lần họp HĐLT tại Dòng Chúa Cứu Thế – Sài Gòn, công an đóng chốt canh giữ không cho đi, một số thành viên trong HĐLT đều bị y như vậy. Hiền Tỷ Nữ CTS Nguyễn Bạch Phụng phát biểu: A - sơ lược vài nét về Đạo cao Đài do Thượng Đế sáng lập bằng huyền diệu cơ bút (Thần Linh Học) để con người thông công với Thượng Đế, tức Trời – Người hiệp nhứt, Trời – Người đồng trị. - Thượng Đế dùng Thần Linh Học để lập Đạo, lập Giáo và phong phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế cho con cái của Ngài nên gọi là Chức sắc Thiên Phong. - Thượng Đế lập ra Hội Thánh làm thánh thể của Ngài, lập cơ quan Hành Chánh Đạo 5 cấp để phổ truyền nền chơn giáo tận độ nhân loại.   B - Tại sao Đạo Cao Đài bị giải thể, bị đàn áp? Trước 30-04-1975 Chức Sắc, Chức Việc, Đạo Hữu Đạo Cao Đài bị Việt Minh cộng sản giết gần 100.000 người. Sau 30-04-1975 Chức Sắc, Chức Việc, Đạo Hữu bị giết, bị tù, đánh đập vì đấu tranh cho tự do tôn giáo  gồm có:     Về Chức Sắc: 1-      Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) bị đảng CSVN bắt năm 1975 thủ tiêu mất tích. 2-      Ngài Tiếp Dẫn Đạo Nhơn nguyễn Văn Hợi bị bắt 1976 – 4 năm tù giam. 3-      Ngài Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Kiết bị bắt 1976 – 4 năm tù . 4-      Ngài Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt bị bắt 1976 – 4 năm tù 5-      Ngài Giám Đạo Trần Thanh Danh bị bắt 1981 – 5 năm tù 6-      Trưởng huynh Thừa Sử Lê Quang Tấn bị bắt 1976 – 9 năm tù 7-      Sĩ Tải Phùng Văn Phan từ năm 1979 – 1981, 3 lần bị bắt – 2 năm tù     Về Chức Việc , Đạo Hữu:   1-      Phó Trị Sự Võ Văn Liêm bị bắt 1996 – 1 năm tù 2-      Phó Trị Sự Phạm Công Thiện bị bắt 1999 – 1 năm tù 3-      Nữ Phó Trị Sự Lê Kim Biên bị bắt 1999 – 3 năm tù 4-      Thông Sự Đặng Văn Đáo – bị bắt 2001 – 6 tháng tù giam, 3 năm tù treo, 2 năm quản chế. 5-      Đạo Muội Võ Thị Nguyên bị bắt 2002  – 3 năm 8 tháng tù giam. 6-      Đạo Muội Nguyễn Thị Phận bị bắt 2002 – 1 năm tù 7-      Đạo Muội Nguyễn Thị Búp bị bắt 2001 – 1 năm tù 8-      Đạo Muội Nguyễn Thị An  bị bắt 2001 – 1 năm tù 9-      Chánh Trị Sự Hứa Phi bị bắt 1980 – 1 tháng tù giam, 2 năm quản chế. 10-  Cựu Chánh Trị Sự Nguyễn Anh Phong bị bắt 2001- 3 năm tù Sau khi Chức Sắc bị giết, bị tù, đảng CSVN  tìm cách diệt Đạo Cao Đài, họ cho rằng cơ cấu Hành Chánh Đạo 5 cấp quá chặt chẽ tức là“Đạo Cao Đài lập một nước trong một nước”, vì vậy đó cũng là nguyên do để họ đi đến tiêu diệt. -Năm 1978 Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây Ninh ban hành Bản Án Cao Đài, kết tội Đức Giáo Chủ Phạm Công Tắc. - Năm 1979 ĐCSVN áp lực Chức Sắc ký tên ban hành Thông Tri 001 ngày 12-02-1979 và Đạo Lịnh 001 ngày 01-03-1979 với mục đích: - Xóa cơ bút (Xóa Thần Linh Học)không cho Hội Thánh thông công với Thượng Đế. - Giải thể Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh – Giải thể cơ cấu Hành Chánh Đạo 5 cấp từ trung ương tới địa phương. - Toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị vật tư, lương thực, tài chính, động sản, bất động sản của đạo nhà nước tịch thu, quản lý. - Nhà nước CSVN dựng HĐCQ lên, Chức Sắc nào không tùng theo HĐCQ thì buộc về tu tại gia. - Đảng CSVN tiếp tục ra nhiều văn bản để tiêu diệt Đạo cao Đài.Trong đó có 11 văn bản (Chúng tôi đã cung cấp cho đoàn). - Năm 1997 đảng CSVN cấp Pháp Nhân cho HĐCQ chính thức lập một chi phái mới “Cao Đài Tây Ninh” hoàn toàn dưới sự lãnh đạo của đảng. - Từ đó Nghị Định, Pháp Lệnh Tín Ngưỡng ra đời để diệt những tín đồ Cao Đài độc lập không chịu dưới sự lãnh đạo của họ, nên bị đàn áp, đánh đập, sách nhiểu liên tục.(có hình ảnh minh họa) Trước 30-04-1975 Đạo Cao Đài có trên 300 Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu, sau 30-04-1975 nhà nước và HĐCQ chiếm lấy hết, chỉ còn 18 thánh Thất và 6 Điện Thờ. Từ 2010 đến nay nhà nước tiếp tục cưỡng chiếm lấy thêm 3 Thánh Thất nữa: - TT Định Quán – Tỉnh Đồng Nai - TT Phù Mỹ – tỉnh Bình Định - TT Long Bình – tỉnh Tiền Giang Những đồng đạo bị đánh trọng thương như: 1 -      Chánh Trị Sự Hứa Phi – tỉnh Lâm Đồng 2 -      CTS Nguyễn Nhơn – tỉnh Bình Định 3 -      Phó Trị Sự Nguyễn Công Trứ – Bình Định (Bị người của HĐCQ dùng dầu lửa đổ lên đầu định đốt cháy, nhưng người của họ cản ngăn) 4 -      Phó Trị Sự Lê Thị Kẹt – Tiền Giang 5 -      Đạo Hữu Nguyễn Văn Em – Tiền Giang.   Và nhiều người khác bị thương. C - Hiện nay tín đồ Cao Đài độc lập tu tại gia gặp rất nhiều khó khăn: Chính bản thân tôi ngày 26-03-2014, Quốc Hội Hoa Kỳ mời Điều Trần trước Ủy hội Nhân Quyền Tom Lantos, tôi bị công an vây hai đầu đường vào nhà canh giữ trong 7 ngày. Ngày Điều Trần, họ cắt internet, cắt điện nhà. Hiện nay công an túc trực hằng ngày theo dõi, đặc biệt mỗi lần họp HĐLTVN thì công an khống chế, cản trở không cho chúng tôi đến DCCT. Họp hội tại nhà 2 tháng một lần cũng bị cản ngăn, sách nhiểu đòi lập biên bản và buộc phải ngưng cuộc họp. D - Kết luận: – Việt Nam thật sự không có tự do tôn giáo và tín ngưỡng -       Đối với LHQ, Việt Nam hứa hẹn đủ điều tôn trọng Nhân Quyền, có Tự Do Tôn Giáo, nhưng đối với người dân thì họ đàn áp tàn nhẫn, khống chế bằng Nghị Định, Pháp Lệnh, Pháp Luật…   -       Chúng tôi yêu cầu HĐNQLHQ giúp cho dân tộc Việt Nam chúng tôi có bộ luật Nhân Quyền càng sớm để bảo vệ người dân.   -       Chúng tôi yêu cầu Báo Cáo Viên Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc về Tự Do Tôn Giáo hoặc Tín Ngưỡng, hãy thường xuyên đến thăm các tôn giáo độc lập tại Việt Nam, để xác minh cụ thể và có biện pháp bảo vệ họ. -       Yêu cầu nhà cầm quyền CSVN, hãy trả tự do cho các tù nhân lương tâm đấu tranh cho Dân Chủ, Nhân Quyền, và Tự Do Tôn Giáo. -       Yêu cầu nhà cầm quyền CSVN hãy rút những người của họ ra khỏi nội ô Tòa Thánh Tây Ninh, trả lại chủ quyền , tài sản cho Đạo Cao Đài độc lập dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.   Sau khi chúng tôi trình bày về sự thật Đạo Cao Đài bị nhà nước CSVN bách hại và tiêu diệt từ sau 1975 đến nay. Ông Heiner Bielefeldt phát biểu: Cuộc gặp gỡ giữa đoàn chúng tôi với quí vị, chính phủ Việt Nam đã đồng ý. Sau cuộc gặp nầy, nếu công an đến sách nhiểu thì quí vị hãy báo cho chúng tôi, sự việc gì cũng phải cung cấp cho chúng tôi cụ thể, ví dụ có Thư Mời, hình ảnh… Đoàn tiếp tục đặt những câu hỏi chất vấn. Trưởng đoàn LHQ hỏi:  Tại Vĩnh Long có bao nhiêu người Cao Đài độc lập? cả nước có bao nhiêu Cao Đài độc lập?   Hiền Tỷ CTS Bạch Phụng trả lời: Trước 30-04-1975 Đạo Cao Đài có trên 5 triệu tín đồ, sau 1975 do đạo mất chủ quyền nên không ước tính được, nhiều tín đồ không theo HĐCQ ở nhà, do sợ hãi cường quyền.Riêng Tộc Đạo Châu Thành VL hiện nay còn trên 30 tín đồ Cao Đài độc lập.   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Khi trình bày, quí vị nói rằng nhà nước ép buộc theo Cao Đài quốc doanh, diễn ra hình thức như thế nào? Có trường hợp nào ép buộc đồng đạo phải bỏ đạo không?   Chánh Trị Sự Hứa Phi trả lời:- HĐCQ đã khai trừ Chức sắc, Chức Việc  như Trưởng Huynh Thừa Sử Lê Quang Tấn, Giáo Hữu Ngọc Á Thanh, Hiền Tài Hồ Văn Nhường, Lễ Sanh Thái Kim Thanh, CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch Phụng và nhiều Chức sắc, Chức Việc khác ra khỏi đạo do không phục tùng HĐCQ của nhà nước. - Họ ép buộc chúng tôi tùng theo Nghị Định 92, phải đăng ký xin phép chịu dưới sự lãnh đạo của đảng, họ mới cho cúng lễ, hoặc hội họp…chưa thấy có trường hợp ép bỏ Đạo Cao Đài đi theo đạo khác mà  chỉ thấy ép chúng tôi bỏ Đạo Cao Đài của Thượng Đế để theo Đạo Cao Đài quốc doanh. - Không đăng ký thì họ khống chế, đàn áp, sách nhiểu lập biên bản, mời lên cơ quan chính quyền để công an tra hỏi.   - Còn xin phép chính quyền để cúng lễ thì họ bảo phải đến Ban Cai Quản Thánh Thất xin phép, họ mới cho cúng.   - Chính quyền, công an hỗ trợ cho HĐCQ cưỡng chiếm lấy Thánh Thất, họ dùng côn đồ rạch mặt đồng đạo, dùng đá chọi, dùng dùi cui đánh đập một số đồng đạo bị trọng thương phải nằm viện.   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Khi trao đổi với cơ quan chính quyền họ nói rằng không đăng ký mà hoạt động là bất hợp pháp?   Chánh Trị Sự Kim Lân: Nếu nhà nước không can thiệp vào nội bộ tôn giáo, lãnh đạo, điều khiển tôn giáo thì chúng tôi sẽ báo cho họ biết, còn ở đây nhà nước đã giải thể Hội Thánh chúng tôi lập ra HĐCQ là một chi phái bàn môn tả đạo, rồi ép buộc chúng tôi đăng ký theo chi phái nầy, chúng tôi nhứt quyết không theo. Đạo chúng tôi đã có Hiến Chương, Pháp Nhân từ năm 1965, tôi xin đưa ra 2 Hiến Chương để quí đoàn nhận định.   - Hiến Chương 1965 do chính phủ VNCH chứng nhận để làm theo Hiến Chương của Đạo. - Hiến Chương 2007 của nhà nước CSVN chứng nhận để làm theo luật pháp của nước CHXHCNVN.     Ông Trưởng đoàn và quí vị trong đoàn cười xòa và rất tâm đắt.   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Chính quyền nói chỉ cần thông báo là cho sinh hoạt tôn giáo? Không nhứt thiết phải đăng ký có đúng không?Và việc mâu thuẩn của tôn giáo chính quyền không xen vào?   CTS Kim Lân trả lời: Chúng tôi đã thông báo rồi, nhưng họ bảo phải đến Ban Cai Quản Thánh Thất xin phép, họ đồng ý thì chính quyền mới cho cúng. Nhà nước nói một đường, làm một nẽo. Việc mâu thuẩn tôn giáo là do chính họ tạo ra, rồi xen vào nội bộ tiêu diệt đạo chính thống của chúng tôi nên mới có sự phân hóa ngày nay.   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Chúng tôi nghe nói người Cao Đài độc lập quấy rối, quí vị hiểu như thế nào về ý nghĩ nầy?   CTS Hứa Phi: Người quấy rối chính là chính quyền, công an chứ không phải chúng tôi, vì họ dựng HĐCQ lên bắt buộc chúng tôi theo, không theo thì họ cho là quấy rối. Chúng tôi ngồi cầu nguyện, cúng lễ, hội họp… một cách hòa bình, họ lại kéo đến đủ các ban ngành công an, chính quyền khủng bố, đánh đập chúng tôi (minh họa một số hình ảnh đồng đạo bị đánh ).   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Chính quyền có yêu cầu chúng ta đăng ký dưới dạng khác mà không hợp tác với HĐCQ không?   CTS Bạch Phụng: Chính quyền chỉ áp dụng Nghị Định 92 buộc chúng tôi phải đăng ký, xin phép, nhưng dù đăng ký dưới bất cứ hình thức nào khi mà đất nước chúng tôi chưa có dân chủ, tự do, nhân quyền bị chà đạp, chủ quyền, tài sản của các tôn giáo, nhà nước còn quản lý, tù nhân lương tâm còn giam cầm, thì không thể nào nói có tự do tôn giáo được. (Trưởng đoàn cười và gật đầu tỏ ý hài lòng)   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Xin quí vị cho biết thêm về chữ “cải tạo Đạo Cao Đài”?   CTS Hứa Phi: Cải tạo có nghĩa là sửa đổi, thay cũ đổi mới theo đường lối XHCN.   Trưởng đoàn LHQ hỏi: Tôi thấy ở đây sao ít thanh niên?   CTS Kim Lân: Do sự đàn áp, sách nhiểu của chính quyền, công an, các em sợ hãi, ảnh hưởng việc học hành, phần do đạo mất chủ quyền không có cơ sở để đào tạo thế hệ trẻ.   Trưởng đoàn LHQ nói: Tôi rất cảm kích tinh thần của quí vị khi gặp những rủi ro, trong báo cáo của tôi, tôi phải làm cho tôn giáo hoạt động bình thường, tôi sẽ dành riêng cho vấn đề tôn giáo Cao Đài độc lập, điều nầy chính quyền sẽ không thích. Xin cảm ơn quí vị,  nhờ sự cởi mở, lòng dũng cảm của quí vị, tôi sẽ đưa ra HĐNQLHQ, tôn giáo phải được độc lập hoạt động (đồng đạo vỗ tay). Ông Trưởng đoàn nói chính quí vị mới xứng đáng với tràn vỗ tay nầy, thứ năm tới đây tôi sẽ trình bày kết quả sơ bộ trong cuộc họp báo công khai lúc 12g trưa ngày 31-07-2014 tại Hà Nội. Tôi sẽ công bố bằng Tiếng Việt về các báo cáo nầy, theo nguyên tắc báo cáo, tôi không đề cập cụ thể, tôi phải đưa ra Nghị Định 92, Pháp Lệnh Tín Ngưỡng, Bộ Luật Hình Sự liên quan đến tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Các tổ chức tôn giáo cần có cơ hội hoạt động tự chủ đó là nguyên tắc của tự do tôn giáo, tôi sẽ phản ảnh những điều nầy (Đồng đạo vỗ tay). Tôi xin phép nhắc lại một điều quan trọng là tôi sẽ làm rõ thông tin sơ bộ, khuyến nghị sơ bộ chưa phải là báo cáo chính thức. Trưởng đoàn LHQ nói: Cuộc gặp gỡ hôm nay, chúng tôi học hỏi ở quí vị rất nhiều. Nếu quí vị có phân tích Hiến Chương giữa hai sự khác biệt xin cho chúng tôi để tham khảo. Cô Chian Yew Lim hỏi: Cao Đài quốc doanh đối với quí vị như thế nào? CTS Hứa Phi: Cao Đài quốc doanh họ được nhà nước bảo hộ, họ dựa thế chính quyền để huy hiếp chúng tôi, tuy bất đồng quan điểm nhưng chúng tôi đối xử với họ trong tình anh em, trong tình thương con người mà Thượng Đế đã dạy. Cô Chian Yew Lim hỏi: Đôi khi làm lễ những ai đó giữa Cao Đài quốc doanh và Cao Đài độc lập có tranh giành làm lễ không? Phó Trị Sự Nguyễn Văn Vĩnh trả lời: Việc tranh giành là do Cao Đài quốc doanh, họ tranh giành lấy TT của chúng tôi, có những nơi họ còn đánh đập đồng đạo giành giựt cúng lễ. Chúng tôi đề nghị phái đoàn LHQ can thiệp để chúng tôi có quyền tự do tín ngưỡng. Trưởng đoàn LHQ nói: Để đáp lại lời của anh, trong chuyến đi nầy tôi sẽ chuẩn bị báo cáo chính thức vào tháng 3 năm 2015, tôi sẽ trình bày trước HĐNQLHQ. Báo cáo nầy là tài liệu tham khảo trong HĐNQLHQ, tài liệu nầy có sức mạnh chính trị mà tôi muốn làm rõ ở đây. Bản báo cáo nầy rất có ích nhưng hành động thay đổi chính là do chúng ta. Tôi rất mừng vì báo cáo của tôi sẽ giúp cho các tôn giáo độc lập được tự do. (đồng đạo vỗ tay). Tôi nhắc lại, sau chuyến thăm nầy, quí vị có gặp những khó khăn, trở ngại xin cho chúng tôi biết, chính quyền không được can thiệp, đe dọa. Cô Chian Yew Lim hỏi: Theo luật đạo là Chức Việc không được đi qua Hương Đạo khác hành đạo có đúng không? CTS Nguyễn Bạch Phụng trả lời: Chức Việc gồm có 3 phẩm cấp: - Chánh Trị Sự: Làm đầu một Hương Đạo - Phó Trị Sự và Thông Sự làm đầu một Ấp Đạo, không được lấn ranh, lạm quyền qua hương khác để Hành Chánh Đạo, còn việc cúng lễ thìchung sức cùng các hương đạo để lo. Cao Đài quốc doanh cho rằng chúng tôi đi địa phương hành chánh đạo là sai, chúng tôi lập ra BĐDKNSĐCĐ là để kêu gọi đồng đạo các địa phương chung sức cùng nhau để đòi lại đạo quyền, chứ không phải tham gia hành chánh đạo địa phương. Nội qui của BĐDKNSĐCĐ là tuyệt đối không được can thiệp vào hành chánh địa phương, khi nào đồng đạo hỏi thì chúng tôi có quyền góp ý mà thôi. Hành Chánh Đạo Cao Đài có 5 cấp: -               Cấp Trung Ương: Là Cửu Viện Tòa Thánh Tây Ninh -               Cấp Khâm Trấn Đạo: Gồm nhiều tỉnh -               Cấp Khâm Châu Đạo: Gồm 1 tỉnh -               Cấp Tộc Đạo: Gồm 1 Huyện -               Cấp Hương Đạo: Gồm 1 Xã Nhà nước CSVN đã giải thể 5 cấp hành chánh đạo, do vậy chúng tôi muốn đòi lại chủ quyền nầy, thì buộc phải lập ra BĐDKNS để đi ra khỏi địa phận mình, mà không bị vi phạm hành chánh đạo.Sau nầy khi Hội Thánh được phục quyền, BĐDKNS sẽ giải tán. Ông Heiner Bielefeldt và cô Chian Yew Lim gật đầu, tỏ ý hiểu và hài lòng. Cô Chian hỏi tiếp: Vai trò của Nam – Nữ trong đạo ra sao? CTS Hứa Phi: Vai trò Nam – Nữ trong đạo bình đẳng về phẩm vị nhưng quyền hành thì nam Chánh, nữ Phó. Hành chánh đạo nam nữ riêng biệt, Nữ phái phẩm cấp chỉ tới Đầu Sư, còn nam phái hơn nữ phái 2 cấp là Chưởng Pháp và Giáo Tông. Ông Heiner Bielefeldt trân trọng cảm ơn lòng hiếu khách và sự cởi mở của quí vị, cả đoàn của chúng tôi học hỏi rất nhiều, vấn đề chung hôm nay quá rõ ràng, để kết thúc, chúng tôi cảm ơn quí vị, chúc quí vị an bình, tự do. CTS Hứa Phi đề nghị: HĐNQLHQ hãy dùng ảnh hưởng của mình buộc nhà nước CSVN phải trả lại chủ quyền của đạo, trả lại tài sản của đạo dưới sự giám sát của LHQ. - Chấm dứt việc đàn áp tín đồ Cao Đài độc lập và các nền tôn giáo độc lập khác trong nước. -Yêu cầu nhà nước CSVN phải thả các tù nhân lương tâm đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo. -Yêu cầu nhà nước CSVN chấm dứt việc tra tấn hành hạ tù nhân một cách tàn nhẫn, những điều Việt Nam ký kết với LHQ phải nghiêm chỉnh thi hành. Sau khi làm việc xong,CTS Hứa Phi tặng cho đoàn Bản Cương Lĩnh về Chính Sách Hòa Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, và đồng đạo chụp hình cùng đoàn để lưu niệm, dùng tiệc chay thân mật với Tộc Đạo Châu Thành Vĩnh Long. Ông Heiner Bielefeldt cùng đoàn viếng thăm phủ thờ H/H Lễ Sanh Thái Kim Thanh, và đồng đạo chúng tôi tiển đưa phái đoàn ra xe về lúc 5g chiều cùng ngày trong niềm vui lưu luyến, và đầy hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Kính Nữ Chánh Trị Sự Nguyễn Bạch Phụng Nguồn: VRNs
......

Cựu TNLT Chu Mạnh Sơn phản đối việc làm sai trái của công an xã Phúc Thành

Nghệ An - Cựu tù nhân lương tâm (CTNLT) Chu Mạnh Sơn lên án: “Công an Trần Văn Công, phó công an xã Phúc Thành [nơi anh Sơn cư trú] đã tự ý ghi biên bản lời khai và yêu cầu tôi ký vào [biên bản đó]. Công an tự ý ghi vào biên bản lời khai với những nội dung không đúng câu trả lời của người được hỏi. Không lẽ bộ máy làm việc của cả một hệ thống công an đều làm như vậy khi hỏi cung bị can, bị cáo??? Câu trả lời đó dành cho tất cả mọi người tự suy đoán và những ai đã trải qua chốn lao tù.”   Chiều ngày 28.07.2014, tại UBND xã Phúc Thành, huyện Yên Thành – Nghệ An, CTNLT Chu Mạnh Sơn có buổi làm việc với công an tên Công – yêu cầu anh Sơn khai báo các hoạt động từ ngày 22 – 25.07.2014. CTNLT Chu Mạnh Sơn kể lại: “công an Công hỏi: trong thời gian từ ngày 22 – 25.07 cháu đã ở đâu? Làm gì? Và yêu cầu cháu ghi rõ vào bản tự khai. Tôi trình bày lại sự việc như sau: vào lúc 22g00 ngày 21.07, tôi bắt xe đi Hà Nội. Đến 07g00 ngày 22.07 tôi có mặt tại Hà Nội như dự định. Trong thời gian ở Hà Nội, tôi đã làm những việc như sau: Thứ nhất, vào lúc 07g30’ ngày 22.07, theo lời mời của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp Quốc (LHQ) về tự do tín ngưỡng Tôn Giáo, tôi đã tới gặp họ tại địa chỉ số 17, đường Trần Hưng Đạo. Nội dung tôi trao đổi là trình bày những điều mà tôi đã chứng kiến, trải qua trong suốt thời gian trước khi, trong khi tôi bị bắt và sau khi mãn hạn tù. Tôi làm việc với Họ đến 08g45’kết thúc. Thứ hai, vào lúc 10g30’ cùng ngày, tôi đến gặp Đại sứ quán Hoa Kỳ theo lời mời của họ, tại đường Cát Linh, Hà Nội. Tôi gặp Bà Jennifer – Đặc phái viên nhân quyền của Quốc Hội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tôi đã trình bày những sự thật mà tôi đã chứng kiến, trải qua trong suốt thời gian trước khi, trong khi ở Tù và sau khi mãn hạn tù. Phía bà Jennifer đã tiếp nhận những thông tin mà tôi đã cung cấp và hứa sẽ đàm phán với [nhà cầm quyền] Việt Nam, để cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Khoảng 11g30’ cùng ngày thì cuộc gặp của chúng tôi kết thúc. Sau đó, tôi đến Bến xe Nước Ngầm, đón xe về Nghệ An. Khoảng 20 giờ ngày 22.07, tôi có mặt ở nhà tôi.” CTNLT Chu Mạnh Sơn kể tiếp: “Sau khi tôi ghi biên bản tự khai [với nội dung trên], công an Trần Văn Công liền lấy biên bản ghi lời khai và bắt đầu hỏi tôi: “Anh Sơn hãy khai báo rõ ràng trong khoảng thời gian từ ngày 22 – 25.07 anh đã đi đâu?” Yêu cầu anh Sơn hãy khai báo rõ mục đích của việc đi ra Hà Nội để giải quyết vấn đề gì? Anh đã gặp ai?”. Nội dung CTNLT Chu Mạnh Sơn hồi đáp với công an Công như những gì anh đã viết trong biên bản kể trên. Sau đó, “công an Công tiếp tục hỏi: yêu cầu anh Sơn trình bày rõ quan điểm, việc bản thân tự đi khỏi địa phương xã Phúc Thành ra Hà Nội không xin phép tạm vắng trong thời gian anh đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cú trú là đúng hay sai?” Tôi đáp lại như sau: “Tôi đi Hà Nội là để trình bày những sự thật mà trong suốt thời gian tôi đã trải qua cho phái đoàn Liên Hợp Quốc và tất cả mọi người trên thế giới biết sự thật. Theo tôi nhận định điều tôi làm không sai trái với lương tâm và công ước Quốc Tế mà Việt Nam đã ký kết”. Thế nhưng, công an Công lại yêu cầu tôi là: “anh chỉ trả lời, có hay không sai trái với pháp luật Việt Nam?”. Tôi liền bảo: “Câu hỏi này tôi có quyền không phải nói rõ mục đích như ý của chú và câu trả lời vừa nêu trên là thể hiện rõ quan điểm của bản thân tôi. Còn mọi thứ theo chú tự xét đoán.” Thế là ông Công tự ghi vào biên bản như sau: “việc tôi rời khỏi địa phương không xin phép tạm vắng là sai với quy định pháp luật Việt Nam.” Cuối cùng công an Công bảo tôi ký vào biên bản lấy lời khai trên. Nhưng tôi quả quyết: “Nếu chú xóa bỏ câu “việc tôi rời khỏi địa phương không xin phép tạm vắng là sai với quy định pháp luật Việt Nam”, thì cháu sẽ ký vào biên bản vì câu đó không phải là cháu nói mà chú tự ghi vào biên bản nên cháu không ký.” Công an Công đã không xóa câu viết trên và bảo tôi hãy ký vào biên bản ghi lời khai, vì vậy tôi đã kiên quyết không ký vào biên bản ghi lời khai trên. Sau khi đôi co một hồi, công an Công lại lấy ra một Biên Bản với nội dung như sau: “kể từ nay về sau (trong khoảng thời gian bị quản chế) nếu bản thân có nhu cầu đi khỏi địa phương Xã Phúc Thành phải trực tiếp đến công an xã Phúc Thành để xin phép tạm vắng; Nếu anh Sơn không chấp hành hoặc có ý làm trái thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm theo quy định của pháp luật.” Công an Công yêu cầu tôi ký vào đó.” CTNLT Chu Mạnh Sơn bị nhà cầm quyền kết án 30 tháng tù giam với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN VN” theo Điều 88 BLHS. Anh bị bắt vào ngày 02.08.2011, tại Nghệ An, cách đây đúng 3 năm. Trong những ngày bị giam cầm trong trại giam, CTNLT Chu Mạnh Sơn cùng với những người bạn gồm anh Trần Minh Nhật, anh Trần Hữu Đức, anh Hồ Văn Oanh (đã mãn hạn tù), anh Nguyễn Văn Thanh (đã mãn hạn tù) cùng chí hướng và bị giam cùng phòng, đã nhiều lần làm đơn tố cáo cán bộ trại giam vi phạm Quyền tự do Tôn giáo cũng như xúc phạm đến nhân phẩm của các tù thường phạm. CTNLT Chu Mạnh Sơn từng là sinh viên Cao Đẳng Y Tế, một sinh viên nhiệt thành và tham gia nhiều hoạt động trong công việc của Giáo Hội cũng như trong các phong trào sinh viên ở Nghệ An.   Tại Tuyên bố báo chí về chuyến thăm Việt Nam của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp Quốc (LHQ) về tự do tín ngưỡng- tôn giáo , Ông Heiner Bielefeldt có nêu rõ: “Tôi tin rằng Chính phủ sẽ thực hiện đúng những yêu cầu bảo đảm cho tất cả những ai đã làm việc cùng tôi trong chuyến thăm này và những ai đã gặp và tiếp xúc với tôi trong chuyến công tác này sẽ không bị đe dọa, sách nhiễu, trừng phạt hoặc phải chịu các thủ tục tố tụng tư pháp sau chuyến thăm quốc gia này. Tôi sẽ tiếp tục liên hệ với họ và theo dõi sự an toàn của họ. Bất kỳ sự cố nào có tính trả thù đều sẽ được báo cáo lên Hội đồng Nhân quyền và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc”. Hy vọng trường hợp của CTNLT Chu Mạnh Sơn chỉ là trường hợp cá biệt, “nhầm lẫn” của công an xã Phúc Thành. Vì, như nội dung câu chữ ghi trên nhiều Bộ luật, Luật…của Việt Nam, “…áp dụng pháp luật Việt Nam, ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên (hay/đã ký kết) có qui định khác”. Cần nhắc lại, Việt Nam đang là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016. Pv.VRNs Nguồn:chuacuuthe.com
......

Nước Việt đến 2016

Chuyến đi Hoa Kỳ của ông bí thư thành ủy Hà Nội thay thế cho ông bộ trưởng ngoại giao Việt Nam vào ngày 21/7/2014, được giấu kín mãi đến ngày 23/7/2014 cơ quan ngôn luận chính thức lớn nhất của Việt Nam mới đưa tin, và sau đó, ngay cả VOA - Voice of America - cũng chỉ đưa tin theo báo chí Việt Nam, mà VOA hoàn toàn không có bất kỳ thông tin nào tại một đất nước tự do thông tin như Hoa Kỳ về chuyến đi này là điều cần mổ xẻ. Ô. Phạm Quang Nghị & TNS J.McCain Cung vua phủ chúa và bộ nhất hay bộ tứ? Nhiệm kỳ 12 của đại hội đảng cộng sản ở Việt Nam sẽ diễn ra vào năm 2016. Từ trước đến nay, cơ cấu nhân sự bộ tứ luôn được chuẩn bị từ ít nhất 20 năm, nhưng khác với Trung cộng, Việt Nam việc nhân sự chủ chốt xuất hiện vào phút 89 là điều trở thành tất nhiên suốt mấy chục năm qua. Trong gần 10 năm qua, vai trò người đứng đầu của đảng cộng sản ở Việt Nam không còn như trước đây là một dấu hiệu thay đổi đáng ghi nhận. Ngược lại, nổi bật vai trò người điều hành hành pháp và quản lý đất nước trong cương vị thủ tướng rõ nét hơn bao giờ hết. Cơ chế bộ tứ của đảng cầm quyền ở Việt Nam là một cơ chế tản quyền, nhưng tản quyền ấy được thể chế hóa trong một đảng tập quyền, mà không có đảng đối lập thứ hai làm tản quyền đảng cầm quyền, thêm vào đó, văn hóa duy tình, lúa nước của Việt Nam đã là nguyên nhân tai hại làm nên một nền kinh tế, chính trị Việt Nam sa vào con đường khủng hoảng hiện nay. Hai năm trước tôi viết bài: Chuyện Đông, chuyện Tây và chuyện nước Việt để tiên đoán tình hình chính trị Việt trong tương lai. Hôm nay đã bắt đầu lộ rõ cuộc chạy đua của cung vua phủ chúa vào nhiệm kỳ tới 2016. Vấn đề quan trọng là, từ tản quyền bộ tứ để kéo chân nhau, ăn chia làm trì trệ đất nước trong một nền chính trị tập quyền, không đối thủ, hay là tập quyền nhỏ trong một cái tập quyền lớn trong tương lai mới là quan trọng. Nếu tập quyền về một người nắm trọn quyền hành như Trung cộng, thì ai trong vị trí thủ tướng đương nhiệm và người sẽ thay thế chức tổng bí thư trong nhiệm kỳ tới sẽ nắm trọn? Mà ông bí thư thành ủy Hà Nội được xem là cơ cấu vào vị trí tổng bí thư trong nhiệm kỳ tới. Nhưng tại sao ông bí thư thành ủy Hà Nội lại thay thế ông bộ trưởng ngoại giao trong chuyến thăm Hoa Kỳ theo lời mời đồng cấp của ông John Kerry. Ở Việt Nam, về mặt cấp bậc chính trị, thì ông bí thư Hà Nội cao hơn ông bộ trưởng ngoại giao. Nhưng ở Hoa Kỳ thì về mặt chính trị ông bộ trưởng ngoại giao đứng thứ 2 nước Mỹ. Nên không lạ, khi ông bí thư Hà Nội chỉ được các ông phó của ông John Kerry tiếp đón. Nhưng qua chuyến đi này, lần đầu tiên một nhân vật ở cương vị của đảng cộng sản ở Việt Nam được Hoa Kỳ chấp thuận cuộc viếng thăm, với những thảo luận mang tầm vóc nguyên thủ quốc gia, cũng là một điều đáng để bàn luận. Liệu cung vua hay phủ chúa sẽ thắng trong nhiệm kỳ tới? Liệu bộ tứ có còn tồn tại? Khi nào Việt Nam sẽ như Miến Điện? Có nhiều bình luận trong mấy ngày qua, Việt Nam sẽ đi theo Miến Điện, nhưng "chậm hơn 3 năm". Nhưng nếu nhìn lại, thì không phải thế. Việt Nam và Miến Điện có cùng xuất phát điểm về thời gian là năm 1990 cùng cải cách. Nhưng Miến Điện cải cách chính trị đa nguyên, đa đảng, và vẫn giữ độc quyền quân đội cầm quyền trong suốt 21 năm - 1990 đến 2011. Trong khi đó, Việt Nam chỉ cải cách kinh tế dưới màu sắc chính trị của Trung Cộng. Vì thế, mà Miến Điện sẵn sàng từ chối nhiều dự án lớn của Trung cộng - như dự án đường ống dẫn dầu từ cảng Rangoon sang Vân Nam, và dự án đường sắt Vân Nam sang Miến Điện, v.v... Ngược lại, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng lệ thuộc nền kinh tế Trung cộng. Nên mới có câu chuyện Trung cộng ngày càng lấn sâu hơn về chuyện lãnh thổ, và biển đảo.   Miến Điện từ chối thẳng thừng dự án đường sắt và đường ống dẫn khí gas từ thành phố Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam sang thành phố biển Rangoon. Trong khí đó cộng sản ở Việt Nam thì lệ thuộc Trung cộng chỉ vì những dự án bạc cắt để ăn chia, làm phá hoại tài nguyên đất nước của tổ tiên để lại. Ngoài ra, trong khi Miến Điện đã và đang trở thành một nền chính trị tự do dân chủ, đi đôi với nền kinh tế thị trường tự do, thì Việt Nam ngày càng rơi vào một nền kinh tế chính trị độc quyền của đảng cầm quyền thông qua hiến pháp năm 2013 vừa qua. Hôm nay kinh tế Miến Điện đang thua xa Việt Nam, nhưng để Miến Điện bắt kịp Việt Nam về kinh tế thì chẳng mấy chốc. Vì con đường của Miến Điện đi là con đường của Nam Hàn đã đi từ thập niên 1970. Chỉ sau 4 thập niên Nam Hàn trở thành cường quốc về mọi mặt trong top 20 của thế giới. Kinh tế là chính trị, nên mới gọi kinh tế là một ngành khoa học của nghệ thuật - Science of art. Và thế giới mới có bộ môn kinh tế chính trị học. Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại thúc đẩy hay kiềm hãm kinh tế. Chính trị đúng thì kinh tế khởi sắc. Chính trị sai thì kinh tế khủng hoảng, khi kinh tế khủng hoảng thì buộc chính trị phải thay đổi. Miến Điện đã nhìn thấy rõ mấu chốt cái cần thay đổi là chính trị, chứ không phải kinh tế. Nên 24 năm trước Than Shwe đã làm cuộc cách mạng chính trị, để năm 2011 Thein Sein làm cuộc thay đổi kinh tế chính trị triệt để. Việt Nam cũng nhìn thấy cần thay đổi, nhưng lại đi vào cuộc thay đổi kinh tế để giữ mạng sống của đảng cộng sản cầm quyền. Nên hôm nay khủng hoảng cả chính trị lẫn kinh tế, và hậu quả là, lệ thuộc Trung cộng. Nên phải ít nhất 20 năm tới thì Việt Nam mới đuổi kịp Miến Điện về cả cuộc thay đổi triệt để kinh tế lẫn chính trị, mới mong tự lực tực cường như Hàn Quốc ngày nay. Kịch bản nào cho Việt Nam? Người có tầm nhìn ở nước Việt hiện nay, ai cũng thấy đời sống của thể chế chính trị của Việt Nam chỉ còn tính bằng tháng. Nhưng vấn đề quan trọng bậc nhất là, khi thể chế chính trị hiện nay chết đi, thì làm sao để đất nước yên bình, mà không bạo loạn, và tệ hại hơn hiện nay? Thống kê từ thời Lý Công Uẩn lên ngôi, và đặt Thăng Long là đất của hoàng thành, thì mảnh đất này chưa bao giờ chứa được họ nhà nào kéo dài quá 8 đời vua. Và đời vua của đảng cộng sản nắm quyền ở Việt Nam đến đời tổng bí thư của nhiệm kỳ thứ 11 này đã là đời thứ Tám! Cuộc chạy đua của cung vua và phủ chúa đến giờ này đã bộc lộ hết tất cả những con cờ trên bàn cờ chính trị. Nhưng vì kinh tế là nền tảng quyết định cho chính trị, nên con cờ nào nắm kinh tế, thì con cờ ấy sẽ đi nước cuối cùng trên bàn cờ đến cung điện Ba Đình. Chuyến đi của ông bí thư Hà Nội chỉ là lửa của ngọn đèn leo lét bùng lên trước khi tắt của cung vua. Nhưng cũng không loại trừ kịch bản Trịnh Nguyễn phân tranh trở lại, khi có sự hà hơi tiếp sức của ngoại bang. Chính trị là nghệ thuật của sự có thể, nhưng cũng là trò chơi không khoan nhượng, kẻ nào chơi nửa vời xét lại đều bị loại khỏi cuộc chơi.   Mọi việc đã quá rõ, và chúng ta hãy chờ xem. Asia Clinic, 10h18' ngày thứ Bảy, 26/7/2014 Nguồn: http://bshohai.blogspot.de/2014/07/bai-oc-lien-quan-tap-va-tan-quyen-voi...
......

Lời của kẻ vắng mặt

Như quí vị đã biết Sứ quán Úc phối hợp với Đại diện Liên Minh Châu Âu tại Việt Nam và năm Sứ quán khác (Hoa Kỳ, Canada, Na-uy, New Zealand và Thụy-sỹ) tổ chức hội thảo tại Sứ quán Úc: “Truyền thông phi nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” vào lúc 8:30 hôm nay 30/7/2014. Những người tổ chức đã có sáng kiến rất dân chủ và mạnh mẽ: chính thức mời nhiều người Việt Nam thuộc nhiều thành phần và quan điểm chính trị khác nhau tham gia Hội thảo, từ đại diện của chính quyền, của Đảng cộng sản Việt Nam, các tổ chức tự lập và cả các cá nhân độc lập, bất đồng chính kiến. Tôi là một trong những người được mời nhưng không thể tới dự, như nhiều anh chị em khác, do chính quyền lại cắt người tới chặn ngay tại nhà từ sáng sớm. Sau đây là nội dung chính trong bày tỏ tôi gửi tới ban tổ chức Hội thảo thay cho sự vắng mặt ngoài ý muốn của mình. Phạm Hồng Sơn Tôi tin tất cả chúng ta sẽ lúng túng với câu hỏi này: Quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ở Việt Nam trong một thập niên qua đã diễn tiến như thế nào? Còn đây là cố gắng trả lời ngắn gọn của tôi: Một: chúng ta có thể khẳng định ngay mà không sợ sai rằng Việt Nam hoàn toàn không có những tự do đó hoặc tình trạng còn trở nên tồi hơn nếu nhìn vào cấu trúc căn bản của nền chính trị Việt Nam hoặc xem lại những khung pháp lý như Điều 4 Hiến pháp mới sửa 2013 hoặc Nghị định 72/CP năm 2013 của Chính phủ Việt Nam. Hai: chúng ta có thể phải rơi nước mắt nếu nhìn vào danh sách những người đang bị cầm tù hoặc đang bị quản chế tại gia trên khắp ba miền đất nước chỉ vì họ đã dám viết, dám bày tỏ theo tiếng nói lương tâm của chính họ một cách ôn hòa nhưng trái với quan điểm của đảng cộng sản và chính quyền Việt Nam. Ba: nhưng chúng ta cũng có thể khẳng định các quyền trên tại Việt Nam trong một thập niên qua đã có tiến bộ đáng kể nếu nhìn vào thực tế của sự đa dạng về tính chất và số lượng đang nở rộ của những tiếng nói bất đồng hoặc nếu đọc những trang mạng đăng những quan điểm chính trị ngược với chính quyền do chính người dân đang sống ở trong nước khởi sự và duy trì. Cách đây 10 năm những điều vừa kể không thể có. Ba cách nhìn vừa nói, dù rất thiếu sót, có thể giúp chúng ta tránh sa vào hai thái cực: bi quan cùng cực hay lạc quan liều lĩnh về quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ở Việt Nam– những yếu tố cơ bản của một hệ thống truyền thông tư nhân – phi nhà nước. Thực trạng nhân quyền thu nhỏ vừa nêu cũng làm lộ ra một nghịch lý oái ăm của đất nước Việt Nam chúng tôi: nhu cầu tự do của toàn xã hội Việt Nam đang bị ngáng trở bởi ý chí chính trị của một nhóm người. Tuy nhiên, không có con người nào sinh ra đã biết nói, không một xã hội toàn trị nào lại có hệ thống truyền thông tư nhân. Muốn lớn khôn, con người không thể không học nói. Để tự do, xã hội không thể không tạo lập truyền thông tư nhân. Vì vậy, hội thảo “Truyền thông phi nhà nước tại Việt Nam hiện nay” do Sứ quán Úc phối hợp với Phái đoàn Liên minh Châu Âu, Sứ quán Hoa Kỳ, Sứ quán Canada, Sứ quán Na-uy, Sứ quán Thụy-sỹ tổ chức, là một biểu hiện cụ thể của sự ủng hộ giá trị cho tiến bộ của Việt Nam chúng tôi. Một cách thẳng thắn, tôi muốn ví hành động đó giống như một thiện nhân khích lệ một tù nhân bị cấm nói lâu ngày: Hãy nói lên đi! Dĩ nhiên, “học nói” trong một chế độ toàn trị không thể chỉ gặp những tiếng cười hân hoan hay sự dịu dàng như trẻ thơ học nói. Song, nhiều người Việt Nam, tôi đoan chắc, đã thấu hiểu điều này. Nguồn: nhucaytrevn.blogspot.com
......

Võ Thị Hảo - Vệt linh đã thoát ra từ nơi địa ngục

Từ độ linh hồn đã bị nhốt nơi địa ngục, cõi nhân gian dường như chỉ còn lại những đấng văn nhân đang cúi mặt, ngậm miệng ăn tiền, rồi tụng lên những lời ca lạc loài, giữa tiếng thét kêu oán hờn của hàng triệu sinh linh. Nhà văn Võ Thị Hảo   Thì thật may mắn thay, trong cái bi thương đó, có một vệt linh khí, đã vượt ra khỏi xiềng xích ngục tù, tụ lại, rồi tỏa ra luồng sinh khí mới, cho văn học đất Việt. Họ đã rạch ra một lối đi, cách viết mới cho dòng văn học hiện thực phê phán đương đại. Hiện tượng ấy, tuy không làm thay đổi cả diện mạo nền văn học định hướng, bao cấp èo uột, nhưng nó lại được cất lên, làm sống lại những trái tim khát vọng công lý và sự thật, đã bị nhấn chìm từ bấy năm qua. Qủa thật, họ là những tên tuổi, nữ sĩ, văn nhân đích thực nhất của văn học đất Việt hiện nay. Võ Thị Hảo, là một trong số những nhà văn tài năng và can trường đó.   * Sự thực xã hội tàn khốc trong bức tranh siêu thực: Gần đây, đài báo và một số nhà phê bình cho rằng, Võ Thị Hảo là một nhà văn phản kháng. Không thể phủ nhận ý kiến trên, nhưng tôi lại hoàn toàn không thích gọi chị bằng cái tên ấy. Với tôi, trước sau chị vẫn chỉ là một nhà văn hiện thực nhân đạo. Có khác chăng, chị đủ dũng trí để nhảy ra khỏi cái Dạ Tiệc Qủi, mà bấy lâu nay, chúng ta vẫn cam chịu làm món mồi ngon trên chiếc bàn ấy mà thôi. Và tôi cũng không muốn đặt lên đôi vai gầy của chị cái “động từ phản kháng“ to vật vưỡng với sức nặng ngàn cân như vậy. Bởi những cái chị viết đều là sự thật, một sự thật mà bấy lâu nay, ai cũng biết, cũng hay, nhưng đều mắc chứng giả vờ không biết. Nên khi đọc, nhất là khi gặp gỡ, tiếp xúc, đã cho tôi cảm giác, sự mềm mại, mong manh của chị, sao mà nó khác với sự quyết liệt, đi đến tận cùng trong văn chương đến thế. Nhà văn Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Nghệ An, là cựu sinh viên trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Đã trải qua nhiều nghề, nhiều công việc khác nhau, nhưng cuối cùng viết văn mới chính là nghiệp, là đam mê đích thực của chị. Đam mê là thế, nhưng chị lại bước chân vào làng văn khá muộn bằng truyện ngắn đầu tay mang tên Người Gánh Nước Thuê vào năm 1989. Trước khi đến với nghiệp văn, Võ Thị Hảo đã có vài năm lăn lộn với nghề báo, đặc biệt, theo năm tháng, càng có nhiều tác phẩm văn chương, chị càng gắn kết chặt chẽ và dấn thân hoàn toàn vào nghề báo, dù có lúc bị dọa giết chỉ vì dám điều tra và công bố sự thật bỉ ổi của những kẻ mạnh. Những năm tháng làm báo cho chị điều kiện tiếp xúc với sự thật, với những dân oan làm cho chị thấu hiểu một cách sâu sắc về sự nhiễu nhương, vô đạo của xã hội và những oan trái đắng cay cũng như thân phận con người. Vốn sống đó của chị ngày càng phong phú và thêm nặng trĩu hành trang, mà chỉ riêng văn hoặc riêng báo không thôi thì không đủ sức chuyển tải, do vậy chị buộc phải tận dụng sức mạnh của văn chương song song với sức mạnh của báo chí, phim ảnh và cả hội họa để chia sẻ những đau đáu, khát khao của kiếp người tới bạn đọc. Người viết là vậy, nếu ta có trái tim sống được đời mình và đời tha nhân, khi không chia sẻ, không cất lên lời ca của lương tri, trái tim ta cơ hồ vỡ nát. Với tài năng bẩm sinh, thêm một trái tim đa cảm, chỉ sau một thời gian ngắn, chị đã cho ra lò hàng loạt truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch bản phim, sân khấu. Tập truyện nào của chị cũng hay, đều gây được tiếng vang, không chỉ trong nước. Mỗi câu chuyện, một đoạn văn của chị như nhát dao đâm thẳng vào những ung nhọt của xã hội đương thời. Do vậy, nhiều tác phẩm cả văn chương lẫn báo chí của Võ Thị Hảo đã nhiều lần bị từ chối, bị ngăn cấm xuất bản ở trong nước, chẳng hạn tập truyện ngắn Ngồi Hong Váy Ướt, tiểu thuyết Dạ Tiệc Qủy và vô số bài viết khác.   Đọc Võ Thị Hảo khá nhiều và đã từ lâu, nhưng Dạ Tiệc Qủy, do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ở Mỹ xuất bản đầu năm 2013, gây cho tôi cảm xúc mạnh nhất. Thật vậy, đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi rùng mình. Lúc này, chỉ còn đọng lại một cảm giác: Dạ Tiệc Qủy đã diễn tả, khắc họa những điển hình nổi bật nhất về một xã hội quái thai có thật nhưng vượt khỏi mọi hình dung của con người và chỉ có thể khắc họa nó với không khí, với môi sinh đặc trưng trong cơn lên đồng với thủ pháp tái hiện ác mộng. Đó cũng là thi pháp đặc trưng của Võ Thị Hảo trong tiểu thuyết Dạ tiệc quỷ. Với Dạ Tiệc Qủy, sự khắc họa cá tính, nội tâm nhân vật đã được cài đặt sâu trong lời thoại hay những đoạn văn miêu tả thông qua một hệ thống lúc trực diện tàn khốc, lúc ẩn dụ siêu hình, bút pháp biến ảo khôn lường. Có điều lạ và thú vị, tuy Dạ Tiệc Qủy, được chia thành chương hồi, bố cục gắn kết nhau rõ ràng, nhưng khi đọc không nhất thiết phải đọc từ trang đầu tiên, mà ta có thể đọc chương cuối lộn lên, hoặc từ chương giữa đọc ra. Nhưng sự hiểu, sự cảm nhận của người đọc đối với tác phẩm vẫn hoàn toàn không thay đổi, nếu khi đọc, ta có một chút tư duy liên tưởng. Như vậy, rõ ràng ngoài bố cục chung, mỗi chương hồi đều có bố cục riêng và có thể đứng độc lập. Chính vì thế, hiệu quả mà Dạ Tiệc Quỷ mang đến cho người đọc mạnh hơn hẳn những tiểu thuyết thông thường. Đây là sự sáng tạo rất độc đáo của tác giả. Trong tiểu thuyết, nhà văn thường chắp nối những tình tiết hoặc có thật hoặc hư cấu để để xây dựng bối cảnh, nhân vật sao cho đạt đến mức chân thật nhất. Nhưng đọc Dạ Tiệc Qủy, ta lại thấy Võ Thị Hảo đã đi ngược lại lẽ thông thường ấy. Chị đã đưa những sự việc có thật nhất ngoài xã hội vào bức tranh siêu thực của mình. Tại sao lại như vậy? Phải chăng, trong bối cảnh sống hiện nay, chỉ đằng sau cái thực hư, ma quỉ chập chờn ấy, tác giả mới có thể tung hết bút lực của mình và đẩy bi kịch, hoặc phơi trần sự thật tới cung bận cao nhất? Và hơn thế nữa, tác giả muốn mang đến cho người đọc, một cảm giác, cách đọc hoàn toàn khác (rất riêng, rất Võ Thị Hảo). Đây thủ pháp mới lạ, một con dao hai lưỡi. Nếu người viết không có tài sử dụng ngôn từ, không có trí tưởng tượng và kết nối liên tưởng phong phú, thì cuốn sách trở thành giả tạo, nhạt phèo. Tuy nhiên, cách viết này, nó chỉ mới trong văn chương Việt, vì trước Võ Thị Hảo, cũng đã có một số nhà văn ngoại quốc sử dụng cách viết tương tự. Thật vậy, không chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà thơ, nhà văn, lý luận phê bình và bè bạn tôi, đã bị Dạ Tiệc Qủy hoàn toàn chinh phục. Vì vậy, có thể nói, Võ Thị Hảo là một trong số rất ít các nhà văn VN hiện nay (kể cả trong và ngoài nước), đã viết và sáng tạo rất thành công ở thủ pháp này. Tuy vậy, Dạ Tiệc Qủy lại hơi kén người đọc. Bởi lời văn súc tích, trừu tượng, nhiều tầng ngữ nghĩa, buộc người đọc phải suy nghĩ, phải có cảm nhận riêng của mình. Nếu người đọc hời hợt, lười suy nghĩ, chắc chắn sẽ bỏ dở trang sách. Do vậy, đọc Dạ Tiệc Qủy, tôi cảm thấy mình cũng như đang ngồi viết vậy. Công việc nặng nhọc này, có lẽ, không kém người ngồi viết ra nó là bao. Và đọc xong, tưởng mình vừa là món gỏi nhắm ở trên bàn tiệc, thấy run rẩy, vã hết cả mồ hôi hột. * Người đàn bà có đôi mắt kim cương và cả một dải đất hình chữ S bị cưỡng hiếp: Dạ Tiệc Qủy là bức tranh thu nhỏ của đời sống, xã hội con người trải dài trên nửa thế kỷ. Nó bắt đầu bằng những cuộc đấu tố giết người, cướp của, cướp đất, một cách dã man, tàn bạo, được ngụy trang dưới mỹ từ cải cách ruộng đất. Rồi hai mươi năm chiến tranh, huynh đệ tương tàn, đẫm máu và nước mắt, dẫn đến những cuộc vượt biển, chạy trốn kinh hoàng, rùng rợn nhất, kể từ ngày lập quốc đến nay. Trên hết, là những gam màu xám ngắt đè lên toàn bộ bức tranh của những bóng ma cà rồng, dưới cái chủ thuyết quái đản. Nó đang đưa xã hội, con người vào vòng xoáy bạo tàn được tạo ra bởi những lực lượng được đặt tên là “ đang thực thi tội ác chống lại loài người”. Trước Dạ Tiệc Qủy, đã có nhiều nhà văn viết về Cải cách ruộng đất – những tội ác do nhà cầm quyền Việt Nam gây ra ở những năm năm mươi của thế kỷ trước. Nhưng viết một cách trần trụi, quyết liệt như Võ Thị Hảo, thì quả thật không nhiều. Có nhà nghiên cứu cho rằng, văn của Dạ Tiệc Qủy khô và khốc liệt. Tôi lại nghĩ khác một chút, văn của Dạ Tiệc Qủy, không hề khô, ngược lại, rất bay, mang đậm chất thơ, nhưng hiệu quả chuyển tải quả thực đầy sức nặng. Tuy ngôn từ nhiều đoạn rất dân dã giản dị, nhưng do tài năng sử dụng (từ ngữ) của người viết, câu văn trở nên sinh động, sắc nhọn, có sức lan tỏa thấu ngay tim người đọc. Vì vậy, nó gây hiệu ứng tức thì và đẩy sự việc lên nấc cao nhất, khốc liệt nhất, khi miêu tả, cũng như lên án hành động, nhân vật. Tôi không rõ, trào lưu văn xuôi chấm xuống dòng, gọi là thơ mới, thơ trừu tượng, đọc không để hiểu, như dạng bài viết mấy bà đánh dậm, hay tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ …gì gì đó của Nguyễn Quang Thiều, ra đời từ khi nào?. Nhưng xin bảo đảm, tôi có thể trích ra từ Dạ Tiệc Qủy, ra hàng chục đoạn văn hay, đẹp, sáng, hình tượng hơn thơ của ông phó chủ tịch hội nhà văn VN này nhiều lần. Có lẽ, nhờ sinh trưởng từ miền quê, nên Võ Thị Hảo hiểu về nông thôn hơn ai hết. Vì thế, từ cách đặt tên nhân vật, như tên Dậm gắn liền với cái nghề đánh dậm nghèo đói lam lũ, cho đến hình ảnh giết người man rợ hơn cả thời trung cổ, bằng những cuốc mẻ, vồ đập đất… tác giả đưa vào trang văn rất chi tiết và thuyết phục. Sự chân thực đó, đã làm bức tranh trở nên sống động, dù thời gian trên nửa thế kỷ đã trôi qua. Vâng! Cũng chính nhát cuốc mẻ, cái vồ ấy, đã đập rung Văn Miếu, bổ nát linh hồn Việt ngàn năm. Nó cắt đứt, phá tan tành mối quan hệ gia đình, làng xóm và tình người. Và bức tranh oan nghiệt, đẫm máu nước mắt đó, đến nay, vẫn chưa một lần được gột rửa. Bởi không ai ngoài các thế hệ nhà cầm quyền VN phải gánh món nợ ấy, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc gột rửa nó. Họ phải trả lại công bằng cho những người oan khuất và cho người dân VN qua một chuỗi hành động tối thiểu, để sòng phẳng lại, vớt vát lại linh hồn công lý đã bị họ làm cho rữa nát của nước Việt. Nhưng điều đó, nhà cầm quyền VN đã nhất quyết không làm và vì thế họ chẳng bao giờ vãn hồi được danh dự. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn trích truyền cảm, mang mang hồn thơ dưới đây, mà tôi không thể lược, cắt ngắn hơn được nữa, vì bố cục chặt chẽ. Chúng ta đọc, để thấy rõ sự tàn bạo, lưu manh, phản trắc của giai cấp mới (ma cà rồng). Và trong đó, dường như, ta cũng nghe được tiếng vọng lên oán hờn, của những linh hồn vô tội: “… Vì là đã là linh hồn thì đâu cần quần áo. Linh hồn chỉ trần truồng mà bay.   Ông Cử đã sang thế giới bên kia. Tiễn đưa ông, là một chiếc cọc. Ba sợi thừng chuyên trói chó để cắt tiết và buộc lợn vào thang mà thiến của nhà ông Dậm. Một loạt đạn trong nòng súng kíp tự chế. Rộn ràng hơn, thêm ba nhát cuốc mẻ và mười bảy nhát vồ đập đất. Để cho vỡ nát đôi mắt thảng thốt. Cho vỡ nát cả cái uất hận đang đọng lại dưới tròng mắt mở chong chong. Bộ óc mẫn tiệp từng dạy học, từng làm thơ, từng cho thuốc cải tử hoàn sinh cả ngàn mạng người trong xứ, đã bị loạt đạn tự chế của con ông cu Cáy nhồi vào nòng súng làm nổ tung. Ông cu Cáy trước đây đã được ông Cử cứu mạng trận đau bụng bão. Đau đến mức cắn đất cắn sỏi, bò lê bò càng trên mặt đất. Chỉ còn nước bó chiếu đem chôn. Thế mà ông Cử cứu được, qua một ngày lại dậy, uống một bát nước chè xanh pha mật mía, ăn một rá khoai rồi đi cày. Chuyện đó đã qua lâu rồi. Nay thì viên đạn của con ông cu Cáy đã làm tinh óc ông Cử trắng hồng phọt ra ruộng mạ. Óc ông Cử làm bữa tiệc cho lũ giun đất và sâu bọ. Linh hồn ông Cử lên trời. Để lại bàn thờ tổ tông chói loà bảy đời cụ kỵ khoa bảng…“ (DTQ-chương1) Dưới ngòi bút Võ Thị Hảo, cái chết của ông Cử và vợ con ông càng tàn nhẫn bao nhiêu, thì hành động man rợ, thâm độc tàn ác, đểu cáng của những Dậm, của những bần cố nông …lại càng vọt lên bấy nhiêu. Ở đây, chúng ta, không chỉ thấy được những kẻ vô học, dốt nát, sau một đêm trở thành những ông trời con: “…Chỉ sau một đêm ngủ dậy, ông thấy mình oai vệ như trời, muốn đổ cho ai cái tội gì thì y như rằng người ta bị tội ấy. Trời cũng chỉ đến thế thôi, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì phải chết…“ (DTQ-chương 1). Mà ta còn thấy được, sự thật ai đã dúi cái cuốc mẻ, cái vồ đập đất vào tay, để chúng trở nên hung hãn như vậy: “…Trong thiên hạ, bần cố nông là thần là thánh, vinh quang chỉ kém cán bộ Đội cải cách có một bậc…“(DTQ-chương1). Vâng! Ông đội còn ngồi trên cả thần thánh. Ông lại là người của Đảng, đồng chí của Đảng. Vậy thì, thủ phạm không ngoài ai khác, chính Đảng đã dúi chiếc búa, cái vồ đó vào tay kẻ giết người. Và cũng chính Đảng đã đưa những tên đểu cáng vô học, như Dậm, như chánh văn phòng tỉnh ủy, như giám đốc sở văn hóa, hay một viên đại tá… tới những chức quyền cao ngất ngưởng, vươn vòi bạch tuộc nhơ nhuốc hút khô tấm thân gầy đất mẹ. Chính sự lưu manh hóa, đểu cáng hóa ấy, đưa đến một xã hội, pháp luật, đạo đức, tình người bị đảo lộn tùng phèo: “Cả dải đất này người ta cưỡng hiếp nhau. Một chữ S to đùng bị cưỡng hiếp…”(DTQ-chương11). Tuy Võ Thị Hảo không dụng công xây dựng nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Nhưng khi đọc, ta lại thấy, dường như tác giả đã nhập đồng vào vào Miên, một nhân vật phôi thai từ cưỡng hiếp. Miên – cô gái đẹp có đôi mắt kim cương, cả đời phải trốn chạy, luôn luôn bị chính Dậm, người cha, một tên bần cố đại lưu manh, từ nghề đánh dậm, đã lộn ngược lên chức bí thư tỉnh ủy và Đồng Đảng, tìm cách cưỡng hiếp. Không chỉ cưỡng hiếp Miên, bạn Miên, mà chúng còn nuốt tất cả những gì, có thể nuốt được, kể cả những linh hồn đã hóa thạch mấy ngàn năm… Những tình tiết cuộc đời của nhân vật Miên cũng chính là sự nhân cách hóa hình ảnh của đất nước Việt Nam ngàn năm thương đau, ngàn năm phải trốn chạy sự lăm le, bạo lực, sự cưỡng hiếp của người trong nước với nhau và sự cưỡng hiếp của những kẻ ngoại bang Mang theo mối oan khiên ấy, và trải qua một cuộc trốn chạy, vượt biển kinh hoàng, Miên trở thành người của giới thượng lưu. Hành động trở về trả thù của Miên, có người cho là đơn lẻ và tiêu cực. Nhưng với tôi, đó là hành động can trường, một sự phản kháng mãnh liệt, tích cực theo qui luật vay trả rõ ràng. Vâng! Món nợ đó dứt khoát phải đòi, buộc những tên đồ tể và tên đầu sỏ Đồng Đảng, phải trả. Xây dựng nhân vật Miên và nhân vật phản kháng giấu mặt kế tiếp, sau cái chết của Miên, theo tôi, đây chính là sự can đảm, không nhân nhượng, không khuất phục của nhà văn. Và hơn thế nữa, nó còn gợi mở ra một điều, dù oan hồn có bị đày về với Qủy, thì nhà văn vẫn miệt mài đi gây mầm sống, đòi lại linh hồn đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI.   Nếu chúng ta đã đọc, Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, Chuyện Ba Người Khác của Tô Hoài, hay Thời Của Thánh Thần của Hoàng Minh Tường gần đây, thì chắc chắn thấy thiếu sức mạnh, sự quật khởi, sự nổi loạn của nhân vật Miên, thiếu cái sự phản kháng quyết liệt, máu lửa ấy. Dù những tác phẩm trên rất hay, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ lột trần sự thật nên khi đọc, tôi cảm thấy tôi tội tội, hèn hèn thế nào ấy. Nhưng đến khi đọc Dạ Tiệc Qủy, cái cảm giác ấy trong tôi không còn nữa. Vậy thì, dứt khoát phải cảm ơn Miên, cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, hai người phụ nữ đẹp và can đảm, cùng chung ngày tháng năm sinh. • Những oan hồn cổ thành – lời cầu siêu công lý cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn Những oan hồn chết chóc, những đổ nát ở cổ thành, nó chỉ là hình ảnh tượng trưng cho cuộc chiến vô nghĩa dài đằng đẵng hai mươi mốt năm. Những người lính, người sinh viên trẻ ở hai chiến tuyến, đến chết rồi, sao vẫn ngơ ngác bàng hoàng, không thể hiểu, mình đã chết cho ai, vì ai? Nếu như sự trở về của người lính sau chiến tranh, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, chìm sâu trong những cơn say, để quên đi mùi tử khí của những đồi Xáo Thịt, thì ngày về của người lính trong Dạ Tiệc Qủy là đói khát, điên dại, ám ảnh bởi những cơn ăn thịt người, thịt đồng loại. Trại điên, trại tâm thần, chính là tương lai, là nơi xiềng xích, thân xác cũng như linh hồn người lính, như Lình, hay những người sinh viên trẻ.   Để thấy được sự thật của cuộc chiến, Võ Thị Hảo đi vào nơi đằng sau sự sống, để lắng nghe tiếng nói của những hồn ma chết trận. Và để thấy rõ, thân phận con người, cũng như thân phận những người lính. Với ngôn từ, lời thoại mang đậm tính điện ảnh, sân khấu này, làm cho lời văn nổi và sống động hơn. Tuy không một lời oán trách, nhưng hình ảnh những oan hồn vất vưởng, đi dưới ánh trăng buốt lạnh với đỉnh trời vàng rười rượi, cũng đủ làm cho trái tim người đọc nghẹn uất quặn đau. Và nó là một bằng chứng luận tội xác đáng nhất, cho những kẻ đã mua bán, thần thánh hóa cuộc chiến này. Đoạn văn dưới đây, thoạt tưởng là những câu thoại đơn thuần, nhưng đọc xong, ngẫm lại, ta mới cảm được, sự lý giải bản chất cuộc chiến của tác giả gửi ở trong đó: “Ông bà cha mẹ ta có mắc nợ gì nhau không nhỉ?” “Chắc là không. Một kẻ đầu chữ S. một kẻ cuối chữ S. Xa cả ngàn cây số.....!” “Trước khi mặc cái bộ áo này, cầm cái lưỡi lê này anh làm gì?” “Học. Năm thứ hai Văn khoa. Còn anh?” “Sinh viên năm tư khoa Triết học. Chơi vĩ cầm.” “Cắt tiết gà hồi nào chưa?” “Chưa!”   “Vậy chúng ta biết giết người từ bao giờ?” “Chúng ta được dạy để giết người từ ngày khoác lên vai bộ quần áo lính và ai đó đã đặt vào tay chúng ta lưỡi lê.” “Đương nhiên. Lưỡi lê thì không phải là cây bút hay vĩ cầm. Chúng ta cùng trở thành ma!” “Và chúng ta chết cho ai nhỉ?” Bốn ngón tay từ hai cái thây cùng chỉ lên trời và biến thành bốn dấu hỏi dập dờn ngơ ngáo in lên nền mây mờ trăng rồi thõng thượt đổ xuống. “Đi nào! Đi thôi!” “Đi! Cuộc đời này không phải của ta. Cả cái biển tanh ngòm này cũng sẽ tuột mất khỏi tay ta rồi. Đi thôi! Đi thôi nào!”. “Thiên đường hay ngục?” “Cả thiên đường và địa ngục ta cũng đã bị cướp đoạt. Nào, rút mũi lê ra khỏi ngực nhau hộ cái nào. Không lê bước được. Bây giờ ta thuộc về nhau...”. “Cây lê và báng súng làm gậy chống. Chân tôi đã bị bom bên anh tiện đứt rồi. Thay cho chân gẫy, ta cùng đi, được không?” “Lưỡi lê không bao giờ làm được gậy chống. Cái chân bị bom tiện cụt của anh sẽ được mọc ra ở thế giới của người ma.” “Không! Người chết trận không còn gì để được tái sinh. Đầu thai cũng không!” Trăng đã lên. Đứng hoang mang giữa đỉnh trời vàng rười rượi. Não nuột úa vàng như hơi thở dài thổi xuống những hồn ma…“ (DTQ-chương 2- Trăng lạnh). Xem toàn bộ chương Trăng lạnh, chúng ta cảm nhận được trái tim của người đọc đầy xót xa thương khốc trong một không khí, một tâm cảm, một nhịp điệu cầu siêu và trả lại công lý cho những người lính tử trận - bất kể từ bên nào, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn được châm ngòi từ quyền lợi của nhóm người thống trị áp đặt lên những người bị trị, bị lùa ra trận. Chết tàn khốc tới mức chằng còn kiếp khác vì người chết trận đâu có cơ hội để tái sinh! * Những đứa con được nuôi bằng “sữa nhạt lờ lợ tráo trở và mùi hôi nô lệ”. Ngày tệ hơn tận thế: Có thể nói, trong văn học hay sân khấu, điện ảnh, nhà văn, người nghệ sỹ dù có dùng bất kể thể loại, hình tượng gì, để biểu đạt, biểu cảm, thì cái đích đến vẫn phải là con người, thân phận và cuộc sống của họ. Ở Dạ Tiệc Qủy, chúng ta bắt gặp cái hệ quả quái thai của cải cách ruộng đất, của chiến tranh, bằng những Đứa Con Vàng Nghệ, Đứa Con Xanh: “Thì những đứa trẻ quái thai sinh ra dưới gầm trời này bao giờ chẳng biết làm thơ và ca hát. Vừa sinh ra chúng đã già ngàn tuổi và trên vú trái mọc đầy vẩy mốc của những bức tường rêu phong Văn Miếu, chủ nghĩa Mác Lê và tà đạo ( DTQ) Và chúng được nuôi bằng nước mắt của những người mẹ khóc con tử trận, lớn lên bằng: “Sữa nhạt nước ốc Có vị lờ lợ tráo trở Có mùi hôi nô lệ Có vị tanh ngọt lưu manh vị nhục ngàn năm“ (DTQ chương 19). Khi cái ác, cái độc quyền lên ngôi thống trị, thì nhân phẩm con người, dứt khoát sẽ bị rớt xuống nơi địa ngục. Cái chủ thuyết tà đạo và hoang tưởng đó, đã đẻ ra một cái quái thai của thời đại. Nó là bóng ma chập chờn, vươn tay ra như những chiếc thòng lọng, thít chặt cổ người dân lương thiện. Thật vậy, trong cái mớ trắng đen, hỗn độn, chập chờn ấy, người dân lương thiện buộc phải trốn khỏi kiếp người“Đôi khi, phải làm quỷ để thoát khỏi kiếp người!“(DTQ). Và đâu có chỉ riêng nhà văn phải hoài nghi thực hư, nhân cách thần thánh, ma, qủy hay con người, trong một xã hội, trật tự đã đảo lộn tùng phèo này: “Trên Niết bàn bây giờ Phật đang băn khoăn nghĩ xem giống Người thực sự là cái gì. Vì loài ma cà rồng đã chiếm chỗ trên dương thế. Chúng ngang nhiên tự phong mình là thánh, là thiên thần và gọi những người lương thiện là Quỷ“ (DTQ). Tròn sáu mươi năm gây mầm và gần bốn mươi năm tàn cuộc chiến, những cái quái thai, ung nhọt ấy, ngày càng lớn lên. Nó không chỉ dừng lại ở mức độ đục khoét, lưu manh tráo trở nữa, mà đã di căn trên thân gầy đất mẹ, đi đến tột cùng của cái ác: Bán đất bán rừng, bán nước bán cả linh hồn. Để lại bao sinh linh nằm lại nơi rừng xanh, biển cả và bao nhiêu triệu người phải bỏ Tổ Quốc ra đi. Trên đất mẹ, chỉ còn lại tiếng vọng trong đêm, của những tư tưởng, linh hồn bị xích xiềng và tiếng oán khốc ngút trời của vô số kiểu dân oan. Làm nên thành công Dạ Tiệc Qủy, ngoài tài năng dựng truyện, và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ chồng chất nhiều tầng lớp, hình tượng đa nghĩa, đa chiều của Võ Thị Hảo, còn có rất nhiều những câu thoại, những đoạn văn triết lý, làm người đọc phải đau, phải nghĩ: “Quỷ khác loài người. Quỷ cũng không nỡ ăn các linh hồn. Dạ tiệc của quỷ là bữa tiệc của mắt.“ hay “Dậy thôi, cái gọi là bốn ngàn năm!“ …Hơn thế nữa, cùng với việc kêu tên, điểm mặt, vạch trần mọi thủ đoạn tội ác, của tầng lớp thống trị, tác giả còn dám cả gan bóc trần sự nhu nhược, u muội của con người bị trị, trước quyền lực và độc đoán. Và nó, như là mũi dao, đã tách bóc được cái u mê ra khỏi sự sợ hãi của con người. Để từ đó, Võ Thị Hảo can đảm chỉ ra lối thoát duy nhất, và đó cũng là lời kết (phần một) cho cuốn sách này: “…Muốn tái sinh giống người, trước hết hãy diệt lũ ma cà rồng. Nếu không, hễ cứ có người nào mới ra đời, lại bị làm mồi ngay cho lũ chúng…“ (DTQ - chương 20). Vâng! Cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, đã công phu sáng tạo nên tác phẩm Dạ Tiệc Qủy. Chúng ta đọc nó để giải phẫu tâm hồn, và đọc để thấy một địa ngục có thật đã mở ra, còn đang phình nở há hoác miệng và nếu con người VN và nhân loại không hành động kịp thời để ngăn chặn, tất cả rồi cũng lần lượt trở thành nạn nhân của ma cà rồng: bị hút máu hoặc sẽ đi hút máu kẻ khác. Điều đó còn tệ hơn cả ngày tận thế! Đức Quốc ngày 31-7 -2014Đỗ Trường Nguồn: DienDanCTM
......

Ls. Lê Công Định: Không dám phản kháng cường quyền thì tự cởi áo mão luật sư... cho rồi

Nhân sự việc Luật sư Nguyễn Đăng Trừng bị khai trừ khỏi Đảng CS, tôi nhớ lại một giấc mơ kỳ lạ đã đến với tôi vào đêm thứ hai sau ngày bị bắt. Trong giấc mơ, tôi gặp Luật sư Triệu Quốc Mạnh và được mời đi ăn tối. Bữa ăn chưa kịp bắt đầu, bỗng LS Trừng đến ngồi cùng bàn. Thế là tôi được dịp ngồi ăn và trò chuyện cùng lúc với hai vị sếp cũ. LS Mạnh ít nói, chỉ nhìn như chia sẻ nỗi niềm của tôi. Còn LS Trừng khuyên một câu thật giá trị: “Trên võ đài khi bị đối thủ đánh ngã, cố gắng đừng để bị gục hẳn và hãy tìm cách đứng lên. Trụ lại được, nếu thời cơ đến với mình, sẽ đến lượt đối thủ phải gục!” Ls. Lê Công Định Tỉnh giấc mộng, tôi kinh ngạc về lời khuyên vô giá đó. Từ lúc ấy cho đến lúc bước chân ra khỏi tù, tôi đều hành động theo phương châm của LS Trừng, vị thủ lĩnh thực sự của giới luật sư Sài Gòn. Nhiều người quen tôi đã trách ông khai trừ tôi khỏi Đoàn Luật sư theo yêu cầu của phía công an chỉ vài ngày sau khi nổ ra vụ án của tôi, dù tòa án chưa tuyên. Tôi hoàn toàn không trách cứ, trái lại rất thông cảm với ông, dẫu rằng ngày cầm quyết định khai trừ mình trong tù, tôi đã nghẹn ngào, rớm nước mắt, vì dù sao cho đến thời điểm ấy tôi cũng đã gắn bó với nghề luật gần 20 năm, nhiều vinh quang và cay đắng. Ông cùng vài luật sư đồng nghiệp đã nhiều lần vào tù thăm tôi mỗi dịp gần Tết, mang đến niềm tin và hy vọng cho tôi giữa những năm tháng tăm tối. Tôi vẫn mãi cảm kích về tình nghĩa ấy. Năm 1989 tốt nghiệp trường luật, tôi làm việc vài tháng tại Phòng Công chứng Nhà nước duy nhất vào lúc đó, rồi chuyển sang làm trợ lý riêng cho LS Triệu Quốc Mạnh, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư đương thời. Năm 2005, đắc cử chức vụ Phó Chủ nhiệm sau một cuộc tranh cử bất thần tại Hội nghị toàn thể, tôi trở thành phó của LS Nguyễn Đăng Trừng, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư khi ấy. Do làm việc thân cận, nên tôi đã học hỏi được nhiều từ hai vị luật sư đàn anh của mình, không chỉ về nghề nghiệp, mà còn trong tranh đấu chính trị. Cả hai ông, tuy tính cách khác biệt nhau, song đều là các bậc thầy về nghệ thuật “khiêu vũ giữa bầy sói” mà vẫn giữ được tinh thần độc lập và nhân cách của mình để không biến hẳn thành sói. Tất nhiên, tôi chưa bao giờ là thành viên của bầy sói, nhưng cũng đã ứng dụng phần nào nghệ thuật ấy trên con đường chính trị của mình.   Năm 2008 Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Sài Gòn đã chịu một áp lực lớn từ “bên trên” để cản trở tôi tiếp tục ứng cử chức vụ Phó Chủ nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa. Tôi nói với LS Trừng và các vị phó khác rằng tôi giữ chức vụ này để có thêm điều kiện khai triển lý tưởng nghề nghiệp luật sư tại Việt Nam, chứ không phải vì danh vọng gì. Do đó, tôi đã chủ động rút lui để các đồng nghiệp của tôi không bị khó xử trước sự can thiệp vô lối vào hoạt động độc lập và tự quản của đoàn luật sư. Trong bối cảnh xã hội ở Việt Nam bấy lâu nay, tìm một vị thủ lãnh luật sư đoàn sẵn sàng đương đầu, chống lại sự can thiệp thô bạo từ phía Đảng CS và chính quyền để bảo vệ sự độc lập và tự quản của giới luật sư trong khả năng có thể như LS Nguyễn Đăng Trừng đã làm, thì thật là mò kim đáy bể. Lý do ông tham quyền cố vị dù đã cao niên chỉ là cớ để người ta buộc ông rút lui. Vì vậy việc ông bị khai trừ khỏi Đảng CS là điều dễ hiểu. Những gương mặt mà người ta sắp xếp để chuẩn bị thay thế ông, dù trẻ hơn, là bầy tôi chỉ biết khúm núm và vâng dạ. Bỏ phiếu ủng hộ những gương mặt ấy, giới luật sư Việt Nam sẽ trông mong gì cho tương lai và liệu còn đủ xứng đáng với niềm tự hào nghề nghiệp của mình chăng? Không dám phản kháng cường quyền thì tự cởi áo mão luật sư quăng xuống đất cho rồi! nguồn: facebook.com/LSLeCongDinh
......

Tướng Lê Duy Mật đòi công khai dữ kiện lịch sử

Vào ngày 20-07-2014, Thiếu Tướng Quân Đội Nhân Dân Lê Duy Mật, người chỉ huy mặt trận Hà Giang trong cuộc chiến biên giới chống Trung Quốc xâm lược trong những năm 1979 - 1984, đã gởi lãnh đạo đảng CSVN bức thư đòi công bố các dữ kiện lịch sử liên quan đến quan hệ Việt-Trung. Sau đây là nguyên văn bức thư đặc biệt này; các ý tưởng và văn phong trong thư là của riêng tác giả.BBT - - -   Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc   Hà Nội ngày 20 tháng 07 năm 2014   Kính gửi: Đ/C Tổng Bí thư BCHTW Đảng Các đ/c Uỷ viên Bộ Chính Trị Các đ/c Uỷ viên Ban Bí thư TW Đảng Các đ/c ủy viên Trung ương Đảng khóa XI. Tôi là: Lê Duy Mật – Thiếu tướng – Nguyên Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 2 và Tư lệnh Mặt trận 1979-1984 (Hà Giang) thay mặt một số đảng viên xin được nêu thắc mắc và kiến nghị như sau: Cuộc chiến tranh biên giới 1979 – 1984 cũng là một trong những cuộc chiến đẫm máu vô cùng đau thương trong lịch sử nước ta. Đây là cuộc chiến tương tự các cuộc chiến Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, nhưng tại sao đã qua 30 năm mà cuộc chiến này vẫn không được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm phục vụ cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc cấp thiết trước mắt, Việc tổng kết này vô cùng cần thiết và sẽ rất hữu ích khi mà đối tượng chiến đấu vẫn là một, khi mà quân xâm lựợc đang cận kề chứ không xa xôi như trong các cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bên cạnh đó các chính sách đối với gia đình liệt sĩ và những người chống xâm lược năm 1979 – 1984, chúng tôi đã nhiều lần đề nghị nhưng vẫn không được giải quyết, mà chỉ có những lời hứa hẹn xuông. Phải chăng có một nguyên nhân mà chúng tôi săp nêu lên sau đây. Chúng ta đều biết mọi tiêu cực trong xã hội hiện nay từ Trung Quốc gây ra, khiến cho nước ta sản xuất lẹt đẹt, lạc hậu, đã thế, họ lại còn có những lời sỉ nhục đôi với cả dân tộc ta: “Việt Nam là con hoang, loại vô liêm sỉ, phải cho thêm vài bài học”. Vậy mà, lãnh đạo ta không hề có một phản ứng nào! Rồi khi bọn xấu trà trộn trong đám biểu tình được xúi giục phá phách gần 1000 nhà máy của Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, thì công an lúc đó làm ngơ, sau đó mới xuất hiện, chỉ xử lý qua loa và xin lỗi xin đền bù thiệt hại cho họ. Trong khi đó Tung Quốc đâm phá gần 30 tàu, thuyền của chúng ta thì không quyết liệt đòi bồi thường, mà chỉ “nhẹ nhàng” lên án. Khi có hiện tượng bất thường nho nhỏ về dân sự thì lập tức nửa đêm đại sứ của Việt Nam ở Bắc Kinh bị gọi đến để nhận thư phản kháng, còn khi Trung Quốc gây hại cho ta thì chỉ có cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam đến gặp cơ quan Lãnh sự Trung Quốc tại Hà Nội để giao công hàm phản kháng. Lạ lùng nhất là tỉnh ủy Quảng Đông mà lại ngang nhiên gửi công văn cho Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu phải thực hiện 16 việc phải làm. Một thái đọ trịch thượng,coi thường nước ta rất vô lễ mà ta vẫn chịu đựng. Trung Quốc tự tiện cho giàn khoan vào xâm nhập lãnh hải Việt Nam bất chấp mọi ý kiến phản đối của nhân dân ta và dư luận các nước lên án. Khi rút đi, họ tuyên bố là do họ đã xong việc. Trung Quốc làm như vậy mà ta vẫn khen Trung Quốc là bạn tốt, 16 chữ vàng và 4 tốt. Đến nỗi dư luận thế giới cũng phải ngạc nhiên về thái độ quá ư nhu nhược của chúng ta. Ngạc nhiên hơn là Nhà nước đàn áp những người biểu tình chống xâm lược ở trong nước mà chỉ khuyến khích biểu tình ở nước ngoài. Chẳng lẽ một dân tộc Việt Nam anh hùng đã ba lần chiến thắng Nguyên Mông, đã có Điện Biên phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu mà nay lại hèn kém như vậy sao! Chúng tôi cho rằng nguyên nhân sâu xa là ở Thỏa hiệp Thành Đô ngày 4/9/1990 của một số vị lãnh đạo. Chúng tôi chưa rõ thực hư thế nào mà chỉ biết sau này những hiện tượng tiêu cực xảy ra đã thể hiện nội dung của bản Thỏa hiệp đó. Xin trích một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.”. (Hết trích) (1). Vì vậy, chúng tôi yêu cầu trong hội nghị TW này Bộ chính trị, Ban Bí thư cần công bố các văn bản của Thỏa hiệp Thành Đô, để chứng minh thực hư thế nào. Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như vậy thì rõ ràng là một bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước như là phản bội Tổ Quốc. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Hội nghị TW xem xét và ra tuyên bố phản bác bản thỏa hiệp đó, chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và những người thực hiện sau này. Có như vậy Đảng ta mới thực sự là một Đảng chân chính, dám nhận khuyết điểm, dám công khai khuyết điểm như Bác Hồ đã nói: “Một Đảng mà không dám nhận khuyết điểm, công khai khuyết điểm là một Đảng hỏng”. Theo điều lệ Đảng (điều 3 khoản 3), Đảng là của nhân dân lao động, Đảng của toàn thể đảng viên vì vậy chúng tôi có quyền yêu cầu phải công khai các hoạt động của những người lãnh đạo để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra như trong các Nghị quyết TW đã đề ra. Trên đây là những kiến nghị tâm huyết và bức xúc của đảng viên. Tôi mong rằng: Bộ chính trị, Ban bí thư nên tôn trọng ý kiến của các đảng viên cơ sở và thực hiện các việc nói trên.Tóm lại là: 1- Tổng kết cuộc chiến tranh chống quân xâm lược năm 1979, thực hiện chính sách qui tập mồ mả ghi công các anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược cũng như bao cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc trước đây của dân tộc ta, tổ chức kỷ niệm trọng thể hàng năm. 2- Công khai bản Thỏa hiệp Thành Đô tháng 9/1990 để toàn dân, toàn Đảng biết được thực hư và ra tuyên bố để giải thích các hiện tượng tiêu cực. Thỏa hiệp Thành Đô là thứ ung nhọt đang di căn khắp cơ thể đất nước ta. Nguy cơ mất nước đang là sự thật, mong các đồng chí có lương tâm, vì sự nghiệp của tổ quốc mà thực hiện cho được. Nếu ở Hội nghị Trung ương X này không ra được bản tuyên bố thì yêu cầu đưa vào chương trình Đại hội Đảng bất thường hoặc Đại hội 12. Chúng tôi chờ mong hồi đáp của các đồng chí.   Kính Thiếu tướng Lê Duy Mật (1)Theo tin của Tân hoa xã Trung Quốc và báo Hoàn cầu Trung Quốc  
......

Các ngày vái Đảng, vái Bắc Kinh năm 2014-2015

Đầu tháng 7/2014, giữa bao nhiêu lo âu về giàn khoan 981 và trong lúc giá xăng tiếp tục phóng lên vũ trụ, người ta đột nhiên thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành Quyết định số 1063 phê duyệt kế hoạch tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong 2 năm 2014-2015, dù nay đã quá nửa 2014 rồi. Kèm theo Quyết định là bản kế hoạch chi tiết với 4 đề mục: A. Muc đích, yêu cầu; B. Các ngày lễ lớn gồm 2 loại quy mô cấp quốc gia và cấp Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể Trung ương, Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; C. Phân công nhiệm vụ; D. Kinh phí thực hiện.   Theo giới lãnh đạo thì loạt lễ lạc này nhằm 4 mục đích chính: (1) bồi dưỡng , phát huy lòng yêu nước và ý chí tự cường của dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng; (2) nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; (3) khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; (4) khẳng định những thành tựu vĩ đại của dân tộc ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, nếu viết cho ngắn gọn thì cả 4 mục tiêu của cả chuỗi lễ lạc dài lê thê đó là để bồi đắp cho vững chắc hơn cái ghế cai trị của Đảng. Chấm hết.   Thật vậy, nhìn vào danh sách các ngày lễ ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh người ta chỉ thấy tràn ngập những ngày kỷ niệm các "đồng chí" Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Trần Phú, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Lương Bằng, ... cùng các ngày kỷ niệm thành lập Đảng và các công cụ riêng của Đảng.   Rõ ràng đó là những ngày vái Đảng -- vái từ các "cụ" đến các "công cụ" của Đảng. Và đã là những ngày của Đảng thì chỉ nên dành riêng cho đảng viên đảng CSVN thôi, chứ tại sao lại dùng tiền của quốc gia tổ chức lễ lạc và nhất là lại bắt cả nước phải vái? Các ông ấy chẳng phải là "đồng chí" và lại càng không phải là "tổng bí thư" của dân tộc. Lẽ ra đây chỉ có thể là một thông báo nội bộ của đảng CSVN và phải gởi đi từ văn phòng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chứ không thể là văn kiện từ văn phòng Thủ tướng chính phủ. Dĩ nhiên việc vái các "công cụ" mà Đảng đang dùng để kiểm soát toàn bộ xã hội, như quân đội, công an-an ninh, lại càng là điều oái oăm và mang tính "xát muối vào vết thương", như thể các tù nhân nay phải vái luôn sợi xích, vòng xiềng, hàng song sắt nhà tù. Nhưng có lẽ cảm giác mạnh nhất của người đọc bản Quyết định 1063 là mức phí phạm nhân lực và ngân sách đất nước vì lãnh đạo luôn xem tài sản quốc gia là của Đảng. Bản kế hoạch liệt kê hầu như tất cả mọi ban bộ của đảng và nhà nước phải lao vào chuỗi lễ lạc kỳ cục này, từ Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng đến Văn phòng Chính phủ; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Quốc phòng; Bộ Công an; Bộ Ngoại giao; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Nội vụ; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đó là chưa kể các chi nhánh ban ngành xuống cấp tỉnh, các guồng máy hành chính cấp tỉnh, và mạng lưới Mặt trận Tổ quốc. Chỉ cần tính tiền lương của tất cả số công chức, nhân viên dành thời giờ đi làm chuyện lễ lạc đó đã thấy con số khủng khiếp thế nào. Rồi cộng thêm chi phí xây dựng nơi tổ chức, tiền ăn nhậu mừng lễ, tiền phong bì cho báo chí tường trình, tiền may biểu ngữ cờ quạt khắp đường phố, và hàng trăm khoảng chi phí khác được các quan chức vẽ ra để có cơ hội "hớt bọt" bỏ túi. Trong tình hình kinh tế của đất nước hiện nay và trước sự cùng khổ lo cơm từng bữa trên khắp đất nước, rõ ràng lãnh đạo đảng đang đẩy cả núi tiền từ ngân sách quốc gia xuống sông, xuống biển ... nhân danh mục tiêu để "phát huy lòng yêu nước của người dân" và để "nâng cao niềm tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng"! Đã thế người dân trong năm 2014-2015 còn bị phải "Nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh". Mác-Lênin là chủ nghĩa đã hoàn toàn thất bại với hồ sơ tội ác đã giết hàng trăm triệu sinh mạng con người. Có lẽ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mô tả đầy đủ và ngắn gọn nhất: Nó là“Tội ác của thế kỷ 20 mang một tầm vóc khủng khiếp. Những kẻ sát nhân đã biến những cơ cấu quốc gia thành một hệ thống để thực hiện tội ác.“ Chủ nghĩa này đã bị hầu hết nhân loại (kể cả Trung Quốc) gớm ghiếc ném vào sọt rác thì tại Việt Nam lại được đem ra thờ cúng tiếp.   Về cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vậy. Đây là một sản phẩm mà chính ông Hồ chí Minh, người bị gán cho là tác giả, khi còn sống cũng đã khẳng định không phải của ông. Đã có quá nhiều học giả đưa ra đủ loại văn bản để chứng minh những cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh mà đảng bắt các đảng viên ráng nuốt như: "Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người", đến "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", đến "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công", v.v.... đều trích ra từ cổ thư của Tàu hoặc các văn kiện khác của Tây Phương. Nghĩa là đảng lại tiếp tục bắt mọi người thờ cúng cái bình rỗng không. Nhưng điều làm nhiều người giật mình kinh hải là mức độ "phớt lờ dân tộc" trong chuỗi lễ lạc dài sọc này. Không có một ngày lễ cấp quốc gia hay ngay cả cấp tỉnh nào dành cho các anh hùng dân tộc, từ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, đến Vua Quang Trung, v.v... Riêng ngày giỗ chung Quốc Tổ Hùng Vương thì bị giáng cấp và giao cho tỉnh Phú Thọ tổ chức. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày đã đi vào lòng dân tộc từ hàng trăm năm qua câu ca dao: "Dù ai buôn bán đường xa, nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mà về". Và ngay cả tại các cộng đồng bà con người Việt lưu lạc trên khắp thế giới đều long trọng tổ chức ngày này với tinh thần Quốc lễ. Chỉ riêng trên đất nước Việt Nam, ngày Giỗ Tổ nay trở thành ngày Tỉnh lễ. Lý do tại sao lãnh đạo Đảng né tránh đến độ hỗn láo đối với các anh hùng dân tộc như thế, thì có lẽ người dân Việt Nam ngày nay đã quá rõ, chẳng ai tốn công tranh luận. Đơn giản chỉ vì trong dòng sử Việt Nam, hầu như tất cả các anh hùng dân tộc đều là những lãnh tụ chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là hàng ngàn năm chống giặc Tàu. Không thể kỷ niệm các anh hùng dân tộc mà không nhắc tới công đức bảo vệ đất nước của các ngài và thế là lãnh đạo đảng CSVN lại rùng mình sợ Bắc Kinh nổi giận. Loại ngày lễ như ngày Giỗ Tổ Hùng Vương cũng có tác động kết hợp lòng yêu nước và đánh động lương tâm về bổn phận bảo vệ đất nước của toàn dân. Trong tình hình hiện nay, lãnh đạo đảng CSVN rất không muốn thấy lòng yêu nước đó có cơ hội dâng cao hay tập hợp lại. Ngược lại, lãnh đạo Đảng thích kỷ niệm ngày sinh của ông Nguyễn Văn Linh hơn và nay nâng lên hàng quốc lễ. Thành tích đáng kể nhất cả đời ông Nguyễn Văn Linh là gì? Chắc chắn đó là "công" giảng hòa với Trung Quốc và dẫn đầu phái đoàn lãnh đạo CSVN sang Hội nghị Thành Đô năm 1990. Nơi mà chính cố Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch kết luận: "Giai đoạn Bắc Thuộc mới" vừa bắt đầu. Do đó, đây không phải là ngày lễ cho ông Linh mà là thông điệp tái xác nhận sự thuần phục Bắc Triều của toàn bộ giới lãnh đạo CSVN hiện tại, và đây cũng là ngày lập lại lời hứa sẽ tiếp tục thi hành các điều khoản mà ông Linh đã ký kết -- mà cho đến nay vẫn không dám công bố. *** Tóm lại, chỉ nhìn vào danh sách các ngày lễ lạc 2014-2015 mà lãnh đạo Đảng đang áp đặt lên cả nước, người ta có thể đọc được tâm trạng của họ: - Lãnh đạo Đảng đang rất lo lắng về các dữ kiện xuất hiện ngày càng nhiều, cho thấy dã tâm của họ trong các cuộc chiến vừa qua và đơn giản chỉ là dùng máu người Việt Nam để mở rộng thế giới đỏ cho đàn anh Liên Xô và Trung Cộng. Khi không thể chối cãi các chứng cớ quá vững chắc đó, họ chỉ có thể khỏa lấp bằng hàng trăm các lễ lạc.   - Lãnh đạo Đảng biết mọi động thái, dù là sinh hoạt trong nội địa đất nước Việt Nam, đều sẽ không qua khỏi tai mắt của Trung Cộng. Vì vậy, họ luôn phập phồng lo sợ về thái độ và phản ứng của Bắc Kinh. Nói cách khác, lãnh đạo đảng CSVN đang thực sự sống với tâm thức chư hầu, được Bắc Triều cho ngồi ghế cai trị ngày nào quí ngày đó.
......

Ai công an không ưa đều là Việt Tân

Dư luận viên cũng hay dúi mình vào Việt Tân ghê lắm. Năm ngoái mình còn có lúc nổi khùng lên – không phải vì ghét bỏ gì Việt Tân (có biết họ là ai đâu mà ghét, chính ra nếu biết có nghĩa là ghét thì mình biết đảng Cộng sản rõ hơn Việt Tân nhiều), mà vì mình làm báo nên luôn muốn giữ vị thế phi đảng phái, phi tôn giáo. Đã cố gắng giữ vị thế đó rồi mà còn bị dư luận viên bố trí vào đảng Việt Tân, nên mình cáu lắm. Đoan Trang   Đấy là chuyện năm ngoái, năm nay thấy dư luận viên gán thêm ai vào Việt Tân thì mình chỉ phì cười, lâu dần thấy cũng ngộ ngộ. Mình là Việt Tân rồi này, anh Ba Sàm là Việt Tân rồi này, giờ đến lượt nhà văn Nguyên Ngọc cũng được là Việt Tân nốt – theo “lô rích” của đám dư luận viên. Cứ đà này tới lúc nào cả nửa dân số Việt Nam là Việt Tân thì hay nhở? Vớ vẩn rồi hóa ra một nửa thành viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản cũng là Việt Tân cả thì vui phải biết. Nhân đây xin nói thêm về chuyện “tính độc lập của người làm báo”. Ở các nước có nền báo chí thiếu tính Đảng, thiếu định hướng (ví dụ như Anh, Mỹ), về nguyên tắc, nhà báo, tổng biên tập không được tham gia đảng phái nào, để giữ vị thế trung lập, độc lập. Ở thiên đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì khác: 100% tổng biên tập phải là đảng viên cộng sản hết. So sánh thế là đủ hiểu nền báo chí cách mạng của ta rồi, phỏng ạ? Nguồn: facebook.com/pham.doan.trang
......

Thư ngỏ gửi Ngài Đại sứ Úc, Đại diện EU, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ

Thư ngỏ V/v: Chính quyền VN ngăn cấm CTNLT Phạm Bá Hải tham dự “Hội thảo : Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” tại Hà Nội. Kính gửi: - Ngài Hugh Borrowman, Đại sứ Úc cùng các vị Đại diện của EU, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ tại Hà Nội. - Ngài Tim Wilson, Đặc Ủy Viên của Ôxtrâylia về Nhân Quyền. Hội CTNLTVN nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần nội dung hội thảo “Truyền thông phi nhà nước ở VN trong thời kỳ hiện nay” sẽ diễn ra ngày 30/7/2014 tại ĐSQ Úc, Hà Nội, có sự kết hợp tổ chức với Cộng đồng Âu châu, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.   Báo chí viết (in và mạng) đóng vai trò như một chiếc cầu quan trọng giữa nhà nước và công dân. Nó có mối liên quan đến chính trị tùy thuộc vào mức độ tự do viết phóng sự điều tra, báo cáo…để đưa ra ánh sáng các khuất tất, lạm quyền và bất công. Vì để bảo vệ bộ máy cai trị độc tài, xâm phạm nghiêm trọng các quyền căn bản của con người, chính quyền VN thực thi hệ thống kiểm duyệt báo chí gắt gao, toàn diện. Kiểm duyệt trực tiếp như thông qua tòa soạn, trang web và phóng viên phải chịu trách nhiệm những gì họ viết, đưa tin. Kiểm duyệt gián tiếp như sự chỉ đạo, định hướng của các cơ sở đảng; chương trình giáo dục phóng viên viết theo “tính đúng đắn” của chính sách của đảng… Việc tập trung toàn bộ quyền lực báo chí vào duy nhất đảng CS, đã tạo ra luồng thông tin một chiều nhằm củng cố cho mục đích chính trị của họ, và phục vụ cho quyền lợi của họ. Những tư tưởng khác “phi nhà nước” đều bị xem là phi pháp, “không khách quan” và “sai sự thật”. Hiện đang có trên 30 người cầm bútđang ngồi tù vì chính sách kiểm duyệt và bịt miệng bất đồng chính kiến, trong đó có Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn…và mới đây là Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh. Đã có quá nhiều hy sinh để đòi quyền tự do thông tin tại VN, đã có quá nhiều giấy mực nói lên khốn khó vô bờ của thân nhân gia đình các tù nhân ấy và với tư cách thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ, đây là thời điểm chính quyền VN cần phải thực hiện và tôn trọng quyền tự do bày tỏ ôn hòa các chính kiến bất đồng của người dân. Hội thảo “Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” là dấu hiệu đáng mừng trong tình hình truyền thông phi nhà nước không ngừng bị đàn áp. Anh Phạm Bá Hải, điều phối viên của Hội CTNLT đã vinh dự nhận giấy mời tham gia hội thảo này. Tuy nhiên, trưa ngày 29/7/2014 khi trên đường từ nhà ra sân bay Tân Sơn Nhất để đi Hà Nội, CTNLT Phạm Bá Hải đã bị lực lượng an ninh công an phối hợp ngăn cấm không cho đi. Họ nói lệnh của BCA là Phạm Bá Hải không được đi tham gia hội thảo này, nếu chấp hành thì quay về nhà, còn nếu phản đối thì sẽ bị cưỡng chế vào đồn công an theo giấy mời mà họ đã tống đạt vào lúc sáng cùng ngày. Kính thưa quý vị Đại diện ngoại giao Đây là vụ việc xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại trong nước của công dân Phạm Bá Hải một cách bất hợp pháp. Can thiệp ngăn cấm mà không hề có giấy lệnh nào ngoại trừ một lực lượng công an an ninh của Phòng Bảo vệ chính trị (PA67), Cơ quan điều tra Phan Đăn Lưu (PA72), an ninh huyện Hốc Môn và công an địa phương. Cách đó mấy ngày, anh Phạm Bá Hải cũng đã bị cấm ra khỏi nhà khi Ngài Heiner Beiderfeldt, Báo cáo viên LHQ về tự do tôn giáo đến Sài Gòn vào ngày 25/7/2014. Vị Đồng Chủ tịch hội CTNLT – Bs Nguyễn Đan Quế cùng với Phạm Chí Dũng và Dương Thị Tân cũng bị ngăn chặn không cho ra khỏi nhà. Tiến trình ra đời các tổ chức phi chính phủ của quần chúng và dần dà hình thành xã hội dân sự là một tiến trình tất yếu, và VN cũng đã chấp nhận khuyến nghị tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà hoạt động XHDS có thể tự do hội họp và thể hiện quan điểm. Trái lại tinh thần trên, sau khi nhận được hộ chiếu ngày 9/7/2014, thì ngay ngày hôm sau anh Phạm Bá Hải đã bị Phòng quản lý XNC Tp HCM (PA 72) mời lên làm việc và tịch thu lại. Điều kiện để được có hộ chiếu và được sang Ấn Độ tiếp tục học chương trình tiến sĩ mà Phạm Bá hải đã bị dỡ dang khi bị bắt năm 2006 là rút tên ra khỏi và chấm dứt hoạt động trong Hội CTNLT và Hội Nhà báo Độc lập (IJAVN). Trong phạm vi truyền thông phi nhà nước, thông tin đa chiều và thừa nhận quyền tự do hội họp và lập hội là những dấu mốc không thể tránh khỏi, Hội CTNLT kêu gọi Ngài Đại sứ Úc, cùng các Đại diện các đoàn ngoại giao trong ban tổ chức hội thảo tiếp tục mở ra nhiều cuộc hội thảo tương tự, làm sáng tỏ quyền được tiếp cần thông tin đa chiều của người dân. Qua đó, chính quyền VN phải thả toàn bộ những người đã bị xét xử theo điều 88, điều 258 cùng các điều khoản khác có liên quan trong bộ luật hình sự CHXHCNVN; vô hiệu hóa Nghị định 72 và các văn bản dưới luật khác nhằm hạn chế quyền này. Việt Nam, ngày 29/7/2014.Thường trực BĐH Hội CTNLT: -          Đồng chủ tịch: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi -          Chủ tịch Hội đồng cố vấn: HT.Thích Không Tánh -          Điều phối viên: Ths.Phạm Bá Hải, Ls.Nguyễn Văn Đài -          Phát ngôn viên: Ts. Phạm Chí Dũng nguồn: fvpoc.org
......

Nhận định của MLBVN liên quan buổi hội thảo của Đại sứ quán Úc

Nhận định của Mạng Lưới Blogger Việt Nam về tình trạng công dân Việt Nam bị ngăn chận, sách nhiễu tham gia buổi hội thảo của Đại sứ quán Úc   Trong lần Đánh giá định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền (UPR) năm 2014, nhà nước Việt Nam đã chấp nhận những khuyến nghị của UPR Úc trong lãnh vực "truyền thông phi chính phủ", tự do thể hiện quan điểm, tự do hội họp, và tạo điều kiện cho một môi trường thuận lợi để các nhà hoạt động xã hội dân sự có thể tự do hội họp và thể hiện quan điểm của mình. Dựa vào thái độ chính thức trên của chính phủ Việt Nam, Úc đã cùng với Liên minh châu Âu, Đại sứ quán Canada, New Zealand, Na Uy và Thụy Sĩ đứng ra tổ chức buổi Hội thảo: Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay. Khách mời tham dự khác bao gồm Chính phủ Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam, thành viên của cộng đồng khối ngoại giao và xã hội dân sự trong đó có Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN). Ngày 29/7/2014 - một ngày trước buổi hội thảo - công an Nha Trang đã bắt giữ không có lý do một thành viên của MLBVN là blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh với mục đích ngăn chặn blogger này đang trên đường ra Hà Nội tham dự buổi hội thảo theo lời mời chính thức của Đại sứ quán Úc. Ngày 30.7.2014 - trước giờ khai mạc hội thảo - công an Hà Nội đã bao vây chị Trần Thị Nga và Huỳnh Phương Ngọc, ngăn chận hai công dân này đến tham dự. Ngay sau khi buổi hội thảo chấm dứt, blogger Phạm Thanh Nghiên, đại diện MLBVN, đã bị an ninh bao vây, khủng bố tinh thần, tìm cách áp đảo về đồn công an cho đến khi các thành viên của MLBVN phải liên lạc với người của Đại sứ quán Úc đến tận hiện trường để can thiệp.   Từ những vụ việc trên, MLBVN nhận định rằng: 1. Tất cả những "thiện chí" mà chính phủ Úc ghi nhận đối với nhà nước Việt Nam tại bàn ngoại giao đã bị chính các bộ phận an ninh chứng minh bằng hành động rằng: đó là những lời hứa hẹn suông. Hành vi tùy tiện bắt giữ và ngăn chận công dân Việt Nam tham dự hội thảo là "bài thuyết trình" sống và thật nhất của an ninh Việt Nam, là những phủ định hùng hồn nhất gửi đến chính phủ Úc sau khi quốc gia này cho rằng có sự "thể hiện thiện chí ngày càng tăng của Việt Nam trong tiến trình phối hợp với các đối tác trong và ngoài nước về các vấn đề nhân quyền. Thiện chí này cũng được thể hiện trong sự tham gia đầy tính xây dựng của Việt Nam vào Đánh giá định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền (UPR) năm 2014..." như đã ghi trong thư của Đại sứ quán Úc gửi mời khách tham dự buổi hội thảo. (*) 2. Vấn đề mà Đại sứ quán Úc, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Liên minh châu Âu muốn cùng với chính phủ Việt Nam, đảng CSVN, cộng đồng ngoại giao và xã hội dân sự thảo luận "có thể sử dụng phương tiện truyền thông mới như thế nào để thúc đẩy nhân quyền trong khuôn khổ của hệ thống chính trị Việt Nam" (*) đã có kết luận ngay cả trước khi buổi hội thảo bắt đầu: - Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền, tự do thể hiện quan điểm bị bắt cóc, bao vây và tự do hội họp bị ngăn chặn, cấm đoán. - Những cam kết như "Việt Nam cũng chấp nhận những khuyến nghị rằng Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho một môi trường thuận lợi để các nhà hoạt động xã hội dân sự có thể tự do hội họp và thể hiện quan điểm của mình" (*) của Bộ ngoại giao Việt Nam đã bị vi phạm và chà đạp bởi Bộ Công an Việt Nam qua những hành vi của bộ phận này đối với công dân Việt Nam. - Phương tiện truyền thông mới không thể hoạt động trong "khuôn khổ của hệ thống chính trị Việt Nam"hiện thời vì đó là một khuôn khổ vi phạm hiến pháp, đứng trên luật pháp, bất chấp dư luận thế giới, đi ngược lại mọi cam kết quốc tế bởi một nền công an trị. 3. Sự can thiệp ngay lập tức của Đại sứ quán Úc để bảo vệ cho blogger Phạm Thanh Nghiên đã nói lên sự quan tâm đầy trách nhiệm từ phía tổ chức đối với những khách mời. Mạng Lưới Blogger Việt Nam tin rằng sự quan tâm này sẽ được tiếp tục trong những thời gian tới với những thử thách, đe dọa, bao vây và khủng bố tinh thần áp đặt lên blogger Phạm Thanh Nghiên nói riêng và các blogger khác nói chung đang nỗ lực góp phần biến những cam kết về nhân quyền mà chính phủ của họ, trong vai trò một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã chấp nhận thi hành, thành hiện thực. Ngày 30 tháng 7 năm 2014 Mạng Lưới Blogger Việt Nam (*) Thư của Đại sứ quán Úc gửi mời tham dự buổi hội thảo "Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay".http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/07/hoi-thao-truyen-thong-phi-nh... nguồn: mangluoiblogger.blogspot.com
......

Hội thảo "Truyền thông phi Nhà nước ở Việt Nam"

Cuộc hội thảo ‘Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện đại’ do đại diện một số cơ quan ngoại giao nước ngoài tổ chức tại đại sứ quán Úc ở Hà Nội hôm nay diễn ra với sự vắng mặt của một số khách mời từ các tổ chức xã hội dân sự. Một số thành viên Hội CTNLT (từ trái) Đinh Nhật Uy, Phan Thanh Hải, Dương Thị Tân, Phạm Bá Hải, Nguyễn Đan Quế, Thích Không Tánh, Trần Thị Hài, Phạm Chí Dũng – Chùa Liên Trì, Rằm tháng giêng 2014 - RFA files   Nguyên nhân vì sao? Gia Minh hỏi chuyện luật sư Nguyễn Văn Đài, điều phối viên của Hội Cựu Tù Nhân Lương tâm và thành viên sáng lập của Hội Anh em Dân chủ, có người bị ngăn chặn đến tham dự cuộc hội thảo vừa nêu. Trước hết luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết: Luật sư Nguyễn Văn Đài: Chính phủ Úc hằng năm đều dành ra ngân khoản lớn cho vấn đề cải thiện pháp luật cũng như cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam. Cách đây một thời gian, ông trợ lý ngoại trưởng Úc sang thăm Việt Nam, ông ấy có đến gặp tôi cùng bà phó đại sứ cùng ông tùy viên về chính trị nhân quyền; trong cuộc nói chuyện đó họ có hỏi ý kiến tôi làm sao để khoản tiền đó của Úc hữu ích nhất trong việc cải thiện nhân quyền ở Việt Nam. Tôi nói với họ, trước đây trong những lần tổ chức phần lớn phía Bộ Ngoại giao và sứ quán Úc chỉ mời đại diện của chính quyền Việt Nam mà không mời đại diện của các tổ chức xã hội dân sự. Tôi đề nghị họ chia đôi ra: trong đó những cuộc hội thảo về nhân quyền hay những chuyến đi tham quan Úc, Bộ Ngoại giao Úc nên mời mỗi phía một nửa. Và ý kiến của tôi được họ chấp nhận. Đây là lần đầu tiên cuộc hội thảo nhân quyền có sự tham gia của cả hai phía: đại diện chính quyền cũng như đại diện của các tổ chức xã hội dân sự. Vừa qua Đại sứ quán Úc có gởi giấy mời rất nhiều, trong đó Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm có anh Phạm Bá Hải và bên Hội Anh em Dân chủ có ba người được mời. Anh Phạm Bá Hải bị ngăn chặn rồi, Hội Anh em Dân chủ có hai người bị chặn, chỉ có một người đến được thôi. Hiện cuộc hội thảo đang diễn ra nên tôi chưa thể biết nội dung cụ thể là thế nào. Gia Minh: Ông có thể cho biết hai người khác (của Hội Anh em Dân chủ) bị chặn là ai? Luật sư Nguyễn Văn Đài: Một là anh Nguyễn Văn Tráng, sinh viên quê Thanh Hóa. Từ sáng hôm qua một nhóm an ninh từ 3 đến 5 người đi vào trong lớp học cùng anh ta, tối hôm qua họ canh cả đêm và đến nửa đêm gây áp lực với chủ nhà đuổi anh ta về quê. Không còn nơi tá túc nên đang đêm anh phải về quê cách Thanh Hóa đến 30 cây số. Luật sư Nguyễn Văn Đài   Một thành viên khác là chị Tạ Minh Thư. Hôm qua an ninh đến gia đình chị gặp bố mẹ của chị và yêu cầu hôm nay giữ chị ta ở nhà không cho đi. Còn thành viên khác (của Hội Anh em Dân chủ) đã đi được đến Đại sứ quán Úc. Gia Minh: Đây có phải lần đầu tiên những thành viên muốn tham gia những tổ chức do nước ngoài tổ chức bị ngăn chặn không? Luật sư Nguyễn Văn Đài: Đây không phải là lần đầu tiên. Rất nhiều các cuộc mời của những cơ quan ngoại giao hay các tổ chức quốc tế đối với những thành viên của các tổ chức xã hội dân sự hay những thân nhân của những gia đình tù nhân đều bị ngăn chặn. Ngay như hôm qua, vợ của mục sư Nguyễn Công Chính theo kế hoạch được ông đặc sứ Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo tới thăm, nhưng chính quyền Gia Lai đã ngăn không cho ông này đến nhà bà mục sư Nguyễn Công Chính. Họ đe dọa những vùng như vậy còn Fulro…, nên không thể đến được. Gia Minh: Theo nhận định của luật sư thì vì sao nhà nước Việt Nam một mặt vẫn tiếp xúc với các tổ chức nước ngoài, một mặt vẫn cứ ngăn chặn những người trong nước như thế? Luật sư Nguyễn Văn Đài: Chúng ta cần phải hiểu bản chất của cộng sản là độc quyền lãnh đạo. Tất cả những gì họ không quản lý được, họ đều ngăn chặn. Các tổ chức xã hội dân sự là do những người dân Việt Nam thấy có nhu cầu cần thiết và họ tự nguyện. Cái này nằm ngoài sự kiểm soát hay sự điều khiển của Nhà nước nên chính quyền không muốn. Đồng thời họ không muốn các tổ chức xã hội dân sự ngày càng có giao lưu rộng rãi với các tổ chức quốc tế, cũng như có những hoạt động ở trong nước mà sẽ gây ảnh hưởng đến người dân. Đối với bản chất của đảng cộng sản không bao giờ muốn điều đó; cho nên họ tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng hay sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự trong các sinh hoạt quốc tế cũng như ở trong nước. Gia Minh: Theo luật sư xu thế phát triển trên thế giới, đặc biệt phát triển của công nghệ thông tin, thì mức độ hiệu quả của việc ngăn chặn như thế đến đâu? Luật sư Nguyễn Văn Đài: Trong chừng mực nào đó cũng có hiệu quả; ví dụ như trong ngày hôm nay có nhiều người không thể tham dự trực tiếp hội thảo. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bảo thì việc ngăn chặn đó không còn có hiệu quả nhiều vì người dân Việt Nam hay các tổ chức xã hội dân sự đều bằng cách này hay cách khác họ đều có thể tiếp cận với những kiến thức như vậy. Và họ đều có thể quan hệ, giao lưu với đại diện của chính phủ các nước hay các tổ chức quốc tế thông qua các trang mạng xã hội hay hệ thống Internet. Theo tôi việc ngăn chặn như vậy càng ngày càng giảm đi tính hiệu quả của nó và đến một lúc nào đó, chính quyền cũng phải ý thức điều này và từ bỏ cách thức làm như vậy. Gia Minh: Riêng đối với các tổ chức xã hội dân sự, phát triển của những nhóm đó thế nào? Luật sư Nguyễn Văn Đài: Sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự, các nhóm chính trị và ngay cả những đảng phái chính trị, khi các trang mạng xã hội ra đời và phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì phải lợi dụng một cách triệt để những thành tựu của khoa học kỹ thuật đó để quảng bá tư tưởng, kiến thức về xã hội dân sự cũng như những về dân chủ, nhân quyền cho người dân. Đây là cuộc cách mạng thay đổi về tư tưởng cũng như về nhận thức. Đồng thời thông qua những trang mạng đó tạo sự liên kết với nhau. Ban đầu là những cá nhân lên tiếng hoạt động một cách đơn lẻ, nhưng dần dần hình thành ra các nhóm, các tổ chức. Khi có nhiều nhóm, nhiều tổ chức sẽ tạo ra tính lan tỏa trong xã hội. Như vậy hình thành nên những nhóm lớn hơn, tổ chức lớn hơn và thậm chí hình thành những liên minh. Đến khi đạt đến trình độ hay mức độ cao hơn nữa thì sẽ tạo ra một sự thay đổi trong xã hội. Đó là một quá trình phát triển đi lên. Tuy nhiên trong những năm qua, các tổ chức xã hội dân sự hay phong trào chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân. Nhưng tôi tin tưởng trong những ngày tháng tới, sẽ có những bước phát triển nhanh hơn và mạnh mẽ hơn để đem đến sự tốt đẹp hơn cho đất nước Việt Nam. Gia Minh: Cám ơn luật sư Nguyễn Văn Đài. Tin cho biết ngoài những thành phần thuộc Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm và Hội Anh em Dân chủ bị ngăn chặn đến tham dự hội thảo, còn có những thành viên của các nhóm xã hội dân sự khác nữa như Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh thuộc Mạng Lưới Blogger Việt Nam bị chặn không được ra Hà Nội chị Nguyễn Thị Nga và Huỳnh Phương Ngọc, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam cũng bị bao vây tại nhà nghỉ Trúc Sơn ngay ở Hà Nội.   nguồn: rfa.org/vietnamese
......

THƯ GỬI BÉ ĐẬU

Con thương yêu của bố, Bé Đậu Khi sinh con ra trên đời này thì bố mẹ đã đến tuổi có thể sắp có cháu, đó là một thiệt thòi rất lớn với con. Mẹ hay đùa là bố mẹ chỉ còn khoảng ba chục năm nữa ở bên con, biết làm sao được với số phận con nhỉ. Nhưng bố vẫn ngàn lần cảm ơn số phận đã mang con đến cho bố mẹ, bố chấp nhận những khó khăn không thể tránh khỏi khi mai này con lớn lên trong cảnh cha già con cọc. Chính vì thế bố muốn viết thư này cho con để mai sau, khi nhỡ ra con còn chưa hiểu việc đời mà bố đã đi xa thì đây là những dòng tâm tư để con hiểu được lòng bố.   Con được sinh ra trong hoàn cảnh xã hội rất rối ren, lòng người ly tán, đất nước bị xâm lăng. Gia đình mình vốn thuộc loại công thần trong xã hội miền Bắc, được nhiều người quyền cao chức trọng cũng như người dân nể trọng. Nếu xã hội vẫn bình bình như trước đây thì đó là một lợi thế mà chắc chắn con sinh ra sẽ được đủ đầy hơn mọi người. Nhưng than ôi, cái chế độ mà gia đình ta cũng như nhiều gia đình khác đổ cả máu và mồ hôi để phụng sự nó hàng chục năm về trước đã không còn vì đất nước, vì nhân dân nữa. Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được. Tất cả những điều đó là hậu quả của sự nói dối. Người ta nói dối để có nhiều người ủng hộ cách mạng cướp chính quyền. Người ta nói dối để dân tộc lao vào đánh nhau như quân thù hòng phục vụ mưu đồ của nước lớn. Người ta nói dối để giữ vững quyền lực sinh sát điều khiển xã hội muôn đời. Người ta nói dối để người dân tự hào trong vũng lầy nghèo đói. Kẻ nào dám thốt lên sự thật ngược ý họ thì không những bản thân mà gia đình sẽ khốn nạn. Thế rồi khi sống trong sự dối trá hơn nửa thế kỷ, cả xã hội dần quên đi những gì thuộc về quy luật của tự nhiên, đó là sự thật. Không có sự thật thì vĩnh viễn không cái gì có thể tồn tại và phát triển được. Cái cây muốn tồn tại được thì cái rễ phải lần tìm đến chỗ có nước, cái lá phải vươn đến ánh mặt trời. Sẽ ra sao nếu nó bị đánh lừa đến chỗ không có nước, không có nắng... con người cũng như vậy thôi con ơi.   Sự thật là điều kiện sống còn để mọi cơ thể sống trong tự nhiên hay cấu trúc xã hội phát triển. Mọi cơ thể sống thì phải có sự trao đổi chất, nếu thông tin phản hồi méo mó thì mọi cấu trúc sống sẽ không thể tự hấp thu hay loại bỏ những gì cần thiết trong quá trình tồn tại và phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, và vì thế sự thật mới quan trọng đến nhường nào. Thế mà vì sự thật, đã bao người thức tỉnh vùng lên đấu tranh trong xã hội để rồi nhận lấy kết cục bi thảm khôn lường. Cũng có những người vì mạng sống của họ, vì gia đình của họ, họ phải chấp nhận sống chung với sự giả dối. Bố không trách họ vì quyền được sống của mỗi con người là tối cao, nhưng nếu cứ chấp nhận mãi như vậy thì hậu quả đã rõ ràng. Đó chỉ là cách sống mòn và thế hệ sau đã lãnh đủ.   Bố có thể có nhiều lựa chọn. Nếu chấp nhận cuộc sống giả dối, tung hô những điều dối trá, tận dụng những quan hệ và lợi thế sẵn có thì sẽ chả thiếu thứ gì. Rồi khi mai này đất nước tan hoang, ta có thể ra nước ngoài sinh sống không cần biết nước Việt ra sao. Rồi con sẽ được sống trong môi trường bình yên với những điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa tốt nhất. Nhưng con ơi, không ai chọn được tổ quốc, không ai lựa được gia đình. Bố yêu con như thế nào thì bố cũng yêu mảnh đất này như thế. Bố không thể chấp nhận làm kẻ bỏ chạy mà phải chiến đấu bằng được để giữ mái nhà tổ quốc này cho con. Bố không thể nhởn nhơ sống cho riêng mình khi xung quanh toàn khổ đau và nước mắt. Đối với bố đó không phải là hạnh phúc. Bố ước gì con được sống trong một tương lai tốt đẹp hơn bố. Con được sống trong tình thân ái, trong niềm tin, niềm hân hoan và những thứ mà một con người đáng được hưởng.   Có thể bố sẽ thất bại. Có thể bố sẽ không được ở bên con ba mươi năm còn lại như dự tính. Nhưng dù thế nào bố cũng đã quyết định thế rồi, và nếu cuộc đời con gặp những khó khăn vì bố gây ra thì xin con hãy nhớ về một ông bố đã tuyệt vọng chiến đấu để con có cuộc sống hạnh phúc đích thực mà tha thứ cho bố. Bố yêu con rất nhiều, bé Đậu tuyệt vời của bố! Hà Nội,  2h30 sáng ngày 30/7/2014 Nguyễn Lân Thắng Nguồn: Facebook Nguyenlanthang  
......

Xuyên tạc tư tưởng Phan Chu Trinh và lo sợ tâm huyết Nguyên Ngọc

Dân Luận: Những lập luận trong bài viết này cho thấy sự bế tắc về tư duy của những dư luận viên, những người đang tìm cách bảo vệ Đảng CSVN đang rễu rã cả về nhân sự và tư tưởng hiện nay. Một hội thảo bàn về tư tưởng khai dân trí và đấu tranh bất bạo động của Phan Chu Trinh cũng bị coi là "kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện tại" thì không còn gì để nói. Một nhà văn dù tuổi đã cao nhưng vẫn đau đáu về vận mệnh của dân tộc, của đất nước bị nghi ngờ là thành viên "Việt Tân" thì đảng Việt Tân quả là có uy tín và thu hút được nhân tài! Viết như vậy khác nào quảng bá cho Việt Tân không?   (Và sau đây là bài viết Tọa đàm "Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014": Nhà văn Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên Việt Tân" đăng trên trang blog Mõ Làng. Đây là trang thường xuyên chuyên chở quan điểm của nhà cầm quyền CSVN.) --------------   Tọa đàm "Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014": Nhà văn Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên "Việt Tân Mẹ Đốp -- Mõ Làng Ừ thì nhà văn Nguyên Ngọc cùng quê với nhà chí sỹ Phan Châu Trinh nên chuyện giới văn nghệ, trí thức tọa đàm về tư tưởng của cụ âu cũng là chuyện hợp lý. Bởi để mà hiểu chính những danh nhân tại những vùng miền nhất định thì không gì được nghe những con người tại đó nói. Nhưng ngay từ đầu đã có những dự cảm không lành về buổi tọa đàm này, đơn giản đã quá quen với những gì nhà văn của "Đất nước đứng lên" đã từng làm trong thời gian gần đây. Đầu tiên là cái thông báo về buổi tọa đàm "Tư tưởng Phan Châu Trinh và Việt Nam 2014?". Sau những thông báo về thời gian và địa điểm và các thành phần tham gia với vai trò là Diễn giả (Nhà văn Nguyên Ngọc), người dẫn chương trình (TS. Đặng Hoàng Giang (CECODES) thì cái tin thông báo đó trích dẫn một đoạn nói của Nhà chí sỹ lúc sinh thời được trích trong “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”, 1925): "Thương hại thay trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ lo tính toán để đè nén cái trí dân, để mà giữ chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên Tử cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu dân ngu quá, yếu quá không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất.” Dẫu biết rằng Tọa đàm để làm sáng rõ tư tưởng của người xưa luôn phải gắn với những tinh thần, hoàn cảnh của thời điểm hiện tại, kiểu "ôn cố tri tân"; giúp cho những con người hiện tại có nhìn thông, hiểu rõ những tư tưởng "vượt thời gian của người xưa và từ đó vận dụng, áp dụng vào trong thực tế. Nhưng tôi ngờ rằng, tư tưởng của Phan Chu Trinh lúc sinh thời không chỉ có từng đó là còn hiện thời và có sức sống cũng như những giá trị cho tới thời điểm hiện nay. Đoạn trích nói trên, dù hiểu theo phương diện nào thì đó cũng là một lời tố khổ của dân chúng thời nhà chí sỹ sống trong những năm tháng "một cổ hai tròng". Giai cấp Phong kiến và chủ nghĩa thực dân đã làm cho nước yếu, dân ngu, tham nhũng hoành hành, dân tình cơ cực và họa mất nước đã chỉ còn là câu chuyện của thời gian. Nhận thấy những hiểm họa "nô lệ" vào thời điểm đó không nhiều và đó cũng chính là động lực để nhà chí sỹ khởi sự cho một con đường cách mạng mới. Tư tưởng "chấn dân khí, Khai dân trí, Hậu dân sinh" phản ánh được nhu cầu thực tế và phương cách để giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi họa thực dân đang cận kề. Nhưng rồi, những bế tắc mang tính thời đại và lớp người như Nhà Chí sỹ (Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp....) khiến tư tưởng đó đi đến một ngõ cụt nhất định và mãi sau này mới có thế hệ sau tiếp nối. Nhưng, thử hỏi rằng, nói ra câu chuyện này hôm nay, phải chăng những người tổ chức Tọa đàm là Nhà văn Nguyên Ngọc và TS Đặng Hoàng Giang đã nhận thấy có sự tương đồng trong thời điểm hiện tại? Phải chăng những người này đã nhìn quá bi quan về thời cuộc hiện tại và nếu có những hiện trạng đáng buồn đó thì nên chăng việc vận dụng tư tưởng của Phan Chu Trinh sẽ là giải pháp ổn thỏa nhất? Về câu hỏi thứ nhất: Việt Nam hiện tại có như bối cảnh vào thời điểm Phan Chu Trinh sống và hoạt động không? Câu trả lời rõ ràng là không, đây không phải là khẳng định của riêng người viết. Không ai có thể phủ nhận những vấn nạn mà hầu hết các nước trên thế giới dù đã gặp phải, sự khác nhau chẳng qua là ít hay nhiều và mức độ mà thôi, trong đó tham nhũng được xem là một trong nguy cơ gốc, nguyên nhân gốc gây nên những sự xáo trộn trong xã hội; làm biến dạng những căn nguyên cốt lõi của cuộc sống. Nhìn những cuộc chính biến xảy ra tại Libi, Yrac hay bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới thì không khó để nhận biết điều này. Người dân đã từ vị thế của những người cảnh báo, làm chức năng "tham mưu" và yêu cầu Nhà nước đã thay đổi nhưng rồi nhà nước đó vẫn lặng thinh, làm ngơ như đó chỉ là chuyện của dân. Kết cục cuối cùng là họ bị lật đổ và sức mạnh tạo nên những biến động đó không ai khác chính là những người dân. Ở Việt Nam, họa "tham nhũng" đã được người dân cảnh báo và Nhà nước đã có những động thái lắng nghe. Cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam chưa có một kết quả nào thực sự rõ nét và chưa ai dám khẳng định là nó sẽ tạo ra những sự chuyển biến thần kỳ nào đó nhưng ít nhất ở Việt Nam, nhà nước đang có những quyết tâm rất căn bản trong công cuộc này. Bước đầu đã có những động thái quyết liệt và không khoan nhượng cho dù cá nhân đó đã hạ cánh an toàn. Xem thêm: http://molang0205.blogspot.com/2014/07/khong-buong-khong-nhan-nhuong-kho.... Trở về những năm tháng mà Phan Chu Trinh từng sống và hoạt động dưới phong trào Dân chủ trong nước. Sau những tiếng súng đầu tiên tại Bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) và với sự hẫu thuẫn đến bạc nhược và đê hèn của Chính quyền Phong kiến Nhà Nguyễn chỉ trong vòng một thời gian ngắn, thực dân Pháp đã hoàn tất việc thiết lập bộ máy cai trị của mình từ Trung ương đến địa phương; Chính quyền Phong kiến lúc ấy không hơn gì "cái bình phong" và không có giá trị trên thực tế. Sự thật đau lòng này muốn khẳng định vào thời điểm đó nước ta đã không còn chủ quyền. Việc tồn tại của những chế độ Khải Định, Bảo Đại và hệ thống chuyên chính phong kiến cũng là cách chủ nghĩa thực dân ru ngủ nhân dân ta trong một định kiến ý thức hệ. Chưa hết, chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp đã tạo ra những hố sâu ngăn cách nhất định trong dân cư 03 miền và tạo ra những sự đối kháng nhất định nhằm tạo ra ranh giới phục vụ việc cai trị. Sự phân biệt trong giáo dục vô tình đã đẻ ra một nền văn hóa có nhiều sự phân tầng, phân biệt nhất định và cùng với sự khó khăn về kinh tế, chuyện được đi học đã là một điều quá hạn hữu và phi thực tế. Với những thực tế khó khăn đó, chúng ta vinh danh cụ Phan Chu Trinh khi đã nhìn ra những cửa sinh cho dân tộc Việt Nam. Ba vấn đề trụ cột "dân trí, dân khí và dân sinh" chỉ chờ có những lực lượng cách mạng đúng thời cuộc dẫn đường để đi đến thắng lợi. Chỉ tiếc rằng, cụ Phan mới chỉ làm được 1/2 chặng đường mà sứ mệnh lịch sử giao phó. Cùng với cụ Phan Bội Châu, những thất bại trong đau đớn của Cụ Phan Chu Trinh ở Trung Kỳ mãi là những khúc ca bi tráng trong lịch sử giải phóng của dân tộc. Nhìn vào quá khứ, ngẫm về hiện tại và tương lai, thế hệ hôm nay trân trọng và tiếp thu những gì mà thế hệ Cụ Phan Chu Trinh đã từng làm. Và rằng, "chấn dân khí, Khai dân trí, Hậu dân sinh" thì đời nào cũng phải làm nhưng lấy tinh thần chủ đạo của Cuộc Tọa đàm là "Điểm cơ bản của Phong trào Duy Tân do ông khởi xướng là bất bạo động và công khai hoạt động, nhắm tới cải tổ xã hội, giáo dục tinh thần tự do, xây dựng những cá nhân độc lập và có trách nhiệm, phổ biến các giá trị văn minh phương Tây như pháp quyền và dân quyền" (Trích "Thông báo Tọa đàm "Tư tưởng Phan Châu Trinh và Việt Nam 2014?") chẳng khác nào kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện tại. Tình thế hiện tại không như những năm đầu Thực dân Pháp sang xâm lược nước ta và việc áp dụng một cuộc bạo động cách mạng" là ý tưởng của những thế lực bên ngoài. Hiểu và vận dụng tư tưởng Phan Châu Trinh ở tư tưởng "chấn dân khí, Khai dân trí, Hậu dân sinh" nên chăng là đẩy mạnh, tăng cường những nội dung này vào đời sống xã hội. Với những gì được thể hiện được trích "Thông báo Tọa đàm "Tư tưởng Phan Châu Trinh và Việt Nam 2014?"), tôi ngờ rằng, Nhà văn Nguyên Ngọc và Tiến sỹ Đặng Hoàng Giang đang tổ chức một cuộc Tập huấn "Bất bạo động" mà tổ chức "Việt Tân" vẫn thường tổ chức cho các mạng lưới, cơ sở trong nước. Có chăng chỉ khác là "Cuộc tọa đàm" lần này được tổ chức công khai.   nguồn: danluan.org
......

61 đảng viên đòi đảng CSVN phải dân chủ hóa

Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng CSVN   Ngày 28 tháng 07 năm 2014 THƯ NGỎ Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam   Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.   Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ. Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua. Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị. Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:   1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước. Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị. Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình. 2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v… Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình. Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi. Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.   Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc! - - -   DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội. 7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội. 36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.   Nguồn: http://anhbasam.wordpress.com/
......

Putin: Sự thèm khát quyền lực của nước Nga

Ngay khi chiếc máy bay dân dụng MH-17 rơi trên phần đất Ukraine do bị hỏa tiển Buk bắn, cả thế giới chỉa mũi dùi vào Nga nơi được xem là dung dưỡng, huấn luyện và cung cấp vũ khí cho phiến quân thân Nga do Igor Strelkov dẫn đầu chống lại chính phủ Ukraine. Putin vốn là người bình tĩnh đến lạnh lùng cũng không khỏi chới với. Phản ứng mạnh mẽ, đồng bộ từ các lãnh đạo thế giới khiến một tổng thống dù có KGB đến mức nào cũng không khỏi rối trí. Đứa con nuôi thời vụ Igor Strelkov chẳng những không biết che chắn cho Putin mà còn huênh hoang khoe nhặng lên trên trang mạng xã hội rằng: “Chúng tôi đã cảnh cáo các người đừng bay trên vùng trời của chúng tôi”. Putin không còn cách nào khác là tạm im lặng. Không những ông ta chọn giải pháp im lặng mà còn buộc tất cả truyền thông Nga phải im lặng theo ông ta. Thói quen “chỉ đạo truyền thông” của Putin từ khi lên cầm quyền đến nay đã như bát nước đầy, giọt nước cuối ấy đã lên tiếng tẩy chay kênh truyền hình Russia Today vì Putin buộc nói theo cung cách của Liên xô chứ không phải của nước Nga dân chủ. Người phóng viên phản kháng ấy là cô Sara Firth, nhân viên làm việc tại Anh của kênh truyển hình này. Sara Firth không phải là người đầu tiên, trước cô là ban nhạc nữ Pussy Riot, từng chế giễu châm chọc Putin nơi công cộng khiến ông tổng thống thích cởi trần này điên tiết gô cổ cho biết mặt anh hùng! Nước Nga sau một thời gian dài phân hóa, tan tác và tưởng chừng như không vực dậy nổi đã vươn vai trong tám năm Putin cầm quyền. Người dân từ đói, tới đủ ăn và dần dà vượt qua ngưỡng cửa mà trong suốt thời gian cộng sản họ không ngớt mơ mộng tới: sống sung túc và dư giả. Nga xem Putin là thần tượng, là cứu rỗi và ông ta nhanh chóng thay thế Lenin đứng trên các tượng đài trong nhiều gia đình người Nga. Nhân dân Nga thừa nhận công trạng của tổng thống Putin vì đã đưa nước Nga ra khỏi bờ vực của đói nghèo, tự kỷ, và bị khinh thị bởi thế giới chung quanh. Nước Nga với lịch sử huy hoàng không cho phép nó thua kém bất cứ nước nào tại Châu Âu. Dù sao thì Nga cũng từng dẫn dắt phân nửa thế giới dưới màu cờ đỏ. Putin nhìn thấy và ông đã làm được điều đó. Hai năm liền là người của năm do tạp chí Times bình chọn. Hai lần thủ tướng và hai lần trong cương vị tổng thống, Putin đã chiếm trọn cảm tình của người dân Nga dành cho ông. Tuy nhiên chính cái niềm tự hào, khuynh hướng dân tộc cực đoan của người dân Nga cộng với giải pháp bạo lực của Putin trong chính sách đối với các vùng đòi tự trị đã đẩy ông ta vào con đường không lối thoát. Năm 2008 Putin nhúng tay vào cái gọi là yểm trợ người dân miền Nam Ossetia để cưỡng chiếm Gruzia. Tháng Ba năm 2014 một lần nữa quân đội Nga lại mang quân vào lãnh thổ Crimea để bảo vệ kiều dân Nga và cuộc lật đổ chính quyền Ukriane êm ái đã diễn ra. Putin lấy đất đai của người khác cho dân Nga cai trị bên ngoài lãnh thổ của Nga đã khiến thế giới tự hỏi khi nào thì Putin ngừng lại vai trò chính phục những nơi nào có người Nga sinh sống khi chế độ ấy không đồng thuận với gấu Nga trong chính trị cũng như kinh tế. Putin không chần chừ khi dùng chính sách mạnh bạo với những ai không đồng ý với cách mà Putin bẻ cong luật pháp, cưỡng bức tự do báo chí, đàn áp đối lập và bỏ tù bất cứ ai chống lại ông ta. Cách mà ông xử sự vào những năm đầu thế kỷ 21 khiến người ta nhớ lại thời vàng son của Xô viết khi tất cả đều ngẩng cao đầu tung hô thần tượng Lenin mặc cho bụng đói mắt hoa và tem phiếu dẫn đường phía trước. Dân chúng Nga thiếu ăn nên mơ ngày mà đất nước của họ chinh phục thế giới bằng bất cứ phương tiện gì. Putin đã làm điều đó, và dân Nga vỗ tay tán thưởng. Người dân nào sản sinh ra chính phủ ấy là một câu đáng suy nghĩ, ít nhất trong trường hợp này. Putin lấy dầu hỏa của đất nước làm vũ khí và nguồn tài nguyên trời cho ấy đã dần kiệt quệ khi bị khai thác tận cùng giới hạn. Người Nga cảm thấy điều đó đang tiến tới dần với nền kinh tế "tự ăn lấy mình" và giải pháp mà họ trông chờ vẫn là thụ động dựa vào cơn hứng khởi của Putin. Putin làm gì dân cũng tán thành. Putin sai thì toàn dân im lặng như không biết. Putin thắng thì cả nước mừng như chính mình chiến thắng. Hội chứng dựa dẫm và tôn sùng lãnh tụ ấy đã đẩy Putin vào vụ máy bay MH-17 vì kẻ chiến thắng nào cũng có thói quen xem sức mạnh là cứu cánh của mọi giải pháp. Sức mạnh của Putin lần này xem ra khó được dân Nga hưởng ứng bởi cả thế giới lên án và đang cùng nhau vây quanh con gấu Nga nay đang lẻ loi trong khu rừng Bạch dương trắng toát cô đơn. Dân sẽ không đứng về kẻ yếu. Putin đã tự làm yếu mình khi dùng con cờ Igor Strelkov phá hoại Ukraine. Putin tính sai nước cờ và người dân Nga đã bắt đầu tỉnh ngộ. Putin có lỗi với dân tộc Nga khi tán dương và song hành với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của một bộ phận dân chúng. Putin xem thường đối lập vì đã đưa ra những ý kiến khác biệt. Putin giam giữ niềm tin vào luật pháp của người bất đồng chính kiến qua sự hò hét của dân chúng đòi đưa ông lên làm vua vĩnh viễn, miễn là Nga trở thành một đế chế như xưa kể cả một đế chế được xây bằng máu xương đồng loại. Hai trăm chín mươi tám con người với máu thịt tung tóe trên bầu trời là tiếng chuông nguyện cuối cùng cho Putin và cho nước Nga, với những thần dân tin vào lãnh tụ một cách mù quáng và rồ dại. Thế giới đã thấy rõ hơn sức mạnh của vũ khí Nga cũng như tác hại của nó nếu qua tay một nhà độc tài máu lạnh. Nó còn nguy hiểm hơn vạn lần nếu được sử dụng bởi cả một dân tộc khi chỉ cần máu và ánh sáng lóe lên từ gươm bén mở đường cho sự phồn vinh mà họ ao ước. Putin đang sống trong sự may rủi ấy. Liệu thế giới có để cho ông ta thử thời vận thêm một lần nữa hay không? Nguồn: canhco's blog
......

Lãnh đạo nào của VN chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc Báo cáo viên Liên hiệp quốc?

Vụ việc Công an TP.HCM và công an một số địa phương ngăn chặn không cho ra khỏi nhà đối với những người đấu tranh dân chủ vào ngày 25/7/2014 và cả một số ngày sau đó là bằng chứng mới nhất, sống động nhất và cũng lộ liễu nhất về việc “Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người”. Ngày 25/7 cũng là thời điểm mà một đoàn giám sát về tự do tôn giáo của Liên hiệp quốc dẫn đầu bởi ông Heiner Biederfeldt, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, vào TP. HCM để gặp gỡ một số chức sắc tôn giáo và nhân chứng, nhằm kiểm chứng tính thực chất về việc “Việt Nam chấp nhận các khuyến nghị của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc” là như thế nào.   Không chỉ bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, bà Dương Thị Tân (vợ tù nhân Điếu Cày Nguyễn Văn Hải), cựu tù nhân chính trị Phạm Bá Hải, mà hai mục sư Tin Lành là Nguyễn Hoàng Hoa và Nguyễn Mạnh Hùng cũng bị công an địa phương ngăn chặn ngay tại nhà riêng nhằm không cho tiếp xúc với ông Heiner Biederfeldt – Báo cáo viên đặc biệt của LHQ. Bất cứ động tác nào của công dân hợp pháp muốn rời khỏi nhà đều bị nhân viên an ninh và cảnh sát xô đẩy bằng hành vi thô bạo và hoàn toàn bất hợp pháp. Vi phạm cam kết Trước khi được chấp thuận tham gia chính thức vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, Nhà nước Việt Nam đã cam kết trước chủ tịch Hội đồng nhân quyền 14 điều, trong đó có nội dung sẽ mời báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo đến Việt Nam, và “sẽ tạo điều kiện tốt nhất” để báo cáo viên này được tiếp xúc với những ai mà Liên hiệp quốc thấy cần gặp. Vào nửa đầu năm 2014, cam kết trên được giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam là ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, và ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ, cùng Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam nhiệt tình lặp lại trong những cuộc làm việc với Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman và Cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hoa Kỳ. Cam kết về tự do tôn giáo cũng được đưa vào báo cáo chính thức của Phái đoàn Việt Nam tại buổi xem xét báo cáo đầu ra của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc vào tháng 6/2014 tại Thụy Sĩ. Một ủy viên Bộ chính trị khác và được xem là ứng viên tiềm tàng cho cương vị Tổng bí thư tại đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 vào năm 2016 – ông Phạm Quang Nghị – cũng vừa đưa ra khẩu hiệu “Việt Nam luôn bảo đảm nhân quyền” trong chuyến công du của ông ở Hoa Kỳ vào thời gian này. Để có được sự thuận thảo của các quốc gia trong khối Hiệp định đối tác thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Nhà nước Việt Nam đã chấp nhận tham gia vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc cùng các điều kiện về nhân quyền và dân chủ hợp lý mà cộng đồng quốc tế đòi hỏi. Tuy nhiên, bằng chứng ngăn chặn công dân mới nhất vừa nêu đã cho thấy đối với giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam, nói và làm vẫn là hai hành vi khác nhau về bản chất, không chỉ bản chất chính trị mà cả về tư cách chính khách. Tư cách chính khách? Sự khác biệt quá cơ bản về bản chất trên có lẽ đã là nguyên do đủ nặng ký để Nhà nước Úc, dù trước đây khá nhã nhặn với chính quyền Việt Nam, nay cũng phải tỏ thái độ kiên quyết hơn trong việc đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng hơn nữa các quyền con người. Ngay trước thềm cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Úc sẽ diễn ra vào cuối tháng 7/2014, chính quyền Việt Nam lại ghi thêm một điểm rất xấu về “thành tích” vi phạm nhân quyền. Việc vi phạm không chỉ lần đầu và mang tính hệ thống như thế tất yếu dẫn đến những câu hỏi không thể lảng tránh:   1. Việc ngăn chặn bất hợp pháp đối với công dân như trên là do Công an TP. HCM và công an một số địa phương “chủ động biện pháp nghiệp vụ”, hay những cơ quan công an này được chỉ đạo bởi những cấp lãnh đạo nào? 2. Nếu cơ quan công an được chỉ đạo, vậy những lãnh đạo nào của Việt Nam đã chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc với Báo cáo viên Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo?   3. Nếu việc chỉ đạo ngăn chặn công dân như thế thuộc về trách nhiệm của lãnh đạo Việt Nam – những người vẫn thường ra mặt hứa hẹn với Liên hiệp quốc và Hoa Kỳ 14 điều cam kết về nhân quyền, liệu Liên hiệp quốc và chính giới phương Tây nên có cái nhìn sâu xa và rạch ròi đến mức nào đối với những lãnh đạo ấy, kể cả một cái nhìn liên đới với hai dự luật Nhân quyền Việt Nam và Chế tài nhân quyền Việt Nam còn đang treo ở Thượng nghị viện Mỹ? Phạm Chí Dũng Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam Phát ngôn viên Hội Cựu tù nhân lương tâm Việt Nam Thành viên Diễn đàn Xã hội dân sự Việt Nam * * *What government leaders of Vietnam ordered to prevent citizens from meeting UN Rapporteur? Pham Chi Dung Ho Chi Minh City Department of Police and some local policemen barred some pro-democracy activists from going out of home from July 25, 2014 to some days later it’s the latest, liveliest and most blatant example about “State of Vietnam always respects and guarantees human rights.” On July 25, Mr. Heiner Biederfeldt, the UN Special Rapporteur on freedom of religion arrived HCM city to meet a number of religious leaders and witnesses to verify how the nature of the “Vietnam accepted the recommendations of the Human Rights Council of the United Nations” is. Not only Dr. Nguyen Dan Que, independent journalist Pham Chi Dung, Mrs. Duong Thi Tan(ex-wife prisoner Nguyen Van Hai Dieu Cay), former prisoner of conscience Pham Ba Hai were prevented at their home gate, but also two Protestant pastor Nguyen Hoang Hoa andNguyen Manh Hung did. Any movement of legitimate citizens to go out one’s houses was pushed inside by security policemen rudely and entirely illegally. Breached its Commitment Before being formally approved to be a member of the Human Rights Council of the UN, the Vietnam authorities committed 14 conditions, including inviting the UN special rapporteurs of religious freedom to Vietnam, and “creating the best conditions” so that he can meet anyone necessarily. In the first half of 2014, the above commitment was reiterated by the high-level leaders, President Truong Tan Sang, PM. Nguyen Tan Dung, the Foreign Ministry and the Ministry of Public Security in the meeting with U.S. Deputy Secretary of State Wendy Sherman and Special Advisor to the Government of the United States. Commitment to religious freedom also integrated in the official report of the Vietnam delegation at the UN Human Rights Council in June 2014, Switzerland. One other member of Politburo Mr. Pham Quang Nghi, considered as a potential candidate for General Secretary of the Communist party in the 12th congress in 2016, also just launched the slogan “Vietnam always ensures human rights” in his tour to the United States recently. By the agreement of nations within Trans-Pacific Partnership (TPP), the State of Vietnam was accepted to participate in the Human Rights Council at the United Nations with condition that it meets human rights and democracy the international community requires. However, the most last evidence to prevent citizens mentioned has shown that to senior leaders in Vietnam, “sayand do” are still two different acts, politically and morally. Morality of politician? The said difference may be the reason that Australia, though formerly quite courteous to the government of Vietnam, expressed their stronger stance in demanding the Vietnam state should respect more human rights. Ahead of the human rights dialogue between Vietnam and Australia on late July 2014, Vietnam government scored a very bad point about the “achievement” of human rights violations. Such not-to-be-the-first violation but systemic, inevitably leads to questions can not be avoided: 1. Illegal prevention with “actively operational measures” to the above citizens executed by either themselves – the HCMC police and some local police or order from the higher levels? 2. If the police was directed, so what leaders of Vietnam have instructed to prevent citizens contacting with the UN Rapporteur on freedom of religion? 3. If such direction to prevent citizens is the responsibility of Vietnam’s leaders who often come out promising with the UN and the U.S. about 14 commitments on human rights, what extend the UN and the Western world should have a deep and sharp look at these leaders, including a link with two bills, Vietnam human Rights Act and the Vietnam Human Rights Sanctions, are still pending in U.S. Senate? Pham Chi Dung, PhD. President of Independent Journalists Association of Vietnam Spokesman of Former Vietnamese Prisoner of Conscience Member of Vietnam’s Civil Society Forum Translated by Trang Thien Long
......

Xây ga tàu điện ngầm, phá xóa trung tâm Sài Gòn

SÀI GÒN - Đứng nhìn cảnh những hàng cây cổ thụ trước nhà hát thành phố bị đốn hạ, dọn dẹp lấy đất cho việc xây nhà ga tàu điện ngầm đang làm dư luận người dân thành phố Sài Gòn đắng lòng. Ở một đất nước mà chính quyền độc tài tự cho phép mình muốn làm gì thì làm, bất cần hỏi, bất cần biết ý dân, việc thay đổi hay phá hỏng di sản cảnh quan, kiến trúc của một đô thị như Sài Gòn là thứ độc tài khinh dân. Các công trình như Công viên Lam Sơn trước nhà hát thành phố, cây xanh hai bên công viên, đài phun nước ở giao lộ Lê Lợi - Nguyễn Huệ, vòng xoay Quách Thị Trang, tượng đài Trần Nguyên Hãn... sẽ lần lượt được di dời giải tỏa. Chúng tôi có mặt ở khu vực trung tâm Sài Gòn tan tành này vào ngày thứ hai của việc phá dọn mặt bằng. Nhìn những gốc dương liễu có tuổi đời năm sáu chục năm quanh đài phun nước bị bứng. Một người đàn ông lớn tuổi, xúc động nói. "Hồi tôi còn nhỏ, mỗi khi ra Sài gòn là chạy quanh bồn nước này, mua bong bóng, kẹo, bánh, chụp ảnh gia đình... Hồi đó đã có mấy cây dương liễu này rồi, bây giờ thấy nó chết tươi, mà chú có hiểu chết tươi là chết ra sao mới biết đau lòng cỡ nào." Trước và sau chúng tôi, những người đi đường dừng xe lấy điện thoại ghi lại những hình ảnh cuối cùng của đài phun nước, của hàng cây dầu cổ thụ. Điện thoại trong túi tôi cũng rung, tôi mở ra đọc được tin nhắn của một người bạn thân có nội dung: Sài Gòn đang bị xóa đó anh! Tôi hiểu người bạn này muốn nói gì. Sau biến cố 1975, ai cũng biết Sài Gòn đã mất vị thế lịch sử thủ đô của một chính thể dân chủ - tự do VNCH, giá trị văn hóa-văn minh của một đô thị kế thừa và thượng tôn ý thức dân tộc. Từ đó đến nay, Sài Gòn mất tên, đường phố thay danh... Sài Gòn bị chế độ cộng sản hành hạ bằng những thay đổi cực đoan và ấu trĩ, nhưng dù khu trung tâm Sài Gòn bị khoác hình thức và nội dung tuyên truyền nào, thì ít ra tinh anh Sài Gòn vẫn may mắn không bị xóa trắng như lần này. Một bà vừa đi mua sắm ở chợ Sài Gòn ra, nói. "Tại sao họ không xây ga điện ngầm ở khu công viên 23/9 cho dễ coi. Tui nghe nói họ dẹp luôn tượng Trần Nguyên Hãn, rồi tới đây phá luôn chợ Sài Gòn để làm siêu thị cao cấp. Vậy là kể như Sài Gòn chết hết rồi." Dưới chính thể VNCH, để tôn vinh những anh hùng dân tộc, Sài Gòn đã có những tượng đài đạt tầm nghệ thuật rất cao như những tượng đài An Dương Vương, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ... Tượng Phan Đình Phùng ở bồn binh Cây Gõ đã bị lấy chỗ xây cầu vượt, và tới đây sẽ tiếp tục biến mất tượng Trần Nguyên Hãn. Hẳn nhiên việc di dời hay xóa bỏ một tượng đài nào đó vì tuổi thọ công trình hay vì nhu cầu phát triển giao thông là điều không thể tránh khỏi, nhưng người Sài Gòn cảm thấy bị xúc phạm tình yêu nước và lòng kính trọng lịch sử dân tộc khi mà toàn bộ các công trình tượng đài mới được chế độ này xây chỉ để tôn vinh lãnh tụ và những anh hùng của chế độ Cộng Sản. Chúng tôi tìm cách bắt chuyện với những người chứng kiến cảnh đốn hạ cây xanh khu trung tâm Sài Gòn. Họ đều buồn đến ngơ ngác! Với người Sài Gòn, cả cố cựu và người nhập cư đều cho là xâm phạm khu trung tâm trước nhà hát lớn để đào xới  làm ga tàu điện ngầm là xâm phạm trái tim Sài Gòn và trái tim họ. Ngay cả những người trẻ sinh sau năm 1975, vốn không mường tượng được thế nào là một Sài Gòn hòn ngọc viễn đông và không  có xu hướng tưởng vọng về chính thể VNCH, một chính thể đã tạo ra một "Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi!"  cũng không dấu thất vọng trước việc phá nát cảnh quan khu trung tâm. Một bạn trẻ đang làm trưởng phòng Marketing của một công ty Nhật, hỏi tôi. "Hồi chế độ trước, có ông Tổng Thống hay Thủ Tướng nào xây cho mình tượng đài không chú?" Tôi trả lời anh là không có. Anh cười gật gù. "Cháu chẳng hiểu chế độ đó nhiều, nhưng nếu họ không xây tượng đài cho mình là tự trọng." Không lâu nữa, một bức tượng ông Hồ Chí Minh sẽ được đặt trên nền của cái đài phun nước đã tan hoang hôm nay. Và không cần ai gợi ý mà cũng không cần nói ra, người Sài Gòn đều biết số phận của các tượng đài lãnh tụ xứ cộng sản, lãnh tụ ở các nước độc tài sẽ ra sao. (PC)                 Ảnh Người Việt và VNExpress. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Sài Gòn lại bị bức tử

Các bạn từ Sài Gòn đang kéo còi báo động; gửi đến tất cả những tấm lòng yêu nhớ Sài Gòn đang sống khắp cả nước, đang sống rải rác khắp các châu lục. Cây cổ thụ hàng chục năm tuổi, đường kính 50-60 cm, cao hàng chục mét bị chặt. Sài Gòn lại đang bị bức tử, để bị buộc phải chết dần chết mòn, để không còn gì là Sài Gòn nữa hết. Mấy ngày nay, từ ngày 25/7/2014, sở công viên thành phố cho hạ hàng loạt cây cổ thụ trong công viên Lam Sơn trước Nhà hát thành phố, quanh Đài phun nước, vùng ngã tư đường Lê Lợi và đường Nguyễn Huệ . Cuộc giải tỏa đang mở rộng ra khu vực bùng binh Quách Thị Trang, đến tận khu tượng đài Trần Nguyên Hãn. Hàng loạt cây dầu bách niên gốc bự, hàng loạt cây dương liễu quý yểu điệu đang bị máy cưa đốn hạ không chút tiếc thương, như cứa vào lòng mỗi người yêu nhớ Sài Gòn, một thời từng là Viên Ngọc Viễn Đông, niềm kiêu hãnh của người Việt. Họ đang một lần nữa bức tử Sài Gòn, sau cuộc bức tử tàn bạo năm 1975, khi lột tên truyền thống của thành phố được mang từ thời sơ sinh – Sài Gòn -  để mang một tên khác vốn lạ hoắc với người dân Sài Thành. Cuộc bức tử lần nay độc ác là nhằm triệt hạ, xóa bỏ khu vực trung tâm lịch sử- chính trị - kinh tế - văn hóa của Sài Gòn, trái tim của Sài Thành, vẫn theo nếp nghĩ tật bệnh dai dẳng của giới lãnh đạo cộng sản, hận thù và cao ngạo. Họ vin cớ xây dựng Khu trung tâm mới, một nhà Ga tầu điện ngầm hiện đại  làm nét kiến trúc đặc sắc đầu tiên rồi mở rộng  với những tượng đài hoành tráng của thời Cộng sản. Những tượng đài CS hoành tráng nhất, giữa lúc đảng CS đang suy thoái và đang « chết tươi », theo cách nói của đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, với cái nghĩa thâm thúy là nó chết do chính những bầy sâu độc hại nảy nở từ xương tủy của chính nó. Đảng CS luôn leo lẻo «nhân dân làm chủ». Nhưng nhân dân Việt Nam, nhân dân Sài Gòn, nhân dân Quận 1 / Sài Gòn…  có được hỏi ý kiến gì về cuộc cải tạo địa bàn hệ trọng này? Quốc hội, Hội đồng nhân dân Sài Gòn, các chuyên gia trong Hội kiến trúc sư có được tham gia ý kiến gì không ? Báo chí có được huy động để nhân dân góp ý về một chủ trương lớn này không?   Đã có ý kiến cái Ga tầu điện ngầm nên đặt ở khu vực Công viên 23 tháng 9, gần nhà Ga xe lửa cũ, sau trở thành bến xe ô tô khách, ở quận 3, là thích hợp hơn cả. Nhiều nhà kiến trúc nêu ý kiến trong các thủ đô và thành phố hiện đại, các nhà ga nên đặt ở nhiều hướng, xa vùng trung tâm. Tại sao Ga tầu điện ngầm Sài Gòn lại phải đặt giữa thành phố, ở ngay quận 1, phá nát vùng trung tâm độc đáo với bao kỷ niệm lịch sử, là nét đẹp cố hữu truyền thống của thành phố rộng lớn nhất, đông dân nhất cả nước này.   Tại sao khu phố cổ Hà Nội được bảo tồn thành khu vực thương mại, du lịch, tản bộ độc đáo, trường tồn, mà Sài Gòn lại không có được cái quyền văn hóa chính trị cao quý ấy? Một so sánh, ở Pháp, chính quyền đã có quyết định xây dựng một sân bay lớn hiện đại nhất  gần thành phố Nantes phía Tây - Nam thủ đô Paris, nhưng đang bị đình hoãn vì nhân dân địa phương chưa đồng tình, e ngại môi trường sống bị đảo lộn do tiếng ồn của máy bay, các đền bù thiệt hại đất đai nhà cửa di dời chuyển nhượng chưa hợp lý, nay đang phải xem xét lại sau những tranh cãi trên báo chí và qua các cuộc biểu tình dai dẳng của nhân dân địa phương trong đó có cả các dân biểu. Xin cám ơn các bạn yêu quý Sài Gòn đã báo động khi cuộc bức tử trung tâm Sài Gòn mới vừa khởi đầu. Hãy còn kịp để bảo vệ trái tim của Sài Gòn thân yêu. Trước hết các công dân Sài Gòn hãy lên tiếng mạnh mẽ và xuống đường. Xin nhớ ông Thủ tướng trong thông điệp đầu năm đã cam kết: nhân dân có quyền làm tất cả những gì luật pháp không cấm, cán bộ và viên chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.    Nhân dân chính cống của Sài Gòn hãy tự khẳng định quyền công dân trọn vẹn của mình, không thể để trên thực tế bị coi là công dân loại hai, phải bị những công dân loại một từ xa, từ rất xa vào cai trị và đàn áp mình; hãy cảnh tỉnh họ đứng về phía nhân dân, lẽ phải và nhân quyền, về phía Sài Gòn của đất Việt. Bùi Tín
......

Giỏi nhất thế giới hay là vớ vẩn nhất thế giới ?

Đây là thời hiệu điều tra vụ án trong luật tố tụng hình sự.   Điều 119. Thời hạn điều tra 1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Và đây là bản kết luận điều tra sau 5 tháng với tội Gây rối trật tự công cộng. http://vietnamhumanrightsdefenders.net/2014/07/26/ket-luan-dieu-tra-vu-b... Còn đây là khung hình phạt của tội Gây rối công cộng.   Tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 245, Bộ luật hình sự. Theo đó: - Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.   - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách; Có tổ chức; Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; Xúi giục người khác gây rối; Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; Tái phạm nguy hiểm.   Tham khảo kết quả của một phiên toà xét xử tội Gây rối công cộng lớn nhất và gây nhiều thiệt hại nhất từ trước đến nay ở Bình Dương. http://petrotimes.vn/news/vn/phap-luat/xet-xu-3-vu-gay-roi-tai-binh-duon...   Đối chiếu những tư liệu tham khảo, có thể thấy vụ việc trong bản kết luận điều tra của công an tỉnh Đồng Tháp là lạm dụng luật tố tụng hình sự. Một tội danh đơn giản mà trong cáo trạng nói có đến 700 người dân hiếu kỳ đứng xem, tức có 700 nhân chứng. Thế nhưng phải đến 5 tháng sau khi bắt người, công an tỉnh Đồng Tháp mới đưa được ra kết luận điều tra. Việc giam giữ kéo dài hơn cả thời gian trong khung hình phạt bộ luật, cho thấy công an đã quá lạm quyền của toà án. Đáng lẽ thời hạn điều tra không thể vượt quá khung hình phạt tù thấp nhất. Nếu thời hạn giam giữ điều tra quá khung hình phạt tù thấp nhất thì rõ ràng cơ quan công an đã xác định mức án thay cho toà một phần nào đó. Như vụ án này mức án xử tù giam thấp nhất là 3 tháng (chưa kể phạt hành chính, án treo) mà việc giam giữ đưa ra kết luận đến 5 tháng. Rồi thời gian đưa ra cáo trạng và xét xử nhanh cũng mất một tháng. Nếu vậy toà án phải chạy theo công an và đưa mức án trên 6 tháng để hợp thức hoá việc bắt giam của công an. Với một tội danh như tội gây rối trật tự công cộng, thời hiệu điều tra không thể quá 2 tháng. Tuy nhiên đến tháng thứ 3, công an Đồng Tháp vẫn còn phải diễn màn đối chất nhân chứng với đương sự. Ở vụ viêc Bình Dương gây chấn động xã hội, phức tạp, thiệt hại lớn, nhiều người tham gia. Quá trình bắt giữ và xét xử vỏn vẹn chỉ hơn một tháng. Bị cáo lãnh án cao nhất trong bài báo bị kết án 7 tháng tù giam. Chỉ riêng với thời hiệu điều tra của vụ việc Đồng Tháp này, đã cho thấy công an Đồng Tháp là vớ vẩn, tuỳ tiện.   Sự tuỳ tiện của công an sẽ kéo theo sự tuỳ tiện của VKS. Chúng ta sẽ chờ thấy một bản cáo trạng mà VKS sắp tơi đưa ra chứa đầy những áp đặt , suy diễn cho những người bị giam giữ. và toàn án sẽ làm phần việc kết thúc chuỗi tuỳ tiện pháp luật của cơ quan hành pháp theo hướng bảo vệ cho các cơ quan này. Một vụ án đã bất công ngay trong quá trình điều tra mà vẫn được VKS và toà án chấp nhận. Phải chăng đó là điều đặc trưng của hệ thống hành pháp ở nước ta. Đáng buồn là kiểu điều tra vớ vẩn này lại được tung hô là giỏi nhất thế giới. Nguồn: nguoibuongio1972.blogspot.no
......

BÁO CHÍ CÔNG KHAI THÁCH THỨC HÀ NỘI

Ngày 3/7/2014 tại dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, các nhà báo và nhân sĩ trí thức khao khát tự do, họp thảo luận về tình hình đất nước trước cảnh ngoại xâm mà nhà nước luôn luôn bưng bít thông tin, buộc báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ được chỉ thị gọi là “lề phải”. Kết quả những nhà báo tham dự cuộc họp tuyên bố thành lập “Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam” và ra mắt dư luận ngày 4/7/2014 với chủ trương: “Phải làm thế nào để các nhà báo được cất tiếng nói theo đúng nghĩa của hai chữ Tự Do”. Và “làm thế nào để báo chí được sinh hoạt đúng thiên chức của mình là góp phần xây dựng một xã hội công bằng, một đất nước thật sự độc lập tự chủ, không cúi đầu run sợ trước hiểm họa ngoại xâm”. Lời tuyên bố và chủ trương của Hội Nhà Báo rõ ràng là một thách thức đối với chế độ độc tài Hà Nội, họ đã từng cúi đầu run sợ trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Dĩ nhiên có người cho rằng sự thách thức của một số ít người không bạo động, không vũ khí trong tay, so với cả một guồng máy công an, cảnh sát, quân đội sẵn sàng đàn áp để bảo vệ cường quyền thì có nghĩa lý gì? Người ta còn nói có bao nhiêu bloggers đã từng làm công tác phản biện, chỉ trích, đối kháng mà cũng bị bắt bớ giam cầm không đi tới đâu! Có người còn hỏi đã có bao nhiêu Tướng Tá, đảng viên cao cấp, kể cả công thần, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp khuyến cáo không nên giao Cao Nguyên cho Tàu Cộng mà lời nói, thư từ của ông cũng bằng “chó sủa lỗ không”. Vậy thì sá gì một nhóm ký giả chỉ dùng ngòi bút, làm sao châm chích được bạo quyền? Đông tây vẫn thường ví “một cây bút bằng một sư đoàn”. Sự so sánh nầy thật ra không quá đáng bởi vì một bài viết đúng sự thật, hợp hoàn cảnh, thuận lòng người sẽ ảnh hưởng hàng vạn người, sẽ đánh thức hàng vạn con tim, sẽ tạo dựng một phong trào đối kháng, sẽ thúc giục con người hy sinh vì chính nghĩa. Huống chi đây là cả chục, cả trăm, và biết đâu sẽ có cả ngàn ngòi bút chỉnh sửa xã hội, thậm chí có thể thay đổi chế dộ. Hãy đọc lại bài báo “J’accuse” (Tôi tố cáo) của ký giả Emile Zola, buộc nước Pháp phải xét lại vấn đề phản quốc của Đại Úy Dreyfus.Hãy xem lại quyển “Contrat Social” (Hợp đồng xã hội) của Jean-Jacques Rousseau để hiểu rằng muốn thay đổi xã hội cần phải có những ngòi bút như vậy.Hãy đọc lại “Les Misérable” (Những kẻ khốn cùng) của Victor Hugo để dọn đường cho sự công bằng xã hội. Cho nên đốm lửa của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam có thể đốt cháy đống “bổi” bất công, tham nhũng, cửa quyền, cướp đất, đàn áp tôn giáo, bán nước cho Tàu, v.v. Ban lãnh đạo của hội nhà báo nầy gồm 5 vị, trong số đó hai người được dư luận chú ý là: Chủ tịch Phạm Chí Dũng, một hoàng tử đảng, con trai ông Phạm Văn Hùng, cựu Trưởng Ban Tổ Chức Thành Ủy Sài Gòn. Dũng tốt nghiệp Học Viện Kỹ Thuật Quân Sự, tiến sĩ kinh tế, cán bộ ban an ninh nội chính, thân cận với Trương Tấn Sang khi ông nầy còn là Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn. Dũng từng là nhà văn nhà báo, thường viết bài chỉ trích các lãnh đạo đảng. Do đó, Dũng bị bắt ngày 17/7/2012 vì tội có hành vi cấu kết với tổ chức phản động lưu vong ở Mỹ, phá hoại nội bộ đảng nhằm lật đổ chính quyền. Dũng gởi tâm thư từ bỏ đảng ngày 5/12/2013 vì lý do: “Tất cả những gì mà đảng cộng sản thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện trong ít nhứt một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi, cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tinh thần”. Và ông kết luận: “Một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi”. Phó chủ tịch thường trực là một tu sĩ Công Giáo thuộc dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, người điều hành Ban Truyền Thông của nhà dòng từ năm 2009. Ông được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới vinh danh hồi tháng 4/2014.Ông muốn “làm sao cho nhiều người biết sử dụng các mạng xã hội để truyền tin cho nhau vì bây giờ có quá nhiều oan sai, quá nhiều bất công ở khắp mọi nơi”. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng trong chế độ độc tài độc đảng, báo chí bị đảng kiểm soát hoàn toàn, mà có một Hội Nhà Báo Độc Lập chủ trương gần như một đảng đối lập thật là đáng hoan nghênh kính nể. Việc gì sẽ xẩy ra?Nhà cầm quyền sẽ phản ứng như thế nào?Họ lo ngại?Họ chấp nhận? Họ thẳng tay đàn áp bắt bớ tù đày? Hay là họ sẽ bị dư luận lên án và toàn dân nổi dậy lật đổ chế độ? Báo chí Độc Lập có thể tạo nên một phong trào đòi hỏi phải có tự do dân chủ và công bằng xã hội. Xu thế của thời đại chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả nói trên. Bởi vì trong lúc lòng dân phẫn nộ vì đảng viên tham nhũng, cướp đất của dân, hèn với giặc, ác với dân, mà có những tiếng nói độc lập, vạch trần những sai trái của nhà cầm quyền, điều đó sẽ tác động tinh thần đấu tranh của quần chúng, đòi quyền tự do sinh sống của con người. Điều đó cũng sẽ khuyến khích, đôn đốc toàn dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh hiện tại, những ngòi bút của Hội Nhà Báo Độc Lập sẽ có ảnh hưởng và tác động trên quần chúng mạnh hơn những tổ chức đối lập âm thầm, rình rập, rỉ tai, vạch trần sai trái của chính quyền, trong khi Hội Nhà Báo là cả trăm, hay cả ngàn ống loa, cả ngàn khối óc, phóng ra những tư tưởng khác biệt với sự nhồi nhét gian xảo, bất chính của đảng cộng sản cầm quyền, Cho nên hiệu quả có thể đoán được là không sớm thì muộn cũng dẫn đến tự do dân chủ, công bằng xã hội và đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm. Khởi đầu đã có 42 nhà báo khắp nơi xin gia nhập, và sẽ còn bao nhiêu người khác xin gia nhập trong tương lai?Ông Phạm Chí Dũng tuyên bố Hội vẫn mở rộng cho cả các “nhà báo quốc doanh” muốn hồi tâm chuyển ý. Theo bản tuyên bố ngày ra mắt thì Linh Mục Lê Ngọc Thanh cùng với nhà báo Ngô Nhật Đăng phụ trách hai trang báo của Hội trên Internet là Việt Nam Thời Báo và Việt Nam Times. Dĩ nhiên chính quyền sẽ không bao giờ cho phép ra báo giấy, đài phát thanh.Nhưng thời đại ngày nay với kỹ thuật của Internet, Facebook, Twitter là những phương tiện truyền đến người dân những gì họ muốn biết.Đành rằng không phải thường dân nào cũng có thể sử dụng những phương tiên nói trên.Nhưng Linh Mục Lê Ngọc Thanh đã trả lời phỏng vấn rằng ông từng huấn luyện cho nhiều thanh thiếu niên biết sử dụng các mạng xã hội để truyền tin cho nhau, và ông buồn vì nhiều học trò của ông bị bắt cầm tù. Phương tiện truyền thông không chỉ có báo giấy chính thức, truyền thanh, truyền hình công khai, mà còn báo chui, báo nói, một loại truyền khẩu còn nguy hiểm hơn vì nó thêm mắm dậm muối cho đậm đà hấp dẫn. Ngày xưa dưới thời Việt Nam Cộng Hòa có vấn đề “thiên hạ đồn rằng” trong dân gian, vô tình nó làm thay đổi nội các liên miên sau năm 1961. Báo miệng truyền khẩu cũng là một phương tiện giúp những người không sử dụng được các mạng xã hội. Nếu phải đánh cưộc Hội Nhà Báo Độc Lập sẽ tác động được quần chúng không?Sẽ gây được sự chú ý của dư luận nước ngoài không?Tôi tin họ sẽ đạt mục đích.Và tôi hy vọng sẽ không thua cuộc trong cuộc thách đố nầy. VLT. Nguồn: Việt Nam Thời Báo  
......

Gian dối từ trên xuống dưới

Một bức hình được truyền đi trên mạng trong tuần qua cho thấy cảnh một đống tiền lẻ, đồng đô la Canada, để lộn xộn trên mặt một hộp cao bằng kim loại, tại cửa ra vào trạm xe điện ngầm (metro). Người chuyển bức hình đi giải thích rằng máy bán vé tự động bị hư nên hành khách đã để tiền lên mặt vuông cái máy, thay vì “nhẩy rào” qua mà đi. Nhiều người lên tiếng khen ngợi dân Canada lương thiện; so sánh với tiếng tốt của dân Nhật Bản vẫn được truyền tụng từ lâu. Có người, ở một nước Châu Âu, viết rằng, “Nếu ở nước tôi thì mấy đồng tiền đó đã biến mất sau mấy giây đồng hồ!”   Không ai kiểm chứng bức hình trên là thật hay một trò đùa nghịch. Nói như vậy không phải vì nghi ngờ tính lương thiện của dân Canada. Tôi đã sống ở Montréal, Canada hơn 20 năm dài (hơn thời gian từng sống ở Sài Gòn hay Hà Nội) nên đã gặp rất nhiều người thành thật, lương thiện, rất đáng kính trọng. Nhưng trong một thành phố lớn (cho nên lập đường metro) mấy triệu người, chắc một phần tư dân chúng là di dân mới một đời, ta không biết ai là “người Canada” thật sự. Di dân mới tới có khi vẫn “nhẩy rào” để được đi metro miễn phí! Tôi đã chứng kiến, ở một xứ được coi là lương hảo nhất thế giới, là Thụy Ðiển, cảnh người đi xe lửa bị lấy trộm, người thì bị móc túi. Bạn tôi ở Phần Lan kể trước đây 20 năm dân xứ này bỏ xe đạp trước cửa nhà, không cần khóa, mà không bao giờ mất. Nhưng mươi năm nay, sau khi các chế độ cộng sản sụp đổ ở Âu Châu thì người Phần Lan cũng bị mất trộm; vì rất nhiều di dân mới đổ vào. Du lịch ở các nước khác như Anh, Pháp, Ý, người ta cũng được khuyến cáo phải coi chừng kẻ cắp. Dân Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada vẫn thường đứng đầu trong bảng xếp hạng các nước có “cuộc sống hạnh phúc” trên thế giới. Những người hạnh phúc thường cũng sống thật thà, lương thiện; có thể tin như vậy. Nhưng dân các nước nghèo không nhất thiết phải sống kém lương thiện. Một thế kỷ trước đây, Huân tước Baden Powell, người sáng lập phong trào Hướng Ðạo thế giới, đã viết những lời nồng nhiệt ca ngợi đời sống hiền hòa, lương hảo của dân Miến Ðiện. Mà lúc đó Miến Ðiện còn nghèo hơn Việt Nam bây giờ! Khi nào thì một nước sinh ra đầy trộm cắp? Khi có nhiều người dân nghèo và xã hội bất công, thì nạn trộm cắp sẽ phát sinh. Khi một nước có cả hai yếu tố, nghèo và bất công, thì do “thượng bất chính, hạ tất loạn” nên mới có “bần cùng sinh đạo tặc.” Giữa Nghèo và Bất Công thì nạn Bất Công là thủ phạm chính gây ra cảnh “trộm cắp như rươi;” nếu chỉ nghèo không thôi người ta vẫn muốn sống lương thiện. Khi mọi người đều tôn trọng luật pháp, ai làm giầu được đều do công sức của chính họ, thì cả xã hội vẫn có thể sống trong đạo lý. Giấy rách giữ lấy lề. Ðói cho sạch, rách cho thơm. Người Việt Nam vẫn dạy con cháu như thế, từ lúc cả nước cùng nghèo. Quý vị độc giả có thể mới đọc bản tin về một cô gái lấy cắp của đại sứ một nước Trung Á, trong một siêu thị ở Hà Nội. Người Việt Nam xưa nay vốn thật thà, hay là vốn tính bất lương? Cũng vậy, hãng Hàng Không Việt Nam mới lập “sổ đen,” kê tên những người Trung Quốc đã từng lấy trộm trên máy bay. Nếu Hàng Không Việt Nam gửi cả danh sách này cho các công ty hàng không khác trong vùng thì có bêu riếu cả dân tộc Trung Hoa hay không? Cũng không khác gì các cửa hàng bên Nhật viết bảng cảnh cáo “không được lấy trộm,” viết bằng tiếng Việt, cho khách hàng dễ hiểu! Tôi không tin rằng dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có tính trộm cắp. Thói ăn cắp, ăn trộm phát triển trong các nước này, vì hoàn cảnh sống trong cảnh vừa nghèo lại vừa bất công. Suốt từ thế kỷ 19, 20 dân Việt Nam đã sống trong chế độ thuộc địa bóc lột và bất công. Nước Trung Hoa sống dưới chế độ ngoại thuộc Mãn Thanh từ thế kỷ 17, rồi bị các cường quốc Tây phương lấn ép. Rồi cả hai dân tộc, Trung Hoa và Việt Nam đều sống dưới chế độ cộng sản hơn nửa thế kỷ vừa qua. Chế độ cộng sản tàn phá luân lý, đạo đức của hai dân tộc mạnh hơn các chế độ ngoại thuộc, thực dân. Vua quan nhà Mãn Thanh và thực dân Pháp gây ra cảnh bất công, nhưng họ không tìm cách xóa bỏ các nền nếp đạo lý của dân bản xứ. Trái lại, các chế độ cộng sản đều lật đổ, xóa sạch các quy tắc luân lý cổ truyền, đề ra mục tiêu “xây dựng những con người mới,” mà không biết phải xây dựng như thế nào. Khi Hồ Chí Minh viết về việc xây dựng một nền đạo đức mới, thì các đảng viên cộng sản được dạy rằng đạo đức cách mạng quan trọng nhất là “luôn luôn tuân phục đảng.” Ðiều này ông ta cũng chỉ họ được từ Mao Trạch Ðông và Lưu Thiếu Kỳ. Hậu quả là người ta không cần theo một quy tắc luân lý nào khác, nếu chỉ hành động theo lệnh “Ðảng.” Mà Ðảng chính là các lãnh tụ; không còn ai khác nữa.   Các chế độ độc tài chuyên chế đều kèm theo một guồng máy tuyên truyền dối trá. Khi người dân một nước phải nghe nói dối ngày này sang ngày khác, phải lấy giả làm thật, đen nói ra trắng, nếu không biết dối trá, không biết cúi đầu sợ sệt thì không sống được, khi đó xã hội sẽ phải suy đồi, không còn chút luân thường đạo lý nào nữa. Các đảng Cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đã phá hủy nền đạo lý cổ truyền của hai dân tộc. Hơn nữa, họ xóa bỏ tập quán sống theo pháp luật, vì đặt chính trị lên trên luật pháp. Do đó, tới khi họ mở cửa cho kinh tế thị trường xuất hiện, thì những tệ hại lớn nhất của thời “tư bản hoang dã” bộc phát rất nhanh.   Từ khi các đảng cộng sản quay chiều theo kinh tế tư bản, nói chung dân Việt Nam và Trung Hoa không thể coi là nghèo được nữa. Nhưng vì chế độ vẫn độc tài chuyên chế, cho nên xã hội càng bất công hơn các nước tư bản vào thế kỷ 19. Tiền của được tích lũy vào tay các lãnh tụ, các đảng viên, cho đàn em và phe cánh. Khi những người nghèo khổ sống bên cạnh những kẻ làm giầu vừa bất hợp pháp vừa không bất lương, thì người ta không còn tin ở đạo lý nữa, dễ làm bậy. Khi lòng tham nổi lên, kẻ trộm cắp và tự biện hộ với lương tâm mình rằng chung quanh họ bao nhiêu đứa nó trộm cắp nhiều gấp hàng ngàn lần mình, nếu mình có tội cũng là tội nhỏ! Những người Trung Hoa đi máy bay chắc không thể coi là nghèo. Cô gái ăn cắp trong siêu thị chắc cũng có công việc làm đủ sống. Tại sao họ lại ăn cắp? Vì họ đã chứng kiến cảnh những kẻ khác đã trộm cắp hàng triệu, hàng tỷ đô la, giầu gấp trăm, gấp ngàn họ, vẫn sống nhởn nhơ! Ðạo lý suy đồi không phải chỉ là một vấn đề xã hội, văn hóa. Khi nhìn về lâu về dài, thì cảnh cả luật pháp lẫn đạo lý suy đồi sẽ khiến cho kinh tế một nước không thể tiến lên được. Nền kinh tế tư bản dựa trên luật pháp, mà nhờ luật lệ nghiêm minh nên mọi người bị bắt buộc phải sống lương thiện hơn. Tại các quốc gia bình thường, dù là ở những nước nổi tiếng lương thiện như Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada, vẫn có kẻ trộm. Nhưng khi làm ăn, làm ăn lớn, thì người ta có thể tin nhau, vì có luật pháp. Nếu luật pháp không đủ rộng để ràng buộc tất cả, thì còn có đạo lý. Kinh tế thị trường phát triển nhờ các nền tảng đó. Những người Trung Hoa ăn cắp trên máy bay không làm hại cho kinh tế Trung Quốc bằng quan chức điều khiển các doanh nghiệp nhà nước, hoặc tư doanh. Bởi vì khi họ gian dối, người ta sẽ sợ không còn muốn làm ăn với nước Trung Hoa nữa. Công ty hàng ăn McDonald hôm qua vừa quyết định ngưng không mua thịt từ một xí nghiệp Trung Quốc nữa. Các công ty Burger King và Yum Brands, chủ nhân các cửa hàng KFC cũng làm theo. Công ty Trung Quốc là Phúc Hỷ, ở Thượng Hải đã cung cấp thịt cũ, quá hạn cho các cửa hàng ăn này. Từ nay, McDonald sẽ mua thịt từ Thái Lan. Tháng trước, mấy ngân hàng ngoại quốc, trong đó có Citigroup và Standard Chartered đã lâm nạn vì một vụ gian trá khác của mấy xí nghiệp Trung Quốc. Một công ty Trung Quốc vay, Ðức Thành Khoáng Nghiệp vay tiền của nhiều ngân hàng và đem một số kim loại làm thế chấp. Nhưng người ta khám phá ra là số kim loại này, chứa trong nhà kho tại hai cảng Thanh Ðảo và Bồng Lai, đã được đem thế chấp cho nhiêu món nợ khác nhau! Những vụ gian dối của các công ty Phúc Hỷ và Ðức Thành sẽ làm hại cả các công ty Trung Quốc khác, điều này hiển nhiên. Từ chuyện ăn cắp trên máy bay đến chuyện đánh lừa trong thương trường quốc tế, tất cả đều là hậu quả của một chế độ gian dối, tham nhũng, bất công. Không thoát khỏi chế độ đó thì tương lai sẽ mù mịt! Nguồn: nguoi-viet.com
......

Hãy yêu nước theo cách của bạn

  Con người cũng như bao động vật khác, động lực sinh tồn là một động lực lớn chi phối hành động. Hoạt động chính của con người hướng đến nâng cao chất lượng sống cho mình và cho con cháu. Trong xã hội hiện đại, hành động đó hướng đến việc kiếm tiền, kiếm quyền, kiếm lợi,..Những động lực này là hợp lẽ tự nhiên, chúng ta cần tôn trọng. May mắn, con người là động vật bậc cao nên ngoài hoạt động sinh tồn cho mình con người còn có tình cảm. Một trong những tình cảm thiêng liêng là lòng yêu nước. Nhờ tình cảm này mà nhiều cộng đồng, nhiều dân tộc đã chung lưng cùng nhau chống lại nhiều hiểm họa cho sự sinh tồn chung, xây dựng những bản sắc, những nền văn hóa riêng rực rỡ trong nền văn minh nhân loại.   Dân tộc VN chúng ta trường tồn đến ngày hôm nay cũng nhờ vào lòng yêu nước. Nếu không có nó, có lẽ chúng ta đã bị tận diệt bởi những đạo quân hung hãn từ phía bắc. Hơn lúc nào hết, hôm nay thế hệ chúng ta hãy thổi bùng lòng yêu nước để chung tay giữ gìn và kiến tạo một đất nước Việt Nam tươi đẹp cho con cháu. Ngày xưa, từ lòng yêu nước, ông bà tổ tiên giữ đất nước cho chúng ta sinh tồn, lẽ nào chúng ta chỉ biết thụ hưởng mà thôi? Trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt, sự hy sinh được đề cao đã làm nhiều người tưởng rằng yêu nước đồng nghĩa với cầm súng ra chiến trường, không ngại hy sinh, là tổ quốc gọi chúng con sẵn sàng, .... Thật ra, đây chỉ là một cách yêu nước và nó chỉ phù hợp với thời chiến. Nhiều người nói với tôi: "trong tình hình hiện nay, yêu nước, tôi làm được gì? Tôi không có khả năng viết lách, tôi có gia đình, vợ con, tôi không dám xuống đường biểu tình, tôi không dám hành động như bạn,....". Tôi biết người tâm sự với tôi điều trên, họ đã là người yêu nước. Khi bạn quan tâm đến tình hình đất nước, bạn đã là người yêu nước. Có nhiều người không chỉ quan tâm mà họ có những hành động thầm lặng để góp công sức cho đất nước tiến lên nền dân chủ. Tôi biết nhiều người bỏ công sức tham gia các mạng lưới bán hàng đa cấp. Họ tham gia không phải vì công việc hay thu nhập mà để giúp đỡ những người tham gia mạng lưới mở tài khoản email, hướng dẫn họ sử dụng internet rồi qua đó giới thiệu họ những trang web có thông tin đa chiều về tình hình đất nước. Đây là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, giúp đỡ cả ngàn người, chỉ được vài chục người quan tâm đất nước. Tuy xác xuất thấp nhưng họ vẫn làm. Họ làm vì yêu nước, vì muốn góp một tay cho sự nghiệp khai dân trí. Tương tự như vậy nhiều anh kỹ thuật viên mạng internet, ngoài khắc phục sự cố còn bỏ thời gian để hướng dẫn chủ nhà sử dụng rồi qua đó khéo léo giới thiệu họ các trang web tranh đấu cho nền dân chủ. Nhiều bạn trẻ in các bài viết trên mạng rồi tặng cho anh xe ôm, chị quán nước, .... Nhiều sinh viên chia sẻ nhau qua mail, face những bài viết hay cổ vũ nền dân chủ,....Nhiều, nhiều lắm những hành động các bạn có thể làm được nếu bạn có lòng yêu nước. Tôi biết nhiều người yêu nước thầm lặng như vậy, tôi khâm phục họ. Để đất nước tiến lên nền dân chủ, phát triển, dân tộc này rất cần những hành động yêu nước bình dị nhưng cao cả như vậy. Hãy yêu nước theo cách của bạn, đất nước cần lòng yêu nước của bạn. Nguyễn Văn Thạnh Nguồn: facebook.com/nguyenvanthanh  
......

Cuộc đấu tranh theo hai hướng

Giàn khoan HD-981 đã được kéo ra khỏi vùng biển VN, vừa đúng khi cơn bão Rammasun kéo đến. Xin những ai còn lo đến vận mệnh của đất nước chớ vội thở phào nhẹ nhõm, coi như mối đe dọa từ phương Bắc đã thuộc về quá khứ, và từ nay ta có thể ngủ yên. Nghĩ như vậy là rơi vào bẫy của bành trướng. Cuộc khủng hoảng Biển Đông còn nguyên vẹn, khi giàn khoan HD-981 rút về, vì Bắc Kinh luôn luôn coi 'vùng biển Hoa Nam' - Biển Đông của Việt Nam - là vùng «lợi ích cốt lõi» của Trung Quốc, cho nên độc chiếm nó là mục tiêu chiến lược hàng đầu của họ. Do vậy, toàn dân phải tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ hơn, bền bỉ dẻo dai hơn, toàn diện hơn, chống bành trướng Bắc Kinh trên mọi lĩnh vực - quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa - không phải vì TQ  tạm rút giàn khoan do mùa mưa bão mà giảm khí thế đấu tranh. Nhà báo Roger Mitton trên báo Myanmar Times (7/7/2014) cho rằng lãnh đạo VN đã có sự chia rẽ, và kết luận rằng “về cơ bản VN đã đầu hàng". Rõ ràng là nhóm lãnh đạo đã không ngang tầm với trách nhiệm bảo vệ đất nước chống bành trướng và xâm lược, còn ngáng trở cuộc đấu tranh của nhân dân, không đi cùng với nhân dân, luôn tỏ ra lập trường hai mặt; khi bọn bành trướng hoàn toàn giở trò vũ phu cậy nước lớn đông người, vừa ăn cướp vừa la làng, hoàn toàn xóa bỏ phương châm «Bốn Tốt, 16 chữ vàng» do chúng đề ra. Vậy thì phía VN còn có lý do gì mà còn coi TQ là bạn, thậm chí là «bạn tốt», còn có lý do gì mà không tìm bạn khác đáng tin cậy để kết thân, thậm chí kết liên minh theo quyền tự do của mỗi nước. Các lực lượng dân chủ nhân quyền trong xã hội dân sự hãy mở tiếp mặt trận đối ngoại năng động và sáng tạo ra ngoài biên giới nước ta. Anh chị em vận động dân chủ và nhân quyền vừa qua đã tỏ ra là một mũi nhọn xung kích của nền ngoại giao nhân dân đúng nghĩa, bổ sung và thay thế cho nền ngoại giao nhà nước ù lỳ, nhu nhược, vừa chống vừa run trước thế lực bành trướng. Một hướng đấu tranh cần đẩy mạnh trong nước là hướng dẫn dư luận xã hội chỉ ra cho lãnh đạo đảng, Nhà nước, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, cho Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS rằng nếu họ tự nhận là lực lượng lãnh đạo đất nước thì họ phải đi đầu trong cuộc đấu tranh chống bành trướng, phải sát cánh với nhân dân trong các cuộc xuống đường, biểu tình ôn hòa chống bành trướng, phải mạnh dạn phát đơn kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như chính phủ Philippines đã làm. Nhân dân ta cần chất vấn các cấp chính quyền, các đại biểu Quốc hội về một loạt vấn đề như: Vì sao lại hạn chế, cấm các cuộc biểu tình ôn hòa chống bành trướng, bảo vệ ngư dân ta, vì sao lập trường công khai, chính thức của lãnh đạo Đảng CS và Nhà nuớc VN lại yếu kém rõ rệt so với lập trường chính thức của Philippines, Nhật Bản và Hoa Kỳ trong vấn đề biển Đông, một vấn đề sinh tử của chính nước ta?  Vì sao khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cử cố vấn đặc biệt, Giám đốc Á châu vụ của Hội đồng An ninh Quốc gia Evan Medeiros sang Hà Nội ngày 14/7 vừa để thúc đẩy việc ký kết Hiệp ước Kinh tế Xuyên Thái Bình Dưong TPP, vừa để bàn sâu thêm về cuộc khủng hoảng biển Đông trong triển vọng nâng cao thêm quan hệ đối tác toàn diện, về quốc phòng và an ninh, phía VN lại tỏ ra thiếu sốt sắng, còn có vẻ lạnh nhạt một cách khó hiểu và dại dột nữa. Người tiếp đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ là Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, một người không có chân trong Bộ Chính trị, chỉ là ủy viên mới trong Ban Chấp hành Trung Ương, không có quyền uy gì đáng kể. Ông cũng không thể trả lời rõ ràng về việc ký kết hiệp cuối về TPP  cũng như về  biển Đông, không đáp ứng điều gì về những gợi ý tăng cường quan hệ đối tác toàn diện Việt - Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Ông Minh từng được Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry mời gấp sang Washington DC để bàn về tình hình biển Đông ngay từ đầu tháng 5, nhưng cứ lần lữa mãi. Nay chính phía Mỹ cử phái viên đặc biệt của Tổng thống sang, mà không có một vị nào trong Bộ Chính trị tiếp. Rõ ràng là một nền ngoại giao nhà nước ốm yếu, tê liệt, bị bọn bành trướng khống chế, một nền ngoại giao đầu hàng từ sự kiện Thành Đô (tháng 9/1990) với những thỏa thuận bí mật sau lưng nhân dân, sau lưng cả Quốc hội; những thỏa thuận bất hợp pháp vì không được Quốc hội thỏa thuận, đã đến lúc cần công khai hóa, minh bạch hóa cho toàn dân sáng tỏ và phủ định. Đây là biện pháp «Thoát Trung» cơ bản, cấp bách. Trong hoàn cảnh hiện nay, Bộ Chính trị nên xem xét kỹ tình hình, lắng nghe nguyện vọng của lao động, nông dân, tuổi trẻ, thuận theo kiến nghị của trí thức tiên phong của dân tộc, ra nghị quyết theo 2 hướng: 1/ Cải cách cơ chế chính trị, chuyển đổi từ hệ thống độc đảng lạc lõng cô đơn sang hệ thống đa đảng đa nguyên phổ cập của thế giới, để công dân được lựa chọn hiền tài thay mặt cho mình cầm quyền ở các cấp, chấm dứt việc Ban Tổ chức của Đảng CS ở Trung ương và các cấp tùy tiện ban phát chức vụ theo phe nhóm lợi ích, nguyên nhân cơ bản của sự xuống cấp thê thảm của chế độ hiện nay. Công đoàn tự do được thành lập ở các địa phương, ngành nghề, xí nghiệp. Trả tự do cho những người bị giam vì lý do chính trị như đã trả tự do cho các công dân Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Đỗ Thị Minh Hạnh … 2/ Trong lĩnh vực đối ngoại: chủ trương giữ mối quan hệ láng giềng tốt, bình đẳng, tôn trọng nhau với TQ, đồng thời thực hiện quan hệ hợp tác toàn diện, bè bạn thân thiết, đối tác chiến lược với các nước tán thành chủ trương đối nội và đối ngoại mới của VN, có thể kể ra là Hoa Kỳ, Philippines, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên Âu, Úc ... Các mối quan hệ chặt chẽ ,tin cậy trên đây không nhằm chống một nước nào. Các chủ trương cụ thể trong mục 1 trên đây cũng là để dọn đường cho VN gia nhập thuận lợi Hiệp ước TPP, mang lại nhiều lợi thế và lợi ích cho VN. Giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng chuẩn bị thật tốt cho cuộc họp đối tác chiến lược Việt - Mỹ dự định vào tháng 9 tới tại VN. Theo AP và báo The Washington Post (13/7/2014) Bộ truởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel sẽ tham dự cuộc họp quan trọng này.  Cuộc họp sẽ đề cập đến vấn đề tăng cường quan hệ giữa Hải quân VN với Hạm đội 7 của Hoa Kỳ cũng như vấn đề Hoa Kỳ có thể thỏa thuận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trên đây là những chủ trương mang tính đột phá chiến lược, cấp bách và hoàn toàn chín muồi, mang lại cho VN một thế chiến lược mới để bảo vệ nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, mang lại phát triển, thịnh vượng và hạnh phúc lâu bền cho toàn dân tộc. Đây là nguyện vọng của đông đảo nhân dân ta mong được bàn luận rộng rãi và tạo nên công luận làm áp lực có sức thuyết phục với những người lãnh đạo CS, với đông đảo đảng viên CS còn có lương tâm và trách nhiệm với nhân dân, với đất nước. Bùi Tín Nguồn: voatiengviet.com
......

Kiểm Duyệt Truyền Thông Xã Hội Tại Việt Nam

Tháng 7, 2014   Lịch sử cho thấy là vũ khí tốt nhất để đấu tranh cho tự do là thông tin. Những phương tiện truyền thông cổ điển được sử dụng để thách thức nhà nước, nhưng đã bị tước đoạt một cách dễ dàng. Bây giờ, truyền thông xã hội cũng đang phải đối diện với những tấn công tương tự tại những nước như Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia và Thái Lan, tất cả đều cố gắng giám sát và kiểm duyệt những trang mạng như Facebook và Twitter.   Thực vậy, ngày nay thay vì đoàn kết trong hòa bình, hợp tác quân sự và kinh tế, viễn ảnh của một cộng đồng ASEAN, thì các nước lại đoàn kết trong việc giám sát ngành truyền thông bằng những quy luật nặng nề. Đặc biệt là ở Việt Nam, nhiều trang mạng đã bị ngăn chặn, bao gồm những trang mạng của các đảng phái chính trị tại hải ngoại, những tổ chức quốc tế về nhân quyền, những tài liệu chính trị hay tôn giáo có thể phương hại tới Đảng Cộng Sản. Những quy định này thường được gọi là "bức tường lửa tre". Nhưng những tiến bộ về kỹ thuật đã thường xuyên làm giảm thiểu sự hữu hiệu của kiểm duyệt. Tại Việt Nam, trách nhiệm quản lý truyền thông thuộc hai bộ, tùy thuộc bản chất của vấn đề. Bộ Văn Hóa và Thông Tin chuyên về những nội dung có tính chất khiêu dâm, mê tín dị đoan, hoặc bạo lực. Bộ Công An giám sát những nội dung có tính cách chính trị. Những bài viết mới đây đã gọi sự kiểm duyệt truyền thông bằng từ ngữ "độc tài mềm". Tại Việt Nam, có những chứng cớ cho thấy rằng chính sách, hơn là cá nhân và phe nhóm, điều hướng chính trị thượng tầng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì vậy những cải tổ thường không được mạch lạc và rõ ràng. Đó là bởi vì những người lãnh đạo của Đảng không có được sự đồng lòng của tập thể những người có quyền lực chính trị và kinh doanh và sử dụng báo chí để kiềm chế những tiếng nói ngày một gia tăng trong hệ thống chính trị. Sự kiềm chế này trở nên khó giữ vững với những vụ bê bối chính trị và tham nhũng ngày một gia tăng. Với tình trạng bán dân chủ trong truyền thông ở Việt Nam, việc kiểm duyệt là một sự giằng co giữa thế lực bảo thủ, nghị trình của phe cải cách, và sự tự do của xã hội dân sự. Việc kiểm duyệt internet tại Đông Nam Á là một dấu hiệu đáng buồn của sự thụt lùi của dân chủ, với việc những người cầm quyền hăm dọa truy tố trước pháp luật những người lên tiếng phê phán. Truyền thông dòng chính ở Việt Nam nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ và những mạng xã hội thường xuyên bị ngăn chặn. Các bloggers thường bị truy tố và lãnh án tù. Biện pháp kiểm duyệt gây nhiều tranh cãi nhất là Nghị Định 72 về việc "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và nội dung thông tin trên mạng", được Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 15 tháng 7 năm 2013. Nghị định cấm chia sẻ các bản tin giữa các trang mạng xã hội. Nghị định cũng có một số điều khoản mơ hồ. Điều 20.4 quy định những trang mạng thông tin cá nhân không được phép cung cấp những thông tin tổng hợp mà không định nghĩa "tin tổng hợp là gì". Căn bản là công chúng không thể loan truyền và chia sẻ những quan điểm chính trị vì đó là hành vi phạm tội. Thứ Trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông Lê Nam Thắng tuyên bố: "Những trang mạng cá nhân chỉ được quyền cung cấp những thông tin cá nhân, và cấm không được lấy tin tức từ những cơ quan truyền thông và sử dụng như là tin của mình." Chính phủ Việt Nam đã bị các tổ chức nhân quyền như tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, chỉ trích nặng nề. Lý do là những luật lệ trên cho phép chính quyền tùy tiện truy tố những người mà chính quyền thấy có vấn đề. Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ những chỉ trích. Họ nói rằng mục đích chính của nghị định la để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền của những cơ quan báo chí bằng cách ngăn chặn chia sẻ tin tức. Có sự mờ ám về phương hướng của chính quyền. Sự mờ ám này không chỉ ở trong ngôn từ của chính nghị định mà còn ở trong một số ví dụ điển hình mới đây. Cho tới gần đây, báo chí Việt Nam chỉ đăng nguyên văn những thông tin chính thức của Trung Quốc. Nhưng với sự tranh chấp chưa lối thoát giữa Việt Nam và Trung Quốc về giàn khoan dầu, nhà nước đã thay đổi thái độ nhũn nhặn trước đây với Trung Quốc. Thực tế là chính phủ lên tiếng phản đối những đòi hỏi của Trung Quốc, nói rằng Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền Việt Nam. Vào ngày 4 tháng 6 nhân dịp kỷ niệm biến cố Thiên An Môn, những người theo dõi internet đã truy cập được dữ kiện về các cuộc biểu tình. Tuy nhiên, những bài viết này bị lấy ngay ra khỏi các trang web truyền thông của chính quyền mặc dầu nhà nước phủ nhận có nhúng tay vào vụ này. Lại lần nữa chính quyền dường như đang lưỡng lự: dằn xé giữa ước muốn tiến bộ và tự lập, và tư tưởng bảo thủ của sự trung thành và nhà nước kiểm soát thông tin. Chính phủ Việt Nam đang chơi trò đu dây. Họ phải cân bằng tinh thần chống Trung Quốc trong truyền thông và trong dân chúng mà không để xảy ra một cuộc đối đầu toàn diện với Trung Quốc. Những cuộc bạo động mới dây tại các tỉnh Bình Dương và Hà Tĩnh và sự di tản của hàng ngàn công nhân Trung Quốc đã bị Trung Quốc lên án. Đối với nhà cầm quyền Việt Nam, tình hình rất phức tạp. Rõ ràng là chỉ 5 năm trước đây, ngày kỷ niệm biến cố Thiên An Môn không phải là cái gì mà truyền thông Việt Nam đăng tải. Tình hình bây giờ đang thay đổi. Việc bắt giữ các bloggers mới đây chỉ làm mọi người tức giận thêm, và có thể tạo thêm những tiếng nói chống đối mới trên mạng. Tuy nhiên nhiều tiếng nói chống đối vẫn còn lạc quan về internet. Khi một blogger bị bỏ tù, tiếng nói đối kháng không yên lặng. Nhờ có internet, mọi người biết được việc gì đang xảy ra và tại sao. Thêm nữa, như nhà báo Ngô Nhật Đăng nói: "Bạn biết là khi bạn bị bắt, có cả một mạng lưới nhân sự lo toan cho gia đình bạn, thăm nuôi bạn trong tù, và khiến cho người ta cảm nhận được sự yêu thương, bớt sợ hãi." Internet chỉ mới được thiết lập tại Việt Nam từ thập niên 1990 vì trước đó chính phủ Việt Nam không cho phép. Ngăn chặn và sàng lọc nội dung từ lâu đã là một phần của việc quản lý internet tại Việt Nam. Nhưng sự bộc phát của truyền thông xã hội và được người dân dùng nó như một công cụ để nối kết và tổ chức là điều không ai ngờ đến. Hiến pháp Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do hội họp. Tuy nhiên, luật lệ về an ninh quốc gia và những quy định khác đã giảm thiểu hoặc triệt tiêu những bảo đảm trên đối với người dân. Nguồn: http://www.idgconnect.com/blog-abstract/8518/social-media-censorship-vie... ===========   Social Media Censorship in Vietnam Saadia Gardezi - IDG Connect July 14 2014 History has shown that the best weapon in the fight for freedom has always been information. Traditional media used to challenge the state, but was easily curtailed. Now social media is facing the same attack, with countries like China, Vietnam, Cambodia, Singapore and Thailand all trying to monitor and censor sites like Facebook and Twitter. In fact today, rather than being united in terms of peace, military cooperation and commerce, the vision of a single ASEAN community, is united over the heavy regulation of the media. In Vietnam specifically, many sites are blocked. These include sites of expatriate political parties, international human rights organizations, and politically or religiously critical materials that might undermine the Communist Party. These regulation efforts are often called the "Bamboo Firewall". But advances in technology have consistently diminished the effectiveness of censorship. Regulatory responsibility in Vietnam is shared between two ministries based on subject matter. The Ministry of Culture and Information focusing on sexually explicit, superstitious, or violent content, while the Ministry of Public Security monitors political content. Recent literature has termed media censorship as “soft authoritarianism”. In Vietnam there is some evidence that policy, rather than personality and patronage, guides elite politics in the Communist Party of Vietnam (CPV). Thus state reform is not as coherent and clear. This is because Party leaders don't have consensus across the spectrum of political and business elites and use the press to manage a growing number of voices in the political system. This management is becoming increasingly untenable with escalating volumes of political and corruption scandals. The media in Vietnam is semi-democratic and censorship will need to be understood as a tussle between conservative power, the reformist agenda, and freedom of the civil society. Censorship of the internet in Southeast Asian is a sad sign that democracy is regressing, with public officials threatening to use legal action against critics. Vietnam’s mainstream media remains under strict state surveillance and social media networks are regularly blocked. Bloggers are often prosecuted and given prison sentences. The most controversial of measures taken by Vietnam is the Decree 72, or the "Management, Provision, Use of Internet Services and Information Content Online". This was signed by Prime Minister Nguyen Tan Dung on July 15, 2013. The decree bans the sharing of online news stories on social media sites. The decree has a confusing number of provisions. Clause 20.4 states that a personal information webpage is not allowed to provide aggregated information without defining “aggregated information”. It basically means the general public is not able to air or share any political views by making the exchange of information a criminal act. The Deputy Minister of Information and Communications Le Nam Thang said, “Personal webpage owners are only allowed to provide their own information, and are prohibited from taking news from media agencies and using that information as if it were their own.” The Vietnamese government has come under intense criticism from organizations like Reporters Without Borders, Human Rights Watch and other human rights groups. This is because the laws can be used for selective persecution and against certain people with whom the government has a problem. The Vietnam government has dismissed these criticisms. It says the primary intent of the decree is to protect intellectual property rights and the copyrights of press agencies by curtailing sharing. There is a lack of clarity with which the government seems to be moving. This is not only found in the vagueness of the language of the decree itself but also in several recent examples. Until recently newspapers in Vietnam would simply quote the Chinese official lines. But with the Vietnamese standoff with China in the South China Sea over an oilrig, the state has changed it uncritical stance towards China. In fact the government has been vocal in it opposition to China claiming that China had violated Vietnamese sovereignty. On June 4th, at the 25th anniversary of the Tiananmen Square massacre, internet viewers in Vietnam found they could access information about the protests. However, these articles were soon taken down from most of the official media websites, even though the government denies it had a hand in this. Again the government seems to be of two minds: torn between its own desires for progress and self-reliance, and conservative notions of loyalty and state control over information. The government is playing a balancing act. It has to balance the anti-China sentiments in the media and amongst the population while not engaging in an all out conflict with China. Recent anti-China riots in Binh Duong and Ha Tinh provinces and the evacuation of thousands of Chinese workers from Vietnam have been condemned by China. The situation is complicated for the authorities. But five years ago it was clear that the Tiananmen anniversary was not something that got any media coverage in Vietnam. Now things are changing. The recent arrests of bloggers in Vietnam are likely to make people angrier, and may inspire new online voices of dissent. However, may of these dissident voices are still optimistic about the internet. While one blogger goes to jail, it is not in silence. Due to the internet, everyone knows what is happening and why. Additionally, as Vietnamese journalist Ngo Nhat Dang put it, “You know that if you get arrested, there is a network of people who will take care of your family, who will visit you in prison, and that makes people feel loved and less scared.” The internet wasn’t established in Vietnam until the 1990s because the government would not consent to it. Blocking and filtering content have long been a part of Vietnam’s internet regulation practices. But the rise of social media and its use as a tool for citizens to connect and organize has been unexpected. Vietnam guarantees freedom of speech, of the press, and of assembly through constitutional provisions. However, state security laws and other regulations reduce and eliminate these guarantees afforded to the citizens.http://www.idgconnect.com/blog-abstract/8518/social-media-censorship-vie...
......

Mảnh Bằng Khen cho Cột Mốc Sống

Ngửa mặt lên trời Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi. Trôi theo con sóng vỗ Trôi theo phận nước tôi (Viết về ngư dân Việt Nam - Tuấn Khanh)   Gần đây lãnh đạo đảng lại vừa cho thực hiện các phong trào cổ động và phát bằng khen cho ngư dân. Từ vụ bà Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến phát động chương trình “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển” tại đảo Lý Sơn, đến vụ Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng tặng bằng khen cho các ngư dân tham gia đánh bắt bảo vệ chủ quyền vùng biển Hoàng Sa. Điều nghịch lý là trong lúc lãnh đạo tiếp tục ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân Việt Nam với súng ống, tàu sắt, tàu ngầm, tên lửa phải tuyệt đối bám chặt bờ, thì ngư dân tay không, nghèo kiết xác, thuyền gỗ mong manh lại được đẩy ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước?! Chắc chắn bà Bộ trưởng Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến chưa một ngày phải sống với nỗi lo sợ, nỗi đau của những người vợ, người mẹ của ngư dân. Bà cũng chưa từng phải nặn những hình nhân bằng đất để đắp cho chồng, cho con một ngôi "mộ gió" trên đảo Lý Sơn (vì đã chết mất xác), nên bà mới có thể mạnh miệng phát biểu: “Ngư dân còn, biển còn. Ngư dân khỏe sẽ tiếp tục bám biển, tiếp thêm lực lượng, thêm sức mạnh bảo vệ quyền và chủ quyền về biển, đảo của Việt Nam.” Ngày về đẫm lệ của ngư dân bị Trung Quốc bắt (Nguồn: Một Thế Giới) Thử hỏi ngư dân tay không thì bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng cách nào? Gặp tàu Trung Quốc họ đã phải chạy trối chết để thoát thân, chạy không thoát thì bị chúng dùng tàu vỏ thép va đập, thậm chí đâm chìm như tàu cá DNa90152 của vợ chồng bà Huỳnh thị Như Hoa. Có khi chúng thản nhiên xả đạn bắn vào thuyền ngư dân bất cần có gây thương tích hay thiệt mạng ai không, như trường hợp tàu cá của thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh. Có lúc chúng lại xấc xược, trắng trợn như trường hợp mới xảy ra vào sáng ngày 3/7/14. Ngư dân của tàu cá QNg94912TS đang đánh bắt ở vùng biển Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc ép sát rồi bắt giữ. Xin ghi lại nguyên văn lời tường thuật của thuyền trưởng Võ Tấn Tèo:“Đang đánh bắt ở biển của mình, Trung Quốc bắt, dìu đi qua biển Trung Quốc, rồi họ dừng lại, bắt ngư dân trên tàu chỉ vô máy định vị lúc đó hiện tọa độ của họ, rồi họ quay phim, chụp hình vu khống mình đánh bắt trái phép biển của họ.” Bị bắt và bị dẫn độ về đảo Hải Nam, tại đây các ngư dân Quảng Ngãi bị buộc phải ký vào những biên bản sai trái trên rồi mới được thả về. Toàn bộ ngư lưới cụ và gần 3 tấn hải sản đánh bắt được đều bị phía Trung Quốc thu giữ với lý do các ngư dân này đã đánh bắt trên vùng biển của chúng. Có những vụ ngư dân bị "quân nước lạ" giết chết nhiều đến độ cả làng để tang như làng đánh cá Hoà Lộc năm 2005. Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một biện pháp nào nhằm để bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables), tái sinh ở VN không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế giới! Khốn cùng vì gần như họ không có một chọn lựa nào khác. Cuộc sống khó khăn đến nỗi nếu không ra biển thì kiếm sống bằng cách nào? Ra biển gặp tàu Trung Cộng thì một mình, bơ vơ, đối phó làm sao được với tàu sắt và súng ống. Đành để chúng tha hồ làm nhục; tha hồ đánh, cướp, phá, đâm chìm, hay bắt giữ đòi tiền chuộc... Nhưng lết được về đến bờ, thoát chết thì lại trắng tay, tài sản mưu sinh mất sạch. Về đến nhà để phải nhìn cảnh gia đình đối diện với đói rách, với nợ nần chồng chất theo các thiết bị đã mất. Có ai không khỏi mủi lòng khi chứng kiến hình ảnh đen đủi thất thần của 13 ngư dân thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi vừa được Trung Quốc thả cho về. Tiếng khóc nức nở của những người mẹ, người vợ các ngư dân này đã dậy lên ở cửa sông Loan, huyện Quảng Trạch trong buổi chiều đón họ về bến ngày 16/07 vừa qua. Khốn khổ cho những người vợ trẻ, những đứa con thơ và cha mẹ già phập phồng trông ngóng tin con từng ngày. Bây giờ một lần đưa chồng, đưa con ra đi, họ biết đây có thể là lần cuối. Khi tàu các anh Võ Tấn Tèo, Lê Văn Thun bị Trung Quốc bắt, mẹ anh Thun suốt ngày ra cửa biển Sa Huỳnh ngóng tin con. Trong ngôi nhà nhỏ của anh, người mẹ chồng cùng cô con dâu trẻ đang mang thai ngày nào cũng tràn nước mắt. Chị Thuỳ và anh Thun vừa mới cưới nhau đầu năm, nghe tin vợ có thai anh bảo đi biển chuyến này cố gắng kiếm tiền về cho vợ sanh nở. Gia đình bà Trần thị Mầy, mẹ anh Tèo, cũng không khá hơn, bà thương đứa con dâu suốt ngày núp trong phòng thui thủi khóc một mình. Bà lo lắng cho đứa con trai sợ nó bị Trung Quốc đánh đập, hành hạ. Lo lắng hơn nữa cho con dâu, vợ anh Võ Tấn Tèo, đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở không có chồng bên cạnh! Khốn quẫn hơn nữa cho một đất nước mà chuyện ngư dân bị "tàu lạ" bắn giết trong hải phận nước mình như vậy lại được người đứng đầu Bộ Quốc Phòng xem là chuyện nhỏ, chuyện lục đục trong gia đình. Và vì là chuyện nhỏ nên tàu hải quân VN sẽ chỉ bám bờ, không can thiệp. Nhưng KHỐN NẠN nhất là những ngư dân tay không ấy lại được khen ngợi là những "cột mốc sống". Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như: “ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những "cột bia xi măng" vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những "cột gỗ mục" vô giá trị. Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những "cột mốc sống dở chết dở" ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các "cột mốc còn sống" khác ra khơi trở lại. Những mảnh bằng khen này làm nhiều người nhớ lại loại bằng khen dành cho các bà mẹ liệt sỹ, các "bà mẹ anh hùng" đã hy sinh tất cả đàn con của mình cho cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau cùng, công trạng "giải phóng miền Nam" là của đảng. Còn cái bằng khen và chỉ cái bằng khen là của mẹ. Và mẹ ôm nó trước ngực, với hai hàng nước mắt ngồi bệt trên mảnh đất duy nhất còn lại đang bị cưỡng chế. Tôi tự hỏi sau Lý Sơn, Đà Nẵng, ... sẽ còn bao nhiêu mảnh bằng khen khốn nạn ấy nữa treo rải khắp các tỉnh duyên hải Việt Nam? Nguồn: viettan.org
......

Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay

Bí ẩn lớn nhất trong 'di chiếu' của Mao Trạch Đông Tại “phiên tòa thế kỷ” (tháng 11.1980), hơn 850 người ngồi ở ghế dự thính đã vỗ tay tán thưởng khi Giang Thanh bất ngờ tiết lộ thêm 6 chữ trong “mật chiếu” của Mao Trạch Đông viết cho Hoa Quốc Phong trước ngày qua đời... Giang Thanh tại “phiên tòa thế kỷ” (ảnh tư liệu Internet) Giang Thanh giữ thái độ cứng cỏi, một mực phủ nhận tội trạng của mình, có lúc dám cương giọng hô khẩu hiệu “đặc sản” của thời cách mạng văn hóa trước tòa làm mọi người bất bình. Khi bị vạch tội cướp quyền và công kích Hoa Quốc Phong, Giang Thanh lớn tiếng phản bác: - “Tôi muốn cho các vị biết một việc, câu “đồng chí làm việc tôi yên tâm” Mao Chủ tịch viết cho Hoa Quốc Phong tối hôm đó không phải là toàn bộ nội dung Mao viết cho Hoa, ít nhất còn thiếu 6 chữ “có vấn đề, hỏi Giang Thanh”. Mấy câu trên của Giang khiến phiên tòa đại loạn. Giang cười nhạt: - Ta bất chấp phép nước, đạo trời ư? Trong những hồi chuông dồn dập, Giang một lần nữa bị lôi ra khỏi phòng xử án, nhưng trên những hàng ghế dự thính, mọi người vỗ tay rầm rộ, đây là những lời khen chân tình, bởi Giang Thanh đã vạch ra một sự thật quan trọng nhất: Người kế tục mà Mao chỉ định là Giang, chứ không phải là Hoa Quốc Phong. Hoa chỉ là viên cận thần có việc cần thỉnh thị Nữ hoàng. Hoa làm việc Mao yên tâm, nhưng không phải Hoa muốn làm gì thì làm, mà phải thỉnh thị Giang, làm theo chỉ thị của Giang” - theo Tân Tử Lăng. Sáu chữ trong mật chiếu của Mao “có vấn đề - hỏi Giang Thanh” mặc nhiên đặt vị trí Giang Thanh lên trên Hoa Quốc Phong (Thủ tướng - Phó Chủ tịch đảng thứ nhất). Sớm biết vị trí đó, khi Mao nằm trên giường bệnh, Giang Thanh đã dám đứng lên công khai phê bình Hoa Quốc Phong tại Hội nghị công tác kế hoạch toàn quốc ngày 1.8.1976. Các tuần lễ tiếp đó, Giang Thanh ôm “giấc mộng Nữ hoàng” của mình đi diễn giảng khắp nơi. Hồi ký của vệ sĩ Trần Trường Giang nhắc chuyện Giang Thanh đến Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, nhà máy in Tân Hoa với “danh nghĩa thị sát” để “kích động phản cách mạng, nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng” (28.8), đến thăm liên đội anh hùng ở quân khu Tế Nam để “cổ xúy cho “chủ nghĩa đại nữ tử” không bắt tay với đàn ông, và còn nói: “Chủ tịch không còn nữa, tôi sẽ trở thành quả nhân”.   Trong từ vựng của tiếng Trung, từ “quả nhân” có hàm nghĩa đặc biệt, đây là cách xưng hô của các vị vua. Bà Giang Thanh nói ra những lời này tại thời điểm đó (lúc Mao Trạch Đông sắp mất), tại địa điểm đó (quân khu Tế Nam) không phải là ngẫu nhiên hay vô ý, mà đã ngang nhiên bộc lộ tham vọng quyền lực của mình” qua cách “chơi chữ” hai mặt (30.8 ). Lúc Mao Trạch Đông rơi vào hôn mê sâu (8.9), Giang Thanh “lấy lý do giúp Mao Chủ tịch trở mình” để lật người Mao trên giường bệnh dò soát lần cuối xem còn sót di thư nào không và “tìm chìa khóa tủ tài liệu của Mao Chủ tịch” - nửa khuya hôm ấy Mao qua đời. Đã có chuyện một số tỉnh “đua nhau gửi thư ủng hộ Giang Thanh làm chủ tịch đảng”. Sau này ban chuyên án cũng thu bản danh sách lãnh đạo trung ương theo dự kiến của Giang Thanh: “Chủ tịch đảng: Giang Thanh. Phó Chủ tịch đảng : Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Tôn Ngọc Quốc, Mao Viễn Tân. Thường vụ Bộ Chính trị: ngoài sáu người trên, thêm: Tạ Tĩnh Nghi, Trương Thu Kiều, Vương Tú Trân. Chủ tịch Quốc hội: Vương Hồng Văn. Thủ tướng: Trương Xuân Kiều”. Danh sách trên gạt hẳn Hoa Quốc Phong ra ngoài. Ý đồ của Mao là đưa “Giang Thanh lên nắm quyền”, sau đó Giang Thanh sẽ “truyền ngôi” lại cháu ruột của Mao là Mao Viễn Tân.   Về Mao Viễn Tân, tài liệu Tân Tử Lăng ghi: “Trước khi vào Trung Nam Hải, Mao Viễn Tân là Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh, Chính ủy Đại quân khu Thẩm Dương. Từ 10.10.1975, Mao Viễn Tân được cử làm “liên lạc viên” cho Mao. Bộ chính trị họp, Mao Viễn Tân ngồi trên ghế Chủ tịch truyền đạt “khẩu dụ” của Mao. Y coi các ủy viên Bộ chính trị như cấp dưới, đã có lần y nói: “Tôi thuận miệng nói vài câu, đủ để bọn họ học tập mấy tháng ròng”. Điều bí ẩn lớn nhất nằm ở mục đích cuối cùng của Mao được che đậy khéo léo để mọi người không dễ nhận biết, đó là: “khoác chiếc áo lý luận hiện đại nhất, cách mạng nhất” đẩy nước Trung Hoa trở lại thời vua chúa, thiết lập trật tự của “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - để làm gì? Tân Tử Lăng giải đáp từ “gốc rễ” của vấn nạn: “Thông qua Đại cách mạng văn hóa, Mao hầu như đã trị hết các công thần danh tướng. Mười năm tai họa, các nhân vật trên vũ đài chính trị lớp này đến lớp khác như chạy tiếp sức trên một vòng cung lớn nhằm chuyển chiếc gậy “đại vương” đến tay Giang Thanh, để Giang kịp thời kế vị lúc Mao nhắm mắt xuôi tay. Âm mưu gia đình trị của Mao bị phơi trần đã làm nát vụn những phỏng đoán của các nhà trí thức lương thiện về động cơ “cao thượng” của cuộc Đại cách mạng văn hóa do Mao phát động. Nếu không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt, chưa chắc Mao phải dùng đến hạ sách này. Mao truyền ngôi cho Giang Thanh có phần bất đắc dĩ. Mao không tin vào ngàn đời vạn thế, mà tính toán chỉ cần hai thế hệ (Giang Thanh và Mao Viễn Tân) là đủ thời gian hoàn toàn viết lại lịch sử”, chối phắt trách nhiệm làm 37,55 triệu người chết đói- Vì “lịch sử xưa nay đều do kẻ thắng viết nên” (còn nữa) … Giao Hưởng nguồn: http://motthegioi.vn/tieu-diem/
......

NSUT Kim Chi từ Mỹ về và câu chuyện đất nước với thể chế?

NSUT Kim Chi, người từ chối giấy khen của Thủ tướng, vừa ở nước Mỹ về, hiện đang ở Hà Nội, sáng nay, ngày 22.7, tại tư gia TS khoa học Nguyễn Thanh Giang, đã có cuộc trò truyện với một số người về hoạt động của đoàn và cá nhân nghệ sĩ tại nước Mỹ trong thời gian nghệ sĩ đến làm việc và quan sát nước Mỹ. NSUT Kim Chi coi cuộc trò chuyện này là một diễn đàn quan trọng nên NS đã có sự chuẩn bị chu đáo. Ngoài những hoạt động của nhóm với quốc hội Mỹ, với một số các nghị sĩ của nước Mỹ như thông tin trên mạng đã được cập nhật, NS còn cho biết những cảm nhận riêng của NS khi sống trong lòng nước Mỹ, đặc biệt NS còn có cuộc gặp riêng với TS Cù Huy Hà Vũ.   Trả lời các câu hỏi về dân sinh nước Mỹ như thế nào? NS Kim Chi nêu một ví dụ, mẹ của NS chỉ là một bà lão, không có lương hưu nhưng được trợ cấp mỗi tháng 800 đô-la. Khi Mẹ NS do tuổi cao sức yếu phải đi viện, chi phí của bệnh viện tốn tới 200 ngàn đô-la, nhưng nhờ có bảo hiểm mà gia đình chẳng mất một đồng nào. Về an ninh của nước Mỹ, NS nói, chẳng thấy công an, cảnh sát ở đâu cả. Ở đường phố, công viên, các khu dân cư, ngõ ngách, chỗ nào cũng sạch sẻ trật tự. NS Tô Oanh, một trong những người cùng đoàn, cùng ở Mỹ với NS Kim Chi bổ xung: “Trước khi rời Việt Nam ông có đem theo một tuýt si đánh giày, nhưng cả hai tuần ở Mỹ, giày ông đi vẫn sạch trơn, không phải đánh lần nào”. Tôi có thắc mắc, xem phim hành động của Mỹ thấy nhiều cảnh rùng rợn, ghê người có phải là hiện thực Mỹ được phản ánh lên phim”. NS Tô Oanh cho rằng, vì xã hội Mỹ là một xã hội ngăn nắp trật tự, nếu phản ảnh hiện thực đó lên phim ảnh thì có mấy ai xem, bởi vậy mà các nhà làm phim phải sáng tạo ngược lại hiện thực Mỹ thì mới có người xem”. Hóa ra là như vậy. Nước Mỹ làm phim hành động thì ghê người là một phản ánh ngược với những gì đang diễn ra ở Mỹ. Một điều thú vị là trong những ngày ở nước Mỹ, NSUT Kim Chi còn giành thời gian đến thăm vợ chồng TS Cù Huy Hà Vũ. Vợ và Tiến sĩ Hà Vũ vô cùng tức giận khi nghe ở Việt Nam có dư luận TS sẽ lập chính phủ Việt Nam lưu vong tại Hòa Kỳ và tiến sĩ sẽ nhận chức thủ tướng. Chuyện dân chủ cho Việt Nam là một câu chuyện dài và luôn là câu chuyện thời sự cho bất kỳ ai có tấm lòng yêu nước từ trước cũng như trong giai đoạn này. Buổi gặp mặt NSUT Kim Chi và Tô Oanh tại nhà TSKH Nguyễn Thanh Giang cũng không thoát ra được đề tài dân chủ và yêu nước. Thời sự bây giờ nổi lên năm chủ đề lớn: Giàn khoan HD-981 của Tầu Cộng rút khỏi lãnh hải của Việt Nam, tương lai liệu nó còn tác oai, tác quái trên lãnh hải của Việt Nam nữa không? Thứ hai là chủ đề thoát Quốc Cộng, thoát như thế nào? Thứ ba là thượng tầng có thực là có hai phe thân Tàu Cộng và phe ngã về phương Tây hay không; liệu cuộc đấu đá của các nhóm lợi ích có là cứu cánh cho đổi mới và dân chủ của Việt Nam hay không? Thứ tư là lực lượng dân chủ của Việt Nam có làm nên trò trống gì cho cuộc đấu trành vì dân chủ cho nước Việt Nam hay không? Thứ năm là câu chuyện vợ con và nhân cách của ông Hồ Chí Minh”. Toàn là những vấn đề lớn. Nhưng thưa các bạn, tuy là vấn đề lớn, nhưng dân Việt Nam ta hiện tại ở đâu đâu cũng bàn đến, dù họ là ai và ở trình độ nào, chỉ có những người, dù trình độ cỡ nào, chức vụ cỡ nào vô cảm với nhân dân với đất nước mới ngoảnh mặt đi và mở miệng ra là “không nói chuyện chính trị”. Tôi cho rằng, những người này không có tư cách làm người, vì suy cho cùng thì có cái gì lại không liên quan đến chính trị? Vâng, câu chuyện chính trị tại nhà TSKH Nguyễn Thanh Giang đã diễn ra thật sôi nổi và mang tinh thần đa nguyên.   Ai ai cũng vui vì giàn khoan HD- 981 xâm lược lãnh hải Việt Nam đã rút khỏi lãnh hải. Nhờ có hai tháng nó xâm lược mà đã lộ ra mặt những người định bán rẻ đất nước cho Tầu Cộng; nhờ đó mà những người đấu tranh cho dân chủ đất nước, cho mưu đồ thoát Cộng được tự do hơn lên một chút, lực lượng an ninh tỏ ra biết điều hơn. Bằng chứng nhãn tiền là hôm nay chúng tôi có cả thảy 9 người nổ xe máy ầm ầm lao tới nhà TS Nguyễn Thanh Giang mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào? TSKH Nguyễn Thanh Giang cũng cho biêt, tổ “ bảo vệ” TS đã rút khỏi địa bàn từ khi có HD-981 xâm lược lãnh hải nước ta. Có lẽ cũng vì lý do đó mà đoàn báo chí tự do nước ta trong đó có NSUT Kim Chi và Tô Oanh từ Mỹ trở về nước được bằng an không bị bắt giam, tra khảo nhiều. Có lẽ vì lý do đó mà các hội đoàn, trong đó có Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (vừa thành lập) đã được hưởng sự yên ổn. Dân tộc ta có câu thành ngữ: trong họa có may. Áp vào giàn khoan HD-981xâm lược không thể không thấy đúng. HD-981 còn tạo cớ cho hàng trăm ngàn tiếng nói thoát Cộng của những con tim yêu nước Việt mang tinh thần Việt vang lên. Thoát Cộng cụ thế là thoát cái gì? Có ý kiến cho rằng, thoát Cộng là thoát Hệ tư tưởng Mác-Lênin, thoát sự lệ thuộc về chính trị và kinh tế, phải vào được TPP, thân Mỹ, Nhật… TSKH Nguyễn Thanh Giang cho rằng, Tàu Cộng bây giờ là Tàu Cộng của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt được chuột”, làm gì còn mác – Lênin ở đây nữa mà thoát. Tầu Cộng đã vứt Mác- Lênin vào sọt rác ngay từ thời Mao rồi. Thời Mao là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” thì làm gì còn Mác-Lênin. Vì vậy, thoát Cộng bây giờ là phải thoát được sự mua chuộc của Tàu Cộng, thoát được sự bợ đít Tàu Cộng của một số người đang lãnh đạo Việt Nam. Chính một số người này vì hám quyền lực, vì lòng tham vô độ mà nước ta chưa thể thóat Cộng. Vậy trên thượng tầng hiện nay có hai phe phái thân Tàu Cộng và phe muốn thoát Tàu Cộng có thật không? Nhiều người cho rằng, có thật. Cầm đầu phe thân Tàu muốn mãi mãi bợ đít Tàu Cộng dẫn lối cho dân tộc trở thành phiên bang của Tầu Cộng, đứng đầu là Tổng lú. Bằng chứng, kể từ khi Tàu Cộng đưa giàn khoan HD-981 xâm lược lãnh hải Việt Nam cho đến khi tàu rút đi, Tổng lú không hề nói một chữ nào về Tàu Cộng. Cầm đầu phe muốn thoát Cộng là thủ tướng. Thông điệp đầu năm 2014, phát biểu tại hội nghị Shangri-la 2, trả lời phỏng vấn các hãng truyền thông quốc tế và Tàu Cộng chính thức bêu ríu tên thủ tướng trên báo chí của Tàu Công rằng thủ tướng là kẻ gây rối, thủ tướng phải chịu trách nhiệm… là bằng chứng muốn thoát Cộng của thủ tướng. Nhưng có ý kiến phản biện lại rằng, mọi quyết định của đảng ta đều do tập thể quyết định, biết đâu ông Dũng, một thành viên của Bộ chính trị, được phân công đóng vai quân xanh trong cuộc đấu thầu biển Đông, đấu thầu đất nước với Tàu Cộng? Thật chẳng biết đâu mà lường. Quả thật, ông Tổng lú im lặng trước nạn Tàu Cộng xâm lược đến mức bất kỳ người dân nào cũng tức, cũng oán; còn ông thủ tướng nói gì thì ít nhiều cũng đem lại hy vọng cho dân Việt Nam. Vậy liệu có cách mạng nhung ở Việt hay không? Người viết bài này nêu ý kiến khẳng định sẽ không bao giờ có cách mạng nhung, hay cam, hay vàng ở Việt Nam. Lý do, những tinh hoa, tinh anh của đất nước cơ bản đã chết hết trong mấy cuộc chiến tranh từ năm 1945 đến nay rồi. Người Việt Nam còn lại, dù đang ở cương vị nào, đang sống ở Hà Nội hay ở Mỹ đều là những người hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ, chữ “Tự do hay là chết” chưa bao giờ có trong dạ dày của họ nói chi đến nằm trong tim, trong óc những người còn lại. Và do di truyền những người còn lại này cũng chỉ đẻ và giáo dưỡng ra nhưng kẻ hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ cho thế hệ kế tiếp. Hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ như vậy làm gì có cách mạng nhung hay cam sẽ xảy ra? Có vẻ như mọi người đều tán thành nhận định này. Vì vậy, lực lượng dân chủ lớn mạnh là cần, nhưng sự thay đổi chế độ điểm ục vỡ nằm ở ngay chính sự tham lam, ích kỷ này, nghĩa là nó ục vỡ trên thượng tầng do các nhóm lợi ích tranh nhau quyền vơ vét và bán rẻ đất nước rồi từ đó mới có thể lan rộng ra được. Đề tài cuối cùng là chuyện bác Hồ. Chuyện cũ là bác Hồ có đúng là có nhiều vợ, nhiều con và là người Tàu Hồ Tập Chương như trong sách “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của giáo sư sử học người Đài Loan Hồ Tuấn Hùng hay không? Rồi chuyện mới, có phải bác Hồ là nhà tình báo hoàn hảo, người Tàu, do đảng Cộng sản Trung Quốc cài vào đảng cộng sản Việt Nam như tài liệu 141 trang của tác giả Huỳnh Tâm, cũng là người Trung Quốc, đang phơi lộ trên internet hay không? Đa phần tán đồng đúng như vậy. Vì nếu không đảng ta đã làm xét nghiệm AND, rồi lấy kết quả đó mà đập vào miệng những nhà dân chủ đang ngày ngày “bôi xấu” lãnh tụ của đảng ta, dân tộc ta… Bác Lê Mậu Đậu, một người Hà Tĩnh nay đã ngoài bảy mươi tuổi, người có câu đối nổi tiếng về Bản đồ địa chính Tp Hà Nội mới: Thăng Long xưa thế Rồng cuộn Hổ ngồi vua triều Lý quyết xây đô tự chủ Hà Nội giờ thời Chó quỳ Ngựa cúi đảng Mác-Lê cam nhận quân chư hầu cho rằng: người Nghệ Tĩnh tôi luôn lấy đạo hiếu, đạo nghĩa làm đầu, không có bất kỳ người có chữ nào lại dám láo lếu xưng Bác với bàn dân thiên hạ, xưng Cha già với cả dân tộc. Một buổi gặp mặt rõ ràng là có ích khai trí cho nhau. Đúng sai chưa biết thế nào, nhưng rõ ràng nó đã giúp cho những thành viên tham gia hội luận không những có được thông tin từ chuyến đi Mỹ mới về của NSUT Kim Chi và NS Tô Oanh mà nó còn được “nhậu” thỏa thuê dân chủ, nhân quyền, đổi mới, thay đổi của đất nước. Nhưng cũng có trăn trở, đó là TSKH Nguyễn Thanh Giang, một cánh chim đầu đàn cho phong trào dân chủ, đổi mới đất nước có buồn khi đưa ý kiến có những người dân chủ thiếu bản lĩnh bị công an lợi dụng đã trực tiếp đâm nhiều nhát dao vào sau lưng ông và ông đã chính thức khen “Quả là an ninh nước mình giỏi thật”. Một người như ông luôn tìm mọi cách hỗ trợ, giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất cho những người đấu tranh mà vẫn bị mang tiếng là người còn có điểm thiếu minh bạch về tiền tài. Những người có mặt tại cuộc gặp mặt này đều chia sẻ nỗi buồn, nỗi đau này với ông. Nhưng anh Giang ơi, con đường dân chủ cho Việt Nam còn dài dằng dặc, “cây ngay không sợ chết đứng”, lịch sử rồi đây sẽ mở hết các trang, ai ngay ai cong, ai sáng ai đen đều lộ rõ dưới ánh sáng mặt trời hết cả. Những người tham gia gặp mặt: TSKH Nguyễn Thanh Giang, NGUT Kim Chi, NS Tô Oanh, nhà giáo Vũ Mạnh Hùng, ông Lê Mai Đậu, Đại tá Trần Liêm, Kỹ sư Ngô Xuân Míc, ông Vũ Linh, ông Thế Hùng và Phạm Thành. nguồn: https://www.facebook.com/to.oanh
......

Tôi chửi tôi, tôi chửi Chính phủ, chửi cả Đảng

Là một thành viên của một dân tộc được xem là thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó, quật cường, 4000 năm văn hiến, ấy vậy mà tôi không có được một đức tính của dân tộc là "thông minh". Sao vậy? Tôi đã vấp ngã trong bán chác với bọn thương lái Tàu một lần, vì chúng nó ma mãnh siêu quá. Nhưng vấp ngã đến lần thứ mấy rồi tôi mới khẳng định lỗi tại tôi: tôi không nhìn xa hơn cái mũi của mình. Tôi thiếu thông minh viễn kiến.   Từ vụ nuôi ốc vàng vì bọn thương lái Tàu vừa bán ốc con với giá rẻ vừa thu mua ốc lớn với giá cao nên tôi bỏ bê ruộng nương để kiếm lợi. Được vài vụ chúng nó không mua nữa! Ốc vàng đành phải thải ra ruộng ra sông mà không cần biết chúng sẽ ra sao. Kết quả là ốc vàng ăn ngấu ăn nghiến ruộng vườn để sinh sôi nẩy nở. Trước đó tôi đã rơi vào vụ mua nuôi chim cút của Tàu để bán trứng lại cho chúng nó với giá cao. Được hời. Khi cút của nó đã bán ra hết rồi thì chúng cuốn gói đi biệt. Thế là gánh trên vai những đàn cút phải cho nó ăn hàng ngày với thức ăn luồn lậu từ Tàu, bao nhiêu tiền hời rồi lại đổ vào đấy cho đến khi hết tiền thì cút cũng chết mà trứng cũng thối.   Tôi chửi tôi vì chỉ thấy cái lợi trước mắt cho tôi đến khi bị ma giáo hiểm độc lần 1, lần 2, lần 3... mới chịu mở mắt. Cũng với bọn thương lái Tàu, chúng nó tìm mua móng trâu, rễ quế vì móng trâu bọn Tàu thu mua giá hời hơn cả mua lại con trâu, còn rễ quế thì giá như vàng. Đâu chỉ mình tôi, làng làng xóm xóm thi nhau giết trâu bán móng, đào bới rễ quế.   Khi chúng ngừng mua thì cả làng ngơ ngác nhìn nhau, đành quay về nương rẫy thì ôi thôi còn trâu đâu nữa mà cày, quế rụi vì mất rễ. Lại đói. Thương lái Tàu sao khôn đáo để, chiêu của chúng vừa độc vừa thâm. Rồi đến vụ thu mua dừa, khoai lang...đất trồng lúa thành ruộng lang, vườn dừa để được giá hời với Tàu. Rồi cũng đùng một cái thương lái Tàu lại trốn biến mất. Trở lại trồng lúa đâu phải ngày một ngày hai. Chính quyền ở đâu, Đảng ở đâu? Dân ngu thì họ phải làm cho dân "sáng mắt sáng lòng" chứ. Bây giờ mới ngộ ra. Đâu phải mình tôi không biết nhìn xa hơn mũi. Chính quyền cũng thế. Vì cái lợi trước mắt nên để bọn thương lái Tàu tha hồ vào ra, thu mua, ra chiêu như chỗ không người. Chúng lại gom ruộng lúa để trồng thanh long. Thanh long chúng làm gì không biết nhưng ruộng lại mất lúa, gạo thiếu xuất khẩu. Cũng vì cái lợi trước mắt nên Tàu ra chiêu được ở cảng quân sự Cam Ranh, chỉ cách cảng 300m, vừa nuôi cá vừa dòm ngó. Đó là chiêu độc của thương lái gián điệp Tàu và chính quyền quân sự Cam Ranh đã mắc câu vì có món tiền béo bở chia nhau.   Vụ Bô Xít ở cấp nhà nước còn tệ hại hơn. Tiền của Tàu nên nhà thầu, công nhân phải là của Tàu, vật liệu xây cất từ cái bô, cái ống nhổ cũng đưa từ Tàu sang. Khoáng sản khui ra thì cứ về Tàu. Nếu chiến tranh xảy ra thì chúng nó đã có đầu cầu ngay nơi vùng chiến lược, thông qua con đường tiếp tế Miên, Lào để đánh vào lưng chúng ta. Chúng nó sẽ phá hồ thải Bô Xít để chất thải chảy ra tràn ngập, hủy diệt chúng ta dài hạn, hiểm độc. Bô Xít là quả bom tạ của Tàu đặt sẵn ở đấy, trước mũi và có sự tiếp tay của chính quyền. Nếu Chính quyền không có lời thì ít ra lãnh đạo chính quyền được hời. Họ cũng không nhìn xa hơn mũi như tôi. Đó là chưa kể đến các vụ thuê đất đầu nguồn chiến lược cho Tàu. Tôi chửi chính tôi, tôi chửi Chính quyền, rồi tôi chửi cả Đảng. Đảng ta thông minh, thần thánh mà sao không làm "sáng mắt, sáng lòng" cho dân, cho Chính quyền, để cứ rơi vào cái bẫy ma giáo độc hiểm của thương lái Tàu vì lợi nhuận riêng tư. Một đảng viên nói rằng Đảng cũng còn rơi vào bẫy ma giáo của Tàu thì "sáng mắt, sáng lòng" cho ai. Vụ Thành Đô, từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước, đến nguyên Thủ tướng Phạm văn Đồng đều luồn trôn vào cái bẫy quá dễ dàng. Một cán bộ cao cấp về hưu thì lắc đầu không tán thành: "Đảng ta tài tình, bách chiến bách thắng thì làm sao mà vào bẫy của ai. Biết đấy chứ, nhưng ta có lợi khác mà ít ai biết". Lợi gì thì cán bộ cao cấp lắc đầu quầy quậy, không mở miệng. Lợi cho đất nước thì sao không dám mở miệng? Đảng lại được giá hời chứ còn lạ gì. Đến khi Đảng rước từ Tàu về "16 chữ vàng" thì ông Nguyễn Phú Trọng được hời và Tàu thì ngang nhiên chiếm biển, lấn đảo, đặt giàn khoan. Giàn khoan được bọn Tàu khịa đặt ngay trên mũi của các lãnh đạo Việt Nam. Lòng dân căm phẫm đến cực độ đòi Chính quyền kiện chúng nó ngay lập tức. Anh Ba X(ạo) tuyên bố ngon lành phải kiện chúng nó nhưng đẩy trách nhiệm về Bộ Chính Chị . Bộ Chính Chị không dám kiện và câu giờ: nào là kiện thì sợ làm vỡ bát nước đầy, nào là phải chọn thời điểm thích hợp nhất để kiện, nào là chỉ nên xem hàng xóm nặng tiếng với nhau mà thôi, nào là giàn khoan cũng như giàn bầu bí, hết mùa hết bí thì giàn khoan cũng sẽ đi chổ khác thôi. Tôi chửi cha luôn cái bọn quân đội, chưa có nước nào mà quân đội sướng như ở nước ta. Quân đội nước ta lãnh lương ăn hưu, nhưng chỉ xui tàu cá của dân và hải giám ra chịu trận, còn quân đội co ro gìn giữ hòa bình để phát triển tham nhũng. Có đồng chí binh nhì bị chửi ức trả lời rằng: nhưng cấp trên không cho đánh thì chị phải chửi ba đời tam đại cấp trên chứ quân đội tội tình gì...   Tôi vừa chửi tôi, vừa chửi Đảng, chửi tôi một, chửi Đảng mười với tất cả ngôn từ mượn của bà mất gà. Nào là "con quạ mắt xanh mỏ đỏ, móng thép bấu vào mắt để cho cho nó thành đui, thành mù kẻ cắp gà tao". Nặng hơn chứ, tôi sẽ chửi thêm rằng đui mù sớm trở thành "G e n" truyền cho con cháu chúng nó đui mù suốt kiếp, dù có nằm trên đống vàng do tổ tiên chúng tham nhũng để lại... Bà mất gà chửi vì bà mất con gà, còn tôi thì mất cả biển đảo của cha ông, của con cháu. Mất đời đời. Phải chửi nặng hơn đi chứ. Tôi chửi tôi, chửi chính quyền và chửi cả Đảng quanh năm suốt tháng. Đảng không làm cho tôi "sáng mắt sáng lòng". Chồng tôi trừng mắt nhìn tôi: "Em chửi thế ở nhà chỉ có anh nghe, chứ ai vào đấy" vì vậy tôi xin đăng bài này cho Đảng, Chính quyền cùng nghe. Nguyễn Tố Nga Nguồn: danquyenvn.blogspot.de
......

Putin tự hại

Tổng Thống Nga Vladimir V. Putin đang lâm vào thế bí sau khi chiếc máy bay MH-17 của Hàng Không Mã Lai bị bắn hạ, làm chết 298 người.   Cả thế giới công nhận một hỏa tiễn SA-11 của Nga đã bắn rớt chiếc phi cơ này, từ vùng đất do quân phiến loạn kiểm soát, do ông Putin tiếp tế vũ khí và đưa biệt kích Nga sang chỉ huy. Nhưng ông Putin vẫn chối; trâng tráo nhất là các đài ti vi Nga đổ tội cho chính phủ Ukraine, với cơ quan tình báo Mỹ CIA đứng sau lưng. Nhưng quân đội Ukraine chưa bao giờ dùng đến loại hỏa tiễn từ dưới đất bắn lên (địa không) trong các cuộc tiễu trừ phiến loạn, giản dị vì quân nổi loạn chưa bao giờ có máy bay. Quân đội Nga hay Ukraine đều có khả năng xác định một chiếc máy bay trên cao 10,000 mét là phi cơ quân sự hoặc dân sự, quân phiến loạn thì không có dụng cụ kỹ thuật và được huấn luyện, cho nên mới họ lầm chiếc Boeing 777 là phi cơ chiến đấu. Nhưng họ cũng không có chuyên viên để điều khiển việc phóng chiếc hỏa tiễn “tầm nhiệt” SA-11 này. Phải có các chuyên viên trong quân đội Nga tham dự trong tội ác. Vladimir Putin vẫn tìm cách chối tội. Hai tướng lãnh người Nga vẫn còn lên tiếng đổ tội cho quân đội Ukraine, đòi hỏi chính phủ Mỹ phải trưng ra bằng cớ là quân phiến loạn đã phóng chiếc hỏa tiễn. Ông Putin còn một cách chối tội khác, là mô tả chiếc hỏa tiễn đó là do quân phiến loạn cướp được từ kho vũ khí của quân đội Ukraine, mà việc đó có thể xẩy ra. Nhưng các hỏa tiễn chứa trong kho thường không đầy đủ, đặc biệt là còn thiếu các đầu đạn chứa chất nổ và bộ phận kích hỏa. Vì vậy, câu chuyện dính tới cả chính quyền cộng sản Việt Nam. Cảnh sát quốc tế mới ngăn chặn được một kiện hàng chứa các bộ phận của hỏa tiễn SA-11, xuất phát từ Việt Nam trên đường chuyển tới Ukraine. Có thể chính quyền Nga đã yêu cầu cộng sản Việt Nam trả lại một số bộ phận viện trợ trong thời chiến tranh, và ra lệnh gửi thẳng sang miền Ðông Ukraine, nơi phiến quân kiểm soát để tránh tiếng cho Nga. Vladimir Putin đang tự đưa đầu vào chiếc thòng lọng mà ông ta tính dùng để treo cổ nền độc lập và chế độ tự do dân chủ tại Ukraine. Putin đã mù quáng vì tham vọng tái lập một đế quốc Nga, giống như từ thời các Nga hoàng và thời chế độ cộng sản. Năm 1994, Putin đã nói về nỗi ẩn ức của mình tại một hội nghị quốc tế ở St. Petersburg; khi đó ông ta mới chỉ là phụ tá cho vị thị trưởng thành phố này. Putin nói rằng lãnh thổ Nga đã bị xé mất quá nhiều đất đai sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Ông ta kể đến vùng Crimea, đến miền Bắc Kazakhstan, và những vùng khác như chung quanh Kaliningrad ở bờ biển Baltic. Ông nói rằng chính phủ Nga không thể “bỏ rơi” 25 triệu người nói tiếng Nga sống ở nước ngoài; và kêu gọi thế giới phải tôn trọng quyền của nước Nga phải bảo vệ “đại dân tộc Nga” (russkiy mir). Với luận điệu như thế, chính quyền cộng sản Bắc Kinh có thể cũng đòi “bảo vệ” các người gốc Trung Hoa ở khắp vùng Ðông Nam Á, kể cả Singapore!   Năm 1999, Putin lên làm thủ tướng, rồi trở thành tổng thống Nga trong hai nhiệm kỳ. Sau mấy năm đóng vai thủ tướng, ông ta trở lại làm tổng thống, với triển vọng thêm hai nhiệm kỳ bẩy năm nữa. Trong hai nhiệm kỳ đầu, Putin đã đóng vai trò một chính khách sẵn sàng cộng tác với thế giới bên ngoài. Năm 2001, Tổng Thống Mỹ George W. Bush sau khi gặp Putin đã tuyên bố, “có thể nhìn thẳng vào mặt nhau được,” ý nói có thể tin tưởng Putin không có tham vọng đế quốc. Trước khi đắc cử làm tổng thống lần thứ hai, Putin đã bắt đầu thực hiện tham vọng đó, với cuộc xâm lăng Georgia. Nhưng đến năm 2013, kế hoạch bành trướng của Putin mới lộ rõ, sau khi không thể ngăn cản nước Ukraine tiến đến gần với Liên Hiệp Châu Âu (EU) qua một hiệp ước hợp tác thương mại. Putin đã gây rối loạn rồi sát nhập vùng Crimea; và nay đang gây loạn ở hai tỉnh miền Ðông, sát biên giới Nga. Phản ứng của các nước dân chủ Tây Phương rất dè dặt trước các hành động của Putin. Dân Mỹ không ai chấp nhận đưa quân đến cứu nước Ukraine, cũng như trước đây không cứu Georgia. Vũ khí duy nhất để ngăn cản Putin là phong tỏa kinh tế, nhưng kinh tế các nước Âu Châu đều bị ràng buộc quá chặt chẽ với Nga. Một phần ba số khí đốt và dầu lửa dùng ở Châu Âu được nhập cảng từ Nga; trong quá khứ Putin đã dọa cắt nguồn tiếp tế này. Chính phủ Mỹ không thể đơn phương phong tỏa kinh tế Nga, vì sẽ thất bại nếu các nước Châu Âu không hợp tác. Vladimir Putin đã thực hiện một kế hoạch “tầm ăn dâu” đối với Ukraine. Sau khi nuốt được Crimea, Nga đã xúi giục những người gốc Nga ở miền Ðông Ukraine nổi lên đòi quyền tự trị, tuyên bố thành lập cả một “nước Cộng Hòa Nhân Dân” mới. Trong khi đó, Putin dùng thủ đoạn vuốt ve bên ngoài, và tuyên bố cộng tác với các nước khác để giữ “hòa bình, ổn định” trong xứ Ukraine. Chỉ có chính phủ Mỹ tiếp tục dùng các biện pháp cứng rắn, khi đơn phương ra lệnh phong tỏa hai công ty năng lượng lớn nhất của Nga và mấy ngân hàng quan trọng. Hành động “trừng phạt” này diễn ra một ngày trước khi xẩy ra vụ bắn hạ chiếc máy bay MH-17; với viễn tượng các nước Châu Âu vẫn chưa chịu hợp tác. Nhưng vụ MH-17 đã thay đổi tình thế. Phản ứng của cả thế giới là phẫn nộ, không những vì cảnh gần 300 thường dân vô tội bị thảm sát, mà còn vì thái độ trâng tráo của chính quyền Vladimir Putin.   Bà Thủ Tướng Ðức Angela Merkel, Thủ Tướng Anh David Cameron và Tổng Thống Pháp Francois Hollande đã nói chuyện với nhau vào cuối tuần qua, đồng ý rằng chính sách trong vụ Ukraine phải thay đổi; trong cuộc họp của ngoại trưởng các nước bắt đầu ngày hôm qua, Thứ Ba, 21 Tháng Bảy. Hòa Lan là một nước Âu Châu vẫn chủ trương dè dặt đối với Nga trong vụ này; nhưng chính phủ Hòa Lan đang bị áp lực từ dân chúng phải thay đổi, sau khi gần 200 công dân nước họ chết oan. Âu Châu sẽ phải chấp nhận thiếu thốn khí đốt trong mùa Ðông năm tới, để cho ông Putin một bài học. Một cuộc nghiên cứu của hãng dầu Total, Pháp, cho thấy Âu Châu có thể chịu đựng được một mùa Ðông nữa, dù Nga cắt đứt hơi đốt. nhưng các nước Bulgaria, Romania, Hungary and Slovakia sẽ gặp khó khăn nhất. Nước Ý cũng phụ thuộc vào nguồn hơi đốt của Nga nhưng có thể được bù đắp bằng nguồn khác, đến từ Bắc Phi và Trung Ðông.   Nếu cả Mỹ và Âu Châu cùng phong tỏa mạnh hơn, nền kinh tế Nga sẽ khốn đốn. Ngay từ tuần trước, hai thị trường chứng khoán đã mất 5% và 7% và đồng rúp của Nga đã xuống giá, sau khi chiếc máy bay MH-17 bị bắn hạ. Nhiều đại gia, tỷ phú đô la ở Nga đã than phiền rằng chính sách của ông Putin sẽ làm kinh tế Nga khánh kiệt. Chính ông Putin sẽ không thể quyết định cắt tất cả nguồn tiếp tế dầu, khí cho Âu Châu, kể cả đường dẫn qua Ukraine, vì nước Nga cũng đang cần ngoại tệ, như dân Châu Âu cần năng lượng. Một phần ba ngân sách chính phủ Nga tùy thuộc vào việc xuất cảng dầu khí. Vũ khí năng lượng của Nga chỉ có giá trị trong ngắn hạn, trong vài ba năm, vì nước Mỹ đang bắt đầu thặng dư dầu khí, sẽ trở thành một xứ xuất cảng nhiều hơn nhập cảng. Ông Putin có thể đang chiếm lợi thế về quân sự tại miền Ðông Ukraine, nhưng trên các mặt trận ngoại giao, kinh tế, ông ta đang bị đẩy vào chân tường. Về lâu dài thì tham vọng bành trướng để tái lập một đế quốc Ðại Nga sẽ hoàn toàn thất bại. Khi kinh tế suy sụp thì những vận động phản kháng của người dân Nga sẽ bùng lên, chính ngai vàng của ông Putin cũng khó vững. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Trung quốc sẽ thua nếu gây chiến tranh ở biển Đông

Trong tình trạng kinh tế toàn cầu chỉ vừa mới bắt đầu có chỉ dấu hồi phục, không một chính phủ tại nước dân chủ nào muốn xảy ra chiến tranh vào lúc này. Ngay cả tại những vùng sôi động trở lại như Iraq, Syria, Lybia, Palestine, các chính phủ Tây Phương vẫn cố chần chờ tránh bị hút vào các cuộc nội chiến. Bắc Kinh rõ ràng đã bắt mạch được sự e ngại của các nước phát triển, đặc biệt là thái độ dè dặt của chính phủ Obama, và vì thế họ quyết định chọn thời điểm này để nâng cấp ý đồ chiếm trọn Biển Đông. Thật ra thì các chỉ dấu về cuộc "Trỗi dậy không hòa bình chút nào" của Trung Cộng đã xuất hiện trong nhiều năm qua nhưng vẫn chỉ ở vận tốc tiệm tiến và bắt nạt riêng Hà Nội chứ chưa quá táo bạo tới mức báo động quốc tế. Nhưng bước nâng cấp qua việc kéo giàn khoan HD-981 khổng lồ vào giữa Biển Đông để khởi động một giai đoạn lấn chiếm mới của Trung Cộng đã thực sự làm giới nghiên cứu chính sách và chuyên gia quân sự của Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ bắt đầu cảm thấy một cuộc chiến khó tránh trong tương lai trước mặt. Họ buộc phải chính thức lên kế hoạch phân tích và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh rộng lớn giữa Trung quốc với các quốc gia trong vùng kể cả quân đội Hoa Kỳ đang trú đóng ở Á châu. Kế hoạch này phải có ngay vì không ai dám chắc chiến tranh sẽ xảy ra trong vài năm tới hay chỉ vài tháng tới. Những chi tiết, không rõ do vô tình hay cố ý cho rò rỉ ra từ phía chính quyền, mà giới truyền thông Nhật Bản thu thập được đều cho thấy Bắc Kinh chắc chắn nắm phần thua nặng nếu gây chiến ở Biển Đông. Đối sách của đồng minh Mỹ-Nhật-và các nước đồng minh có tên là Offshore Control Strategy (OCS), tạm dịch là Chiến Lược Phong Tỏa Từ Ngoài Khơi. OCS có diễn trình và các điểm chính sau đây: - Phần lớn năng lượng để nuôi sống nền kỹ nghệ, nền kinh tế, và sinh hoạt hàng ngày của Trung Quốc phải nhập từ bên ngoài. Và 90% lượng dầu thô mà Trung quốc nhập khẩu được chuyên chở bằng đường biển từ các nước Trung Đông, Đông Nam Á, và Trung Mỹ, Nam Mỹ về. Mục tiêu tối hậu của OCS, do đó, là bóp nghẹt các đường truyền máu này vào nội địa Trung Quốc.   - Theo giới chuyên gia quân sự Mỹ Nhật hình dung thì sớm muộn gì Bắc Kinh cũng sẽ bước tới lằn mức tung ra thông báo cấm mọi tàu thuyền đi qua vùng lưỡi bò mà không "xin phép" Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ tập trung tàu chiến, máy bay phát xuất từ các sân bay tại Hoàng Sa, Trường sa để áp đặt lệnh cấm này. - Nhưng đó sẽ là lý cớ cần thiết để Hoa Kỳ tập hợp công luận thế giới và bắt đầu phối trí lực lượng hải quân, không quân của mình từ các quần đảo phía Tây Nam nước Nhật đến quần đảo Philippines chạy song song với đường lưỡi bò. Khu vực đối đầu chính giữa Trung quốc với Hoa Kỳ là khoảng giữa hai đường vạch đỏ (đường lưỡi bò và đường phối trí lực lượng quân sự Hoa Kỳ từ Nhật đến Philippines)   - Kế hoạch Phong Tỏa Từ Ngoài Khơi bắt đầu với việc cấm tàu thuyền Trung Quốc, đặc biệt các tàu chở dầu, không được đi qua vùng biển giữa 2 vạch đỏ nêu trên. Nếu bất tuân, các tàu này sẽ bị tấn công. Tàu chiến Trung Cộng hiện không đủ số lượng và không có khả năng đối đầu với hải quân Hoa Kỳ để bảo vệ các tàu dầu này. Cùng lúc, Hoa Kỳ, với sứ mạng được thế giới giao phó vì quá bất bình trước hành vi của Bắc Kinh, sẽ kết hợp với các nước chủ nhà để phong tỏa các eo biển hệ trọng liên hệ. Đó là eo biển Malacca - nằm giữa bán đảo Malaysia và đảo Sumatra, nối liền biển Đông và Ấn Độ dương; eo biển Lombok - nối biển Java với Ấn Độ dương, nằm giữa các đảo Bali và Lombok ở Indonesia; kênh đào Panama và eo biển Magallanes ở Chile - 2 con đường tắt để chở dầu từ Trung và Nam Mỹ về Trung Quốc.   - Vì Hoa Kỳ không sử dụng vũ lực quân sự tấn công thẳng vào Hoa lục nên nhiều phần sẽ tránh được một cuộc chiến tranh nguyên tử. Bắc Kinh có vũ khí hạt nhân từ lâu nhưng chưa có loại hỏa tiễn liên lục địa để đưa vũ khí hạt nhân đi tấn công ở tầm hoàn cầu. Việc mua và vận chuyển loại hỏa tiễn liên lục địa từ Nga có thể xảy ra nhưng rất khó trốn thoát các dụng cụ theo dõi và khả năng phá hủy bằng drone (máy bay không người lái) của Mỹ. Ngay cả nếu Bắc Kinh xử dụng hỏa tiễn tầm trung và tầm ngắn để mở chiến tranh nguyên tử với Nhật Bản, Nam Hàn thì cũng chưa chắc thành công vì hệ thống hỏa-tiễn-chống-hỏa-tiễn hiện có của Mỹ. Cùng lúc đó, việc tấn công nguyên tử sẽ là lời mời liên quân thế giới đổ bộ trực tiếp vào Trung Quốc để thay đổi chế độ hiện tại.   - Do đó, nếu chiến tranh ở biển Đông xảy ra thì sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ không bị hao mòn bao nhiêu qua chiến lược Offshore Control, trong khi đó Trung quốc sẽ bị tê liệt không chỉ về kinh tế và cả khả năng vận hành xã hội hàng ngày. Tình trạng này chắc chắn dẫn đến sự nổi dậy của các phe cánh đang căm thù nhóm Tập Cận Bình đến xương tủy và dẫn đến nhiều nguy cơ sụp đổ chế độ Cộng sản, một chế độ mà người dân ở Hoa lục muốn dẹp bỏ khi có điều kiện. - Đặc biệt, nếu chính quyền của Thủ tướng Abe được Quốc hội Nhật thông qua việc sửa đổi điều 9 Hiến pháp cho phép cho phép Tự Vệ Đội nước này có thể nổ súng khi đồng minh chiến lược của Nhật bị tấn công thì Hoa Kỳ sẽ nhẹ gánh hơn vì lực lượng hải quân và không quân Nhật hiện nay một mình cũng đã có thể đương đầu với Trung quốc. Hải quân Hoa Kỳ sẽ rảnh tay phong tỏa một vùng hải dương rộng ngoài khơi. - Bắc Kinh, theo các chuyên gia hoạch tính quân sự nêu trên nhận định, đã dư biết sự thất lợi của họ và cũng biết luôn Chiến lược Offshore Control của Hoa Kỳ. Và đó là lý do mà Bắc Kinh còn dè dặt chờ cơ hội cho đến gần đây. Hiện nay để tránh né OCS, Bắc Kinh chỉ ra sức xây hệ thống dẫn dầu bằng đường bộ và cố tránh sử dụng tàu chiến hải quân để không tạo lý cớ cho đồng minh Mỹ Nhật báo động thế giới. Thay vào đó, Bắc Kinh dồn ngân sách nhiều cho việc gia tăng lực lượng cảnh sát biển. Cả 2 cách đối phó nói trên đều không hữu hiệu vì đường dẫn dầu trên bộ quá dài và bị tấn công ở bất kỳ điểm nào cũng sẽ tê liệt. Còn lực lượng cảnh sát biển nếu được dùng để cản trở tàu bè đi lại tại Biển Đông thì sẽ vẫn bị thế giới trừng phạt như tàu chiến hải quân. Cần nói thêm, riêng chiếc tàu sân bay (hàng không mẫu hạm) mua của Nga, theo giới phân tích quân sự, chỉ có thể dùng làm công cụ tuyên truyền với dân chúng Hoa Lục chứ không đóng góp gì cho cuộc chiến lần này. Ngược lại, nếu chiếc tàu sân bay này bị đánh chìm tương đối dễ dàng thì thiệt hại đó cũng làm sụp đổ nặng hình ảnh vô cùng hùng mạnh mà lãnh đạo Trung Cộng đã bơm vào đầu người dân trong nhiều năm qua. - Cũng theo truyền thông Nhật, trước đây giới chức quân sự Hoa Kỳ, Nhật, Úc, Philippines, Ấn Độ đã bàn đến vai trò của Việt Nam trong mạng lưới phòng thủ chung chống Trung Cộng bành trướng, nếu Hà Nội đồng ý tham gia liên minh. Vị trí địa lý của Việt Nam thuận lợi cho không quân ngăn chận các tàu dầu, tàu chở hàng Trung Cộng vì lý do nào đó chạy thoát được mạng lưới ngăn chận tại hai eo biển Malacca, Lombok, và các ngõ ngách khác từ phía Nam. Tuy không dám dùng tông điệu khẳng định, nhưng giới hoạch định quân sự Mỹ, Nhật và nhiều nước trong vùng đã lệt kê các dữ kiện rất vững chắc rằng nếu Trung Cộng giao tranh với liên minh này tại Biển Đông thì chắc chắn Trung Cộng thua. Cùng lúc, giới lãnh đạo đảng CSVN nay xác nhận tại các buổi học tập cho cán bộ trung cấp rằng nếu Việt Nam giao tranh với Trung Cộng thì chắc chắn Việt Nam thua. Khi tổng hợp 2 kết luận khó cãi này lại, cả người Việt lẫn quốc tế đều không sao hiểu được tại sao lãnh đạo CSVN lại cứ từ chối tham gia các liên minh phòng thủ chung và cứ nhất quyết chỉ giải quyết song phương với Bắc Kinh?
......

TRẰN TRỌC THÁNG BẢY - Phần 2

Phần 2 : Thoát Trung chủ yếu là thoát về chính trị, không phải văn hóa   Lịch sử đưa đẩy hai nước Việt Trung vào cùng một “đại gia đình Cộng sản” là tạo ra cơ hội bằng vàng, nhốt con thỏ và con sói vào cùng một chuồng thành hai anh em ruột, chị em ruột. Thế là toàn bộ chương trình dài hơi nhằm nô dịch Việt Nam, biến Việt Nam thành chư hầu kiểu mới của Trung Quốc được thiết kế trên cái nền Cộng sản, trong đó “quyền đảng” được nâng lên tối đa và “quyền dân” thực tế bị hạ xuống tối thiểu, khiến cho hai đảng cứ tự do làm việc ngầm với nhau, quyết định mọi việc trong quan hệ cá lớn nuốt cá bé, trong khi nhân dân bị đứng ngoài cuộc. Vậy đây là một cuộc cờ chính trị “vĩ đại”, yêu cầu thoát Trung chẳng qua là thoát khỏi sự kìm kẹp chính trị Cộng sản khủng khiếp ấy. Trong tiến trình ràng buộc có sử dụng sự ràng buộc kinh tế, ràng buộc tư tưởng, ràng buộc văn hóa – xã hội, nhưng tất cả chỉ là phương tiện nhằm cái đích nô dịch chính trị. Chính trị là cái nút thắt, cũng là nơi để chiếc chìa khóa mở ra. Nếu hiểu lý thuyết rằng văn hóa hoặc kinh tế là nền móng rồi dồn sức vào các lĩnh vực mênh mông là văn hóa hoặc kinh tế thì chỉ luẩn quẩn mãi trong rừng rậm không có lối ra, có khi gây tác dụng ngược, cuối cùng vẫn bị yếu tố chính trị thắt lại, vì chính trị nhanh tay hơn, ma mãnh hơn văn hóa và kinh tế rất nhiều. Thật vậy, về văn hóa, ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam tuy có những điều bất lợi nhưng nhìn tổng thể cũng là điều bình thường xưa nay, trong đó có xấu có tốt, có thể điều chỉnh, có yếu tố đã trở thành sức mạnh của Việt Nam. Thế giới có khoảng 200 quốc gia nhưng con số những nền văn hóa lớn thì ít hơn rất nhiều, mỗi nền văn hóa lớn thường tỏa rộng ảnh hưởng ra các quốc gia xung quanh, tạo nên những vùng “địa văn hóa”, “cụm văn hóa” gồm nhiều quốc gia lân cận. Quan hệ quốc tế hiện nay làm cho ranh giới “địa văn hóa” mờ dần đi, ngày càng thâm nhập vào nhau một cách đa phương nên muốn dùng độc quyền văn hóa làm công cụ nô dịch cũng không dễ dàng như trước. Trái lại những giá trị văn hóa dù hình thành ở đâu cũng là thành quả chung của loài người để dùng chung như ta dùng lửa, dùng điện, dùng Internet vậy. Không có gì phải mặc cảm khi một quốc gia nằm trong cụm văn hóa Hy-La hay văn hóa Trung Hoa (chưa kể theo tác giả Hà Văn Thùy thì văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ Văn hóa Việt!).…   Mặt khác, vì xã hội luôn có hai thành phần tương sinh tương khắc là nhân dân và tầng lớp thống trị nên nền văn hóa nào cũng cấu thành bởi hai nhân tố xung khắc ấy, vừa có mặt nhân văn tích cực của nhân dân, lại có mặt phản dân chủ mà giới cầm quyền khéo dùng làm công cụ để nô dịch dân mình và nô dịch cả dân nước khác, đồng thời tất cả vẫn nằm trong dòng tiến hóa từ lạc hậu đến ngày một văn minh hơn. Khi du nhập những nét văn hóa tích cực luôn phải thanh lọc những yếu tố nô dịch tiêu cực hoặc không phù hợp với tập quán dân tộc mình. Điều này dân tộc Việt Nam đã làm, làm khá thành công nên sau 1000 năm Bắc thuộc mà vẫn không bị đồng hóa. Tóm lại, thái độ đối với văn hóa là sàng lọc, đồng hóa hoặc tẩy trừ từng phần chứ không nhất thiết phải xử lý trọn gói. Tấm gương biết sàng lọc văn hóa không ai bằng cụ Phan Châu Trinh, xuất thân Nho học, tiếp tận Âu Tây mà biết sàng lọc rất trúng, vừa chống “hủ Nho” vừa chống “hủ Âu” trở thành nhà dân chủ, nhà cách mạng đầu tiên của nước nhà [*]. Cụ chẳng vì chuộng Âu mà phải thoát Á, vì khi đã lệch về một phía thì dễ thiên vị, quên sàng lọc mà tôn sùng cả cái xấu của người ta. Điều oái oăm với văn hóa Việt Nam là trong khi dòng chảy văn hóa đang từng bước tự hoàn thiện thì có sự du nhập “một nền văn hóa trọn gói” nặng tính ngoại lai và áp đặt, là “văn hóa vô sản” thực chất là “văn hóa Cộng sản”, “văn hóa đảng”. Nói văn hóa Cộng sản có tính “trọn gói” vì nó tách biệt hẳn ra thành một khối, không kế thừa, dính vào đâu là nó hủy diệt các giá trị truyền thống ở đó, nên không có khả năng hòa đồng vào bất kỳ nền văn hóa nào. Vì bản chất là phi dân chủ nhưng lại nhân danh dân chủ nên văn hóa Cộng sản cộng hưởng ngay với chất mị dân của chủ nghĩa thân dân phong kiến, mà thực chất là vương quyền áp đặt, tôn sùng minh quân, đồng thời làm mất gốc dân chủ và tương thân tương ái của văn hóa bản địa, thay bằng thứ tình yêu giai cấp vừa chật hẹp giữa con người lại vừa mở rộng phi lý vượt biên cương. Chính nền chuyên chính độc đảng toàn trị Cộng sản đã làm cho quan hệ “quỳ lạy-xin cho” tiêu cực của văn hóa phong kiến trỗi dậy và làm tha hóa xã hội đến mức bệnh hoạn. Tôi hiểu đấy chính là lý do khiến nhà báo Lê Phú Khải phải kịch liệt phê phán thứ “văn hóa quỳ lạy” đang chế ngự xã hội. Một nét tiêu cực của văn hóa phong kiến như thế tưởng đã qua đi, nay gặp môi trường mới thích hợp lại nảy nở thành một tệ nạn, chứ đạo Nho chỉ khuyên người ta đứng thẳng, không khuất phục trước uy vũ (uy vũ bất năng khuất) và con người phải biết tự trọng thì người khác mới trọng mình (ngô tự trọng nhi hậu nhân trọng chi, ngô tự khinh nhi hậu nhân khinh chi), Khổng giáo không khuyên người ta quỳ lạy. Văn hóa Khổng Mạnh vừa sinh ra Phan Châu Trinh rất dân chủ, vừa sinh ra tên vua Khải Định thích dân quỳ lạy. Cho nên Cụ Phan viết thư hạch tội vua Khải Định 7 điều, trong đó tội thứ nhất là quá tôn quân quyền, cậy quyền thế mà ép dân, tội thứ nhì là không công bằng và tội thứ ba chính là “Chuộng sự quỳ lạy”! Ngày nay một lực lượng vũ trang ăn lương của dân mà coi dân như cỏ rác, ngang nhiên thách thức “chỉ biết còn Đảng còn mình”, tất nhiên nịnh trên mà nạt dưới, thì chắc chắn người đưa ra khẩu hiệu rất “quỳ lạy” đó không hề đọc sách Khổng Mạnh mà chỉ nhiễm “văn hóa Đảng” thôi. Nhiều người dân vào đồn công an bị đánh đến phải quỳ lạy, nơi “quỳ lạy” ấy không hề có đạo Khổng, chỉ có “6 điều Bác dạy” (mặc dù lời dạy cũng có câu “với dân phải kính trọng, lễ phép”). Thuở nước nhà sơ khai, các trí thức chịu ảnh hưởng đạo Nho và văn hóa Trung Hoa rất nhiều, nhưng những Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt đã dùng chính chữ Nho làm vũ khí chống lại Tàu, sức mạnh Nho giáo đã thành sức mạnh dân tộc. Trong khi Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc lại dùng chữ Nho để theo Tàu phản bội Tổ quốc, còn khối kẻ hàng Tàu bây giờ đâu có biết một chữ Nho bẻ làm đôi? Vậy hèn mạt hay anh hùng ít khi do nền văn hóa, chủ yếu do nhu cầu chính trị, vì chính trị gắn với quyền lợi và nhu cầu sinh tồn.   Ngay chuyện bây giờ, khi ta nói sở dĩ đảng Cộng sản Việt Nam phải lệ thuộc Tàu là do Ý thức hệ Cộng sản thì cũng chỉ đúng một phần. Đâu có phải cứ hai nước cùng chung Ý thức hệ Cộng sản thì thôn tính nhau? Vấn đề là nước Cộng sản nhỏ muốn tiến hành chiến tranh, rồi lại muốn chống xu thế dân chủ để tiếp tục nắm quyền độc trị thì phải dựa vào nước Cộng sản lớn giúp đỡ, nước lớn vốn rắp tâm xâm lược nên sử dụng sự giúp đỡ làm cái bẫy để bắt Đảng CS nhỏ bán dần chủ quyền, mặc dù đến nay cả hai bên chẳng ai xây dựng chủ nghĩa CS gì hết, chẳng ai còn tin vào cái bánh vẽ “thế giới đại đồng”. Vậy bản chất sự lệ thuộc Tàu là do ràng buộc chính trị trong môi trường Cộng sản, như một hệ quả đau đớn của việc chọn con đường CS, chứ không phải do sự thấm nhuần Ý thức hệ. Ý thức hệ chỉ là yếu tố bắt nguồn lúc đầu. Những kẻ theo Tàu hiện nay là do nhu cầu chính trị, do quyền lợi chứ chẳng vì lý tưởng giai cấp vô sản gì hết. Lại so sánh chế độ miền Bắc và chế độ miền Nam trước đây về hai mặt Thoát Trung và Khổng học. Miền Nam còn giữ Khổng học rất nhiều, từ sách vở đạo đức, đến quan hệ xã hội nhưng họ dứt khoát Thoát Trung, biểu hiện ở việc chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974, và quy định một số nghề người Hoa không được làm để phòng người Tàu chi phối kinh tế và quốc phòng. Trong khi miền Bắc lúc đó bài trừ Khổng học, coi Khổng học là phong kiến phản động nên phá hết văn chỉ, đem câu đối làm cầu ao, chuồng lợn, đấu tố Nho học, thì lại ôm chân Tàu rất rõ, dập khuôn Tàu, phụ thuộc Tàu đến nỗi sinh ra nguy cơ Bắc thuộc hiện nay. Vậy không phải chống Khổng học thì Thoát Trung mà có khi ngược lại, vì nhiều nét của Khổng học đã được người Việt đồng hóa để thành vốn liếng văn hóa của chính người Việt. Cuối cùng, xin cảm ơn việc khơi ra cuộc thảo luận Thoát Trung, đã huy động được sự đóng góp từ nhiều phía, làm cho một vấn đề rất hệ trọng được sáng ra, lần đầu tiên được đề cập một cách hệ thống, thiết tưởng là một sáng kiến đóng góp rất hữu ích cho công cuộc Thoát Trung hiện nay. ***** TRẰN TRỌC THÁNG BẢY - Phần 1 http://www.ttdq.de/node/1537
......

HAI BÀ TRƯNG ĐÁNH GIẶC NÀO NHỈ?

Trước ngày nhập học, cháu gái tôi hầu như không rời mấy cuốn SGK còn thơm mùi giấy mới. Đang đọc say sưa bỗng nó chạy đến bên tôi, chỉ vào bài tập đọc Hai Bà Trưng (Tiếng Việt 3, tập 2, trang 4, 5) nói ông ơi, cháu đọc hoài mà vẫn không hiểu Hai Bà Trưng đánh giặc nào. Biết ngay “mặt mày” kẻ xâm lược nhưng nghĩ con bé đọc lớt phớt nên không nắm được nội dung, tôi chưa vội chia sẻ mà tranh thủ dạy cho cháu cách đọc sách. Rằng phải đọc từ từ cho thấm, kết hợp đọc với suy nghĩ, đừng đọc theo kiểu lấy được, lướt con mắt cho xong… Giờ cháu đọc lại đi. Làm gì có chuyện viết về khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà không nêu đích danh giặc ngoại xâm.   Con bé nhăn mặt nói cháu đọc kỹ lắm rồi, vẫn không biết hai Bà đánh bọn xâm lược nào. Tôi nhổm dậy, cầm quyển sách, giương mục kỉnh lên. Và chợt ngớ ra: Lời con trẻ đúng quá. Bài học tuyệt không một chữ nào vạch mặt chỉ tên kẻ cướp mà toàn những danh từ nhợt nhạt, mập mờ, chung chung: tướng giặc, quân thù, giặc ngoại xâm, kẻ thù, quân xâm lược. Viết về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc (năm 40 - 43) gắn với tên tuổi Hai Bà Trưng lừng lẫy nhưng SGK không hề dám nửa lời chỉ đích danh bọn xâm lược. Thậm chí cụm từ có tính hàm ngôn “phương Bắc” sách cũng không dám đặt sau cụm từ “kẻ thù”. Vì sao SGK không cho các cháu biết quân giặc nào đã bắt tổ tiên của chúng lên non tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, để phải làm mồi cho hùm beo, thuồng luồng, cá sấu? Vì sao SGK không cho các cháu biết giặc ngoại xâm nào đã khiến “lòng dân oán hận ngút trời”? Và vì sao SGK không nói rõ cho các cháu biết Hai Bà Trưng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược nào, chúng từ đâu đến? Cốt lõi của lịch sử là sự thật. Mỗi dòng lịch sử nước ta đều được viết bằng mồ hôi và máu của nhiều thế hệ. Nên có thể nói mỗi trang sử là một mảnh hồn thiêng sông núi. Không thể chấp nhận bài học lịch sử… nửa vời với cách trình bày ngắc ngứ, lấp lửng, loanh quanh, thiếu minh bạch, nếu không muốn nói là né tránh, bưng bít như thế. Ở Lạng Sơn từng xảy ra chuyện tấm bia kỷ niệm chiến thắng của bộ đội ta bị đục bỏ những chữ điểm tên chỉ mặt quân thù. Người ta đã đổ thừa cho mưa nắng, cho sức tàn phá của thời gian. Còn với SGK Tiếng Việt 3, người làm sách đổ thừa như thế nào? Người lớn sao lại làm khuất lấp tên tuổi kẻ thù của Hai Bà Trưng để trẻ con phải băn khoăn? Thật khó giáo dục HS niềm tự hào, lòng yêu nước khi SGK đã thiếu công bằng, thiếu trung thực đối với lịch sử. Trong lúc hy vọng bài học này sẽ được các nhà làm sách trả lại sự phân minh trắng đen sòng phẳng, tôi phải nói ngay trước đôi mắt mở to của cháu tôi rằng bọn giặc xâm lăng nước ta bị Hai Bà Trưng đánh không còn manh giáp chính là giặc Hán (Trung Quốc). Theo Trần Cao Duyên(Thanh Niên) Nguồn: http://m.vietnamnet.vn/vn/giao-duc/87108/hai-ba-trung-danh-giac-nao-.html ***** KHÔNG XÁC ĐINH ĐƯỢC KẺ THÙ THÌ LÀM SAO BẢO VỆ TỔ QUỐC? Ngô Minh Ngày 2/6/2014, tôi nghe Đài truyền hình VTV Huế đưa tin Trung ương đã mở lớp bồi dưỡng cho đối tượng từ thiếu tá trở lên của Công an và Quân đội về Chiến lược quốc phòng của Đảng, về chống âm mưu diễn biến hòa bình, âm mưu của các thế lực thù địch, về phát triển kinh tế… Tôi nghe biên tập viên không nói gì về kẻ thù đang xâm lược biển Đông của Việt Nam là Trung Quốc cả. Báo quân đội nhân dân số ra ngày 14/7/2014, trong bài Quân đội ta mang đậm bản chất cách mạng của giai cấp công nhân ,cũng viết : “Ngày nay, đất nước ta hòa bình và thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đang mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các thế lực thù địch lại lợi dụng đẩy mạnh chống phá nước ta trên nhiều lĩnh vực thông qua thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, cùng tác động của nền kinh tế thị trường, tình hình thế giới và khu vực. Vì vậy, chúng ta càng phải giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, nhằm tăng cường bản chất chính trị của giai cấp công nhân trong toàn quân.” Bài viết cũng không nói gì về kẻ thù xâm lược là anh bạn 4 tốt 16 chữ vàng Trung Quốc khốn nạn ấy cả.   Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Ủy viên Bộ Chính trị Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 13 ở Singapore vừa qua cũng nêu rõ: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển. Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi…”. Nghĩa là theo quan điểm của lãng đạo Đảng CSVN hiện nay, Trung Quốc không phải là kẻ thù. Còn “thế lực thù địch” theo cách gọi của Trung Quốc (mà Việt Nam học theo) là những người đối lập, khác chính kiến, những người không theo quan điểm của Đảng Cộng sản. Mà những người như thế thì không thể tạo nên cuộc chiến tranh xâm lược nước ta được. Vậy là Đảng, nhà nước ta đến nay vẫn không xác định được ai là kẻ thù của đất nước để mà đề phòng và chống trả. Cách đây gần 10 năm, đọc mạng tôi thấy sự tiết lộ của một sĩ quan ở Tổng Cục 2 về đối tượng tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay vẫn là: "quân đội Mỹ”, quân đội Trung Quốc không phải là đối tượng tác chiến, mà là “anh em”. Hay thiệt! Quan niệm như thế cực kỳ nguy hiểm cho vận mệnh Tổ Quốc. Lịch sử từ ngàn năm trước, Trung Quốc đã là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân Việt Nam. Chúng đã bị Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… đánh cho tan tành. Nhưng chúng vẫn không chừa tham vọng bành trướng xâm chiếm nước ta. Vua Trần Nhân Tông đã căn dặn: "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu". Đặc biệt, từ thời kỳ Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước đến nay, chúng lợi dụng sự ngây thơ, tin tưởng “bốn phương vô sản đều là anh em” của ta để lấn tới. Trung Quốc đã mở nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới hải đảo nước ta: Chúng đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa năm 1974 làm 74 chiến sĩ ta hy sinh, Trung Quốc xua 60.000 quân tấn công toàn biên giới phía Bắc tháng 2-1979 làm hàng vạn chiến sĩ nhân dân ta hy sinh. Chúng gây chiến tranh xâm chiếm biên giới Vị Xuyên Hà Giang năm 1984; chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 làm 64 chiến sĩ ta hy sinh… Trên toàn tuyến biên giới Việt –Trụng, ở đâu chúng cũng lấn chiếm đất ta. Tổng diện tích chúng lấn chiếm bằng diện tích bằng tỉnh Thái Bình. Nguy hiểm hơn, chúng hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 sâu vào thềm lục địa và cùng đặc quyền kinh tế Việt Nam từ 2-5-2014 đến 16-7-2014. Một khi giàn khoan đó và hàng trăm tàu và máy bay đủ loại đi kèm theo vào biển VN, đó là một hành động xâm lược trắng trợn. Chúng cắt cáp tàu thăm dò dầu khí Việt Nam; chúng xua đuổi, đâm chìm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển Việt Nam. Chúng bắt bớ đánh đập ngư dân Việt Nam. Có thể nói, chưa nước nào bị TQ xâm phạm chủ quyền biển đảo nhiều như Việt Nam, nhưng chưa thấy phía Việt Nam dám thực hiện bất kỳ vụ bắt giữ ngư dân TQ nào xâm phạm vùng biển nước ta, mặc dù hàng ngày hàng trăm tàu của Trung Quốc vào đánh cá tại ngư trường Việt Nam ở miền Trung, đảo Cồn Cỏ, cách bờ chỉ vài chục hải lý, mà chỉ thấy xảy ra trường hợp ngược lại: TQ liên tục bắt giữ, thậm chí đã bắn giết chết ngư dân VN trên vùng biển thuộc chủ quyền VN. Trong khi đó, các nước xung quanh đã không nương tay đối với TQ, khi những ngư dân TQ xâm phạm vùng biển các nước khác. Đã xảy ra nhiều vụ bắt giữ ngư dân và tàu đánh cá TQ khi họ xâm phạm chủ quyền các nước Philippines, Indonesia, Nhật, Nam Hàn… Những hành động đó của trung Quốc không thể gọi là gì khác ngoài ba chữ: Giặc xâm lược! Đã gọi là giặc xâm lược tức là kẻ thù của nhân dân ta, kẻ thù của dân tộc ta, dù nó mang danh chủ nghĩa nào. Sống bên cạnh một nước lớn chuyên môn dòm ngó nước ta, một mặt ta phải có chính sách ngoại giao khôn ngoan, mềm dẻo, nhưng tuyệt đối không quỳ gối trước chúng. Trước dã tâm xâm lược đất đai, biển đảo của bọn bành trướng Bắc Kinh, chúng ta phải chiến lược quốc phòng phù hợp để chống lại. Chúng ta sẽ dùng chiến trranh nhân dân để đánh trả như thế nào? Kế hoạch ra sao? Quân đội ta phải có kế hoạch tác chiến chống Trung Quốc khi chiến tranh xảy ra. Khi chúng đánh sang biên giới đất liền, bầu trời thì sẽ đối phó như thế nào? Khi chúng xâm chiến quần đảo Trường Sa, bộ đội ta sẽ tác chiến như thế nào, bằng thứ vũ khi gì để giữ đảo? Đến nay ở Trường Sa vẫn chưa bố trí tên lửa thì nguy quá. Rồi phải tính đến chuyện quan hệ với các nước trong khu vực, kể cả Mỹ để cùng chống giặc xâm lược. Luận điểm “Việt Nam không liên minh với nước khác để chống nước thứ ba” là luận điểm sai trái, là nghe theo sự xúi dục của Trung Quốc. Chúng ta liên minh là để chống bọn xâm lược, chứ không phải chống nước thứ ba. Nếu cần phải lên kế hoạch tác chiến ngay trên đất kẻ thù như Lý Thường Kiệt đã làm. Chúng ta phải lên kế hoạch đánh chiếm lại quần đảo Hoàng Sa thân yêu, v.v. Tất cả phải lên kế hoạch lâu dài, tỉ mỉ, đào tạo, trang bị cho quân đội thật thiện chiến, không được tư duy theo nhiệm kỳ, không một phút lơ là. Không xác định được kẻ thù thì làm sao bảo vệ được Tổ Quốc! Đề nghị các tướng lĩnh, các nhà lãnh đạo đất nước chia sẻ cùng tôi chuyện vô cùng cấp bách này. N.M. Nguồn: ngominh.vnweblogs.com
......

Việc thi hành hiệp đinh Genève

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)? 1. Hiệp định Genève   Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là HenriDelteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy. Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau: Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm", có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày). 2. Ai vi phạm hiệp đinh Genève Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam. Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định. Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau: Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet). Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức,Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.) Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. 3. Bắc Việt Nam đòi hỏi điều không có   Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S.Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiệnGenève nên không bị ràng buộc phải thi hành. Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958. Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genèvehọp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.) Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris:Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký. Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình. 4. Bắc Việt Nam bịa đặt lý do để tấn công miền Nam   Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước. Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành. Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam. Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm. Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng. Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.) Kết luận Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển. Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới. Trần Gia Phụng  (Toronto, 20-7-2014)
......

Chiến thắng giàn khoan - Ai chiến? Ai thắng?

Vừa có tin Bắc Kinh rục rịch kéo giàn khoan HD981 đi vào ngày 15/7, dù chưa biết có phải vì trận bão Rammasun đang ập tới hay không và dù chưa biết giàn khoan được kéo vào gần hay xa hơn hải phận Việt Nam, giới lãnh đạo đảng nhanh nhạy tuyên bố "chiến thắng". Dĩ nhiên lãnh đạo đảng đủ khôn ngoan để tung ra trước một vài quả bóng thăm dò nhè nhẹ như Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông của Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bà nhận định trên đài BBC rằng việc Trung Quốc rút giàn khoan sớm hơn một tháng so với kế hoạch là “nhờ tiếng nói của Việt Nam cũng như dư luận thế giới”. Nhưng bà không cho biết loại "tiếng nói" nào của Việt Nam. Đó là những lời phản đối tràn ngập của người dân Việt Nam hay những câu "đây chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình" của lãnh đạo?   Sau đó, Ban Tuyên Giáo cho tăng cấp với việc báo đài đồng loạt đăng lời nạt với theo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Không được tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam". Người nghe lập tức phải tự hỏi: Trong 2 tháng rưỡi vừa qua ông Dũng đã làm gì và nếu Trung Cộng đem giàn khoan trở lại - và khá chắc là họ sẽ trở lại sau mùa biển động - ông Dũng sẽ làm gì?? Sẵn trớn xông lên, Ban Tuyên Giáo cho thêm ông Hà Lê, Cục phó Cục Kiểm ngư Việt Nam, bồi tiếp: "Tôi cho rằng Trung Quốc di chuyển giàn khoan vì sức ép đấu tranh của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam trên biển; trên nhiều mặt trận khác họ đều rơi vào thế bị động, cô lập". Chỉ mới vài ngày trước cái Cục của ông Hà Lê còn tung ra đủ loại hình ảnh về tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển Việt Nam bị đâm nát đuôi, nát sườn bơi lết về bờ để than thở với thế giới, nên người ta không hiểu lý do gì khiến Trung Cộng sau khi tha hồ đâm nát tàu của "lực lượng chấp pháp" Việt Nam lại sinh hãi sợ đến thế ??? Cư dân mạng trong mấy ngày qua lại có một dịp cười lăn lộn. Vì theo lẽ thông thường, để được gọi là "chiến thắng" thì ít nhất phải có phần “chiến” trong đó. Nhưng từ ngày 2/5, tức là ngày giàn khoan chính thức bỏ neo tại thềm lục địa Việt Nam, lãnh đạo đảng và nước cương quyết im lặng tuyệt đối nhiều tuần liền. Sau đó, khi áp suất dư luận quá lớn, họ đành thì thầm vài câu với vài tổ cử tri chứ không dám xuất hiện trên các diễn đàn quốc gia. Có vị lãnh đạo còn cho vợ ra đại diện mình tại... một quán cơm xã hội cho báo chí chụp hình. Không biết ông muốn nói lên điều gì qua động thái đó. Rất lạ!   Trong suốt 2 tháng rưỡi đó, may mắn có được một anh vừa tuyên bố một câu mạnh miệng ở Philippines "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông", thì lập tức có hàng chục anh khác hốt hoảng chạy theo ráng xóa cho sạch, với hàng loạt các than thở mong muốn "hốt lại bát nước đầy". Họ hốt hoảng đến độ phải cử cả anh đứng đầu ngành bảo vệ tổ quốc ra đứng trước thế giới tuyên bố đây chỉ là chuyện lục đục rất thường trong gia đình chúng tôi thôi. Và chính anh bạo miệng tại Philippines nói trên cũng lập tức ôm hôn thắm thiết để tạ lỗi với viên quan đại diện mẫu quốc sang Việt Nam dạy bài “bốn không được.”. Sau đó, mọi tàu hải quân Việt Nam đều tuyệt đối "bám bờ" trong lúc lãnh đạo không ngừng đề cao và thúc đẩy ngư dân tay không ra khơi bám biển. Những bà con ngư dân này được ca ngợi là những "cột mốc sống". Và cứ thế, khi các "cột mốc sống" gặp tàu Trung Cộng thì bà con chúng ta lại cô đơn và đau đớn trở thành "cột mốc chìm", "cột mốc chết". Rồi các "cột mốc sống" khác lại bị đẩy ra trám chỗ. Không chỉ tàu hải quân, mà cả tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển CHƯA BAO GIỜ dám nhảy vào can thiệp cho ngư dân, dù chỉ một lần. Nhiều cư dân mạng đã nhận xét: lần này giới lãnh đạo đảng và nhà nước ta kết dính với nhau bằng một chữ HÈN. Hèn đến độ chỉ một bản nghị quyết chính thức của Quốc Hội - tức chỉ đấu võ mồm và trong phòng lạnh tại Hà Nội - mà cũng chỉ dáo dác nhìn nhau, không dám thông qua. Chỉ khi Quốc Hội Mỹ xa xôi - mà đảng ta tới nay vẫn coi là kẻ thù lâu dài - ra nghị quyết phản đối giàn khoan, thì báo đài của đảng liền vỗ tay khen ngợi. Mức hèn và mức bí lên cao đến độ trong mấy ngày trước thời điểm Bắc Kinh kéo giàn khoan đi, lãnh đạo đảng còn mang cả phi công Nguyễn Thành Trung (người phản bội VNCH năm 1975) ra phủi bớt bụi bặm rồi giao cho bài bản đổ tội mất Hoàng Sa cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Nhưng thôi kệ. Ai muốn nhận chiến thắng, chiến công gì cũng được. Người dân đã thấy quá rõ và đang cười lăn lộn. Nhưng cười xong mặt ai cũng méo xệch vì các hiểm nguy không những vẫn còn nguyên mà lại có xác suất cao sẽ tăng gấp bội sau mùa biển động năm nay. Thật vậy, sau mùa bão tố này, các giàn khoan sẽ mọc như nấm, vì giàn khoan HD981 đã giúp Bắc Kinh kiểm chứng: (1) Không như các vụ trong vùng biển giáp Nhật Bản, giáp Philippines, tại Biển Đông không có nước nào ra đối đầu quân sự với Bắc Kinh; (2) Bắc Kinh có thể vào và ra vùng Biển Đông của Việt Nam mà không có khó khăn, trắc trở nào về kỹ thuật, vận chuyển, bảo vệ an ninh; (3) Lãnh đạo CSVN không dám làm gì ngoài những thủ thuật tuyên truyền và các nỗ lực bịt miệng dân chúng. Không có liên minh nào thành hình nếu không có sự tham gia của Việt Nam. Song song với sự hiện diện của HD981 để thu hút sự chú ý của thế giới, Bắc Kinh đã gấp rút xây thêm các căn cứ quân sự tại cả Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Cộng đã xử dụng hữu hiệu thủ thuật cố hữu của các chế độ Cộng Sản. Đó là bóp cổ 10 phần rồi nới tay 1 phần, để nạn nhân khoan khoái quên luôn 9 phần kia. Thế giới đang thở phào về sự ra đi của giàn khoan HD981 và quên luôn các căn cứ quân sự Bắc Kinh vừa xây hoặc mở rộng tại Biển Đông. Trong thời gian trước mặt, nhân danh bảo vệ bí mật quân sự, Bắc Kinh sẽ khoanh nhiều vùng biển cấm tàu qua lại. Vùng Nhận Dạng Phòng Không mà họ tuyên bố gần đây cũng nằm trong tiến trình này. Và với sự bành trướng đó của Trung Cộng sau mùa biển động năm nay, số mạng của từng chiếc tàu đánh cá Việt Nam và sinh mạng của bà con ngư dân sẽ bị đặt vào tình trạng hiểm nghèo hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ việc thắt các "cột mốc sống" vào cổ họ lại hèn hạ và dã man hơn lúc này! Hầu hết, giới phân tích tình hình đều đồng ý Bắc Kinh không hề có ý định ngừng lại với HD981. Những nhận xét tiêu biểu như của ông Dương Danh Dy, một người từng phục vụ lâu năm trong ngành ngoại giao, cho thấy: "Chắc chắn khi mà có dịp thì họ còn giở trò nữa và những bước sau của họ đều nguy hiểm hơn những bước trước. Ở Biển Đông, trước đây họ làm những chuyện như chỉ cắt cáp và đâm tàu nhưng giờ họ đã đặt giàn khoan vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam"; hoặc như của Tiến sỹ Jonathan London: "Tôi đã đọc các tài liệu của Trung Quốc và họ nói rằng họ sẽ chiếm đảo của Việt Nam, và thậm chí có nguồn tin mà tôi đọc trên mạng của Trung Quốc còn nói rõ là chiếm một nửa Việt Nam, chứ không phải là họ để yên đâu". Chính báo chí Trung Cộng cũng khoe hiện có khoảng 30 giàn khoan lớn nhỏ đã được chuẩn bị để kéo xuống Biển Đông. Chính vì vậy mà mùa biển động hiện nay là khoảng thời gian vô cùng quí báu để giới lãnh đạo CSVN xúc tiến gấp các vụ kiện Trung Cộng ra các tòa án quốc tế, vì các lý do từ bảo vệ chủ quyền đến bảo vệ ngư dân. Việt Nam có đủ các chuyên gia về luật quốc tế để cố vấn về cho nỗ lực này (*). Và đây cũng là khoảng thời gian quí báu để tham gia hoặc xây dựng gấp các liên minh quốc tế để cùng nhau phòng thủ Biển Đông. Nhưng thay vì làm các việc đó, người ta chỉ thấy giới lãnh đạo CSVN bận rộn tuyên bố chiến thắng một cách trâng tráo như đã nêu trên, rồi cho đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc Lê Hoài Trung ngỏ lời mời Trung Cộng cùng thăm dò, khai thác dầu mỏ ở Biển Đông (**).   - - - (*) http://radiochantroimoi.com/phong-su/gs-ta-van-tai-phai-kien-gap-rut-keo... (**) http://vietnamese.ruvr.ru/news/2014_07_17/274752498/
......

Kỷ Niệm 60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Bài học gì cho Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay?

(Sydney, Australia – Tháng 3-2014)   Bài viết đánh dấu 60 năm Hiệp Định Genève được soạn thảo với một hi vọng nho nhỏ là chúng ta có thể học được kinh nghiệm của quá khứ đau buồn mà đất nước Việt Nam thân yêu đã phải trải qua. Hiệp Định này và hậu quả của nó đã được trình bày từ nhiều quan điểm khác nhau, kể cả tài liệu khá đầy đủ của Bộ Quốc Phòng Mỹ, The Pentagon Papers (1971). Tạ Quang Bửu (người ngồi, bên phải) đại diện Việt Minh ký hiệp định với Pháp chia đôi đất nước.       Từ năm 2004, một số tài liệu do Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến giúp chúng ta hiểu thêm về quan điểm và mục tiêu chiến lược của hai cường quốc cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc, trong vấn đề Việt Nam (Đông Dương) và thân phận của Việt Minh/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong quan hệ với hai đồng minh bảo trợ.   Tài liệu Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh xác nhận điều mà chúng ta đã suy diễn là VNDCCH - cũng như Quốc Gia Việt Nam/Việt Nam Cộng Hòa (QGVN/VNCH) - đã bị chi phối quá nhiều bởi chính trị đại cường và do đó đã không theo đuổi được chính sách độc lập.   Bài viết này phần lớn nhìn vào sách lược của Bắc Kinh tại Hội Nghị Genève trong nỗ lực củng cố và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc như là một đại cường đang bước chân vào diễn đàn quốc tế. Có thể nói, đây là sách lược mà Bắc Kinh theo đuổi liên tục trong 60 năm qua, kể cả trong vấn đề tranh chấp Biển Đông với Việt Nam hiện nay. Bối Cảnh Hiệp Định Genève 1954 giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời hậu bán thế kỷ thứ 20 khi mà cuộc chiến tranh lạnh đang ở mức độ cao. Nhưng lý do dẫn đến sự chia cắt đất nước Việt Nam vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 bắt nguồn từ những biến cố lịch sử trong và sau Thế Chiến Thứ Hai, đặc biệt là tại Hội Nghị Potsdam. 1954... DI CƯ VÀO NAM TÌM TỰ DO.   Sau khi đã đánh bại Đức Quốc Xã và trước khi Nhựt Bản đầu hàng, lãnh đạo đồng minh gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô đã họp Hội Nghị tại Potsdam từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8 năm 1945 để qui định việc phân chia quyền lực và vùng ảnh hưởng trong thời hậu chiến. Việt Nam không phải là một vấn đề lớn trong chương trình nghị sự. Phe đồng minh quyết định trao quyền giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến thứ 16 trở ra Bắc cho Trung Hoa Dân Quốc (quân đội Tưởng Giới Thạch) và từ vĩ tuyến thứ 16 (từ phía nam Đà Nẳng) trở vào Nam cho Anh Quốc. Cũng tại Hội Nghị nầy, phe đồng minh đã chấp nhận lời yêu cầu của đại diện nước Pháp vừa được giải phóng, để Pháp có thể tiếp thu trở lại thuộc địa Đông Dương. Đây là một quyết định tai hại cho Việt Nam và đi ngược lại trào lưu dân tộc tự quyết trong vùng Đông Nam Á. Tướng Charles de Gaulle, được coi là anh hùng tranh đấu cho nền tự do của nước Pháp, nhưng trong vấn đề Đông Dương, Tướng de Gaulle là một tên thực dân không hơn không kém. Mặc dầu một hiệp ước sơ bộ được ký kết ngày 06.03.1946 với chính quyền Hồ Chí Minh, cuộc chiến Việt-Pháp đã không thể tránh được và trở nên khốc liệt hơn kể từ cuối năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông chiếm Bắc Kinh và thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Quốc). Khối cộng sản (Liên Xô và Đông Âu) - và đặc biệt là Trung Quốc đã trở thành hậu phương lớn tiếp viện ồ ạt chiến cụ, và gởi cố vấn tham chiến tại Việt Nam. Năm 1952, Đại tướng Dwight D. Eisenhower đắc cử tổng thống Mỹ và vào giữa năm 1953, Washington ủng hộ Kế hoạch Navarre của Pháp nhằm thực hiện chiến lược mới và xúc tiến việc thành lập quân đội QGVN. Trong kế hoạch mới nầy, Điện Biên Phủ, một tỉnh lẻ tại vùng biên giới Lào-Việt được chiếm lại và tạo dựng thành một căn cứ quân sự với một lực lượng quân đội Liên Hiệp Pháp khoảng 10 ngàn người. Cũng vào giữa năm1953, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) tạm thời được ngưng bắn (armistice) chính thức vào ngày 27 tháng 7. Phương thức ngưng bắn nầy được coi là có thể áp dụng tại Đông Dương. Có lẽ vì thế mà vào ngày 25.01.1954, tại Berlin, Hội Nghị Ngoại trưởng Tứ Cường (Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô) bày tỏ ý định triệu tập một hội nghị về Triều Tiên và Đông Dương tại Genève vào ngày 26 tháng 4 cùng năm. Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô gởi mật điện yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc thông báo và khuyến khích VNDCCH tham dự [1]. Cũng theo mật điện nầy, Liên Xô tin rằng QGVN, Lào và Cao Miên sẽ đồng ý tham dự. Mật điện nầy không nói lý do tại sao Liên Xô tin như vậy, nhưng một chi tiết ít khi được nhắc đến là Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm tham dự Hội Nghị Berlin với tư cách quan sát viên [2]. Theo một chiến lược cố hữu ‘vừa đánh vừa đàm’ mà Chu Ân Lai đề cập trong Bản Nhận Định và Đề Nghị trình Ủy Ban Trung Ương trước khi Hội Nghị Genève bắt đầu, và để tạo thế mạnh chính trị trước hoặc trong khi Hội Nghị Genève được triệu tập, Việt Minh tập trung một lực lượng hùng hậu nhằm bao vây Điện Biên Phủ. Vào tháng 3 năm 1954, tương quan quân số đôi bên là 50 ngàn chống 10 ngàn, tức là Tướng Võ Nguyên Giáp, dưới sự cố vấn của Đại Tướng Trung Cộng Trần Canh [3], có ưu thế gấp 5 lần nhiều hơn. Ngày 07.05.1954, Điện Biên Phủ thất thủ và tạo một ảnh hưởng chính trị lớn tại Paris vượt xa giá trị quân sự của tỉnh lẻ nầy. Bộ đội Việt Minh thiệt hại khoảng 8 000 nhân mạng so với khoảng 1500 của quân đội Liên Hiệp Pháp. Bảo Đại nói rằng sự thất thủ của Điện Biên Phủ chẳng phải là một tai họa chiến lược gì [4]. Nhưng mục tiêu của Việt Minh không phải, hoặc không chỉ là quân sự – mà là ảnh hưởng chính trị tại các thủ đô phương Tây. Mười bốn năm sau, Hà Nội đã mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 tại VNCH và đã thất bại nặng nề về mặt quân sự, nhưng lại chiến thắng về mặt chính trị tại Washington, dẫn đến Hòa Đàm Paris sau đó. Một ngày sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève được khai mạc để thảo luận vấn đề Đông Dương (Hội Nghị đã bắt đầu từ 29 tháng 4, để thảo luận vấn đề Triều Tiên) Sự Kiện: Hội Nghị Genève về Đông Dương được triệu tập ngày 08.05.1954 và kết thúc vào quá nửa đêm ngày 20.07.1954 tức là ngày 21.07.1954.   Đồng Chủ tịch Hội Nghị là Anh Quốc và Liên Xô và thành phần tham dự gồm: Anh Quốc/United Kingdom: Anthony Eden, Bộ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ/United States: General Walter Bedell Smith, Thứ trưởng Ngoại Giao U. Alexis Johnson Trung Quốc/People's Republic of China Chu Ân Lai/Chou En-lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại Giao Chang Wen-t'ien Li K'e-nung Việt Minh Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Ngoại Giao Ai Lao/Laos Phoui Sananikone, Bộ trưởng Ngoại Giao Liên Xô/USSR Vyacheslav Molotov, Bô trưởng Ngoại Giao Pháp/France Georges Bidault, Bộ trưởng Ngoại Giao (đến ngày 17.06.1954) Jean Chauvel Pierre Mendès-France, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại Giao (từ ngày 17.06.1954) Việt Nam Giáo sư Nguyễn Quốc Định, Bộ trưởng Ngoại Giao (trong chính phủ Bửu Lộc) Nguyễn Đắc Khê, Bộ trưởng (trong chính phủ Bửu Lộc) Bác sĩ Trần Văn Đỗ, Bộ trưởng Ngoại Giao (trong chính phủ Ngô Đình Diệm) Cao Miên/Cambodia Tep Phan, Bộ trưởng Ngoại Giao Sam Sary   Trong thành phần này, Việt Nam là nước duy nhất có hai phái đoàn đại diện cho hai chính phủ thù địch là QGVN và VNDCCH. Pathet Lào và cộng sản Khmer, mặc dầu được phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và Việt Minh) ủng hộ, nhưng vẫn không được mời tham dự Hội Nghị. Thế nhưng, không phải vì thế mà họ bị bỏ quên, vì Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng lúc nào cũng nêu vai trò của phe cộng sản tại Ai Lao và Cao Miên với đòi hỏi là Hội Nghị phải giải quyết chung vấn đề cho cả 3 nước Đông Dương. Hai phái đoàn Ai Lao và Cao Miên lập luận rằng vấn đề Ai Lao và Cao Miên khác với vấn đề Việt Nam, nên cần có giải pháp riêng. Tuy lập trường nầy được phe phương Tây ủng hộ, sau cùng quan điểm của phe cộng sản được chấp nhận. Việt Nam có 3 trưởng phái đoàn liên tiếp, vì các thay đổi chính phủ tại Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Quốc Định là Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Bửu Lộc (11.01 – 16.06.1954) và Ông Nguyễn Đắc Khê cũng là Bộ trưởng (phụ trách vấn đề dân chủ hoá) trong chính phủ Bửu Lộc. Còn Bác sĩ Trần Văn Đỗ là Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Ngô Đình Diệm đầu tiên và thứ nhì (16.06.1954 – 23.10.1955). Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm 1955, Ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống VNCH [5]. Trong thời gian Hội Nghị, Pháp cũng có thay đổi chính phủ: Chính phủ của Thủ tướng Joseph Laniel mà Bộ trưởng Ngoại Giao là Ông Georges Bidault bị phe nhóm trung tả của Ông Pierre Mendès-France đánh bại tại Quốc Hội. Ngày 17.06.1954, Ông Mendès-France trở thành Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao và thay thế Ông Bidault tại Hội Nghị Genève. Đây là biến chuyển chính trị vô cùng tai hại cho QGVN, như chúng ta sẽ phân tích ở phần sau của bài này. Hội nghị Genève thảo luận hai vấn đề chính là Triều Tiên và Đông Dương, nhưng đã dành phần lớn thì giờ cho Đông Dương hơn, vì Triều Tiên đã được ngưng bắn trong khi chiến cuộc vẫn tiếp diễn tại Việt Nam trong suốt thời gian Hội Nghị. Bài nầy chỉ chú trọng vào vấn đề Việt Nam tại Genève mà thôi. Ngoài diễn đàn chính tại Genève, đại diện quân sự đôi bên còn nhóm họp tại Trung Giã (Tỉnh Phúc Yên), từ ngày 4 đến 27 tháng 7 để bàn thảo về những vấn đề kỹ thuật như việc hạn chế hoạt động quân sự, rút quân, tập kết, trao đổi tù binh vv… Riêng về Việt Nam, Hội Nghị kết thúc với một Hiệp Định (Accords sur la cessation des hostilités en Indochine, Accords de Genève 1954 (20 juillet 1954) và Một Lời Tuyên Bố Sau Cùng (The Final Declaration of The Geneva Conference: On Restoring Peace in Indochina, July 21, 1954). Hiệp Định gồm 47 điều với hai bản văn chính thức bằng tiếng Pháp và tiếng Việt được ký bởi Thiếu tướng Henri Delteil, đại diện Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương và Ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc Phòng của VNDCCH. Một vấn đề còn tranh cãi Sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng vấn đề tồn đọng và còn được tranh cãi là hiệu lực và tính cách ràng buộc của Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Văn kiện nầy chỉ được vị đồng Chủ tịch Anthony Eden đọc lên trước khi Hội Nghị bế mạc [6] và không ai ký tên vào bản văn cả. Hoa Kỳ không phải là thành viên kết ước, nhưng tuyên bố tôn trọng Hiệp Định. QGVN từ chối ký tên và Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phát biểu rõ rệt là Việt Nam chống đối hoàn toàn giải pháp chia cắt đất nước. Vì vậy, mặc dầu Lời Tuyên Bố của Trưởng Phái Đoàn Trần Văn Đỗ không được chính thức ghi vào văn bản, nhưng không ai có thể coi là QGVN/VNCH chấp nhận kết quả của Hội Nghị Genève, kể cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Tại Thủ đô Sài Gòn, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên tiếng chống đối mạnh mẽ việc đặt nửa phần đất nước dưới chế độ cộng sản và cờ rủ được treo khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam từ phía nam Sông Bến Hải, như là ngày tang cho tổ quốc. Trong cốt lõi, Lời Tuyên Bố Sau Cùng gồm hai điểm quan trọng. Thứ nhất là vĩ tuyến 17 là ‘ranh giới quân sự tạm thời’ chớ không phải là ‘một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ’(đoạn 6). Và thứ hai là tổng tuyển cử dự trù được tổ chức 2 năm sau, tức là vào tháng 7 năm 1956, để thống nhất Việt Nam (đoạn 7). Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một văn kiện chính trị, bày tỏ ý muốn của phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH) và được Anh và Pháp đồng ý, nhưng ước muốn tự nó không thể có hiệu lực cưỡng hành như một hiệp ước. Phe cộng sản và một số tác giả phương Tây bằng vào các lời cam kết tôn trọng Hiệp Định Genève mà kết luận rằng Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một phần của Hiệp Định và có tính cách ràng buộc. VNCH, thể chế chính trị kế thừa QGVN, không đồng ý với quan điểm nầy. Trên nguyên tắc, Tổng thống Ngô Đình Diệm không chống đối một cuộc tổng tuyển cử tự do và được Liên Hiệp Quốc giám sát. Không ai – kể cả những chính phủ và các tác giả ủng hộ phe cộng sản – có thể lập luận rằng bầu cử tự do có thể được tổ chức tại Bắc Việt trong năm 1956. Đấy là một chế độ độc tài toàn trị, do guồng máy công an kiểm soát chặt chẽ từng nhà bằng phương thức hộ khẩu, mô phỏng theo chế độ Mao Trạch Đông. Trái lại, Nam Việt Nam là một chế độ tự do, tuy chưa hoàn hảo. Người ta có khuynh hướng so sánh chế độ tự do tại VNCH với chế độ dân chủ Tây Âu và Bắc Mỹ, trong khi vì hoàn cảnh lịch sử, VNCH đáng lẽ phải được so sánh với các nước vừa được độc lập sau Thế Chiến Thứ Hai như Indonesia và Philippines – là những quốc gia non trẻ tập tễnh trên con đường dân chủ đầy chông gai. Điều trớ trêu là ông Hồ Chí Minh không bị chỉ trích vì chế độ độc tài toàn trị ở Miền Bắc, mà Ông Ngô Đình Diệm lại bị đả kích vì chế độ tự do tại Miền Nam ‘thiếu dân chủ’. Điển hình cho khuynh hướng nầy là tác giả Joseph Buttinger, thoạt đầu là một người bạn nhưng sau đó trở thành một người chỉ trích dữ dội ông Ngô Đình Diệm [7]. Người ta cũng thường trích dẫn nhận xét của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, theo đó ông Hồ Chí Minh có thể thắng trong một cuộc bầu cử tự do. Ngoài lý do nhận xét nầy thường được trích dẫn bên ngoài văn mạch (out of context) khi Tổng thống Mỹ so sánh ông Hồ Chí Minh với cựu Hoàng Bảo Đại, nhận xét này còn phải được hiểu, trong bối cảnh thực tế của năm 1956 khi Miền Bắc đông dân hơn Miền Nam. Bởi vậy, cho dầu 100% dân chúng Miền Nam ủng hộ ông Ngô Đình Diệm – một scenario không thể xảy ra bắt cứ tại đâu bên ngoài khối cộng sản – ông Hồ Chí Minh vẫn có thể đạt được đa số [8]. Còn việc giám sát của Liên Hiệp Quốc thì sao? Lập trường xuyên suốt của QGVN/VNCH là Liên Hiệp Quốc phải có vai trò chính trong việc giám sát cuộc đình chiến cũng như trong vấn đề tổ chức bầu cử tự do. Tại sao phe cộng sản tại Hội Nghị Genève cũng như sau Hội Nghị luôn luôn từ chối sự giám sát của Liên Hiệp Quốc trong vấn đề chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại Viêt Nam? Trước kia, chúng ta có thể suy đoán, nhưng ngày nay chúng ta có thể tìm được lý do trong số 80 công điện và phúc trình mật và tối mật mà Chu Ân Lai gởi về Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và được Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến hạn chế hồi năm 2004. Bằng chứng cũng có thể tìm thấy trong các nhật ký của Molotov trong số 8 văn kiện mật mà Moscow đã phổ biến. Phe cộng sản – cá biệt là Bắc Kinh – rất e ngại vấn đề Việt Nam được quốc tế hóa mà Bắc Kinh coi là con đường dẫn đến sự tham dự của Hoa Kỳ [9]. Liên Xô còn có thêm một lý do khác để chống đối sự tham dự của Liên Hiệp Quốc. Trong vấn đề Triều Tiên, Moscow đã không sử dụng quyền phủ quyết khi Hội Đồng Bảo An quyết nghị can thiệp, dẫn đến sự tham chiến quốc tế do Mỹ lãnh đạo trong cuộc chiến Triều Tiên (1950 - 1953). Trong vấn đề giám sát của Liên Hiệp Quốc, ông Hồ Chí Minh (mà các văn kiện mật và tối mật của Bắc Kinh và Moscow thường gọi với bí danh là “Comrade Ding/Đồng chí Ding”) tuân theo đường lối của hai đàn anh cộng sản. Ngày nay, trong bối cảnh khác và tác nhân tranh chấp khác – tức là giữa Trung Quốc và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hoặc với Philippines, Bắc Kinh cũng chống đối việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, dầu là dưới hình thức trước Tòa Án Quốc Tế hay dưới hình thức thương thuyết đa phương, mà mục đích là để ngăn ngừa sự tham dự của Mỹ. Một lập luận khác cũng thường được nêu lên là vì Pháp chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève kể cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng, nên QGVN/VNCH cũng bị ràng buộc và phải thi hành. Cơ sở của lập luận nầy là (a) QGVN chưa hoàn toàn độc lập trong Liên Hiệp Pháp, và (b) Pháp hành xử thẩm quyền ngoại giao thay cho QGVN tại Hội Nghị Genève. Luận điệu nầy không đúng. Việt Nam là một quốc gia độc lập và thống nhất Nam Bắc Trung theo Bản Tuyên Bố Chung Việt-Pháp tại Vịnh Hạ Long ngày 05.06.1948 và được chính thức xác nhận bởi Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ngày 08.06.1949. Trên cơ sở hai văn bản nầy, thì QGVN quả thật chưa hoàn toàn độc lập về phương diện tài chánh và ngoại giao. Thế nhưng, giới hạn cuối cùng nầy đã được tháo gỡ bởi Hiệp Ước Việt-Pháp mà Thủ tướng Bửu Lộc và Thủ tướng Joseph Laniel đã ký ngày 04.06.1954. Tại Hội Nghị Genève, Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập và được ít nhất là 35 quốc gia khác trên thế giới công nhận từ năm 1949 đến năm 1955 so với 26 quốc gia có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong cùng khoảng thời gian ấy [10]. Quan điểm của Sài Gòn là VNCH không bị ràng buộc bởi Lời Tuyên Bố Sau Cùng là có cơ sở. Phân Tích: chính trị đại cường ‘Chính trị đại cường’ hay chính trị nước lớn là một nhóm chữ đơn giản nhưng không thể hiện được sự phức tạp trong quan hệ Anh-Pháp-Mỹ từ phía ‘đồng minh’ phương Tây. Từ phía cộng sản, quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow chưa có gì gây cấn và được coi là rất đầm ấm, vào thời điểm 1954 vì Trung Quốc, chỉ sau 5 năm thành lập, còn phải học hỏi nhiều từ Liên Xô về mặt ngoại giao trên diễn đàn quốc tế. Nhưng không phải vì sự khác biệt trong nội bộ cường quốc phương Tây và trong nội bộ cường quốc cộng sản mà hai phía đối nghịch Việt Nam không phải đối diện với nhiều khó khăn tại Hội Nghị. Đáng ngạc nhiên là những khó khăn này lại giống nhau, tức là những khó khăn với chính ‘đồng minh’của mình. Dị biệt giữa Washington, London và Paris sâu đậm và phức tạp hơn, nên QGVN đã không thể vượt qua những trở lực tại Hội Nghị và sau cùng đã phải chịu thất bại nặng nề hơn là VNDCCH [11]. Khởi thủy, lập trường của hai phe đối nghịch Việt Nam đều chống đối giải pháp chia cắt đất nước. Thế nhưng trong khi QGVN nhất quán duy trì lập trường bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, thì VNDCCH đã không cưỡng lại được sức ép của Trung Quốc và Liên Xô nên phải chấp nhận giải pháp chia đôi. Chia đôi Việt Nam là giải pháp mà Moscow và Bắc Kinh chủ trương rất sớm từ đầu tháng 3 năm 1954. Lần đầu tiên bước vào sân khấu chính trị thế giới nên Bắc Kinh đã chuẩn bị rất kỹ. Chính Thủ tướng Chu Ân Lai đã soạn thảo chính sách chỉ đạo mà Ban Bí Thư Ủy Ban Trung Ương đã cứu xét và chấp thuận ngày 02.03.1954 [12]. Theo tài liệu quan trọng nầy, Trung Quốc đánh giá cao thành công của Liên Xô trong việc vận động triệu tập Hội Nghị Genève và coi việc tham dự của Trung Quốc là một bước tiến lớn, mặc dầu các cường quốc ‘phản động’ không tin là Hội Nghị có thể đạt kết quả gì. Bởi vậy, chính sách của Trung Quốc là phải tham dự̣ để cải thiện thể đứng ngoại giao và phá vỡ âm mưu gây chiến của ‘đế quốc Mỹ’. Trung Quốc phải nỗ lực đạt kết quả, dầu là kết quả giới hạn hoặc tạm thời, để mở đường cho việc giải quyết tranh chấp bởi các đại cường. Trung Quốc đã tự coi mình là một đại cường. Đối với Đông Dương, Trung Quốc phải cố gắng để hội nghị không thất bại, và tham dự để, nếu cần, tạo ra tình trạng vừa đánh vừa đàm (“negotiating while fighting”) nhằm gây khó khăn cho Pháp và tạo mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ. Một cách cụ thể, chính sách đã nói rõ là ‘ngưng bắn tại chỗ’ không tốt bằng chia đôi Nam/Bắc có thể là tại vĩ tuyến thứ 16. Chu Ân Lai còn nói thêm là Trung Quốc phải chuẩn bị thảo luận các giải pháp hợp tác kinh tế thương mại để bẻ gẫy phong tỏa của Mỹ - và bên lề hội nghị, cải thiện bang giao song phương với Anh, Pháp và Canada. Trong bản văn này, Chu Ân Lai đã nhận xét chính xác là các cường quốc phương Tây chia rẽ và có nhiều khó khăn chính trị nội bộ. Sự phối hợp giữa phe cộng sản chặt chẽ hơn là phe phương Tây. Ngày 22.04.1954, tại Moscow, Chu Ân Lai thảo luận với Đệ Nhất Bí Thư Nikita Khrushchev và Thủ tướng George M. Malenkov và Liên Xô đồng ý với chính sách của Chu Ân Lai. Khrushchev nói chính sách nầy phải được bảo mật. Khrushchev cho biết là đã tiếp Đồng chí Ding (bí danh của Hồ Chí Minh) và cho biết yêu cầu của Hồ Chí Minh có thể được thỏa mãn (satisfied), nhưng không nói rõ hoặc mật điện không ghi rõ là yêu cầu gì. Mật điện nói thêm là Hồ Chí Minh ghé lại Bắc Kinh để gặp Mao Trạch Đông trên đường về [13]. Một phiên họp quan trọng khác được tổ chức tại Liễu Châu / Liuzhou, Trung Quốc, ngày 04.07.1954 giữa Chu Ân Lai và các phụ tá với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, nhưng nội dung không được tiết lộ trong mật điện [14]. Bề ngoài, Chu Ân Lai có vẻ quan tâm đến uy tín của VNDCCH. Ngoài các phiên họp đặc biệt với Hồ Chí Minh, Chu Ân Lai không bỏ lỡ cơ hội than phiền với các trưởng phái đoàn phương Tây về việc mà ông gọi là “bất bình đẳng” (inequality) trong việc phương Tây phân biệt đối xử giữa QGVN và VNDCCH. Trong cuộc thảo luận với Ngoại trưởng Anthony Eden ngày 14.05.1954, Chu Ân Lai than phiền là Pháp đã không thèm trả lời đề nghị chính trị của Phạm Văn Đồng, vì Pháp chỉ coi QGVN là đại diện cho toàn thể Việt Nam. Theo lời Chu Ân Lai, người đòi hỏi quá nhiều không phải là Hồ Chí Minh mà là Bảo Đại, vì Bảo Đại không những coi mình là lãnh tụ duy nhất của Việt Nam mà còn đòi hỏi Liên Hiệp Quốc bảo đảm Bảo Đại là lãnh tụ duy nhất sau cuộc tổng tuyển cử – một đề nghị mà Moscow và Bắc Kinh đều không chấp nhận. Tất nhiên, Chu Ân Lai cũng không quên đòi hỏi cho chính mình là Trung Quốc xứng đáng được có qui chế của một đại cường [15]. Cũng theo Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Georges Bidault chẳng những không công nhận Việt Minh mà còn coi họ là một ‘lực lượng phản loạn’ [16]. Thật vậy, nếu chúng ta có thể chia Hội Nghị Genève làm hai giai đoạn trước và sau ngày 17.06.1954, thì vị thế của phái đoàn QGVN trên chân hẳn phái đoàn VNDCCH trong giai đoạn đầu. Mặc dầu có sự nghi kỵ và khác biệt quan điểm giữa Anh-Pháp-Mỹ, Mỹ và đặc biệt là Pháp ủng hộ QGVN mạnh mẽ. Lập trường sơ khởi của Thủ tướng Joseph Laniel và Ngoại trưởng Georges Bidault không khác gì lập trường của QGVN. Thủ tướng Laniel đã đặt 5 điều kiện ngưng bắn là quân cộng sản phải rút khỏi Miên và Lào, thiết lập một vùng phi quân sự tại Đồng bằng Sông Hồng, di chuyển quân cộng sản tại Việt Nam vào vùng chờ đợi định trước, quân Việt Minh phải rút khỏi Nam Việt và bảo đảm ngăn cấm mọi tăng viện từ bên ngoài [17].   Thế đứng của QGVN sụp đổ cùng với sự sụp đổ của chính phủ Laniel. Ngày 17.06.1954, tân Thủ tướng thiên tả Pierre Mendès-France tuyên bố trước Quốc Hội Pháp rằng điều đình ôn hòa có thể̉ thực hiện được và ngưng bắn có thể đạt được. Tân Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Pháp tự đặt cho mình một thời hạn phải đem lại kết quả là ngày 20.07.1954. Bảo Đại coi đây là lời tuyên bố “lạ lùng” [18], nhưng quan trọng hơn là phái đoàn QGVN tại Genève bị cô lập hoàn toàn kể từ thời điểm nầy.   Vài ngày sau, Chu Ân Lai và Mendès-France gặp nhau lần đầu tiên tại Đại Sứ quán Pháp ở Bern, Thụy Sĩ. Theo phúc trình của Chu Ân Lai ngày 23.06.1954, Mendès- France đã nói rằng nhìn chung, mục tiêu của Trung Quốc và Pháp không có nhiều dị biệt về nguyên tắc. Mendès-France đồng ý với Chu Ân Lai về giải pháp 2 bước: đình chiến về quân sự và tiếp theo sau là giải pháp chính trị. Mendès-France cũng đồng ý với Chu Ân Lai là Pháp sẽ không để Mỹ lập căn cứ quân sự trong vùng [19]. Sự rạn nứt giữa Pháp và Mỹ được xác nhận. Trung Quốc rất lo ngại trước nguồn tin Mỹ thảo luận thành lập tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á SEATO mà Chu Ân Lai coi như là một đe dọa cho chính Trung Quốc. Trong cuộc thảo luận nầy, Chu Ân Lai cũng cho biết là Trung Quốc thúc giục VNDCCH tiếp xúc với phái đoàn Pháp và phái đoàn QGVN và yêu cầu Pháp cũng có đề nghị ngược lại với Bảo Đại. Chu Ân Lai tiếp tục lo ngại về khả năng Mỹ thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Nam Á và nêu vấn đề nầy với Anthony Eden và Mendès-France. Eden giải thích rằng SEATO, nếu được thành lập, chỉ là một liên minh phòng thủ (defensive) trong khi đó Mendès-France nhắc lại quan điểm của Pháp là không có kế hoạch thiết lập căn cứ Mỹ trong vùng [20].   Thời hạn 20.07.1954 gần kề nên Mendès-France nỗ lực thu hẹp dị biệt lập trường giữa hai bên. Các đại cường đã đồng ý là thành viên Uỷ Hội Kiểm Soát Đình Chiến bao gồm các nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan. Vấn đề còn lại là Việt Nam sẽ bị chia cắt tại đâu và tổng tuyển cử được ấn định lúc nào? Không khác chi các chuyến ‘đi đêm’ giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ trong thời gian Hòa Đàm Paris vào đầu thập niên 1970, Pháp, Anh, Liên Xô và Trung Quốc cùng đi đêm với nhau mà phái đoàn QGVN không biết và có lẽ phái đoàn VNDCCH cũng không biết rõ [21]. Phái đoàn QGVN chỉ nhận được tin tức đã chậm mà còn không đầy đủ, do phái đoàn Mỹ chuyển lại. Tuy vậy, Trưởng phái đoàn Trần Văn Đỗ cũng gặp được Chu Ân Lai, do sự giới thiệu của phái đoàn Pháp. Một ngày trước khi Hội Nghị kết thúc, Bác sĩ Trần Văn Đỗ lên tiếng cực lực bác bỏ phát biểu của Liên Xô và của Pháp khi cả hai cường quốc nầy đề cập đến sự chia đôi lãnh thổ Việt Nam [22]. Trong khi đó, trái với lập trường nguyên thủy, VNDCCH chấp nhận giải pháp chia đôi. Họ đã từng đề nghị một nơi nào đó giữa vĩ tuyến 13 và 14, nhưng trước sức ép của Liên Xô và Trung Quốc, họ hi vọng đó là vĩ tuyến thứ 16, trong khi Pháp hãy còn đòi hỏi vĩ tuyến thứ 18. Mendès-France nói rằng Pháp không thể chấp nhận vĩ tuyến 16 vì Pháp không thể để cố đô Huế lọt vào tay cộng sản. Tài liệu Liên Xô cũng cho thấy Moscow chấp nhận vĩ tuyến16 rất sớm, từ đầu tháng 3 năm 1954. Thế nhưng Molotov vẫn bênh vực đề nghị vĩ tuyến 13/14 của VNDCCH như là một chiến thuật thương thuyết để sau nầy có cơ hội trao đổi “nhượng bộ”. Cũng theo chiến thuật thương thuyết nầy, Moscow đã ủng hộ thời hạn tổ chức tổng tuyển cử mà VNDCCH muốn đạt được là trong vòng 6 tháng sau khi ngưng chiến. Do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc – đặc biệt là Trung Quốc vì Bắc Kinh không muốn Hội Nghị thất bại và Bắc Kinh đang lo Mỹ can thiệp - VNDCCH phải từ bỏ vĩ tuyến 13/14 và phải chấp nhận tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 [23]. Trong phiên họp ngày 20.07.1954 giữa Chu Ân Lai, Mendès-France và Eden, Mendès-France đề nghị giải pháp dung hòa là vĩ tuyến 17. Phạm Văn Đồng không trả lời [24]. Số phận Việt Nam đã an bài. Tạm Kết Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, nhưng diễn tiến lịch sử tại Hội Nghị Genève 1954 có thể cho ta bài học gi? Trái với luận điệu tuyên truyền “môi hở răng lạnh” mà cả Bắc Kinh và Hà Nội đều đã sử dụng, Trung Quốc giúp đỡ phe cộng sản tại Việt Nam trước và sau năm 1954 là vì quyền lợi của Trung Quốc. Trung Quốc coi Hội Nghị Genève là bàn đạp để Trung Quốc xác định vai trò đại cường trên diễn đàn quốc tế. Trung Quốc không muốn Hội Nghị thất bại, vì e ngại sự thất bại ấy có thể dẫn đến sự can thiệp quân sự của Mỹ mà Trung Quốc coi là mối đe dọa cho chính Trung Quốc. Đây là một tầm nhìn chiến lược mà Bắc Kinh không thay đổi trong 60 năm qua. Trong chiến lược nầy, quyền lợi của Việt Nam là thứ yếu. Nhân cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979, Hà Nội lần đầu tiên và chỉ một lần thôi, dám lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đã phản bội VNDCCH tại Hội Nghị Genève [25].   Trên 60 năm qua, Việt Nam Thống Nhất hoặc Việt Nam chia đôi đều đã là nạn nhân của ván bài chính trị đại cường. Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẽ tiếp tục vướng mắc trong chính trị nước lớn, nếu Hà Nội tiếp tục gắn bó trong mối quan hệ đặc biệt và bất bình đẳng với Bắc Kinh như được diễn đạt dưới chiêu bài 16 chữ vàng và 4 tốt. Trong thế giới đa cực ngày nay, quyền lợi lâu dài của tổ quốc Việt Nam là bang giao độc lập và bình đẳng với tất cả các cường quốc. L.T.Q. Tài liệu tham khảo: [1960] Anthony Eden, The Memoirs of the Rt. Hon. Sir Anthony Eden, Cassell, London. [1968] Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, Oxford University Press, London. [1977] Joseph Buttinger, Vietnam the Unforgettable Tragedy, Andre Deutsch, London. [1990] Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam – Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, Xuân Thu Publishing phát hành, Los Alamitos, CA, USA. Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project No.16, The Geneva Conference of 1954 – New Evidence from the Archives of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China [80 documents]. Bằng chứng mới nầy gồm 80 công điện mật hoặc tối mật mà phần lớn do Chu Ân Lai tường trình về Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản. Đây chỉ là một số tài liệu của Bộ Ngoại Giao tại Bắc Kinh và một số còn bị cắt xén. Toàn bộ tài liệu của Bộ Ngoại Giao chưa được công bố. Tài liệu của Bô Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tức là cơ quan đầu não quyết định chính sách, thì hoàn toàn chưa được công bố. (Trong phần Ghi Chú sẽ là Tài liệu PRC [Doc no…] ngày…). Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project No.16, The Geneva Conference of 1954 – Russian Documents on the 1954 Geneva Conference [8 documents]. Từ phía Liên Xô, có 8 tài liệu mà phần lớn là Nhật Ký mật (secret Journal) của V. M. Molotov và do các phụ tá của Molotov ghi lại dưới hình thức tóm lược. (Trong phần Ghi Chú sẽ là Tài liệu USSR [Doc no…] ngày…). [1971] The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954" (Boston: Beacon Press, 1971) Section 1, pp 108-146. [1971] The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954" (Boston: Beacon Press, 1971) Section 2, pp 146-178. Ghi Chú: [1] Tài liệu PRC [Doc 1] - Mật Điện do Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô gởi Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc qua Đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh ngày 26.02.1954. (“Previously we already informed you that “other related countries” in Indochina, according to our understanding, should be the Democratic Republic of Vietnam and the…Chief (Quoc Truong)] Bao Dai’s [State of] Vietnam, Laos and Cambodia. We know that the Vietnamese friends are concerned about the convening of the Geneva Conference, and whether they will attend the conference. We believe that the CCP Central Committee will agree to our opinion.”). [2] Bảo Đại, trang 499. [3] Wikipedia Tiếng Việt: Trần Canh (Chen Geng; 1903 -1961), là một Đại tướng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và là một trong những tướng lãnh được Mao Trạch Đông tin cậy nhất. Ông đã từng giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng. Ông là Trưởng Phái bộ Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc của Việt Minh từ ngày 07.07.1950. [4] Bảo Đại, trang 510. [5] Bảo Đại, trang 500, 518, 527, 538-539. [6] Eden, trang 24. [7] Buttinger, trang 53-69 (trao đổi thư riêng giữa tác giả và Tổng thống Ngô Đình Diệm). [8] Duncanson, trang 223-224. [9] Tài liệu PRC: - [Doc 3] Mật điện của Đại sứ Trung Quốc tại Moscow phúc trình về Bộ Ngoại Giao tại Bắc Kinh, ngày 06.03.1954 (“Molotov emphasized that the United Nations should not be allowed to get involved”). - [Doc 25] Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông ngày 04.06.1964 (“Bao Dai’s delegate said at yesterday’s eleventh restricted session on the Indochina issue that only the United Nations could take charge of the task of supervising. Bidault spoke to support Bao Dai’s delegate…I made statements not only resolutely opposing the United Nations supervision…”). – [Doc 46] Biên bản thảo luận giữa Chu Ân Lai và Thủ tướng Pháp P. Mendès-France tại Đại Sứ quán Pháp ở Bern ngày 23.06.1054 (Chu Ân Lai nói với Mendès-France: “The Bao Dai government should approach the Democratic Republic of Vietnam through discussions and negotiations, instead of opposing it. Unfortunately, his [Bao Dai’s] political proposal aims exactly at opposition, hegemony, and at inviting the United Nations to intervene. This is unacceptable…”). [10] Wikipedia Tiếng Việt: Quốc Gia Việt Nam / État du Vietnam & Zhang Sulin (Ministry of Foreign Affairs Archives, Beijing) – The Declassification of Chinese Foreign Ministry Archival Documents – A Brief Introduction (page 11) Tuy nhiên, bài nầy không thảo luận chi tiết về tư cách quốc gia của Bắc Việt và Nam Việt Nam theo Công Pháp Quốc Tế. [11] Xem The Pentagon Papers có phần tóm lược đầy đủ về lập trường và mục tiêu của các nước tham dự Hội Nghị Genève 1954. [12] Tài liệu PRC [Doc 2] Trích dẫn nhận định và chính sách do Chu Ân Lai soạn thảo và được Ban Bí Thư Ủy Ban Trung Ương chấp thuận ngày 02.03.1954. [13] Tài liệu PRC [Doc 6] Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Ủy Ban Trung Ương, ngày 23.04.1954. [14] Tài liệu PRC [Doc 64] - Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Uỷ Ban Trung Ương tường trình phiên họp tại Liễu Châu / Liuzhou với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ngày 04.07.1954. Phiên họp nầy quan trọng vì bao gồm chính sách và thủ tục thương thuyết tại hội nghị cũng như chính sách và chiến thuật của Đảng Lao Động Việt Nam (“The question of negotiation—including policies, procedures, timing and supervision; the policies and tactics of the Vietnamese Workers Party in the future and the tendencies that are in need of attention”). Tuy nhiên, nội dung không được ghi trong mật điện. Tài liệu USSR [Doc 2] Trong cuộc hội kiến với Xử Lý Thường Vụ Liên Xô tại Bắc Kinh ngày 05.07.1954, Mao Trạch Đông cũng nói về cuộc thảo luận giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh tại Liễu Châu / Liuzhou nhưng báo cáo của Xử Lý Thường Vụ Liên Xô cũng không ghi nhận nội dung Liễu Châu. [15] Tài liệu PRC [Doc 13] – Biên bản thảo luận Chu Ân Lai /Anthony Eden, ngày 14.05.1954 - Zhou Enlai:...“I meant that France had not answered Mr. Pham Van Dong’s political proposal, while only recognizing Bao Dai as representing all of Vietnam and unifying Vietnam under him. This is a completely unreasonable thought.”… Zhou Enlai: “China deserves the status of a great power. This is an existing fact. We are willing to work with others for world peace, particularly for peace in Asia….”… Zhou Enlai: “I think that the person who is asking too much is not Ho Chi Minh but Bao Dai. In their proposal, the delegates from the State of Vietnam not only asked that Bao Dai be recognized as the only leader of Vietnam, but also that the United Nations guarantee Bao Dai’s status as Vietnam’s only leader after the elections. Ho Chi Minh has made no such demands.”... [16] Tài liệu PRC [Doc 9] ngày 09.05.1954. [17] Tài liệu PRC [Doc 27] 05.06.1954 Biên bản (Tối Mật) thảo luận giữa phái đoàn Trung Quốc và phái đoàn Pháp Wang/Chauvel [Editor’s Note: French Prime Minister Joseph Laniel had demanded five conditions for a ceasefire: withdrawal of all communists from Cambodia and Laos, creation of a demilitarized zone aroundthe Red River Delta, relocation of communists in Vietnam into predetermined standing zones, removal of all Viet Minh troops in south Vietnam, and guarantees against reinforcements from abroad]. [18] Bảo Đại, trang 516. [19] Tài liệu PRC [Doc46] Thảo luận Chu Ân Lai / Mendès-France tại Đại Sứ quán Pháp, Bern, Thụy Sĩ ngày 23.06.1954 – Mendès-France: “...Generally speaking, [our] goals are not much different in principle….There is one more final point. I am glad the Premier made such a suggestion: it is the best to go through two steps. The first is a cease-fire, and the second is a political settlement…This is a practical solution, it should be reached quickly…There is another important point. The Premier raised a concern about establishing American military bases. I fully agree on this point. I want to make it clear that we don’t intend to establish any American bases in that region. We don’t have such a plan…”. Zhou Enlai: “…You had a very good answer to my last point. France has no intention to establish any American bases. This is very good not only for the three countries, but also good for China, France, and Southeast Asia. All of us hope for a peaceful co-existence and for building a common foundation for the future…”. [20] Tài liệu PRC - [Doc 68] Thảo luận Chu Ân Lai / Anthony Eden ngày 13.07.1954. - [Doc 71] Thảo luận Chu Ân Lai / Mendès-France ngày 17.07.1954. Và Tài liệu USSR [Doc 5] Thảo luận giữa Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng ngày 16.07.1954 – “Zhou Enlai says that according to information available to him Britain is taking vigorous action to create an alliance of countries in Southeast Asia which would be tied to one another by a system of treaties of the Locarno type. The US is trying to counter the British plan with their own plan. They are relying on the basis of an alliance of the five powers taking part in a meeting in Singapore and creating a military bloc under their aegis including Thailand, Pakistan, Bao Dai’s Vietnam, Laos, and Cambodia, in addition to these five countries. Zhou Enlai said that we ought to oppose the creation of military blocs in Asia, taking advantage the existing differences between the US and Britain in doing this. Molotov and Pham Van Dong express their agreement with the opinion of Zhou Enlai.” [21] Tài liệu PRC [Doc 44] ngày 22.06.1954 – Chauval nói với Chu Ân Lai rằng Pháp và Trung Quốc làm viêc chung với nhau và cả hai phái đoàn cần duy trì sự họp tác bí mật nầy (secret co-operation). [22] Tài liệu PRC [Doc 73] ngày 19.07.1954. [23] Tài liệu USSR - [Doc 1] Journal of Molotov (secret) – Thảo luận với Đại Sứ Trung Quốc tại Moscow ngày 06.03.1954. - [Doc 3] Journal of Molotov (secret) Thảo luận tay đôi với P. Mendès-France. [24] Tài liệu PRC [Doc 78] Mật điện ngày 20.07.1954 tường trình phiên họp ngày 19.07.1954 giữa Chu Ân Lai, Mendès-France và Anthony Eden. [25] Socialist Republic of Vietnam, The Truth about Vietnam-China Relations over the last 30 Years, Hanoi, Ministry of Foreign Affairs, 1979. CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1979, trang 17-21: Phần Thứ Hai - Chương III- Hiệp Định Giơnevơ Năm 1954 Về Đông Dương Và Sự Phản Bội Của Những Người Lãnh Đạo Trung Quốc. -/- Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

60 năm Geneva, nghĩ về cuộc hội ngộ vẫn còn dang dở

Hôm nay là ngày 20/7. "Hai mươi tháng bảy, toàn dân Nam nhớ thương" .... Mỗi lần đến ngày này, tôi lại nhớ đến câu hát ấy, được lấy trong một bài hát về "ngày quốc hận" dưới thời VNCH mà giờ đây hình như không còn ai biết đến nữa. Vâng, 20/7 được xem là ngày quốc hận vì cách đây đúng 60 năm, một cuộc chia lìa vĩ đại trong lịch sử VN đã được định đoạt, kéo theo 21 năm chiến tranh triền miên với bao nhiêu máu xương đổ xuống hai miền để đất nước thống nhất vào năm 75. Pháp và Việt Minh ký Hiệp Định Genève   Còn nhỏ khi học sử dưới thời VNCH thì tôi nghe người ta lên án miền Bắc cộng sản vì đã ký vào Hiệp định chia đôi đất nước, đưa chủ nghĩa cộng sản vào VN gây cảnh chia lìa và chiến tranh tang tóc, để cả nước phải chịu cảnh "đêm sông Hương nhung nhớ, ngày Cửu Long mơ ... mơ một ngày Hồng Hà góp hội trùng dương" như trong lời một bài hát của TCS. Đối với người miền Nam lúc ấy, nước Mỹ là một đồng minh giúp VNCH xây dựng một chế độ tự do dân chủ tại một nửa đất nước, nền dân chủ ấy tất nhiên là còn rất non trẻ và vô cùng khó khăn (vì sự quấy phá liên tục không ngừng nghỉ bằng vũ lực của Việt Cộng với sự hỗ trợ của miền Bắc, với sự ra đời của Mặt trận giải phóng miền Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng Lao Động VN ngay từ năm 1960 khi Mỹ chưa hề trực tiếp đặt chân vào miền Nam). Chỉ mới 21 năm, nhưng  VNCH cũng đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận và có một số thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục y tế .... Nhưng sau ngày "giải phóng" thì HĐ Geneva đã xuất hiện với những ý nghĩa khác hẳn: Ta chiến thắng vẻ vang, Mỹ thay chân Pháp tiếp tục xâm lược, ta bắt đầu cuộc chiến tranh thần thánh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đánh đổ hoàn toàn chế độ ngụy quyền SG .... (trong đó tất nhiên có cha tôi và rất nhiều người dân ở miền Nam, vì làm sao có thể khác?) Quay lại giai đoạn 1954-1955. Cha mẹ tôi, lúc ấy mới vừa lấy nhau được ít lâu, một người 18 tuổi còn người kia 22 tuổi, sau lưng bỏ lại quê hương, gia đình và chòm xóm để cùng dòng người di cư từ miền Bắc để vào Nam trong chuyến hành trình được đặt tên là "Passage to freedom" - Đường đến tự do. Cái tên mà mãi sau này đọc tài liệu nước ngoài về cuộc chiến VN tôi mới được biết. Cuộc ra đi được so sánh với những người Mỹ đầu tiên rời bỏ nước Anh để đi tìm tự do ở vùng đất xa lạ mà sau này trở thành nước Mỹ. Với tôi, nó giống cuộc Exodus để tìm về miền đất hứa của dân Do Thái hơn. Vì cuộc hành trình đó cũng rất dài và gian lao để xứng đáng gọi là cuộc Exodus của người Việt mà có lẽ đến tận bây giờ vẫn chưa hoàn tất. Lý do cha mẹ tôi vào Nam mà ông bà nội tôi không đi là vì ông bà còn một người con trai - anh ruột của cha tôi - đi theo Việt Minh và mất tích trong thời kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, ông nội tôi muốn ở lại để may ra có thể tìm được bác tôi nếu bác còn sống và lưu lạc ở đâu đó, hoặc nếu đã qua đời thì cũng tìm lại nắm xương đem về chôn cất, để người chết được mồ yên mả đẹp và người sống cũng yên lòng khi thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ.   Quyết định như vậy, nhưng ông tôi lại khuyến khích cha mẹ tôi đi vào Nam sinh sống. Lúc ấy, cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có Nam Định là nơi ông bà nội tôi sinh sống. Ngay từ trước năm 75 thỉnh thoảng khi nói chuyện về miền Bắc tôi vẫn nhớ bố tôi nhắc đến ông Trường Chinh, kể rằng ông TC đã về nói chuyện ở làng trong thời gian cải cách ruộng đất, nhớ bố tôi kể chuyện (hình như) chính cha mẹ của ông TC cũng bị mang ra đấu tố, nhớ cả câu chuyện về thói quen của những cán bộ VM là dùng đũa hai đầu, một đầu để ăn còn đầu  kia dùng để gắp cho người khác cho hợp vệ sinh. Những mẩu chuyện tôi nghe thấy lạ lùng nhưng không quan tâm vì không nghĩ nó có bao giờ ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Nhưng có ai đoán được tương lai! Cuộc cải cách ruộng đất ấy không làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của ông bà nội tôi vì ông tôi nghèo không có nhiều ruộng, lại có con trai (là bác tôi) theo Việt Minh nên được xem là có công với cách mạng. Dù vậy, ông tôi vẫn cảm thấy chế độ mới có lẽ không phù hợp cho đứa con trai duy nhất còn lại của ông là cha tôi, một anh học trò chân trắng (ông bà tôi tuy làm ruộng nhưng lại muốn cho bố tôi thoát cảnh làm nông dân nên đã cố gắng cho cha tôi lên Hà Nội ăn học). Mẹ tôi là người Hà Nội cũng chỉ biết buôn bán, và chắc chắn là khó sống với chế độ mới, vì quan điểm tư bản là kẻ thù, là phản động, chỉ có lao động chân tay mới là vinh quang, là chân chính, và bần cố nông mới là giai cấp của cách mạng. Những kẻ thuộc thành phần tiểu tư sản như cha mẹ tôi (dù khi lấy mẹ tôi thì cha tôi chẳng có một xu dính túi, chỉ có một chút học hành và sức lao động mong có thể bán cho kẻ nào muốn mua!) thì là thành phần ăn bám, cần phải được cải tạo để sống trong chế độ cách mạng, mà biết có thể cải tạo được chăng! Đi vào Nam, thì may ra còn có cơ hội tìm được nghề sinh sống. Đó là suy nghĩ của ông nội tôi và cha mẹ tôi trong những tính toán rời bỏ quê hương để vào Nam, mà tôi đã nghe được khi cha mẹ tôi nói chuyện với chú (chồng của cô út) sau năm 75 khi miền Bắc đã chiến thắng trong cuộc chiến.   Một lý do khác nữa mà ông tôi khuyến khích cha mẹ tôi vào Nam là vì gia đình tôi là người Công giáo. Lúc ấy, chủ trương vô thần của chính quyền cộng sản thời ấy cộng với sự ác cảm không giấu diếm của cộng sản đối với người Công giáo khiến cho rất nhiều người không muốn ở lại quê hương với chính quyền  cộng sản, dù với họ cuộc ra đi là một cuộc phiêu lưu vô định vào một nơi xa lạ chẳng biết tương lai sẽ đưa họ về đâu. Một quyết định xé lòng, nhưng dường như đối với những người như cha mẹ tôi (và nhiều người công giáo khác) thì không còn lựa chọn nào khác. Sau này, một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của chế độ mới mà tôi đọc được là cuốn Bão biển của Chu Văn, cũng nói về cuộc sống của người Công giáo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giờ tôi không còn nhớ rõ nội dung nhưng nhớ chắc chắn hình ảnh người Công giáo dưới mắt của tác giả (và tất nhiên nó phản ánh quan điểm chính thống của chính quyền "cách mạng") là vô cùng xấu xí và dĩ nhiên là rất phản động.   Quay trở lại cuộc di cư. Sự chia cắt đau thương của ngày ấy ấy tôi biết được qua những lời mẹ tôi kể về những ngày giằng co để cuối cùng đi đến quyết định di cư, trong đó bố tôi thì nửa muốn đi - vì thanh niên trai tráng, lại cũng có chút chữ nghĩa, cũng muốn tìm cho mình một cơ hội nhiều hơn là ở lại nhà quê với cái nhìn không thiện cảm của chế độ mới và phải tự cải tạo bằng lao động để trở thành một con người chân chính! - nửa lại bịn rịn vì thương ông bà nội tôi, chỉ có hai người con trai thì một bác đã mất mà bố tôi lại bỏ đi vào Nam. Chính vì sự dùng dằng này mà bố mẹ tôi chờ mãi đến gần hết giai đoạn 300 ngày cho phép di chuyển giữa hai miền - Bắc vào Nam, Nam ra Bắc - mới quyết định vào (bố mẹ tôi vào Nam năm 1955), và chuyến đi từ quê Nam Định ra Hải Phòng để lên tàu vào Nam gặp biết bao nhiêu trở ngại vì chính quyền Việt Minh lúc ấy không muốn bị mất dân nên cản trở bằng nhiều cách. Những điều ấy mẹ tôi hay kể cho bọn tôi nghe; bọn tôi nghe thì thấy lạ lẫm nhưng không xúc động vì mình không trải nghiệm. Nhưng điều mà tôi cảm nhận được rất rõ ràng là trong mắt bố mẹ tôi, mà nhất là bố tôi, thì làng quê miền Bắc là một cái gì đó hết sức thơ mộng, với những đêm trăng sáng mọi người quây quần ở ngoài sân hóng gió và kể chuyện cổ tích hoặc chuyện ma, hay cây đa giếng nước ở đầu làng .... Còn với mẹ tôi thì ký ức về miền Bắc là một Hà Nội vô cùng thanh lịch, thiên nhiên thì vô cùng đẹp đẽ với mưa phùn vào dịp Tết, với hoa đào đỏ thắm, với với rất nhiều hồ, nào là hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu, hồ Tây, đương nhiên là phải có hồ Hoàn Kiếm với những cây liễu rủ lơ thơ mà mãi sau này tôi mới thấy lần đầu tiên vào cuối năm 1990 khi ra Hà Nội để nhận học bổng đi học ở Úc vào đầu năm 91. (Nhân nhắc đến việc này cũng tôi xin lạc đề để viết mấy dòng cám ơn nước Úc, chính phủ Úc và nhân dân Úc đã tài trợ cho một đứa con nhà nghèo, lại thêm lý lịch đen như tôi cũng có cơ hội để đi ra bên ngoài ngắm nhìn thế giới, mà lần đầu tiên chỉ đi đến Thái Lan thôi là tôi đã thấy thật shock và vô cùng tủi nhục - nhưng đó là một câu chuyện khác.) Sự thương nhớ của cha tôi còn thể hiện qua việc lưu giữ cẩn thận mấy tấm bưu thiếp in sẵn với một ít chỗ trống để điền vào (giống như bài tập làm văn của lớp một) mà cô ruột tôi gửi vào cho gia đình tôi trong thời gian 2 bên vẫn còn được quyền liên lạc - dù rất hạn chế - trong thời gian chờ "tổng tuyển cử" vào năm 1956. Tất nhiên cuộc tổng tuyển cử ấy không bao giờ xảy ra như mọi người đã biết, và lòng thương nhớ khôn nguôi ấy tôi vẫn chẳng thể nào hiểu được cho đến mãi sau này chính tôi cũng đã trải qua khi lịch sử lặp lại vào năm 1975.   Vâng, ngày 29/4 năm 1975 thì người chị cả và anh kế của tôi cũng cỡ tuổi 18 đôi mươi (chính xác thì chị tôi 20 còn anh tôi chỉ mới 17) lại dắt díu nhau đi "di tản" (à, ai còn trẻ chưa biết thì cần nhớ "di cư" là chuyện của năm 54, còn "di tản" là việc của năm 75). Nhưng không giống năm 54 còn có 300 ngày để bàn bạc, cân nhắc và đi đến quyết định, lần này gia đình tôi và những người khác nữa chẳng có ngày nào mà chỉ là một quyết định tức thời trong "cuộc tháo chạy tán loạn" năm ấy. Anh chị tôi ra đi, để lại cha mẹ tôi và 6 đứa con còn lại mà tôi là đứa lớn nhất, năm ấy chưa đầy 15 tuổi, và một trời thương nhớ lại bắt đầu, bây giờ đã chuyển sang đến thế hệ của tôi. Tôi vẫn nhớ, thực ra ban đầu cha tôi đã đồng ý cả gia đình sẽ cùng đi. Trước đó, theo kế hoạch đã bàn bạc sẵn thì mẹ tôi đã sắp xếp đồ đạc vào túi xách để đem đi di tản. Tôi nhớ mẹ tôi đã chuẩn bị cho anh chị em tôi mỗi người một túi vải với mấy bộ quần áo, một ít lương khô, một ít tiền và 2 cây vàng, phòng hờ  lỡ có đánh nhau to mà lạc mất nhau thì mỗi người cũng còn có thể sống sót ít lâu. Trong nhà tôi có hai chiếc xe gắn máy, một chiếc Vespa Sprint do cha tôi chạy và chiếc xe Honda PC do chị tôi chạy. Kế hoạch của cha tôi là chị tôi chở anh tôi ra cảng SG trước, rồi quay về đón tôi và đứa em kế, còn cha tôi thì đi chiếc xe Vespa chở mấy đứa nhỏ và mẹ tôi chừng vài vòng là hết. Lúc ấy khoảng gần 5 giờ chiều, cha tôi lấy chiếc Vespa Sprint đi một vòng để xem chỗ tàu đậu và nghe ngóng tình hình, bỗng trở về và nói: Ở ngoài đó hỗn loạn lắm, đi ra ngoài đường lúc này vô cùng nguy hiểm, đạn pháo khắp nơi, không biết sống chết thế nào. Thôi, không đi đâu hết, có chết thì cùng ở lại chết với nhau thôi. Đúng ngay lúc ấy thì chị tôi về đón tôi sau khi đã bỏ anh tôi ở cảng SG. Tôi nhớ mình đã ngồi lên yên xe (chiếc xe Honda PC nhỏ nhắn thời ấy đang được xem là rất mốt, phù hợp với các cô thiếu nữ) nhưng rồi cha tôi đã gọi giật lại, bảo tôi xuống xe và bảo chị tôi ra đón anh tôi về nhà. Chị tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy tôi xuống xe, trân trối nhìn tôi, rồi chị quay sang nhìn cha tôi, hơi gật đầu rồi quay xe đi. Tôi vẫn nhớ mãi cái hình ảnh cuối cùng ấy: Mặt chị căng thẳng, như hơi đanh lại, tóc dài bay bay khi phóng xe đi, và ngay lúc ấy một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi nhưng tôi không dám nói với ai, rằng chắc chắn là chị tôi và anh tôi sẽ quyết định đi luôn chứ không quay lại nữa đâu. Và tôi đã đúng. Để sau ngày 30/4, cứ mỗi lần thấy một đồ vật gì của chị tôi bỏ lại - những quần áo, tập vở, số sách, ghi chép, hình như có cả tập thơ chép tay, thơ của chị tôi và thơ của những tác giả mà chị tôi thích, thì tôi lại thấy lòng quặn lại, và nhớ hình ảnh chị tôi chiều hôm ấy. Quyết định thay đổi từ ra đi thành ở lại của cha tôi diễn ra trong tích tắc, chỉ trong thời gian khoảng chừng 1 tiếng đồng hồ, và mẹ tôi cũng rất ngỡ ngàng nhưng không nói gì. Rồi liền sau đó là một cuộc sống mới với tất cả mọi giá trị hoàn toàn đảo lộn đã ập đến. Sau này cuộc sống khó khăn quá, thỉnh thoảng khi nhớ lại thì mẹ tôi lại trách cha tôi về cái quyết định chớp nhoáng vào lúc ấy, và tỏ ra không hiểu vì sao ông làm như thế. Cha tôi không bao giờ nói gì về việc này, nên tôi chẳng rõ lý do gì khiến cha tôi có cái quyết định đó, và ông có bao giờ cảm thấy hối tiếc hay không. Nhưng khi nói chuyện riêng với tôi thì mẹ tôi quả quyết cha tôi đã quyết định ở lại vì nghĩ đến ông nội tôi còn sống ở miền Bắc, hẳn là không muốn vĩnh viễn rời xa cha mình vì như thế là bất hiếu (bà nội tôi đã mất không lâu sau khi gia đình tôi di cư vào Nam, và cái tin bà mất cũng làm cho cha tôi vô cùng đau đớn). Và những trải nghiệm của bản thân tôi với sự ra đi của chị tôi đã giúp tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm với quyết định lúc ấy của cha tôi. Cuộc chia ly 21 năm của gia đình (lớn) của tôi sau năm 1975 đã có một kết cục tạm gọi là đẹp. Khoảng đầu năm 1976 chú tôi (chồng của cô út ở miền Bắc) đã đưa ông nội tôi vào Nam trên chuyến xe lửa Bắc Nam để thăm gia đình tôi lúc ấy đang cảm thấy rất lo lắng với cuộc sống mới. Cuộc gặp gỡ sau hơn 20 năm của hai cha con diễn ra đầy mừng tủi, ông nội tôi rất vui khi thấy đứa con trai duy nhất (vì người con trai đầu đã hy sinh) giờ đây đã có một bầy con đông đúc, với 5 người con trai (mà trước đó khi nói về ông tôi ở miền Bắc thì cha tôi lại tự hào nói với những người bà con trong họ: họ Vũ của ông nội tôi "con độc cháu đàn"), 3 cô con gái. Tất nhiên là còn thiếu hai người con đầu của cha mẹ tôi đã đi di tản mà lúc ấy vẫn còn chưa có tin tức.   Ông tôi rất vui khi nhìn thấy đám cháu chưa bao giờ biết mặt, bố tôi thì khỏi phải nói rồi, chỉ có mẹ tôi (và tôi, đứa con gái lớn lúc ấy vì chị cả tôi đã đi) là hơi vất vả vì ông tôi vào nên khách khứa liên miên, lại thêm phải lo cho ông ăn ở sinh hoạt. Rất lạ là thằng em út của tôi dù mới gặp ông lần đầu đã rất quyến luyến ông, lúc nào cũng lẩn quẩn bên ông như ông cháu đã ở với nhau từ lâu lắm. Cha tôi muốn đón ông vào SG sinh sống nhưng ông quyết định trở về Nam Định, bởi vì ông không quen ở thành phố nên cảm thấy rất xa lạ, nhớ ruộng đồng chòm xóm. Và điều quan trọng nhất là vì ông tôi sau này đã tái hôn với bà sau, có thêm cô con gái bằng tuổi đứa em út của tôi, và ông muốn trở về với bà và cô út (sau) vì biết cuộc sống ở SG không hợp với mọi người. Cuộc hội ngộ năm 76 của gia đình tôi dù cảm động vẫn có những điều chưa trọn vẹn. Anh chị tôi vẫn còn "mất tích" chưa có tin tức gì (mãi mấy năm sau chị tôi mới gửi thư về, lại là một chuyện ly kỳ khác mà một lúc nào đấy tôi cũng sẽ phải kể lại), nên mỗi lần nhắc đến thì ai cũng đau lòng, chẳng biết mọi người sống chết ra sao. Cha tôi dường như có nỗi đau không thể chia sẻ với ai được, đặc biệt là với mẹ tôi, rằng ông đã phải buộc phải lựa chọn giữa cha mình (ông nội tôi) và tương lai cả gia đình và vợ con của chính mình, để cuối cùng cha tôi đã chọn ông nội tôi. Còn ông nội tôi thì dường như cũng không hài lòng lắm với việc cha tôi để cho 2 đứa con đầu đi di tản, nhưng ông cũng không bao giờ nói ra. Những cuộc trao đổi vẫn còn né tránh chuyện chính trị, ai cũng cố tránh không gợi ra về cuộc chiến lâu dài đẫm máu mà hai bên chĩa súng bắn vào nhau (nhà tôi thì không có cảnh này vì ông nội tôi chỉ có mỗi một mình cha tôi, nhưng nhiều bà con khác thì có), không nhắc đến sự sụp đổ của chính quyền SG, dù thỉnh thoảng vô tình vẫn để lộ ra quan điểm chính trị mà một bên nghe thì rất khó chịu nhưng phải nén lại. Dù sao thì tình cảm gia đình cũng là nét chính của cuộc hội ngộ, và một tháng trời ông tôi ở SG quả là đáng giá cho cả hai phía, đặc biệt là vì lúc ấy gia đình tôi vẫn còn chút ít của cải đã tích lũy trước năm 75, chưa phải trải qua cảnh nuôi heo, nuôi gà vịt, làm miến dong ngay trong căn nhà 2 tầng ở mặt tiền đường lớn (đường CMT8) ở Quận Tân Bình, vốn được thiết kế theo kiểu nhà đô thị hiện đại chứ không phải để nuôi heo hay nuôi gà vịt (đây cũng là một chuyện dài mà tôi sẽ kể vào dịp khác). Và đáng giá hơn nữa là chuyến đi ấy của ông nội tôi vào thăm cha tôi là cuộc gặp mặt duy nhất giữa hai cha con sau 21 năm ròng, vì sau đó vài năm vào đầu thập niên 80, giữa lúc VN đang thiếu gạo, đói kém nhất (dù đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH) thì ông tôi đã mất, và cha con không bao giờ còn gặp mặt nhau nữa. Nhưng ngay cả khi ông mất cha tôi cũng chẳng dám về Nam Định chịu tang (vì hồi ấy vẫn còn sợ địa phương ngoài ấy kỳ thị, trả thù "tội di cư vào Nam", mà điều này là có thật, vì có những người bà con xa tôi của tôi khi về Bắc đã bị lôi thôi với chính quyền địa phương vì cho rằng họ là CIA hoặc phản động về móc nối ...), chỉ có bác ruột tức chị của bố tôi là phụ nữ không bị nghi có liên can đến chính trị là dám về thôi. Khi về, bác tôi có nói rằng ông bà nội có để lại cho bố tôi một chiếc mâm đồng làm của gia bảo, hiện vẫn còn ở nhà cô út (cô ở lại miền Bắc với ông bà) nhưng bác không dám mang về (vì mọi hàng hóa mang theo người đều phải khai báo và có giấy tờ chứng minh lằng nhằng), khi nào bố tôi có dịp ra Bắc thăm họ hàng thì sẽ nhận. Nhưng cái mâm ấy tôi chưa bao giờ được thấy vì đến năm 91, bắt đầu mở cửa và thể chế bắt đầu có những nhận thức lại thì bố tôi mất vì ung thư phổi. Vì thế, vật "gia bảo" ấy không còn người nhận, hẳn là cô tôi đã giữ thay cho bố tôi luôn rồi, chẳng biết nó có còn được giữ hay đã bán đi trong những năm thiếu gạo ở cả hai miền. Có một chi tiết rất cảm động mà tôi không thể không kể. Năm 1976 khi vào Nam, ông nội tôi chỉ có một món quà. Ông gói nó kỹ trong một chiếc khăn nhỏ và đưa cho bố tôi. Đó là chiếc huân chương chiến thắng hạng ba mà bác tôi (người đã hy sinh trong chiến tranh chống Pháp) được truy tặng vào năm 1958, cùng với 2 thứ giấy tờ kèm theo: Một tờ giấy chứng nhận truy tặng huân chương cho bác tôi, và một tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ cấp cho ông tôi là cha của liệt sĩ. Mãi tận sau này, mỗi khi mở tủ đựng giấy tờ của cha tôi thì tôi lại thấy cái hộp giấy nhỏ màu đỏ thẫm đựng tấm huy chương ấy để riêng một chỗ trong tủ. Ông tôi đã cất công đem vào Nam cho cha tôi những thứ ấy để cha tôi có thể khai vào lý lịch, tin rằng nó có thể giúp được cho cha tôi lúc ấy khỏi bị những kỳ thị hoặc trừng phạt nếu có vì đã can tội di cư vào Nam và theo chân đế quốc, làm việc trong hệ thống hành chính của "ngụy quyền", và cũng có thể giúp cho bọn tôi dễ dàng hơn trong khi đi học hoặc xin việc sau này. Có một điều lạ là mặc dù cha tôi vẫn nhắc đến việc này một cách cảm động và trân trọng, nhưng trong lý lịch của cha tôi và sau này là của anh em tôi thì chi tiết này chưa bao giờ được khai vào. Tôi không bao giờ hỏi, cũng chẳng bao giờ quan tâm, thậm chí trong lòng còn thầm ủng hộ là cha tôi đã không tận dụng cái "công trạng" của người khác ấy. Dù lúc ấy chỉ mới 16, 17 tuổi, không nói được thành lời nhưng tôi cũng cảm thấy việc dựa vào lý lịch, vào thành tích của người thân là thiếu tự trọng - mỗi người phải có trách nhiệm với chính những gì mình làm và với những lựa chọn về quan điểm của mình. Mãi đến khi cha tôi mất vào năm 91 và tôi không còn có dịp nào để nghe cha tôi nói về những gì đã diễn ra trong lòng ông lúc ấy, tôi mới thấy hối tiếc là tại sao hồi ấy mình không đủ trưởng thành để dám hỏi ông và nghe ông tâm sự. Và tôi cũng có một chút tò mò, nếu như trong lý lịch của cha tôi và anh em tôi có khai tên ông bác liệt sĩ thì số phận của chúng tôi có thay đổi chút nào không nhỉ, và đổi thay ấy sẽ theo hướng tốt lên hay xấu đi? Đã 60 năm rồi. Rất nhiều nhân chứng đã không còn, vật chứng cũng thất lạc không còn giữ được bao nhiêu. Cuộc sống đã trôi qua, ý nghĩa của hội nghị Geneva đối với VN và tình hình chính trị thế giới đã được phân tích đi, phân tích lại nhiều lần. Năm nay trên báo chí lề phải cũng có một bài phân tích khá dài của ông Vũ Khoan (à, lại họ Vũ của làng Vũ Đại nhà tôi!) về những bài học cần rút ra về hiệp định Geneva. Có một số điểm đã được nhìn nhận lại cho chính xác hơn, ví dụ như theo một bài viết nhân kỷ niệm 40 năm Geneva tức cách đây 20 năm mà tôi mới đọc được thì Geneva là thắng lợi vẻ vang của ta, thì nay Geneva chỉ còn là cuộc chơi của những nước lớn trên bàn cờ chính trị mà VN chỉ là một con tốt. Không sai, nhưng rõ ràng là vẫn còn rất nhiều góc khuất cần được bạch hóa phân tích kỹ hơn ở mọi khía cạnh. Câu hỏi lớn nhất cho người VN hiện nay theo tôi là: Bản chất của cuộc chiến tranh VN, kéo dài từ thời chống Pháp đến tận năm 1975 và tốn không biết bao nhiêu xương máu của cả hai miền, đó là cuộc chiến gì thế, và nó có cần được tiến hành không? Giả sử nếu Đảng CSVN - với sự ủng hộ của quốc tế vô sản, đặc biệt là 2 đồng chí Liên Xô và TQ - không lãnh đạo cuộc chiến tranh "thần thánh" để đuổi Pháp và giành độc quyền lãnh đạo đất nước cho đến tận bây giờ, thì VN không thể có được độc lập và thống nhất ư?  Không phải thế. Vậy VN có độc lập sớm hơn các nước trong khu vực một chút nào chăng, khi mình phải chiến tranh triền miên để dành độc lập trong khi các nước ấy chẳng phải tốn chút xương máu nào để giành độc lập như VN? Cũng không. Rất tình cờ, hôm qua tôi vừa có một cuộc tranh luận nảy lửa đến độ đã tuyên bố cắt đứt tình bạn với một người mà cho đến giờ trong thâm tâm tôi vẫn xem là một người bạn quý - trừ sự khác biệt trong nhìn nhận về cuộc chiến tranh ấy. Lại thêm một sự chia cắt xé lòng về một câu chuyện đã quá cũ, đã tròn một hoa giáp 60 năm mà vẫn còn khả năng gây chia rẽ đối với người Việt.   Câu trả lời là gì, và tại sao, tại sao, tại sao cho đến tận bây giờ lòng người VN vẫn còn những hố sâu dường như không bao giờ vượt qua được? Tôi không có câu trả lời chung cho tất cả mọi người, và cũng không có câu trả lời chắc chắn cho riêng tôi. Tôi chỉ biết, việc quan trọng nhất hiện nay của VN là thống nhất lòng người, là cùng nhau xác định một con đường đi lên cho đất nước và cùng nhau quyết tâm thực hiện, xóa đi những hận thù, hờn oán của cuộc chiến oan nghiệt đó. Nhưng để làm được điều này chắc chắn là không dễ dàng, nếu sự thật vẫn còn bị bưng bít, nếu một trong hai bên hoặc cả hai đều từ chối nhìn vào và phân tích những sai lầm của phía mình và chân thành nhận lỗi - cả bên thắng lẫn bên thua, nhưng nhất là bên thắng - và nếu bên thắng vẫn cứ tiếp tục tự ngợi ca chính nghĩa của mình và mạt sát bên thua với những thông tin bị cắt xén cho đúng quan điểm của bên thắng cuộc, nếu hai bên chỉ chăm chăm moi móc cái xấu của nhau ra để so đọ xem ai thắng ai thua, thì chắc chắn cuộc trùng phùng của năm 1975 không thể nào là cuộc hội ngộ vẹn toàn. Có lẽ đó là bài học lớn nhất mà mọi người VN đều cần phải học. Tự nhiên tôi nhớ đến lời hát da diết ấy của TCS: Việt Nam ơi, còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau? Chẳng lẽ 60 năm rồi sau ngày chia ly vĩ đại năm ấy, đến bây giờ chúng ta vẫn chưa có được câu trả lời hay sao? Và cũng nhớ đến Phạm Duy với bài hát VN, VN mà nhạc sĩ đã từng giải thích: Tôi đặt bài hát là VN, VN vì chúng ta có 2 đến nước VN. Phải chăng bài hát ấy chứa trong nó câu trả lời mà PD đã từng mong muốn suốt bao năm: VN không đòi xương máu, VN kêu gọi thương nhau .... Phải thế không, người VN ơi? T. Phuong Anh Vu Nguồn: blogphuonganh.blogspot.com.au
......

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục

(Sau khi đọc bài viết “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai)   Trong bài viết mới đây Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, giáo sư Tương Lai lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ. Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944” và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”. Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.   Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ có chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Mỹ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Mỹ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.   Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Paris đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Mỹ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Mỹ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản”. Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ. Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối. Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu đô la để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngã Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì. Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thâm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Từ ngày thành lập cho đến nay, hoạt động dưới nhiều danh xưng (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích cuối cùng là CS hóa toàn cõi Việt Nam như đã khẳng định nhiều lần trong các cương lĩnh đại hội của đảng CSVN. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.   Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngỏ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng. Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN. Trung Cộng muốn gì?   Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam: 1. Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị, tư tưởng. 2. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. 3. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên . Về mặt kinh tế chính trị. Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Về mặt quốc phòng. Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3)không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh. Trong thế chiến thứ hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco. Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng. Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ. Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhãy vọt đầy thảm họa của Mao. Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, dù ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi lay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến. Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bở ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước. Trần Trung Đạo Nguồn: FB Trần Trung Đạo
......

Phạm Đoan Trang: "Xin đừng quên blogger anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh"

Đầu tháng 5/2014, blogger Anh Ba Sàm, tức ông Nguyễn Hữu Vinh, bị cơ quan an ninh Việt Nam bắt giữ và bị cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ Luật Hình sự. Vụ bắt giữ nhân vật truyền thông nổi tiếng bậc nhất trong giới blogger Việt Nam - rơi đúng vào ít ngày sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan trên khu vực thềm lục địa Việt Nam – dường như  có xu hướng chìm vào quên lãng. Blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) / www.rsf.org Trả lời RFI hôm nay, luật sư Hà Huy Sơn – một trong ba người bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh - cho biết tình trạng sức khỏe của thân chủ ông tương đối ổn định, "nhưng không được tốt so với thời gian trước". Hôm thứ Năm 17/07 vừa qua, đã diễn ra phiên hỏi cung lần thứ 6 với sự có mặt của luật sư. Hai luật sư cùng bảo vệ ông Nguyễn Hữu Vinh là luật sư Nguyễn Minh Long (đoàn Luật sư Hà Nội) và luật sư Trịnh Minh Tân (đoàn luật sư Sài Gòn). Ông Nguyễn Hữu Vinh, 58 tuổi, bị bắt ngày 05/05/2014, cùng với người cộng sự, bà Nguyễn Thị Minh Thúy, 34 tuổi. Luật sư cho biết, theo luật Việt Nam, cơ quan điều tra có quyền tạm giữ người bị bắt để điều tra theo điều 258 trong vòng ba tháng (thời gian bị tạm giữ có thể được triển hạn). Điều 258 Bộ Luật Hình sự Việt Nam quy định về tội "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước" thường xuyên bị giới bảo vệ nhân quyền trong nước và quốc tế lên án như một công cụ mà chính quyền sử dụng để đàn áp những người có tiếng nói độc lập với chính quyền. Trong khuôn khổ Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR), ngày 20/06/2014, tại Genève, chính phủ Việt Nam thông báo chấp thuận 182 khuyến nghị về cải thiện nhân quyền của các nước, trong đó có đề nghị 156 (của Úc) và 157 (của Canada) về sửa đổi các điều 79, 88 và 258 Luật Hình sự « để bảo đảm tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam, bao gồm nghĩa vụ theo Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị ». Để chuyển đến quý thính giả thông tin về vụ án, về những hoạt động chủ yếu của blogger Anh Ba Sàm và những phản ứng của dư luận trong và ngoài nước, RFI đặt câu hỏi với nhà báo Phạm Đoan Trang, một người từng làm việc nhiều năm trong nước, hiện đang vận động cho nhân quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ. RFI : Trước hết, xin nhà báo Phạm Đoan Trang cho biết nhận định chung của chị về vụ blogger Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh bị bắt. Phạm Đoan Trang : Cũng như các vụ bắt tương tự, vụ bắt nào đối với những người bất đồng chính kiến hay những người có hoạt động ủng hộ dân chủ, các blogger có khuynh hướng hoạt động nhân quyền… luôn luôn gây tranh cãi. Bao giờ cũng có một bộ phận dư luận cho rằng, những người đó là « sai pháp luật », bộ phận khác cho rằng những người đó là « con bài của chính quyền », « con bài trong một cuộc đấu tranh phe phái » nào đấy, « đấu tranh nội bộ nào đấy », đến khi không dùng đến nữa thì họ bị bắt…   Với quan điểm của tôi, bất cứ cuộc bắt người nào mà vi phạm quyền cơ bản của con người, của công dân, đều đáng lên án cả, không cần biết người đó là của phe phái nào, không cần biết là người đó có mục đích gì trong việc thể hiện quyền tự do ngôn luận của họ. Hơn nữa, việc Anh Ba Sàm bị bắt, đối với tôi, còn nghiêm trọng hơn các vụ khác, hơn tất cả các vụ bắt các blogger khác từ trước đến nay, bởi vì, theo quan điểm cá nhân của tôi, Anh Ba Sàm gần như là một biểu tượng của cuộc đấu tranh của các blogger vì quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt. Do đó, việc bắt anh ấy gần như là một đòn đánh trực tiếp thẳng cánh, gọi là không kiêng nể gì cả, của chính quyền vào giới blogger, vào quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do quan điểm của công dân Việt Nam, của người dân Việt Nam. RFI : Vì sao chị lại coi Anh Ba Sàm là biểu tượng của cuộc đấu tranh vì tự do ngôn luận ở Việt Nam ? Phạm Đoan Trang : Khi tôi nói về Anh Ba Sàm, tôi nghĩ rằng ý kiến của tôi không khỏi gây tranh cãi, tuy nhiên tôi cũng sẽ cố gắng khách quan hết sức có thể. Thứ nhất là, khi mạng xã hội vào Việt Nam năm 2005, đó là lần đầu tiên trong lịch sử xuất bản ở Việt Nam, người dân Việt Nam mới biết đến khái niệm gọi là « mạng xã hội », một diễn đàn tương đối tự do để người ta có thể bày tỏ được quan điểm của mình, mà không sợ bị hậu quả gì sau đó. Trước đó, internet đã vào Việt Nam từ năm 1997, nhưng tôi nghĩ rằng, cái văn hóa Diễn đàn/Forum vẫn không kích thích cái quyền tự do biểu đạt mạnh bằng mạng xã hội. Bởi vì mạng xã hội là nơi chúng ta có thể tự xuất bản, không cần phải chờ người khác xuất bản hộ. Yahoo, blog vào Việt Nam năm 2005 thì được hưởng ứng rất nồng nhiệt, thì đến năm 2007, Anh Ba Sàm đã có blog và đã bắt đầu nổi tiếng rồi. Anh ấy thành lập blog Ba Sàm vào ngày 09/09/2007, tức là trước cả thời điểm Câu lạc bộ Nhà báo tự do của anh Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) được thành lập. Tôi không muốn so sánh hoạt động của blog Anh Ba Sàm cũng như các trang blog khác, bởi vì, đối với tôi, tất cả đều là « báo chí công dân », đều là góp phần vào thúc đẩy quyền tự do thông tin, thúc đẩy chuyện minh bạch thông tin trong người dân Việt Nam. Nhưng có thể so sánh về mặt văn hóa chẳng hạn, về văn hóa của độc giả, tôi thấy blog của Anh Ba Sàm phù hợp hơn với dân chúng miền Bắc, hay nói đúng hơn những người sống với chế độ cộng sản lâu hơn, (họ) sợ hãi hơn, quy phục hơn. Ở phía Bắc, người ta sợ hơn, và nếu quy phục cũng quy phục hơn, cái thái độ vô cảm, sợ hãi, thái độ thần phục ở phía Bắc cũng nặng hơn, thái độ thân chính quyền cũng nặng hơn. Ngoài Bắc, người ta hay nói « gần lửa rát mặt », gần trung ương thì khiếp sợ hơn là ở xa. Chính vì thế, blog Anh Ba Sàm ngay từ đầu đã chọn một cách tiếp cận với độc giả một cách bình dân và ở mức họ chấp nhận được, tức là họ không quá sốc trước các thông tin Anh Ba Sàm đưa ra. Anh Ba Sàm ngay từ đầu không chủ trương chửi chính quyền một cách gọi là tát nước vào mặt, không gọi người ta là « cộng sản bán nước », « tay sai Tàu » hay « vẹm nô », « cộng nô »…, tức là ở mức chấp nhận được. Giới chấp nhận được có thể là những người quan tâm đến chính trị, nhưng ban đầu họ còn sợ, hoặc những người chưa có kinh nghiệm gì cả. Tôi thấy độc giả của Anh Ba Sàm có cả sinh viên, có cả thanh niên, có cả cựu chiến binh, tầng lớp cán bộ về hưu, tầng lớp học giả, trí thức, các chuyên gia… Nói chung các tiếp cận của anh ấy nó nhẹ nhàng hơn, thuyết phục hơn, không gây sốc cho họ. Từ đó, anh ấy giúp họ hé màn thông tin, các thông tin mà chính quyền không thích người dân được biết, hoặc biết mà không hiểu gì, không hiểu cần phải nghĩ thế nào… Tôi rất muốn nhấn mạnh điểm này vì, thực sự mà nói, độc giả Việt Nam nói chung khả năng đọc hiểu, khả năng cảm nhận, hay nói rộng hơn là khả năng tư duy, phản biện bị phá hỏng khá nhiều. Họ thậm chí không biết rằng chính quyền có thể sai, Nhà nước có thể sai. Đến khi thấy có những chính sách quá bất hợp lý. Thí dụ như chuyện năm 2007, 2008, thì có chính sách là người nào vòng ngực dưới 0,72m thì không được cấp bằng lái xe máy. Điều này quá là vô lý, nhưng mà không phải người dân nào cũng hiểu được điều đó, họ ngờ ngợ, không biết nên nghĩ thế nào. Những lúc đó là khi những nhà báo công dân như Anh Ba Sàm lên tiếng. Họ, cụ thể như Anh Ba Sàm bình luận rất dí dỏm, tôi chỉ nhớ là các bình luận rất gần gũi, hài hước và giúp độc giả định hình quan điểm một cách gọi là gần với chân lý nhất, gần với thực tiễn đời sống nhất và nói chung là hợp lý nhất. Tất nhiên, cũng có những lúc anh ấy định hướng, làm truyền thông sai, không hợp lý, nhưng trường hợp đó ít hơn những trường hợp đúng. Trường hợp khá là rõ ràng là cách đây 2 năm khi phong trào Con đường Việt Nam mới bắt đầu thành lập, Anh Ba Sàm là một trong những người phản ứng dữ dội nhất. Nhưng sau đó hai năm, phong trào Con đường Việt Nam đã thể hiện họ không phải là « chim mồi », không phải là một phong trào do chính quyền lập ra để bẫy dân. Về điểm đó, Anh Ba Sàm đã định hướng sai. RFI : Giai đoạn Anh Ba Sàm vừa làm trang điểm tin, bình luận… bắt đầu từ năm 2007 kéo dài cho đến thời gian gần đây. Trước khi bị bắt, dường như Anh Ba Sàm có mở thêm một hai trang nữa, đặc biệt là trang Chép Sử Việt. Xin chị cho biết một đôi nét. Phạm Đoan Trang : Trước khi có trang Chép Sử Việt, Anh Ba Sàm có trang Việt sử ký, sau đó trang này bị hacker đánh sập mất, theo tôi hiểu, anh ấy chuyển sang Chép Sử Việt. Tôi thấy rằng trang Chép Sử Việt đã chạm vào một điểm mà chính quyền ghét nhất. Đó là « chuyện bí mật cung đình ». Đó là một điểm nữa tạo nên sự khác biệt. với nhiều blogger khác. Anh Ba Sàm là thành phần chúng ta hay gọi là thành phần « con ông cháu cha », hay « thái tử đảng ». Cha của anh ấy nguyên là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô. Đối với người cộng sản, « bí mật » là sức mạnh của họ, cho nên họ đặc biệt là kỵ và ghét những người nào lộ bí mật của họ ra ngoài. Ngay từ thế hệ cộng sản tiền bối, như ông Phạm Văn Đồng hay ông Võ Nguyên Giáp…, cho dù cuộc đời họ có sóng gió thế nào, họ có trải qua kỷ niệm cay đắng với đồng đội, họ luôn luôn im lặng. Chúng ta không biết thực chất ông Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Võ Nguyên nghĩ gì, phản ứng như thế nào khi bị điều đi làm Trưởng ban Sinh đẻ có kế hoạch. Cụ luôn giữ bí mật. RFI : Nếu đọc lại một số bài viết được cho là của Anh Ba Sàm ngay trước khi bị bắt, đơn cử như « Có thể Bác Hồ và Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam sẽ bị Trung Quốc kiện vì ''chôm'' bài hát Kết đoàn » (loạt bài 3 kỳ từ ngày 02 đến 05/05) hay bài « Đại biểu Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri » hay « Giáo hoàng ban phước cho con chiên » ? (bài ngày 04/04) chẳng hạn. Điều mà gọi là « bí mật » trên thực tế phải chăng là nhìn ra những gì mà người quan sát bình thường không thấy được, và nói với một giọng điệu ít người có, giọng điệu mang tính giễu cợt hay là châm chọc, châm biếm thẳng các lãnh đạo cao cấp nhất… như chị vừa cho biết. Phạm Đoan Trang : Tôi cũng nghĩ như vậy : đã tiết lộ « bí mật », mà lại còn thêm tính hài hước vào đây, thì đảng Cộng sản không thể chịu nổi. Nhìn chung, họ ghét những người moi « bí mật » của họ ra và chưa kể còn biết cách truyền tải những bí mật đến với công chúng nữa. RFI : Ở Việt Nam, những gì được gọi là các thông tin mật và những gì được coi là « mật » được đăng tải trên do trang blog Anh Ba Sàm ? Phạm Đoan Trang : Đó là tất cả những thông tin nào mà không có trên mặt báo (chính thức). Ví dụ như chuyện Ban Tuyên giáo chỉ đạo, sau vụ chìm tàu ở Hạ Long, tháng 2/2010 hay 2011. Sau vụ này, Ban Tuyên giáo chỉ đạo không đưa đậm, không đưa về vụ đó nữa, sợ ảnh hưởng đến Vịnh Hạ Long. Bản thân « tin » đó chẳng báo nào đưa cả. Không báo nào dám đưa, ví dụ « hôm nay Ban Tuyên giáo chỉ đạo chúng tôi » như vậy. Không báo nào đưa, nhưng Anh Ba Sàm đưa như thế. Đó là chuyện hậu trường của báo chí. Rồi quá trình hợp tác ra quyết định, chính sách của các quan, rồi quá trình các cuộc họp…, có phần thông tin công khai, có phần không, thì anh ấy thường (mang đến cho công luận ?) các phần "không công khai", không đưa lên mặt báo (chính thức) được. Ngoài ra « bí mật » còn là thái độ, hành xử của quan chức nào đấy. Những bài đó, chẳng báo nào đưa. Chúng ta thấy, kể cả chuyện ông quan chức này chỉ đạo cái này, ông kia cái kia…, được tin ông ấy nhảy dựng lên, la lối chẳng hạn… Không bao giờ chúng ta biết được đời thường hay đầu óc các quan chức ở ngoài (thực chất - ndr) như thế nào. Anh Ba Sàm cũng công khai hết những cái đó. Thực ra những điều đó chẳng có gì bí mật đối với một nước có nền báo chí bình thường, còn ở ta nó khác. Phải có một lớp hào quang bao xung quanh, quá trình hoạch định chính sách phải bí mật, nhất là phải tạo cảm giác khó lắm, phức tạp lắm, đòi hỏi những bộ óc ghê gớm lắm… Nhìn chung họ ghét những người moi « bí mật » của họ ra, rồi lại biết cách truyền tải « bí mật » ấy đến công chúng nữa. Nếu như không phải là Anh Ba Sàm, mà là một người khác may mắn lấy được những thông tin gọi là « bí mật cung đình » như vậy, chưa chắc họ đã biết cách truyền đạt đến công chúng, chưa chắc họ đã biết cách gọi là diễn giải nó, bình luận nó, đưa đến công chúng để người dân hiểu được, để định hình được quan điểm… Anh Ba Sàm rất thông minh, rất nhiều ý tưởng, đấy chính là điều khiến blogger này trở thành rất nguy hiểm đối với chính quyền. Tôi nói thế này, có thể là so sánh làm không vừa lòng nhiều người, nhưng tôi nghĩ rằng chính quyền sẽ không sợ một blogger « chửi đổng », cứ lên mạng « chửi Đảng, chửi Nhà nước »…, họ không sợ bằng một blogger thông minh, hài hước, biết cách kể chuyện, biết cách truyền tải thông tin đến độc giả, và từ việc đó, lại biết cách kết nối với độc giả nữa, có khả năng kết nối trước cả khi có facebook. Với tất cả những cái đó, Anh Ba Sàm trở nên « nguy hiểm » hơn so với các blogger khác trong mắt chính quyền.   Họ ý thức được điều « bí mật » là đoàn kết và sức mạnh của Đảng. Anh Ba Sàm, con của một công thần, lại tiết lộ những chuyện đó. Tiết lộ những chuyện đó là chạm vào « tử huyệt », chạm vào điểm mà đảng Cộng sản ghét nhất, nên họ phải bắt sớm. Chúng ta có thể tự hỏi, tại sao bao nhiêu năm nay anh ấy làm việc bình luận, điểm tin, các bình luận ngày càng sắc hơn, mà không sao cả, tôi nghĩ rằng chính bởi vì anh ấy chưa đụng đến các « tử huyệt » kia. Ngoài ra tôi có một ý, mà nhiều người nói, nhưng chưa kiểm chứng được : Anh Ba Sàm bị bắt chỉ ba ngày sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan 981 (ngày 02/05/2014) và vài ngày trước cuộc biểu tình lớn (11/05/2014). Có người cho rằng việc bắt Anh Ba Sàm là để ngăn chặn trước phe chống Trung Quốc trong chính quyền và tâm lý chống Trung Quốc trong người dân, bởi vì, theo tôi biết, Anh Ba Sàm là người có tinh thần dân tộc chủ nghĩa rất mạnh, một người chủ trương dùng lòng yêu nước chống Trung Cộng. Suy đoán như vậy tôi nghĩ cũng có thể có lý. RFI : Blogger Anh Ba Sàm dù được coi là « lề trái », tức truyền thông nằm ngoài Nhà nước, nhưng dường như quan hệ của blogger này với giới báo chí của truyền thông Nhà nước không gặp trở ngại ?   Phạm Đoan Trang : Đó cũng là một đặc điểm thú vị của Anh Ba Sàm, đó là anh ấy không chủ trương chống lại « lề phải ». Tôi cũng muốn nhấn mạnh điều này. Bởi vì các vị biết, người cộng sản ý thức rất rõ sức mạnh của thông tin và sức mạnh của sự bí mật. Nói cách khác, bí mật tạo nên quyền lực của họ. Vì vậy cho nên họ quản lý rất chặt. Họ quản lý thông tin theo cách là chỉ có những đối tượng nhất định mới có được một số thông tin nào đó, chỉ có tầng lớp cao nhất mới nắm được thông tin đầy đủ nhất. Thông tin sẽ được rót xuống dưới theo hướng ít dần đi. Trong xã hội có một lực lượng có được tương đối thông tin so với các thành phần khác, đó là nhà báo. Ngay trong giới báo chí cũng vậy, họ cũng quản lý theo lối là nhà báo nào càng thân chính quyền, và có khả năng làm công cụ tốt cho họ thì có được đặc quyền đặc lợi, và có thông tin. Còn những thành phần đã mang tính « chống đối », mang tính « lề trái », như kiểu tôi chẳng hạn, thì rất khó có thông tin. Luôn luôn ở cấp dưới, không bao giờ được dự những hội nghị quan trọng, được tiếp cận với những cuộc gặp quan trọng, để có được những thông tin « mật ». Anh Ba Sàm chắc cũng nhìn được điểm đó và thấy rằng, nền báo chí công dân của chúng ta, của các blogger không thể nào chuyên nghiệp được, hấp dẫn được, hay được, nếu không dựa trên nền tảng sự thật và thông tin. Nghĩa là nếu không có thông tin từ chính quyền, chính thống, thì nó sẽ mãi mãi là một thứ báo chí chỉ có « chửi đổng » và gọi là « tự sướng » với nhau, chứ không tiếp cận được người dân nhiều bằng báo chí chính thống. Hiểu được điều đó cho nên anh ấy rất chú trọng quan hệ với giới báo chí chính thống, báo chí « lề phải ». Anh ấy không chống lại họ ngay từ đầu. Ví dụ, mọi người có thể để ý là anh ấy không bao giờ chửi « lề phải » là lũ « lưỡi gỗ », gộp hết vào một bọn, « lũ vẹt », hay « báo lá cải », những từ xúc phạm họ. Mà anh luôn lọc tìm trong nền báo chí « lề phải » ấy, có những gương mặt nào, cá nhân nào, hoặc tờ báo nào có xu hướng tiến bộ, ủng hộ dân chủ, thì anh ấy tìm cách quan hệ tốt với họ để có thông tin. Tôi phải nói thành thật là, giới báo chí lề phải của chúng tôi rất nhiều người quý Anh Ba Sàm. Và trong chúng tôi, có những người bí mật hợp tác với anh ấy, và một điều hay nữa là anh ấy bảo mật điều đó, bảo mật thông tin cho chúng tôi, đúng theo nguyên tắc bảo vệ nguồn tin. Nên Anh Ba Sàm được nhiều nhà báo rất tin cậy. Tôi nghĩ rằng bây giờ, khi Anh Ba Sàm bị bắt rồi, thì chúng ta không còn một blog nào ở cái mức độ như vậy được nữa, ở mức độ có thể làm cầu nối được nữa. Mà cũng không còn blogger nào có nhiều thông tin « cơ mật » như Anh Ba Sàm được nữa. Có thể họ có, nhưng họ không biết cách làm truyền thông, không lan truyền được các thông tin đó đến cộng đồng như Anh Ba Sàm nữa. Anh Ba Sàm bị bắt là một tổn thất, một mất mát lớn cho cộng đồng blog Việt Nam, nền dân báo của Việt Nam. RFI : Xin chị cho biết mọi người, những blogger, những người quan tâm đến truyền thông, cụ thể ở hải ngoại, phản ứng như thế nào về vụ Anh Ba Sàm bị bắt. Phạm Đoan Trang : Đây cũng là một điểm mà tôi thấy có sự khác biệt lớn giữa người trong nước và người Việt hải ngoại. Ở ngoài này, người ta không biết Anh Ba Sàm nhiều. Có thể vì cách tiếp cận của Anh Ba Sàm là bình dân, nhẹ nhàng và không quá gay gắt, được người trong nước hưởng ứng, đặc biệt là phía Bắc, thì phía Nam và phía hải ngoại không chấp nhận được kiểu đó chăng ? Họ cho rằng đó là kiểu "hai mang", "mập mờ", "không quyết liệt", "không dứt khoát", "không thẳng thắn". Có thể vậy ?! Ngoài này, tôi thấy người ta không biết anh ấy nhiều, không ủng hộ nhiều, đặc biệt là quan điểm (nghi ngờ) chắc lại là thành phần « thái tử », con ông cháu cha ! Quan điểm này rất nặng. Người ta không tin rằng những thành phần như vậy có thể tốt được, có thể tiến bộ được. Tôi nói như vậy không phải là về tất cả cộng đồng người Việt hải ngoại, nhưng một số gặp gỡ tạo cho tôi một ấn tượng chung như vậy. Và tôi cũng chưa biết làm thế nào để (anh ấy) không bị rơi vào quên lãng. Nếu tất cả mọi người không làm gì cả, để nó rơi vào quên lãng, thì tôi nghĩ rằng bản án sẽ là khá nặng với Anh Ba Sàm. Với Anh Ba Sàm, nếu chuyện đó xảy ra, thì tôi nghĩ khá là bất công cho anh ấy, tội nghiệp cho Anh Ba Sàm, vì đó là một người đóng góp quá nhiều cho việc công khai hóa, tự do hóa thông tin ở Việt Nam, nâng cao dân trí. Như anh ấy nói « khai dân trí, phá vòng nô lệ ». Anh ấy đóng góp rất nhiều cho quá trình đó, mà nếu mà lúc anh ấy lâm nạn mà không được cứu giúp, thì tôi nghĩ là một điều bất công và có phần bất nhẫn với anh ấy. Nếu được, mong quý vị thính giả, cũng như Đài, nỗ lực giúp đỡ trong trường hợp Anh Ba Sàm. Xin hãy làm những việc mà trong nước không thể làm được. Rất là mong muốn quý vị hãy tìm hiểu nhiều hơn về trường hợp blogger Anh Ba Sàm, hãy cố gắng nỗ lực, giúp đỡ, gây tiếng nói để Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh sớm được trả tự do. RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Đoan Trang. Nguồn: viet.rfi.fr
......

Bài học từ Hiệp định Geneva - 20-7-1954

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt. Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn VNDCCH tại buổi ký Hiệp định Genève 1954. Photo courtesy of wikipedia   TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam? Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết: Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó. Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam. Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’. Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp - Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17. Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau. Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó. Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông? Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi. Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý. Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ. Bài học kinh nghiệm Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì? Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó! Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra. Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương. nguồn: rfa.org/vietnamese/
......

Pages