CHÚNG TA SẼ CHIẾN THẮNG BỞI VÌ CHÚNG TA KHÔNG HIỂU CHÍNH TRỊ

"Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chúng ta không hiểu chính trị. Chúng ta sẽ giành chiến thắng bởi vì chúng ta không chơi trò chơi bẩn thỉu của họ. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chúng ta không hề có một lịch trình cụ thể. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì những giọt nước mắt chảy ra cũng chính từ tâm hồn chúng ta. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chúng ta có những giấc mơ. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi chúng ta sẵn sàng đứng lên vì giấc mơ của mình". - Wael Ghonim, nhân viên điều hành của Google, người đã khơi mào cuộc cách mạng dân chủ tài Ai Cập. Wael Ghonim   WAEL GHONIM: CÁCH MẠNG AI CẬP DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI TRONG CUỘC Đây là cuộc cách mạng 2.0. Không ai là anh hùng cả, không ai là một anh hùng bởi tất cả mọi người đều là anh hùng. Chúng ta đã làm được một điều gì đó. Chúng ta đều sử dụng Wikipedia, bạn có biết rằng Wikipedia là mà tất cả mọi người cùng nhau đóng góp nội dung và cuối chúng ta đã làm được một bộ Bách khoa toàn thư lớn nhất trên thế giới. Bạn thấy đấy từ một ý tưởng nghe có vẻ điên rồ, bạn có bách khoa toàn thư lớn nhất thế giới.   Và trong cuộc cách mạng Ai Cập, cuộc cách mạng 2.0, tất cả mọi người đều đã đóng góp một cái gì đó, dù nhỏ hay lớn. Chúng ta đều đã đóng góp một cái gì đó, để tạo nên một câu chuyện thần kỳ nhất trong lịch sử con người, đó chính là một cuộc Cách mạng. Thật xúc động khi thấy tất cả những người Ai Cập thay đổi một cách hoàn toàn. Thực tế, Ai Cập trong 30 năm qua đang xuống dốc và vẫn đang xuống dốc. Mọi thứ trở nên tồi tệ, mọi thứ đều sai cả. Chúng tôi chỉ được xếp hạng cao khi đề cập đến đói nghèo, tham nhũng, thiếu tự do ngôn luận, thiếu những hoạt động chính trị. Đó là những thành quả của cái chế độ "vĩ đại" của chúng ta. Nhưng dù thế không hề có điều gì xảy ra cả. Không phải bởi người dân sống hạnh phúc hay họ đã không cảm thấy thất vọng. Thực ra, người ta đã thất vọng cực độ. Nhưng lý do tại sao ai cũng im lặng là cái mà tôi gọi là rào cản tâm lý sợ hãi. Mọi người đều sợ cả. Không phải tất cả, thực sự có một số người Ai Cập dũng cảm mà tôi phải cảm ơn vì sự quả cảm của họ đã dám phản kháng khi vài trăm người bị đánh đập và bắt bớ. Tuy nhiên, trên thực ra, phần đông vẫn sợ hãi. Người ta không muốn bị rắc rối phiền toái.   Kẻ độc tài không thể tồn tại nếu không có vũ lực. Chúng muốn mọi người sống trong sợ hãi. Và cái rào cản tâm lý sợ hãi đó đã có hiệu quả trong nhiều năm trời, và Internet xuất hiện, công nghệ, BlackBerry, tin nhắn SMS... đã giúp kết nối chúng tôi lại với nhau, các nền tảng chia sẻ thông tin như YouTube, Twitter, Facebook đã giúp chúng tôi rất nhiều bởi vì về cơ bản nó đem lại cho chúng tôi ấn tượng rằng, "Trời ạ, tôi không đơn độc". Có rất nhiều người đã thất vọng. Có rất nhiều người đang thất vọng. Có rất nhiều người cùng chia sẻ một giấc mơ. Có rất nhiều người ưu tư đến tự do của họ. Họ có thể có cuộc sống tốt nhất trên thế giới. Họ đang sống trong hạnh phúc. Họ đang sống trong biệt thự của mình. Họ hạnh phúc. Họ không có rắc rối gì. Nhưng họ luôn cảm thấy nỗi đau của người Ai Cập. Rất nhiều người trong chúng tôi không thực sự hạnh phúc khi họ xem một đoạn video về một người đàn ông Ai Cập đang tìm miếng ăn trong rác rưởi, trong khi nhiều người khác đang ăn cắp hàng tỷ đồng Ai Cập từ tài sản quốc gia. Internet đã đóng một vai trò quan trọng, giúp mọi người này nói lên suy nghĩ của mình, để cộng tác với nhau, cùng bắt đầu suy nghĩ với nhau. Đó là cuộc vận động mang tính giáo dục. Khaled Saeed đã bị giết chết vào tháng Sáu năm 2010. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh này. Tôi vẫn còn nhớ từng chi tiết của bức ảnh đó. Bức ảnh đó thật kinh khủng. Anh ấy bị tra tấn, bị hành hình cho đến chết. Nhưng rồi câu trả lời của chính quyền là gì? Anh bị đánh chết một cách dã man. Câu trả lời của chính quyền là: "Hắn ta là một tên tội phạm. Hắn đã được giải thoát khỏi cuộc đời xấu xa của mình". Nhưng người dân không quan tâm, họ không tin vào chính quyền nữa. Nhờ có Internet, sự thật đã chiế thắng và tất cả mọi người đều biết sự thật đó.   Và tất cả mọi người bắt đầu nhận thấy rằng "anh chàng này có thể là người anh em của họ". Anh ta là một gã trung lưu. Bức ảnh của anh ta được chúng tôi nhớ mãi. Một trang Web đã được tạo ra và một người điều hành dấu mặt đã mời mọi người tham gia vào trang này, và không hề có kế hoạch gì cả. "Chúng ta dự định làm gì?" "Tôi không biết." Chỉ trong vài ngày, hàng chục ngàn người dân đã có mặt ở đó - những người Ai Cập đầy giận dữ, họ đòi hỏi Bộ Nội vụ. "Đủ rồi" "mang những kẻ đã giết người đàn ông này ra trước công lý. " Nhưng tất nhiên, chính quyền không hề lắng nghe. Thật là một câu chuyện đầy thú vị - khi mà mọi người bắt đầu cảm nhận về quyền làm chủ. Mọi người đều là chủ của trang Web này. Mọi người bắt đầu đóng góp ý tưởng. Thực tế, một trong những ý tưởng nực cười nhất, đó là, "Này , chúng ta hãy đứng im lặng. Chúng ta hãy cùng nhau bước ra, đối diện với biển, quay lưng với con đường, mặc áo đen, đứng lặng yên trong một giờ, không làm gì cả và sau đó chỉ đơn giản rời đi, trở về nhà. "Đối với một số người, điều đó giống như là, "Ồ, đứng im lặng. Và kế tiếp là những rung động nhẹ". Mọi người đã cười nhạo ý tưởng đó. Nhưng thực sự khi mọi người xuống đường, lần đầu tiên đã có hàng ngàn người ở Alexandria - cảm giác thật thú vị, thật tuyệt vời. Bởi vì nó kết nối mọi người từ thế giới ảo, đem họ lại cùng nhau trong thế giới thực, chia sẻ cùng một giấc mơ, cùng một sự thất vọng, cùng một sự giận dữ, cùng một khao khát tự do. Và họ đã làm điều đó. Nhưng chế độ đã học được điều gì? Không gì cả. Họ đã tấn công những người dân. Họ đã ngược đã người dân mặc dù thực tế những người này đã rất ôn hòa - họ thậm chí không chống đối. Và mọi thứ đã tiến triển cho đến khi cuộc cách mạng Tunisia nổ ra.   Trang Web đó lại, một lần nữa, được điều hành bởi những người này. Thực tế, công việc quản trị ẩn danh là thu thập những ý tưởng, giúp mọi người bỏ phiếu và bảo họ nên làm cái gì. Mọi người đã chụp ảnh, có người đã báo cáo những vi phạm nhân quyền ở Ai Cập, mọi người đã nêu ra những ý tưởng, họ đã thực sự bỏ phiếu lựa chọn những ý tưởng đó, rồi họ cùng nhau thực hiện những ý tưởng này, họ làm ra những video clip. Mọi việc được thực hiện bởi người dân và cho chính người dân, đó là sức mạnh của Internet. Không hề có ai là người lãnh đạo, người lãnh đạo là chính mỗi cá nhân trên trang Web đó. Trải nghiệm từ Tunisia, như Amir đã nói, đã thức tỉnh tất cả chúng tôi, chỉ cho chúng ta thấy rằng có một con đường. Vâng, chúng tôi có thể. Chúng tôi có thể làm điều đó. Chúng tôi có những vấn đề giống nhau, chúng tôi có thể chỉ cần đổ ra đường phố. Và khi tôi nhìn thấy trên đường phố ngày 25, tôi đã lùi lại và nói: "Ai Cập trước ngày 25 sẽ không thể nào là Ai Cập sau ngày 25. Cuộc cách mạng đang diễn ra. Đây không phải là sự kết thúc, đây là khởi đầu của sự kết thúc". Tôi đã bị bắt giữ vào đêm 27. Cảm ơn Chúa tôi đã có thể thông báo địa điểm và tất cả mọi thứ. Nhưng họ giam tôi. Và tôi sẽ không nói về những gì tôi đã trải qua, bởi bây giời không phải là để nói về tôi. Tôi đã bị giam trong 12 ngày, bị bịt mắt, còng tay. Và tôi đã không thực sự nghe thấy bất cứ điều gì. Tôi không biết bất cứ điều gì. Tôi không được phép nói chuyện với bất cứ ai. Và tôi được thả ra. Ngày hôm sau tôi đã ở Tahrir. Nghiêm túc mà nói, với sự thay đổi tôi có thể nhận thấy tại quảng trường này, tôi nghĩ rằng nó là 12 năm. Tôi đã không hề có trong đầu hình ảnh về người Ai Cập, người Ai Cập thật đáng kinh ngạc. Sự sợ hãi không còn nữa. Giờ là sự mạnh mẽ. Mọi người tràn đầy nội lực. Thật tuyệt vời thấy mọi người tràn đầy sức sống như thế và giờ đang lên tiếng đòi quyền của họ. Một sự trái ngược hoàn toàn. Sự cực đoan đã trở thành khoan dung. Ai có thể tưởng tượng được trước ngày 25, nếu tôi nói với bạn rằng hàng trăm ngàn người Thiên chúa giáo chuẩn bị cầu nguyện và hàng chục ngàn người Hồi giáo sẵn sàng bảo vệ họ, và sau đó hàng trăm ngàn tín đồ Hồi giáo đang cầu nguyện và hàng chục hàng ngàn người Thei16 chúa giáo sẵn sàng bảo vệ họ - điều đó thật là kỳ lạ. Tất cả các khuôn mẫu mà nhà cầm quyền đã cố gắng áp đặt lên chúng tôi thông qua những thứ gọi là tuyên truyền của họ, hoặc thông tin đại chúng, đã bị chứng tỏ là sai lầm. Cuộc cách mạng này đã chỉ ra cho chúng tôi thấy sự ngu ngốc của chế độ đó và sức mạnh đáng kinh ngạc của những người đàn ông, phụ nữ Ai Cập. Sự đơn giản và tuyệt vời của những người này bất cứ khi nào họ có một giấc mơ.   Khi tôi nhìn thấy điều đó, tôi đã trở lại và viết trên Facebook. Và đó là một niềm tin cá nhân, bất kể những gì sắp xảy ra, bất chấp những tiểu tiết. Tôi đã nói rằng, "Chúng ta sẽ chiến thắng. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chúng ta không hiểu chính trị. Chúng ta sẽ giành chiến thắng bởi vì chúng ta không chơi trò chơi bẩn thỉu của họ. Chúng tôi sẽ giành chiến thắng bởi vì chúng tôi không hề có một lịch trình cụ thể. Chúng tôi sẽ giành chiến thắng bởi vì những giọt nước mắt chảy ra cũng chính từ tâm hồn chúng ta. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chúng ta có những giấc mơ. Chúng ta sẽ chiến thắng bởi chúng ta sẵn sàng đứng lên vì giấc mơ của mình". Và thực tế điều gì đã xảy ra. Chúng ta đã chiến thắng. Và đó là không phải bởi vì bất cứ điều gì, mà bởi vì chúng ta tin vào giấc mơ của mình. Chiến thắng ở đây không phải là những sự việc cụ thể của những gì sẽ xảy ra trên chính trường. Chiến thắng ở đây là chiến thắng của phẩm giá của mỗi người Ai Cập. Thực tế, một người lái xe taxi đã nói với tôi: "Nghe này, tôi đang hít thở sự tự do. tôi cảm thấy rằng tôi có phẩm giá của mình mà tôi đã bị tước đoạt trong rất nhiều năm trời. " Đối với tôi, đó là chiến thắng, bất kể tất cả các chi tiết. Điều cuối cùng tôi muốn nói với bạn là một câu nói mà tôi xác tín, mà người Ai Cập đã được chứng minh là đúng, rằng sức mạnh của nhân dân vĩ đại hơn nhiều so với những gì mà kẻ nắm giữ quyền lực đang có. https://www.ted.com/talks/wael_ghonim_inside_the_egyptian_revolution https://www.youtube.com/watch?v=hpt1oUlYdAk#t=519
......

Bỏ Đảng … tôi sẽ làm gì?

"Có thể nói, ngày tôi vào Đảng với một niềm tin và tự hào mãnh liệt bao nhiêu thì ngày hôm nay, tôi chán ghét và khinh bỉ Đảng viên, khinh bỉ tổ chức Đảng bấy nhiêu, mà trớ trêu thay, tôi khinh bỉ cái mà tôi vẫn còn vấn vít", "Đảng là một cỗ máy giả dối khổng lồ, hàng ngày, những vị chức sắc Đảng có thể nói ra rả về Chủ nghĩa Mác Lênin, về tư tưởng Hồ Chí Minh, về cái gọi là chí công, vô tư nhưng chiều về vẫn ăn nhậu phủ phê, vẫn chơi gái, tiền hối lộ vẫn nhận. Đến mức, bây giờ, không còn ai bất ngờ khi nghe thông tin quan này, tướng tá kia giàu sụ. Giả dối nhất đối với từng Đảng viên Cộng sản là hàng năm, vào kì nhận xét cuối năm, ai cũng “lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định theo chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Trong khi đó, ai cũng biết thừa từ ông Hồ đến ông Mao đều là thứ dâm tặc, Lê Duẩn cướp vợ người, Phạm Văn Đồng bán nước v.v và v.v...",   Đó là những lời đầy cảm xúc mà anh Trần Chấn đã viết tại trang Dân Luận khi phản hồi bài "Đảng chai sạn khiến tôi nhiều hư hỏng" của PV Quốc Doanh.   ... và Trần Chấn đổ quạu:"Đéo mẹ. Giả dối không chịu được!" Là một người đảng viên sinh sau 1975, tuổi dưới 40, sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản, sau đó gia nhập Đảng và nay đã có hơn 10 năm tuổi Đảng, tự cho mình là một đảng viên ưu tú, anh Trần Chấn ngày hôm nay đã uất ức viết lên những lời như trên. Trần Chấn đã ra đời sau cả lúc Dương Thu Hương ngồi xuống lề đường Sài Gòn bật khóc năm 1975 khi khám phá ra sự giả dối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, và thấy mình bị lừa. Thật tội nghiệp! Giá mà khi lớn lên Trần Chấn gặp được Dương Thu Hương thì chắc chắn đã không xin vào Đảng và khỏi phải ưu tư trắc trở như ngày hôm nay. Trần Chấn ví mình như một người "đang ngụp lặn trong dòng nước bẩn, cố bám lấy cái thân gỗ mục nát chắc chắn sẽ tan rã vì không biết cái chờ đợi chúng tôi là gì, một chiếc phao cứu sinh hay một chiếc thuyền đầy hải tặc hoặc đơn giản hơn, một con cá sấu đói đang rình mồi?" Trong tâm trạng đó Trần Chấn nghĩ tới việc bỏ Đảng. Nhưng anh lại băn khoăn. Băn khoăn không biết sau khi bỏ Đảng thì mình sẽ ra sao, sẽ làm gì, sợ Đảng bị sốc, sợ bị cha mẹ và anh chị em chê trách, sợ hậu cộng sản sẽ bị trả thù, cho các phong trào dân chủ là "lộn xộn" chưa thuyết phục, sợ đất nước bị bất ổn, … Đọc những giòng của Trần Chấn, ta không biết còn bao nhiêu những đảng viên ĐCSVN trẻ khác nữa, mang cùng tâm trạng như Trần Chấn nhưng chưa có cơ hội hay hoàn cảnh để lên tiếng? Với bạn Trần Chấn và những người bạn trẻ đó, kinh nghiệm của những người đi trước có thể giúp trả lời một số băn khoăn chăng:   Trước tiên, bạn không nên sợ Đảng bị sốc. Trước bạn đã có nhiều người bỏ Đảng. Thời trước thì có những Trần Độ, Trần Xuân Bách, Dương Quỳnh Hoa, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Phạm Đình Trọng, … gần đây hơn có Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đắc Kiên, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Chí Đức, Đặng Chí Hùng, … . Họ là những người mà việc bỏ Đảng đáng lẽ đã phải tạo những cái sốc rất lớn. Nhưng bạn thấy đó. Khi những đảng viên nói trên bỏ Đảng, lẽ ra Đảng phải xem đó là những tiếng chuông cảnh tỉnh để biết mà cải tổ và sửa sai, nhưng Đảng chỉ đơn giản gạt họ sang một bên, thậm chí còn đàn áp trù dập họ như kẻ thù. Như vậy, bạn có thể yên trí. Chẳng bên nào bị sốc cả vì chẳng ai còn xa lạ gì với những lý do khiến đảng viên bỏ đi và các bạn sẽ không phải là người cuối cùng cất bước. Bạn cũng không nên lo ngại cha mẹ và các anh chị em bạn chê trách. Tại sao chúng ta lại sợ bị người khác chê trách khi biết mình đang theo tiếng gọi của lương tâm để làm một việc đúng? Ngược lại, chúng ta nên tin tưởng việc làm đúng của mình sẽ giúp cho người thân cuối cùng nhìn ra sự thật và cùng với mình làm những việc đúng, để đưa đất nước chúng ta sang con đường tốt đẹp hơn. Còn sống cùng nhau trong giả dối như hiện nay chỉ là cách cột chặt con cháu chúng ta và các thế hệ tương lai vào ngõ cụt tụt hậu, cả về kiến thức lẫn nhân cách, đi đâu cũng bị thế giới rẻ khinh. Và khi đủ suy nghĩ, chính chúng sẽ khinh bỉ chúng ta vì đã không dám có những chọn lựa theo lương tâm vào lúc này. Ai cũng có thể cảm thông với các hối tiếc mất quyền lợi, dù ít dù nhiều, của người đảng viên ĐCSVN cấp thấp. Nhưng nếu nhìn xa hơn vào tương lai, chúng ta sẽ thấy trong một xã hội phát triển tự do, công bằng, pháp quyền thì mức thu nhập bình thường của một người làm việc miệt mài với sức lực và trí tuệ của mình đều dễ dàng hơn hẳn loại lợi lộc nho nhỏ gắn liền với thẻ đảng viên hiện nay, mà lương tâm chúng ta không còn bị dằn vặt vì đặc quyền đặc lợi đến từ vai trò thành viên của một tổ chức bất chính, sống nhờ các thủ thuật cướp bóc những người dân cùng khổ và nạo khoét tài nguyên quốc gia. Người Việt mình có câu "của phi nghiã sẽ không bền" và thường chỉ dẫn đến "của Thiên trả Địa" mà thôi. Thật vậy, đã biết bao nhiêu lần những món tiền nho nhỏ bạn nhận được từ Đảng chỉ để cộng vào làm quà hối lộ cho các thành viên cao hơn của Đảng. Còn nỗi băn khoăn lo ngại sẽ bị trả thù trong thời hậu cộng sản thì có lẽ nó phát xuất từ sự hiểu lầm mà thôi. Việc rời bỏ một tổ chức mang nhiều tội ác với dân tộc như ĐCSVN thì tuyệt đối không phải là một việc làm sai trái để rồi bị kết tội trong thời hậu cộng sản. Suy nghĩ đó chỉ có thể là bài bản hù dọa của Ban Tuyên Giáo mà thôi. Thực tế tại nhiều nước cho thấy trong giai đoạn hậu độc tài, những kẻ có tội bị mang ra xét xử đều là những kẻ đã phạm những tội hình sự trầm trọng khi họ cầm quyền. Còn những ai từ bỏ Đảng, không thi hành những chỉ thị ác độc từ trên đưa xuống, âm thầm báo trước cho các nạn nhân trốn đi, và kêu gọi các đảng viên khác sống đúng với lương tâm, đều được dân chúng biết ơn. Trong nhiều trường hợp, những con người đầy lương tâm này còn được dân chúng bầu vào các vị trí điều hành trong nền dân chủ mới. Bạn còn ngần ngại chưa dám dấn bước theo phong trào dân chủ vì cho rằng họ "lộn xộn" ư? Trước hết, nhận xét đó không sai đâu. Nhưng đề nghị chúng ta bỏ chút thời giờ tìm hiểu về quá trình tiến đến dân chủ của nhiều quốc gia trên thế giới. Những quốc gia có nền dân chủ lâu đời như Pháp, Anh, Mỹ, … đều đã phải đi qua cái giai đoạn mà bạn gọi là "lộn xộn" đó. Rồi đến những quốc gia tại Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khác, Hung Gia Lợi, Nam Tư, … cũng đều đi qua giai đoạn đó để có những xã hội công bằng, đầy công lý và nhân quyền như hiện nay. Gần với chúng ta hơn, những quốc gia Á Châu như Nam Hàn, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan, Miến Điện, … đều đã hoặc đang đi qua giai đoạn "lộn xộn" đó. Một phần do bản chất của dân chủ, của đa nguyên. Một phần khác do người dân ở mỗi nước này cần có thời gian để làm quen với cách hành xử dân chủ. Và một phần vì tiến trình sản xuất ra những chính phủ dân chủ đúng nghĩa phải qua một số vòng lựa lọc. Ngược lại, cái gọi là ổn định của độc tài thực chất chỉ là sự ổn định giả tạo. Như bạn thấy, nó là nồi nước ngày càng sôi sục và hòn đá chận vung cứ ngày một lớn hơn ... cho tới ngày cái nồi nổ tung như tại tất cả các nước độc tài, dù là cộng sản hay không cộng sản. *** Nhưng nói gì đi nữa, cuối cùng quyết định lựa chọn vẫn hoàn toàn tùy thuộc ở bạn. Có người chọn con đường rời bỏ hẳn — rời bỏ hàng ngũ kẻ ác để đứng về phiá dân tộc. Có người chọn tiếp tục ở lại trong Đảng như 61 đảng viên kỳ cựu vừa ký tên vào lá Thư Ngỏ ngày 28/7/2014 vừa qua, để kêu gọi các đảng viên khác cùng lên tiếng đòi hỏi lãnh đạo Đảng phải công khai các hành động làm tổn hại đất nước trong quá khứ, ngưng ngay các việc ác trong hiện tại, và tháo gỡ các vòng kim cô trên đầu dân tộc để đi vào tương lai.   Khi đã bật ra tiếng lòng "chán ghét và khinh bỉ Đảng viên, khinh bỉ tổ chức Đảng" đến độ "Đéo mẹ. Giả dối không chịu được!" thì đã khá rõ bạn không còn chấp nhận ngồi yên chịu đựng nữa. Chúng ta cùng đứng lên đi, và mong có ngày được bắt tay bạn.   Nguồn: viettan.org
......

"Petrotimes và Nguyễn Như Phong là ngụy?"

(VNTB) - Petrotimes và Nguyễn Như Phong: Ai ngụy độc lập và ngụy dân tộc?   Thói thường, khi bí lối trong tranh luận, các “nhà báo mang chức năng bảo vệ” thường bám theo những lối mòn như người chết đuối vớ được cọc. Nhưng, họ không biết rằng đó là cách tự sát với môi trường thông tin hiện đại. Đó chỉ là lối mòn thường đi của những con thú ăn đêm thiếu sáng tạo mà thôi.     Ngựa quen đường cũ   Để chứng minh quyền con người, đảng CS và nhà nước Việt Nam thường đưa hiến pháp, pháp luật trưng ra đầy đủ, rồi thì thành tích xóa đói, giảm nghèo, rồi thì chiến tranh, hậu quả… Nhưng, những con số thống kê, những ví dụ, những “thành tích” được trưng dẫn nhiều khi chẳng nói lên được một điều gì về nhân quyền VN không bị chà đạp.   Để chứng minh quyền tự do tôn giáo, đảng CS và nhà nước Việt Nam trưng dẫn VN có bao nhiêu nhà thờ, bao nhiêu tôn giáo, bao nhiêu chùa được xây, bao nhiêu tín đồ và “các tôn giáo đều tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của đảng… vô thần”. Để chứng minh quyền tự do báo chí, đảng CS và nhà nước Việt Nam chứng minh rằng thì đã có bao nhiêu tờ báo, bao nhiêu đài truyền hình, bao nhiêu phóng viên... Nhưng những điều đó không nói lên được rằng người dân có được mở miệng ở đó không, nó phục vụ ai, thì hầu như ít khi họ đề cập, bởi “Báo chí là công cụ tuyên truyền của đảng”. Có lẽ đây cũng là cách duy nhất mà đảng và nhà nước Việt Nam có thể dùng để chống chế những chỉ trích về việc vi phạm các quyền con người tối thiểu theo các định chế quốc tế. Điều đó cứ lặp đi, lặp lại như con vẹt đến mức nhàm chán mà họ không thấy cái “ngụy” của mình. Họ không hiểu rằng thực chất ở trong đó là gì thì thiên hạ đều biết. Điều đáng nói, đáng nể phục ở đây là họ cứ nói, ai không nghe mặc kệ, ai phản đối cứ việc, nói đến mức chính họ cũng tưởng là thật. Và sự thật hoang tưởng đó là cái mà họ tự hào. Hai bài viết trên tờ báo do Nguyễn Như Phong làm TBT vẫn với tư duy “ngựa quen đường cũ” như thế. Bài báo viết về Hội nhà Báo VN như sau: “Hội có trên 18.000 hội viên làm việc tại 800 cơ quan báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam là tổ chức duy nhất được luật pháp, xã hội và cộng đồng quốc tế công nhận”. Có lẽ cần lưu ý điều này: Mới đây, khi đề cập về tự do tôn giáo ở VN, Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc - ông Heiner Bielefeldt - đã được VN cho biết có một số nhóm tôn giáo đã được nhà nước cấp phép, đăng ký và coi đó như một biểu hiện về quyền tự do tôn giáo ở VN (!). Tuy nhiên, ông Heiner Bielefeldt đã chỉ rõ: “Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào”. Nói cách khác, việc trưng dẫn mấy con số về đăng ký, về tổ chức được công nhận không làm rõ quyền tự do được tôn trọng, mà ngược lại chỉ càng nói lên thực trạng hạn chế quyền con người của công dân. Ngụy độc lập - Ai? Bài viết trên tờ Petrotimes do Nguyễn Như Phong làm TBT đặt tiêu đề “Ngụy độc lập”. Tuy nhiên, nội dung bài viết không nêu rõ, không chứng minh được như thế nào là “Ngụy độc lập” và ai ngụy độc lập ở đây. Thiết nghĩ vấn đề cần làm rõ là nơi này. Báo chí, bất kể là của ai, nhóm nào hoặc phe nhóm, đảng phái nào đi nữa, thì cũng cần một nền tảng cơ bản đó là Sự thật và Công lý để hành xử. Mặt khác, để hành xử được đúng tinh thần nền tảng đó, báo chí cần một vai trò độc lập nhất định để cất tiếng nói của mình mà không bị chi phối bởi lợi ích, quyền lực của một thế lực nào. Có vậy báo chí mới là một tổ chức thực sự có ích cho xã hội. Ngay cả C.Mác, ông tổ của Chủ Nghĩa Mác – Lenin mà các chế độ độc tài đang lấy làm “sợi chỉ đỏ” cũng đã viết như sau: "... muốn cho báo chí có thể hoàn thành sứ mệnh của mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài vào, cần phải thừa nhận là báo chí có những quy luật nội tại của mình". (C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập; Tập 1, tr.227). Ở đây, báo chí trong chế độ cộng sản được định nghĩa rất rõ ràng:“…là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân”. (Trích Điều 1 – Luật báo chí). Ở đây, cái “áp lực từ bên ngoài vào” cho báo chí, chính là sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, là tính đảng với báo chí. Vậy thì khi Đảng đang ngày càng hiện rõ nét là một nhóm lợi ích, chứa cả “một bầy sâu” (cụm từ của ông Trương Tấn Sang), ăn cắp, tham ô, phá hoại từ trên xuống dưới của nhân dân, chỉ để đem “Chủ nghĩa Cộng sản: Của cải tuôn ra dào dạt, hưởng theo nhu cầu” cho một số cá nhân, thì nhân dân là những nạn nhân bị trấn lột, bị móc túi, liệu có thể có tiếng nói trên các tờ báo do nó lãnh đạo hay không? Khi báo chí tự nhận là “vì nhân dân phục vụ” nhưng đã tự tước quyền của dân được lên tiếng, chỉ nhằm phục vụ một nhóm người chi phối nó, thì chính khi đó nó được gọi là “Ngụy độc lập”. Còn những tờ báo, những nhà báo dám nói lên tiếng nói của người dân, dám lên tiếng cho sự thật mà không bị phụ thuộc vào bất cứ sự lãnh đạo bất nhân nào, thì đó mới là Độc lập thật sự – thưa anh Nguyễn Như Phong. Điển hình là tờ báo Petrotimes của ngành Dầu khí do Nguyễn Như Phong làm TBT. Thử hỏi: Đã bao giờ báo này dám mở miệng nói nửa câu đến những vụ tham nhũng, ăn cắp, phá hoại ngay trong ngành Dầu khí hay chưa? Xin thưa là chưa thấy. Hay vì ngành Dầu khí “trong sạch vững mạnh” đến mức không có chuyện đó? Xin thưa là không phải, ở đó có những vụ ăn cắp, tham ô đến cả trên 50 tỷ đồng, nghĩa là hơn 2 triệu đô la Mỹ. Vậy sao tờ báo này im re? Xin thưa là chính tờ bào này đang “Ngụy độc lập”, bởi làm sao dám mở miệng khi “mắc quai” – cái quai “lãnh đạo tuyệt đối”, và nhóm lợi ích ở ngành dầu khí này lại thuộc vào độc quyền của đảng. Còn tài sản quốc dân bị ăn cắp, bị tham nhũng không phải là “nhiệm vụ” của tờ báo này. Đó là Ngụy độc lập, thưa anh Nguyễn Như Phong. Ngụy dân tộc – Ai? Lớn hơn, là câu chuyện mấy năm gần đây, lãnh hải, lãnh thổ của Tổ Quốc đã và đang bị bọn bá quyền Trung Cộng xâm lược, ở đó ngành Dầu khí chịu tổn thất rất nhiều qua những vụ cắt cáp, mời thầu trong thềm lục địa Việt Nam, khoan thăm dò trên thềm lục địa Việt Nam… Nhưng, khi đó cũng như các trang báo khác “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng”, trang Petrotimes và tờ Năng lượng mới đều nín thinh như… mọt thóc?   Thậm chí, nhà văn Phạm Viết Đào còn phát hiện ra sự hèn hạ của tờ báo này khi âm thầm sửa bài viết về Tàu Bình Minh bị Trung Cộng cắt cáp. Ở đó, không phải là Trung Cộng “cắt cáp” như ban đầu nữa mà là “gây đứt cáp”, còn những câu lên án hành động đó bị cắt bỏ. Như vậy, đó là hành động nô lệ ngoại bang - phụng sự anh bạn vàng của đảng và là kẻ thù của Tổ Quốc và nhân dân. Khi đó, dù anh có kêu rằng anh độc lập, thì tự bản chất nó cũng chính là “Ngụy độc lập”– thưa anh Nguyễn Như Phong. Tệ hại hơn nữa, khi lòng dân sôi sục biểu lộ tình yêu Tổ Quốc trước họa xâm lăng, tờ báo của anh đăng bài thóa mạ, đổ tội rằng “Việt Tân gây rối” nhằm lấp liếm thái độ “Hèn với giặc, ác với dân”. Đó chính là Ngụy độc lập và ngụy dân tộc, thưa anh Nguyễn Như Phong. Cướp – giết – hiếp! Như vậy, trong một xã hội mà “chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng” thì có thể báo chí có còn là diễn đàn của nhân dân không? Dĩ nhiên là có, những câu chuyện về sex, về loạn luân, về suy đồi đạo đức mà dân gian tổng kết trong mấy chữ cướp – giết –hiếp thi nhau nở rộ trên mặt báo. Thế nhưng, khi cần ngăn chặn một số trang tin loan truyền tiếng nói của người dân, hoặc muốn kết tội họ, nhà nước Cộng sản vẫn cho rằng đó là để bảo vệ thuần phong mỹ tục – Đó chính là Ngụy độc lập, thưa anh Nguyễn Như Phong. Cuối cùng, để sáng tỏ hơn cái gì là Ngụy độc lập, chúng ta chỉ cần đọc những dòng này trên trang Đảng Cộng sản để hiểu cái “độc lập” và cái “ngụy độc lập” của những tờ báo được đảng lãnh đạo ra sao:“Với chức năng công cụ của công tác tư tưởng của Đảng, để báo chí thực hiện hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng phải thông tin những vấn đề cần thiết cho báo chí một cách kịp thời và chính xác, coi thông tin cho báo chí cũng là thông tin cho toàn Đảng và cho xã hội. Được cung cấp các thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời là cơ sở để báo chí đảm bảo tính đảng”. Có lẽ đọc đến câu trên, thì chỉ cần đứa bé học lớp 3 cũng hiểu như thế nào là độc lập và ngụy độc lập là ở đâu. Và cũng vì thế, câu: “Họ muốn độc lập nhưng là độc lập thế nào? Ðộc lập với ai? Không lẽ là độc lập với nhân dân, với đất nước, với sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh phồn vinh, công bằng dân chủ?” trong bài báo trên tờ báo của Nguyễn Như Phong làm TBT mới thật sự“Đúng là ngụy độc lập”. J.B Nguyễn Hữu Vinh Nguồn: Việt Nam Thời Báo -  ijavn.org
......

KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐẢNG ... CHÍNH LÀ ĐẢNG

Ngoài người anh cả 16 chữ vàng và 4 tốt, xem ra đảng có quá nhiều kẻ thù: Đế quốc Mỹ, các nước tư bản, NGO, "phản động", diễn biến hòa bình, tham nhũng, lạm phát. Tưởng kẻ thù lớn nhất của đảng là dân, nhưng thật ra không phải. Theo tác giả, đó chính là đảng!   Một trong những điều người Việt Nam lo ngại nhất khi quan hệ với Mỹ là Mỹ có thể trở mặt bất cứ lúc nào, như đã từng làm với Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Lo ngại này là chính đáng, vì nước nào cũng phải đặt lợi ích quốc gia họ lên trên tất cả (chỉ có vài nước là đặt một chủ nghĩa và một thứ tình anh em siêu ảo lên trên đầu). Nước Mỹ cũng chẳng sai gì khi bỏ rơi đồng minh để bảo vệ đất nước họ. Hình: Internet, tác giả tay cầm giấy   Nhưng bối cảnh hiện nay có lẽ thuận lợi hơn nhiều cho lãnh đạo Việt Nam, bởi lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, và cũng là một trong những điểm độc đáo nhất của chính trị Việt Nam, họ có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt rộng lớn ngay trong lòng nước Mỹ. 1,7 triệu công dân Mỹ gốc Việt, chiếm gần 0,6% dân số Mỹ, hầu hết vẫn còn tha thiết với quê hương, có ảnh hưởng vô cùng lớn đến quan hệ Việt - Mỹ. Lá phiếu của họ có thể chi phối chính trường và quan điểm của họ luôn luôn được lắng nghe. Bởi vậy, một trong những cách tốt nhất để kìm hãm các chính sách bất lợi cho Việt Nam từ phía Mỹ là chính phủ phải thân thiết được với cộng đồng người Việt ở Mỹ và thực lòng tôn trọng họ. Đảng cộng sản Việt Nam, lực lượng đang nắm chính phủ hiện nay, có làm được điều này không là một câu hỏi lớn, bởi để kết thân được với cộng đồng người Việt ở Mỹ, họ buộc phải đánh giá lại toàn bộ cuộc chiến tranh 1954-75, đánh giá lại Việt Nam Cộng hòa, đánh giá lại sự kiện hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi sau năm 1975 và hàng trăm nghìn người đã chết tức tưởi trên biển. Làm thế nào để Đảng nói với đảng viên của họ, cựu chiến binh của họ và một bộ phận lớn nhân dân về tất cả những điều này? Làm thế nào để Đảng mở được lời xin lỗi? Vốn liếng chính trị lớn nhất của họ chính là cuộc chiến tranh được gọi là "chống Mỹ", cái mà phần lớn người Việt Nam ngày nay vẫn coi là công lao của Đảng. Từ bỏ được là không dễ. Thế mới bảo, kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình. Nguồn: blog.trinhhuulong.com
......

Giáo sư đem lại danh tiếng cho trường đại học?

Có người cho rằng không có giáo X kia thì ai biết đến đại học Y. Nói cách khác, họ cho rằng sự danh tiếng [nếu có] của đại học Y là nhờ vào danh tiếng [nếu có] của giáo sư X. Tất nhiên, chúng ta chỉ nói đại học ở VN (vì đại học nổi tiếng ở nước ngoài thì là một câu chuyện khác). Tôi nghĩ quan điểm “nhờ X thì Y mới nổi tiếng” là một sai lầm, nếu không muốn nói là ảo tưởng. Chúng ta phải hiểu “nổi tiếng” ở đây là có tiếng tốt, chứ không phải tiếng xấu. Tiếng tốt rất khó định lượng cho chính xác. Trường thì có tiếng về ngành kinh tế, nhưng kém với khoa học; trường thì vang danh về y khoa; lại có trường nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực. Có trường sinh viên ra tìm việc làm dễ và nhanh, có trường tốt về cơ sở vật chất, lại có trường giỏi về nghiên cứu khoa học. Làm sao cân đo đong đếm các khía cạnh đó là một vấn đề nan giải. Người ta thường dựa vào các bảng xếp hạng đại học trên thế giới để đánh giá cái gọi là “nổi tiếng”. Có tên trong các bảng xếp hạng “Top 500” có thể xem là nổi tiếng. Chắc chắn không chính xác 100%, nhưng đại khái các bảng xếp hạng cũng phản ảnh khá đúng với cảm nhận của công chúng. Ví dụ như nói Mahidol University, ai cũng biết là ở Thái Lan và nổi tiếng; nói đến Stanford, ai cũng biết trường này ở Mĩ và nổi tiếng. Bảng xếp hạng do đó có thể xem là một dấu ấn gián tiếp (surrogate marker) của nổi tiếng. Không có đại học nào của VN là có tiếng trên trường quốc tế. Thật vậy, cho đến nay chẳng có bất cứ một đại học nào của VN nằm trong bảng xếp hạng danh tiếng của QS, THE, AWRU. Điều này dễ hiểu, bởi vì các đại học VN còn rất lu mờ trong nghiên cứu khoa học. Chẳng ai biết và cũng chẳng ai quan tâm đến đại học VN vì họ chẳng có đóng góp gì đáng chú ý cho khoa học và cho cộng đồng quốc tế. Ngay cả các đại học lớn trong vùng cũng chẳng xem các đại học VN ra gì, vì khoảng cách về nghiên cứu giữa họ và các đại học hàng đầu ở VN quá xa và càng xa theo thời gian. VN cũng chưa có một giáo sư hay một nhà khoa học nào đứng vào hàng các nhà khoa học “eminent” (lừng danh) trên thế giới. Dĩ nhiên, VN có vài nhà khoa học có tiếng trên thế giới trong chuyên ngành của họ, nhưng ngay cả trong chuyên ngành, cái “có tiếng” đó cũng chỉ là hạng trung bình hay trên trung bình một chút. Theo tôi biết, VN chưa có một nhà khoa học được mời diễn thuyết trong phiên họp khoáng đại của các hội nghị số 1 trong chuyên ngành. Điều này có lẽ không khó hiểu, vì VN cũng chỉ mới hội nhập quốc tế trong thời gian gần đây, và nghiên cứu khoa học cũng chỉ mới được quan tâm khi có người chỉ ra sự tụt hậu của VN trên trường quốc tế. Sự nổi tiếng của đại học VN, do đó, không phụ thuộc vào giáo sư ở VN. Nói đúng ra, như nói trên không có một đại học VN nào nổi tiếng trên thế giới, và giáo sư cũng chưa nổi tiếng trên thế giới, thì tích số của hai yếu tố phải là số không. Ở nước ngoài, có một số giáo sư Việt kiều nổi tiếng thật sự trong chuyên ngành của họ, nổi tiếng theo tiêu chí mà tôi mới đề cập ở trên. Nhưng tôi nói “một số”, chứ không nhiều như báo chí VN hay ảo tưởng. Bên cạnh một số giáo sư nổi tiếng đó, còn có nhiều giáo sư khác tuy không nổi tiếng nhưng họ có khả năng PR rất tốt trên báo chí VN và tự dưng họ trở thành nổi tiếng. Họ cũng là giáo sư ở nước ngoài, có thể từ các trường đại học danh tiếng nhưng phần lớn là xuất phát từ các trường làng nhàng. Họ có ý nguyện giúp VN, và khi về VN so với đồng nghiệp trong nước họ thấy mình cao hẳn lên. Từ đó họ ảo tưởng rằng mình là số 1 trên thế giới! Số này không nhiều, nhưng báo chí tung ca nhiều quá nên công chúng tưởng là nhiều. Các trường đại học VN rất muốn nâng cao “thương hiệu” của họ trên trường quốc tế, và cũng là cách góp phần đưa tên tuổi VN trong trường khoa học. Do đó, họ rất cần nghiên cứu khoa học, lĩnh vực mà họ yếu nhất. Từ đó, họ cần sự giúp đỡ và hợp tác của các giáo sư nước ngoài, kể cả giáo sư Việt kiều. Một số ít giáo sư Việt kiều có tâm về hẳn VN để làm việc, và họ thường âm thầm. Nhưng số nhiều giáo sư Việt kiều thì chỉ như “đi mây về gió”, lâu lâu nói chuyện trong seminar, ghé thăm như “cưỡi ngựa xem hoa” chứ chẳng giúp gì nhiều. Do đó, có trường theo mô hình “nhóm nghiên cứu” (research group) để giúp các giáo sư Việt kiều có lab và có cơ sở để hợp tác lâu dài cho dù là ở nước ngoài. Thế giáo sư Việt kiều có làm cho đại học VN nổi tiếng? Tôi nghĩ câu trả lời là KHÔNG. Một cây làm chẳng nên non. Cho dù một trường đại học có thể thu hút giáo sư Việt kiều nổi tiếng lừng danh hay nổi tiếng, thì sự hiện diện của giáo sư đó vẫn không thể giúp các đại học VN nổi tiếng được. Trường có tiếng về một lĩnh vực vẫn chưa thể nói là nổi tiếng được. Nổi tiếng đòi hỏi sự đồng bộ của nhiều lĩnh vực. Nói đến nổi tiếng theo cái nhìn của công chúng trong nước chắc người ta nghĩ đến ĐHQGHN và ĐHQGHCM. Nhưng nếu hỏi họ 2 đại học đó nổi tiếng về cái gì, thì có thể phần lớn chẳng ai trả lời được. Không trả lời được là vì cả hai trường chẳng có công trình khoa học gì để gọi là “nổi bậc”. Có thể nói tất cả các đại học VN đều như thế, trường nào cũng như trường nào về tiếng tăm trong khoa học, chưa có trường nào có công trình gọi là “flagship” để công chúng nhận ra dễ dàng. Do đó, tôi nghĩ sự có mặt của các giáo sư Việt kiều, cho dù là giáo sư danh tiếng, ở các đại học VN sẽ khó làm cho đại học nổi tiếng. Suy nghĩ kiểu “không có giáo sư X chắc chẳng ai biết đến trường Y” theo tôi là cực kì trẻ con đến bất ngờ. Tôi nghĩ các giáo sư Việt kiều chân chính không ai ảo tưởng rằng sự có mặt của họ sẽ làm đại học nổi tiếng; họ chỉ nghĩ góp một tay vào việc xây dựng thương hiệu cho đại học qua nghiên cứu khoa học và giảng dạy.   Nguồn: FB Nguyen Tuan
......

Tấm gương dũng khí của một nhà thơ

Hạnh Trần: Tặng các bạn câu chuyện về một tình yêu và bản năng tồn tại vô song trong bối cảnh lịch sử ngặt nghèo của Việt Nam. Một truyện hư cấu có giàu tưởng tượng đến đâu cũng không thể hay hơn Lời tự thuật của HỮU LOAN, tác giả "MÀU TÍM HOA SIM"   MÀU TÍM HOA SIM (Nguyên văn của tác giả) Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê…   Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa… Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường đông bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệrớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu… (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh) Hữu Loan   Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan. Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ….. Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa. Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ … Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”. Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.” Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi! Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm! Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì. Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán. © Hữu Loan Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.de
......

Về bài báo bị phạt trên Trí Thức Trẻ

Cuối tuần qua, câu chuyện về trang Trí Thức Trẻ bị đình bản vì bài “Gái miền tây và 3 chữ N” vẫn tiếp tục được tranh luận trên nhiều trang mạng tiếng Việt. miền Tây Nam Bộ gồm hơn 10 tỉnh với hàng chục triệu dân Theo gợi ý của một số bạn bè trên Facebook, tôi viết bài này để chia sẻ cách nhìn từ Anh Quốc, về chuyện tự do báo chí và cũng về cách ‘xử lý’ của nhà chức trách khi có chuyện tương tự. Đầu tiên là về chính ngôn từ trong bài viết khiến Trí Thức Trẻ bị đình bản và phạt tiền. Theo tôi, đấy chưa đủ tiêu chuẩn là một bài báo, cùng lắm là dạng ý kiến riêng, may lắm thì được đăng ở một trang blog cá nhân hoặc chia sẻ với bạn bè. Có lẽ cũng vì ở Việt Nam còn thiếu một định nghĩa, một tiêu chuẩn thế nào là ‘bài báo’, nên Trí Thức Trẻ đã đăng nó và gặp ‘vận hạn’ như các bạn đã biết. Nếu là bài báo dạng tin tức (news story), người viết phải nêu ra một thông tin gì đó mới mẻ, về một sự kiện, nhân vật nhất định. Nếu là bài phân tích (analysis), bình luận (commentary) thì cũng phải có căn cứ khoa học hoặc qua phỏng vấn, trích dẫn chuyên gia, nhà quan sát. Cứ cho là về mặt thể loại, bài "Gái miền Tây" tạm có đủ tiêu chuẩn là ý kiến (opinion piece) thì nó cũng hoàn toàn thiên lệch vì dựa trên ‘câu chuyện’ về một hai cô gái không tên nào đó. Về mặt đối tượng thì gộp cả triệu cô gái ở trên 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ của Việt Nam vào một hai ví dụ để khen chê linh tinh không phải là ‘làm báo’ mà là kỳ thị vùng miền.   Văn phong và cách viết Nhưng điều đáng lo ngại là ở Việt Nam cho đến mấy ngày hôm qua, số người phê phán bài viết về cách khinh thường trí tuệ các cô gái miền Tây thì nhiều (chữ N thứ ba), mà ít người thấy cả hai chữ N kia cũng đầy vấn đề. Vì xét theo quan điểm văn minh, hiện đại, chuyện một thanh niên nam dùng các từ như ‘ngon’ để gọi phụ nữ là sai trái. Đấy là ngôn ngữ của vỉa hè, mang tính phân biệt nam nữ và ‘sexist’, tức là coi phụ nữ là đối tượng của bình phẩm mang màu sắc tình dục rõ rệt. Ở một công ty phương Tây chẳng hạn, nếu gọi đồng nghiệp nữ theo kiểu đó chắc nam giới sẽ bị kiện vì tội ‘sexual harassment’ bằng lời lẽ. Hơn nữa, gọi trẻ em 'ngoan' thì tạm được nhưng gọi phụ nữ là ‘ngoan’ cũng có hàm ý người nói kẻ cả, bề trên, đặc đầu óc phong kiến, không coi nữ bình đẳng với nam. Vì thế, nhiều bạn, kể cả các bạn nữ, đã hoàn toàn sai lầm khi cho rằng bài viết ‘khen’ các cô gái miền Tây Nam Bộ là ‘ngoan và ngon’. Theo tôi, cả ba chữ N đều có tính miệt thị và còn vô ý thức ở hai chữ đầu và thiếu văn hóa ở chữ thứ ba. Cả câu chuyện khiến người ta lo ngại về thái độ chung về nữ giới của rất nhiều thành viên trong xã hội. Tư duy 'macho' đó này là quá lỗi thời và các bạn cần biết rất nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có nữ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng (như bà Ursula von der Leyen của Đức), và không có nghề nghiệp, vị trí gì là thuộc độc quyền của phái nam. Tự do và kiểm duyệt Nhưng việc đình bản và phạt báo vừa qua có liên quan gì đến tự do báo chí hay không? Theo tôi, về mặt kỹ thuật, việc phạt báo hay cấm đăng bài, xóa bài, căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay là bình thường. Nhưng nhìn rộng ra thì cả cơ chế quản lý báo chí đó lại có vấn đề. Cấm bài, cắt bài, phạt báo trên lý thuyết thuộc về phạm vi kiểm duyệt. Các bạn đừng nên nghĩ kiểm duyệt là xấu. Nước nào cũng kiểm duyệt ít nhiều văn hóa, truyền thông. Vấn đề chỉ là kiểm cái gì và duyệt cái gì, cơ chế ra sao mà thôi. Ở rạp chiếu phim bên Anh, sau quảng cáo, trước khi vào phim người ta luôn chiếu giấy chứng nhận - certificate của Hội đồng Điện ảnh Anh Quốc (BBFC) với dấu mang chữ PG trong khung hình tam giác màu vàng. Chữ ký của quan chức xét duyệt phim đó cũng hiện luôn trên màn hình. Anh Quốc chủ trương tự do thông tin nhưng cũng ngăn ngừa vi phạm Người ta kiểm duyệt phim ảnh căn cứ vào mức độ tình dục, bạo lực trong phim và xem phim phù hợp với lứa tuổi nào. Kể cả phim của Mỹ đã được xét duyệt bên đó, muốn chiếu tại Anh cũng phải qua cửa của Bấm BBFC. Với báo chí, nhất là báo mạng, Anh Quốc chủ trương tự do thông tin và thúc đẩy sáng tạo công nghệ mạng (online innovation) nhưng chính phủ vẫn ngăn các dạng phát hành vi phạm bốn dạng nội dung. Đó là nội dung vi phạm bản quyền (copyright infringement); tình dục người lớn (adult content – nhằm bảo vệ trẻ em); khủng bố (terrorism – ngăn các nhóm khủng bố dùng mạng Internet để tuyên truyền); và kích động hận thù (hate crime). Khi các trang web hay bài viết, nội dung này xuất hiện, chính quyền có thể yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ (ISP) khoá trang lại hoặc khóa bài viết, nội dung âm thanh, hình ảnh, video đó. Nhưng trong các lĩnh vực khác, nhà nước không tự can thiệp mà để cho xã hội cùng hệ thống tư pháp độc lập giải quyết. Ví dụ là một cá nhân, bạn hoàn toàn có thể khiếu nại lên báo chí hoặc yêu cầu toà án ra án lệnh ngăn báo chí đưa tin, đăng ảnh mà bạn cảm thấy đang hoặc sẽ vi phạm đời tư, quyền riêng tư hoặc thấy bị xúc phạm. Rất nhiều siêu sao của giới ca nhạc, giải trí, thể thao đã chọn cách này để ngăn báo chí. Ngoài ra, không gian tự do để châm chọc, trêu đùa, thậm chí cười nhạo luôn rộng mở. Các sách in tiếu lâm bán đầy ngoài hiệu sách, về đủ mọi loại người, loại nghề. Bạn còn có thể mua cả bộ sách Bấm 'Xenophobes' Guides' trêu chọc, nêu tính xấu một cách đầy định kiến nhưng dí dỏm về các quốc gia và dân tộc châu Âu, châu Mỹ, cả Trung Quốc, Nhật Bản (chưa thấy Việt Nam). Trở lại bài viết tai tiếng trên Trí Thức Trẻ. Vì ở Việt Nam không có báo chí tư nhân, tự nhiên đây lại là chuyện ‘quốc gia đại sự’. Vì mọi tờ báo, ấn bản thông tin, đài phát thanh, truyền trình ở Việt Nam ở dưới có một cơ quan chủ quản nào đó thuộc chính quyền, nên quả bóng trách nhiệm cho mọi nội dung luôn rơi trở lại sân chính quyền. Trong khi nó chỉ nên là chuyện của những người cảm thấy bị xúc phạm gửi thư khiếu nại hoặc kiện tờ báo hay cá nhân tác giả mà cho đến nay vẫn ẩn danh. Hai bên có thể gặp nhau tại toà án nếu như toà ở Việt Nam được giao vai trò xét xử báo chí. Đằng này tất cả vẫn lại quay về điểm khởi đầu là bộ ngành có báo làm sai thì bộ ngành tự xử lý...chính mình hoặc cùng lắm là bộ này xử lý bộ kia nhưng vẫn cùng nằm trong chính phủ. Cũng vì thế, tranh luận về ‘tự do báo chí’ trong vụ việc này xem ra chưa phù hợp chừng nào cơ chế tam quyền phân lập và chế độ kiểm duyệt minh bạch với thông tin, báo chí được định hình ở Việt Nam. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese/blogs
......

Bước chuyển mới của quân đội Việt Nam?

Tiếp theo sau chuyến thăm của Thượng Nghị Sĩ John McCain, người dân Việt Nam một lần nữa lại vui mừng khi lần đầu tiên kể từ sau năm 1975 đến nay, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ, Đại Tướng Martin Dempsey sang thăm Việt Nam theo lời mời của Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VN, Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ, theo công bố chính thức của Bộ Ngoại Giao VN. Nếu hai chuyến thăm viếng Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ trước đây mang tính biểu trưng cho sự xích lại gần nhau về tổng thể giữa hai bên Việt-Mỹ thì chuyến thăm này của ông Dempsey sẽ cụ thể hóa sự xích gần nhau lại của quân đội hai nước. Về Mỹ thì không bàn, đối với quân đội Việt Nam, việc này có thể được coi như khởi đầu cho giai đoạn phá sản của lý luận “xem Mỹ là thù địch”. Và do đó, từ nay hệ thống tuyên huấn của Tổng Cục Chính Trị-Bộ Quốc Phòng VN nên bỏ bài giảng “chống diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ” trong công tác tuyên huấn cho quân nhân binh sĩ.   Sự chuyển dịch này của quân đội hai nước xích lại gần nhau dĩ nhiên cũng không thể “khởi nguồn từ chuyến đi Mỹ của ông Phạm Quang Nghị” mà là kết quả lâu dài và là chỉ dấu cho thấy xu hướng cải cách trong Đảng CSVN đã chiếm ưu thế. Xin trình bày qua một số nét chính để độc giả nhận diện cụ thể hơn. Chuyện về các ông tướng   Sau 1975, quan hệ Việt-Trung xấu đi, và căng thẳng biên giới kéo dài. Một trong những người lính lăn lộn hơn 15 năm ở vùng biên giới khi đó là nhân vật chính trong cuộc đón tiếp ông Dempsey ngày hôm nay, Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng - Tổng Tham Mưu Trưởng QĐ Việt Nam. Có thể nói rằng sự thăng tiến đến vị trí hôm nay của Tướng Tỵ là nằm trong kế hoạch “tách bớt ảnh hưởng từ Trung Quốc vào quân đội” của người đứng đầu nhóm cải cách, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Dường như sau “vụ nổ sập tường nhà riêng ở Hà Nội” năm 2007 mà dư luận cho rằng “do tình báo Trung Quốc thực hiện”, ông Nguyễn Tấn Dũng lo ngại rằng một vụ đảo chính có thể xảy ra nên đã chủ động bãi chức hết 5 ông tướng ở quân khu Thủ Đô, và thay vào đó bằng các tướng lĩnh thân tín nhằm siết chặt an ninh cho chính phủ VN??? Song song đó, một loạt sự cải cách trong quân đội để giảm vị thế của “nhóm tướng lĩnh thân Trung Quốc” cũng được thực hiện, từ năm 2007 trở đi, các “công thần” trong cuộc chiến năm 1979 bắt đầu được trọng dụng. Như tướng Đỗ Bá Tỵ thăng lên Tư Lệnh Quân Khu 2 rồi Tổng Tham Mưu Trưởng, hay tướng Lê Hữu Đức sang nắm tư lệnh không quân, là những ví dụ dễ thấy. Sự cải cách này cũng đi thẳng vào một đơn vị mà từ lâu dư luận xì xào “hình như Trung Quốc nắm quyền chi phối”, đó là Tổng Cục 2 - Tổng Cục Tình Báo Quân Đội. Chuyện nội bộ nhà binh thì khó ai rõ trừ người trong cuộc, nhưng bức thư góp ý của Tướng Võ Nguyên Giáp cùng liên danh gần 40 tướng tá cao cấp cho thấy thông tin là tướng Nguyễn Chí Vịnh, nắm chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2 năm đó đã có nhiều “sai lầm về an ninh quốc gia, mất cảnh giác để Trung Quốc chi phối” là có cơ sở???   Đến năm 2009, nhóm cải cách gây dựng vây cánh trong quân đội đã tạm ổn, bắt đầu xử lý vấn đề tổng cục 2 bằng cách “thăng chức cho tướng Nguyễn Chí Vịnh lên thứ trưởng phụ trách đối ngoại”. Quyết định này đã gây nhiều chỉ trích, nhưng tinh ý sẽ thấy ra sự thăng chức này thực ra là làm tước bớt quyền lực của tướng Vịnh mà không gây ra “cơn địa chấn trong quân đội”. Từ tư lệnh tình báo đầy quyền sinh sát, tướng Vịnh trở thành thứ trưởng “không quân” và sau đó chỉ còn tham gia vào việc đi lại với quân đội các nước Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan… Thậm chí chương trình “đối thoại cấp thứ trưởng quốc phòng hàng năm” do tướng Vịnh và đồng nhiệm TQ đưa ra từ năm 2009 (sau khi tướng Vịnh hết nắm tổng cục 2) cũng đã bị ông Trương Tấn Sang chấm dứt năm 2013. Năm 2012 nhóm cải cách đi tiếp một quân cờ nữa, đưa tướng Đỗ Bá Tỵ từ Quân Khu 2 về nắm bộ tổng tham mưu, để bắt đầu chiến dịch “thoát Trung cho quân đội”. Đến lúc này thì chỉ còn các chức danh Bộ Trưởng Quốc Phòng và Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị là không do nhóm cải cách sắp xếp, còn lại thì đa số các chức vụ chỉ huy trung cấp trong quân đội đều do Tướng Tỵ sắp xếp. Một ví dụ dễ thấy là gần đây, Trung Tướng Phan Văn Dỹ, chính ủy quân khu 7, đã đi nhiều nơi phát biểu về “chống Trung Quốc”. Tướng Dỹ còn nói “mua thêm tàu chiến là để bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa”.   “Nín thở qua sông” Sự “rục rịch” của nhóm cải cách trong quân đội Việt Nam làm Trung Quốc “không hài lòng”. Từ năm 2007 trở đi ta thấy Trung Quốc gây áp lực để Việt Nam quy phục lại bằng cách gia tăng bắt giữ tàu cá, cắt cáp thăm dò dầu khí….cũng là có một phần mục đích nhằm để giảm bớt đà cải cách quân đội Việt Nam của nhóm thủ tướng. Cao trào nhất là vào năm 2012, Tập Cận Bình trong tư thế “người kế vị” cùng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội TQ - Tướng Triệu Bỉnh Đức, đã “mời” thượng tướng Đỗ Bá Tỵ qua thăm với mục đích “phủ dụ và huấn thị”. Ý thức được cần “lùi một để tiến hai”, tướng Tỵ khi ở Trung Quốc đã không tiếc lời ca ngợi quan hệ giữa hai đảng, hai quân đội và hứa sẽ “tiếp tục thúc đẩy và nâng tầm quan hệ quân đội hai bên”. Bài “nín thở qua sông” của tướng Tỵ đã thành công, ru ngủ được cả Trung Quốc và phe thân Tàu trong Đảng CSVN, nhưng sau đó tướng Tỵ âm thầm chuẩn bị cho chương trình đi Mỹ hội kiến tướng Martin Dempsey năm 2013. Bên cạnh đó nhóm của tướng Tỵ còn thúc đẩy giao lưu, tập huấn, đào tạo của quân đội Mỹ dành cho quân đội VN, cũng như quan hệ với quân đội các nước Asean khác cũng tiến mạnh. Các nhà quan sát ít chú ý những chuyện nhỏ nhưng là những chỉ dấu của các “quan hệ ủng hộ nhau của nhóm cải cách”. Một ví dụ tiêu biểu là khi dư luận ồn ào về việc con gái thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ( Nguyễn Thanh Phượng) đứng sau vụ Văn Giang – Ecopark để “cướp đất của dân”, thì chính nhóm tướng Tỵ đã trưng ra một số tài liệu cho thấy con gái của Ba Dũng không liên quan đến vụ này. Năm 2013, có những luồng dư luận ồn ào về việc sửa hiến pháp theo hướng “phi chính trị hóa quân đội” làm nhóm bảo thủ lo ngại. Cao trào nhất là việc Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng “phi chính trị hóa quân đội là suy thoái lý tưởng XHCN”. Liệu tướng Tỵ có liên quan gì vào không, khi mà trên website “tự công bố là chính thức”- www.dobaty.net đều không hề có dấu hiệu nào về cờ đỏ búa liềm hay các tuyên huấn của đảng như website của các ủy viên TW đảng khác. Thay vào đó là các tin về hoạt động của chính phủ và các bài viết mang tư tưởng tiến bộ xã hội.   Tướng Tỵ còn một cú “ghi bàn” trong sự kiện giàn khoan HY-981. Khi đó Campuchia, sau chuyến thăm của Tổng Tham Mưu Trưởng QĐ Trung Quốc Phòng Phong Huy tháng 5/2014, đã “im lặng” về vấn đề giàn khoan. Tháng 06/2014, sau chuyến đi Campuchia của tướng Tỵ, Campuchia ngay sau đó cũng lên tiếng ủng hộ VN. Cũng trong thời kỳ giàn khoan, các hoạt động nhộn nhịp về ngoại giao quốc phòng của VN với các nước Asean khác như Philippin, Indonesia cũng do tướng Tỵ xúc tiến và chủ trì. Tương lai Quân Đội Việt Nam Như vậy có thể thấy rõ, chiến lược “thoát Trung” trong quân đội và quan hệ quân đội Việt-Mỹ có những bước khởi đầu “sang trang” như hôm nay là thành quả của một kế hoạch lâu dài của hai bên. Việc ngày hôm nay đón Đại Tướng Martin Dempsey sang Việt Nam là thành quả của một xu thế “thoát Trung” ở quân đội của nhiều tướng lĩnh Việt Nam trong nhóm cải cách. Họ đã tận dụng sự “phân công” của Bộ Chính Trị để âm thầm phát triển thế lực nội bộ, định hướng thế cuộc theo hướng có lợi cho nhóm mình, chứ không phải “do ông Nghị sang Mỹ” như nhóm bảo thủ đang cố gắng tuyên truyền để “tranh công” và lấy uy tín với nhân dân. Hi vọng rằng với đà đi lên của tư duy dân chủ pháp trị theo xu thế chung của quốc tế, hình ảnh tương lai của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam sẽ mang dáng dấp theo kiểu “website tự công bố là chính thức của Tướng Đỗ Bá Tỵ”. Không “mang theo” các tuyên huấn của đảng hay chút dấu ấn nào của cờ đỏ búa liềm. Quân Đội là phải thế, chỉ chiến đấu và hi sinh vì quốc gia, vì bảo vệ dân tộc, không nên và không thể là công cụ của bất kỳ đảng phái chính trị nào. _______________ Tư liệu dùng trong bài viết:http://www.navytimes.com/article/20140814/NEWS05/308140057/Dempsey-first...https://nr-029.appspot.com/www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/0...http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Ch%C3%AD_V%E1%BB%8Bnhhttp://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97_B%C3%A1_T%E1%BB%B5http://nguyentandung.org/tong-tham-muu-truong-do-ba-ty-hoi-kien-pho-chu-...http://www.diendan.org/viet-nam/38-tuong-linh-va-lao-thanh-len-an-nguyen...http://dobatyvn.blogspot.com/http://baodatviet.vn/quoc-phong/quoc-phong-viet-nam/tuong-do-ba-ty-sang-...Nguyễn An Dân Nguồn: Trí Nhân Media
......

Nhân Quyền Và Vũ Khí Sát Thương (Lethal Weapon)

Trong thời gian vừa qua, sau vụ giàn khoan HD 981 của Trung Cộng, nhiều chính giới Hoa Kỳ đã lên tiếng về nhu cầu tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Thượng Nghị sĩ John McCain của đảng Cộng Hòa và Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse của đảng Dân Chủ đã vào tận Việt Nam, tổ chức cuộc họp báo tại Hà Nội vào ngày 8/8 vừa qua để nói về viễn cảnh mới của quan hệ Mỹ Việt chuẩn bị đánh dấu 20 năm (1995-2015) bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Mặc dù ông McCain có đề cập đến thành tích tôn trọng nhân quyền của Hà Nội sẽ ảnh hưởng rất lớn vào mối quan hệ Việt Mỹ trong thời gian tới; nhưng nhiều chỉ dấu cho thấy là giới lãnh đạo Hoa Kỳ, đặc biệt là Tổng thống Obama đang có những chuẩn bị dư luận nhằm bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Hà Nội vào tháng 9 tới đây.   Cấm Vận Vũ Khí Tuy Cộng sản Việt Nam không nằm trong danh sách 5 quốc gia bị cấm mua vũ khí của Hoa Kỳ là Cuba, Iran, Sudan, Syria và North Korean; nhưng CSVN đã bị Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm vận ngay sau khi cưỡng chiếm miền Nam vào tháng 4/1975 nên cũng bị cấm mua vũ khí của Hoa Kỳ. Mặc dù Tổng thống Bill Clinton đã bãi bỏ lệnh cấm vận vào tháng 2 năm 1994, nhưng CSVN vẫn tiếp tục bị cấm mua vũ khí vì đã vi phạm nhân quyền trầm trọng. Nói cách khác, tình trạng đàn áp nhân quyền của CSVN là lý do khiến cho Hoa Kỳ cấm vận vũ khí, đặc biệt là từ năm 1994 cho đến nay. Năm 2007, dưới thời Tổng thống Bush (con), Hoa Kỳ đã nới lỏng lệnh cấm nói trên khi cho phép bán vũ khí phi sát thương (non-lethal arms) đối với CSVN. Trong năm 2010 và 2011, Trung Cộng bắt đầu xâm phạm thềm lục địa Việt Nam, cắt cáp tàu Bình Minh và tấn công thô bạo vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam. Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN và cả Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng CSVN đã chính thức yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của ông Leon Panetta, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2012. Lúc đó, CSVN muốn mua ngay một số thiết bị tuần dương như Radar, thiết bị phát âm thanh tầm xa (LRAD) vân, vân... nhưng Hoa Kỳ không mấy quan tâm. Lý do mà Hoa Kỳ đưa ra là không hài lòng về thái độ coi thường các cam kết tôn trọng nhân quyền của Hà Nội qua những cuộc đối thoại nhân quyền hàng năm và nhất là gia tăng đàn áp đối với những người Việt Nam yêu nước chống Trung Cộng kể từ năm 2011. Bỏ Cấm Vận Sự ngang ngược của Trung Cộng khi mang giàn khoan HD 981 vào sâu trong thềm lục địa Việt Nam vào tháng 5/2014 vừa qua đã làm thay đổi quan điểm về mối quan hệ của cả phía Hoa Kỳ lẫn Cộng sản Việt Nam. Mặc dù cho đến nay, Hà Nội chưa biểu hiện bất cứ sự thay đổi quan hệ nào đối với Trung Quốc; nhưng sau vụ giàn khoan HD 981, bộ chính trị CSVN không còn là khối thuần nhất với chủ trương ôm chặt Bắc Kinh như quá khứ mà đã hình thành một khuynh hướng muốn tìm đến Hoa Kỳ và Nhật Bản để cân bằng các ảnh hưởng. Những phê phán Trung Quốc hơi mạnh bạo của ông Nguyễn Tấn Dũng, những khẳng định mang tính ba phải về chủ quyền của ông Nguyễn Phú Trọng trong thời gian xảy ra vụ giàn khoan và nhất là chuyến đi Mỹ đột ngột của ông Phạm Quang Nghị sau khi Bắc Kinh rút giàn khoan HD 981 ra khỏi lãnh hải của Việt Nam, cho thấy là bộ chính trị CSVN đang có những dự tính thay đổi thế trận. Thế trận đó chưa định hình, nhưng nhiều phần là khuynh hướng muốn đi gần với Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ có tiếng nói trong các thảo luận tái định hình mối quan hệ với Trung Cộng, chấm dứt thời kỳ “vừa là đồng chí, vừa là anh em” từ năm 1990 cho đến nay. Nhiều phần trong Hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 tới đây, lãnh đạo CSVN sẽ định hình mối quan hệ giữa CSVN – Trung Cộng – Hoa Kỳ trong đó vấn đề nộp đơn kiện Trung Quốc lên Tòa trọng tài quốc tế Liên Hiệp Quốc về Luật Biển sẽ chi phối rất lớn các quyết định của Hà Nội. Trong khi đó, giàn khoan HD 981 đã cho phép Hoa Kỳ đẩy mạnh tiến trình xoay trục, qua sự hình thành liên minh chống Trung Cộng tại Á Châu. Liên minh này hiện có các đồng minh của Hoa Kỳ gồm Nhật Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân và Úc Châu. Đây có thể coi là liên minh bao vây Trung Cộng đầu tiên ở Á Châu kể từ năm 1972 khi Hoa Kỳ nối lại bình thường hóa bang giao với Bắc Kinh. Liên minh này không thể thiếu sự hợp tác “dưới một hình thức nào đó” của Cộng sản Việt Nam và đó là lý do mà các nhà chiến lược Hoa Kỳ và Nhật Bản đã tìm cách tranh thủ Hà Nội. Từ năm ngoái, Nhật Bản đã giúp cho lực lượng cảnh sát biển 4 chiếc tàu kiểm ngư và hứa sẽ huấn luyện về các kỹ năng phòng vệ biển. Hoa Kỳ giúp 18 triệu Mỹ Kim cho cảnh sát biển CSVN mua 5 tàu tuần tra cao tốc và hai bên đã ký một biên bản chung về hợp tác hàng hải – cảnh vệ duyên hải. Muốn CSVN đi gần với liên minh chống Trung Cộng, việc Hoa Kỳ tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với CSVN chỉ còn là thời gian. Bài Toán Nhân Quyền. Tổng thống Obama không thể bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với CSVN mà không có sự ủng hộ từ lưỡng đảng trong Quốc hội. Vì thế việc bãi bỏ này sẽ diễn ra như sau: -Thứ nhất là phía CSVN phải đáp ứng một số thiện chí tôn trọng nhân quyền. Cụ thể là phải trả tự do cho một số tù nhân lương tâm đang bị giam giữ theo danh sách mà Hoa Kỳ thường đưa ra trong các cuộc đối thoại nhân quyền như Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, anh Trần Huỳnh Duy Thức, Luật sư Lê Quốc Quân v, v... -Thứ hai là phía Hoa Kỳ sẽ không bãi bỏ toàn bộ lệnh cấm vận mà sẽ chỉ diễn ra từng phần dựa trên những thành tích tôn trọng nhân quyền của CSVN sau đó như phát biểu của Thượng Nghị sĩ John Mc Cain. Nói cách khác là tuy Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận nhưng sẽ quyết định những loại vũ khí hay trang thiết bị quân sự nào bán và không bán tùy theo các thiện chí tôn trọng nhân quyền của Hà Nội. Giống như việc Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận CSVN vào tháng 2 năm 1994 nhưng mãi đến 4 năm sau vào năm 1998, Hoa Kỳ mới lần đầu tiên quyết định bãi bỏ một phần việc áp dụng điều khoản Jackson - Vanik, trong việc hạn chế giao dịch thương mại đối với Việt Nam.   Những Nỗ Lực Cần Có Biến cố giàn khoan HD 981 đã làm thay đổi cái nhìn của thế giới về lãnh đạo Bắc Kinh, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam và nhất là về tương lai nền hòa bình trên biển Đông. Tuy CSVN đang là đối tác của Hoa Kỳ và Nhật Bản trong sự hình thành liên minh chống Trung Cộng hiện nay; nhưng đây không phải là đối tác vững bền vì Hà Nội đang bị hai áp lực sinh tử. 1/Từ quan thầy Phương Bắc. Bắc Kinh không dễ dàng để cho Hà Nội bám vào Hoa Kỳ và Nhật để chống lại họ, đặc biệt Bắc Kinh sẽ sử dụng các tay chân mà họ đã trồng sâu và cao trong nội bộ lãnh đạo đảng CSVN để phá hoại tối đa. 2/Từ hơn 90 triệu người Việt ở quốc nội và hơn 3 triệu người Việt hải ngoại. Dân tộc Việt Nam sẽ không để cho CSVN tiếp tục rao bán chủ quyền quốc gia để giữ ghế cai trị bằng mọi giá. Qua những điểm nêu trên, chúng ta cần thấy rằng việc bãi bỏ hay duy trì lệnh cấm vũ khí sát thương đối vối Hà Nội hiện nay không còn là điều then chốt. Quan trọng là dân tộc Việt Nam phải khai thác thực tế "đồng sàng dị mộng” giữa Washington và Hà Nội như thế nào. Có lẽ 3 nỗ lực sau đây cần được xếp ưu tiên cao nhất: Một là gia tăng áp lực để đòi buộc CSVN phải cải cách dân chủ, đặc biệt là phải tôn trọng các quyền con người. Giai đoạn hiện nay rất khó cho Hà Nội giở trò đàn áp nặng nề. Hai là vận động chính giới Hoa Kỳ gia tăng áp lực lên Hà Nội phải chứng minh thiện chí bằng việc thả ngay những người Việt yêu nước, những nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền đang bị giam giữ trong tù ngục. Hà Nội cũng phải chấm dứt ngay mọi ý đồ dàn cảnh, đàn áp, bắt bớ những người mới. Ba là hợp tác với các dân tộc Phi Luật Tân, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Mã Lai để cùng liên kết trong mặt trận phòng thủ chung tại biển Đông.   Dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu quí hòa bình nhưng cũng sẵn sàng bảo vệ đất nước bằng mọi giá. Lịch sử 5000 năm của dân tộc này đã chứng minh điều đó. Dân tộc Việt Nam mong ước hợp tác với mọi quốc gia khác để duy trì hòa bình và cùng thăng tiến nhưng cũng sẽ có thái độ rõ ràng đối với mọi bàn tay ngoại bang nhằm giúp duy trì độc tài trên đất nước này. Lý Thái Hùng 18/8/2014
......

Điều gì sẽ xảy ra?

Điều gì sẽ xảy ra khi Mỹ đồng đồng hành cùng chế độ Cộng Sản và phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam? Vài ngày qua, sự kiện đại tướng quân đội Hoa Kỳ là Martin Dempsey sang thăm Việt Nam đã đánh dấu một mốc quan trọng trong chương trình Mỹ tiến tới hợp tác toàn diện với Việt Nam, nhất là về quân sự, đặc biệt trong lĩnh vực hải quân.   “Việt Nam” ở đây chính là nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, là Nguyễn Tấn Dũng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh – những kẻ tai to mặt lớn, nắm quyền sinh sát của chế độ hiện nay – những kẻ đã đại diện Việt Nam tiếp đón và hội đàm cùng đại tướng Martin. Tác giả Lê Nguyên Hồng Một điều không thể chối bỏ từ phía Mỹ đó là: Mỹ không thể làm ngơ trước việc quyền lợi của mình và của các đồng minh ở Châu Á có nguy cơ bị xâm hại từ thế lực Trung Cộng, và vị trí địa lý của Việt Nam là đặc biệt quan trọng trong chiến lược phòng thủ của Mỹ tại Châu Á. Người ta có thể đặt ra câu hỏi, “Mỹ có yêu chế độ Cộng Sản hay không?” và đương nhiên một câu hỏi khác đặt ra là, “Mỹ có muốn có dân chủ (ở Việt Nam) hay không?” Câu trả lời (của rất nhiều người Việt) sẽ là: Mỹ không yêu Cộng Sản cũng chẳng mến dân chủ ở Việt Nam. Họ chỉ làm những gì có lợi cho bản thân họ và đồng minh mà thôi.   Ảnh minh họa Hiện nay chế độ Cộng Sản Việt Nam đã buộc phải bắt tay với Mỹ để chống Trung Cộng. Nhưng mặt khác họ cũng rất lo ngại Mỹ hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam. Qua tin rò rỉ từ Wikileaks và từ những người như điệp viên đào tẩu Snowden trong những năm qua, người ta biết rằng, nhiều thập kỷ qua, bằng những tổ chức trung gian, Mỹ vẫn ngầm hỗ trợ đối kháng chống độc tài tại rất nhiều quốc gia từ Đông Âu, Phi Châu, Trung Đông cho đến Việt Nam… Khoảng 5 năm trở lại đây phong trào dân chủ Việt Nam đã có những chuyển biến tương đối rõ nét. Có được điều đó là do nhu cầu đấu tranh nội tại ngày một gia tăng, nhưng cũng không thể không nhắc đến yếu tố quan trọng nhất đó là sức mạnh chính trị và tiền bạc từ người Mỹ. Về mặt chính trị, bằng con đường vận động hành lang ngoại giao, Hoa Kỳ đã gây áp lực buộc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải cải thiện dân chủ, trả tự do cho một số nhà đối kháng đang bị cầm tù như Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh v..v… Trong những hành động đó, cả phía Mỹ và chế độ Cộng Sản Việt Nam đã cùng thắng, nếu như không muốn nói đầy đủ là “ba bên cùng thắng”, vì đó cũng là một trong những thắng lợi của phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam. Hơn lúc nào hết, hiện cả hai phe Cộng Sản và chống Cộng đều đang cần dựa vào người Mỹ. Đối với nhà cầm quyền Cộng Sản, cả thế giới đều nhìn thấy là họ đang cố gắng dựa vào Mỹ để tồn tại. Nhưng còn phe chống Cộng Sản, họ dựa vào người Mỹ như thế nào? Là một người đấu tranh chống Cộng Sản hoạt động độc lập trong nước từ năm 2003; sau này chạy sang Thái Lan gần 5 năm, nay lại đang sống ở Úc, qua tiếp xúc với rất nhiều thành phần đấu tranh tại hải ngoại, tôi biết rõ: Phong trào đối kháng trong nước tồn tại được đều nhờ người Mỹ. Cơ sở nào để nói như vậy? Thứ nhất, bằng con đường phi chính phủ, Mỹ (tôi đã dùng từ “Mỹ” từ đầu bài viết, chứ không nói “chính phủ Mỹ”) đã ngầm tài trợ cho một số tổ chức chống Cộng có thực lực ở nước ngoài, cụ thể là các tổ chức được đánh giá “làm được việc” hoặc ít nhất là “có cố gắng làm việc”. Những tổ chức đó đã triển khai được một thế trận đấu tranh tại Việt Nam. Một điều không thể bác bỏ khác, đó là: Bằng hình thức này hay hình thức khác, tất cả các hội đoàn đối kháng trong nước đều “sống” được là do tiền tài trợ thông qua các tổ chức yểm trợ đấu tranh hải ngoại. Tiền của các tổ chức hải ngoại vừa kể lại đến từ hai nguồn: Từ người Mỹ như đã nói, và từ sự đóng góp của các công dân Mỹ (Úc, Canada, Châu Âu…) gốc Việt. Cũng phải giải thích rằng chuyện đối kháng “sống” được trong chế độ Cộng Sản Việt Nam là điều khó khăn vì các thành viên đều bị o bế kiềm tỏa, phá hoại về kinh tế, do chính sách đàn áp của nhà cầm quyền. Chỗ dựa chính của họ chính là nguồn tài chính từ hải ngoại. Một câu hỏi đặt ra là: Mỹ có bình đẳng trong quan hệ với cả hai phe, nhà cầm quyền và phe đấu tranh đối kháng tại Việt Nam hay không? Chắc chắn là có! Nhưng cái cần quan tâm nhất đối với người Mỹ đó vẫn là quyền lợi của họ và đồng minh. Chính vì điều này Mỹ phải đặt quan hệ với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lên hàng đầu vì hiện nay chỉ họ mới có thể đáp ứng được các yêu cầu chiến lược cấp bách của Mỹ. Nhưng có lẽ người Mỹ sẽ chỉ ủng hộ phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam ở mức độ nào đó vì nhiều lẽ. Bài học đau đớn Việt Nam Cộng Hòa năm xưa người Mỹ không thể quên: Họ đã tốn hàng núi Dollas chỉ để tạo được một thể chế gia đình trị lạc hậu trong Đệ nhất VNCH; do Mỹ hậu thuẫn, sống nhờ tài chính Mỹ nhưng lại không chịu làm theo ý đồ chiến lược của Mỹ. Sau này Đệ nhị VNCH cũng lại trượt theo “vết xe đổ TT Ngô Đình Diệm” và trong khủng hoảng chính trị bởi nguy cơ đảo chính thường trực… Vậy lấy gì để người Mỹ tin rằng, nếu giả sử như chế độ thối nát Độc tài Cộng Sản Việt Nam hiện nay bị lật đổ thì chế độ tiếp sau nó có hoàn toàn thân Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc hay không. Điều này người Mỹ biết rõ vì bản thân những nhà lãnh đạo của các tổ chức có thực lực ở hải ngoại phần lớn đều là các cựu quân cán chính của VNCH khi xưa, nhiều người vốn tận đáy lòng vẫn ghét Mỹ vì họ luôn cho rằng “Mỹ bỏ rơi đồng minh” năm xưa. Một câu hỏi khác nảy sinh là, tại sao người Mỹ vẫn hậu thuẫn đấu tranh? Rất dễ hiểu, đó chính là chính sách dân chủ hóa toàn cầu của họ, và họ muốn có lý do để gây áp lực với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, để tránh bị coi là chống lại xu thế dân chủ, một điều trớ trêu thay là nhà cầm quyền Cộng Sản lại dùng chiêu bài trả tự do nhỏ giọt cho một vài tù nhân chính trị để đổi lấy sự ấm lên trong quan hệ ngoại giao với Mỹ! Bằng các động thái ngoại giao song phương dần tiến tới quan hệ đối tác toàn diện Việt – Mỹ, bằng việc cử một viên đại tướng sang thăm Việt Nam, có vẻ như Mỹ đã đạt được mục đích then chốt của mình tại khu vực Biển Đông. Nếu tiến xa hơn trong quan hệ và dần loại bỏ tầm kiềm tỏa của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chính phủ Việt Nam có thể tồn tại lâu hơn nếu thực lòng trở thành đồng minh của Mỹ. Đối với giới đấu tranh dân chủ, tất nhiên họ phải cố gắng hết mình, sẵn sàng đối đầu với công an, nhà tù để đấu tranh đến cùng. Nhưng hơn bao giờ hết, họ phải thực sự quên đi câu chuyện “đồng minh” ngày trước với Mỹ. Và có lẽ điều quan trọng nhất là họ cần làm cho người Mỹ thấy được, họ (đặc biệt là những nhà đấu tranh hải ngoại) thực sự có tâm và có tầm. “Tâm và tầm” ở đây cụ thể là gì? Có tâm là làm việc hết mình, không tư lợi, đừng tham nhũng, đừng lừa dối, đừng tiểu xảo với những nhà tài trợ. Có tầm là tập hợp được những con người có năng lực thực sự gia nhập các tổ chức đảng phái đấu tranh của mình, vì chỉ có sức mạnh của tập thể gồm nhiều người có thực tài mới có thể làm nên việc lớn. Tai mắt của Mỹ khắp nơi, chẳng có tật xấu nào của người Việt hải ngoại che được mắt họ. Như vậy có thể thấy: Chuyện Mỹ đồng đồng hành với cả hai phe Cộng Sản và chống Cộng là điều có lý. Phía nhà cầm quyền chỉ cần cải thiện dân chủ nhỏ giọt để làm hài lòng người Mỹ là đủ. Về phía những người đấu tranh, ngoại trừ họ có khả năng phát động một cuộc lật đổ thần thánh (điều này chưa thể xảy ra trong tương lai gần) thì cũng hãy nên tạm bằng lòng với vị thế hiện nay của mình.  “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hay “có thực mới vực được đạo”, người Mỹ có quyền vì họ có sức mạnh vật chất. Nhưng vốn tôn thờ Chủ nghĩa Thực dụng, họ sẽ nhìn thấy ngay đâu là điều họ nên làm. Khi nhà nước Việt Nam Cộng Sản đồng hành với Mỹ thì đó cũng chính là lúc lợi thế giữa hai phe Cộng Sản và đối kháng thêm sự mất cân bằng. Trong đấu tranh, nếu biết tận dụng mọi nguồn lực, cụ thể (đối với người Việt đối kháng) đây là nguồn lực Mỹ, thì không gì khôn ngoan hơn. Nhưng họ phải làm sao để người Mỹ có cơ sở tin tưởng mình. Rất dễ và cũng thật khó! Tuy nhiên, với những con người thông minh và giàu ý chí, có nghị lực, chỉ có cái chưa thể chứ không có cái không thể! Cơ hội vẫn còn đang ở phía trước cho những người đấu tranh chống Cộng Sản. Chẳng có gì hạnh phúc hơn là tự mình làm nên mọi chuyện mà chẳng cần dựa vào ai. Nhưng điều này quả là không hề đơn giản! Lê Nguyên Hồng – Sydney, Australia Nguồn:  DienDanCTM
......

Thực Chất Cuộc Chiến Giữa Tập Cận Bình và Chu Vĩnh Khang

Trên danh nghĩa tận diệt tham nhũng, Tập Cận Bình đã và đang truy bức rất nhiều cán bộ cao cấp và trung cấp trong hơn một năm vừa qua. Có người bị đi tù, có người bị cách chức chờ điều tra, có người nhảy lầu tự tử, có người bị tịch thu tài sản. Trong số những cán bộ cao cấp bị họ Tập chiếu cố là phe nhóm của ông Chu Vĩnh Khang, cựu ủy viên thường vụ bộ chính trị, đặc trách về guồng máy an ninh – tư pháp. Theo nhiều nguồn tin, Chu Vĩnh Khang hiện đang bị câu lưu và những người thân cận cũng bị điều tra và có người đã bị câu lưu như họ Chu lên đến non 100 người. Báo chí Trung Quốc đã mô tả đây là vụ điều tra tham nhũng và lợi dụng chức quyền. Báo chí phương Tây bị rơi vào cái bẫy của họ Tập nên các bản tin cũng chỉ xoay quanh vấn đề tham nhũng. Thực tế tham nhũng chỉ là chiêu bài. Bên trong màn kịch chống tham nhũng chính là trận chiến giữa các phe Thái Tử Đảng. Cụ thể hơn là phe Bạc Hy Lai và Tập Cận Bình. Bạc Hy Lai là cựu Bí Thư Trùng Khánh, cựu ủy viên Bộ chính trị từng có tham vọng cạnh tranh với Tập Cận Bình để ra làm Tổng Bí Thư và Chủ tịch nước sau khi Hồ Cẩm Đào mãn nhiệm kỳ. Bạc Hy Lai là con trai của Bạc Nhất Ba, một trong tám công thần của đảng Cộng sản Trung Quốc, cầm chịch quyền lực Trung Quốc dưới thời mở cửa năm 1978. Trong khi đó, Tập Cận Bình là con trai của Tập Trọng Huân, cựu phó Thủ tướng cùng thời với Đặng Tiểu Bình. Tuy thuộc thế hệ Thái Tử Đảng như Bạc Hy Lai, nhưng cái gốc của họ Tập không bằng Bạc Hy Lai nên vì thế mà họ Bạc coi thường Tập Cận Bình. Họ Bạc đã liên kết với Chu Vĩnh Khang và nhiều cán bộ cao cấp khác, kể cả việc vận động Giang Trạch Dân ủng hộ, để tiến cử Bạc Hy Lai vào trách vụ Tổng Bí Thư thay vì là Tập Cận Bình. Để thu hút sự chú ý của dư luận, Bạc Hy Lai phát động phong trào nhạc đỏ, phục hoạt chủ nghĩa Mao và cực lực phê phán tình trạng tồi tệ của xã hội do những chính sách phát triển kinh tế nửa vời của Ôn Gia Bảo - Hồ Cẩm Đào. Sự cao ngạo của Bạc Hy Lai cùng với sự hậu thuẫn của bộ máy an ninh do Chu Vĩnh Khang điều khiển đã làm cho Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo và Tập Cận Bình lo ngại. Nếu Bạc Hy Lai thắng thế thì phe họ Hồ và họ Tập sẽ bị “thanh trừng”. Điều bất hạnh cho Bạc Hy Lai là người thân cận nhất của mình là Vương Lập Quân, nguyên giám đốc công an Trùng Khánh lại đi tố cáo bà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc Hy Lai, là đã ra lệnh cho thuộc hạ đầu độc một doanh nhân người Anh là Neil Heywood. Vụ án này đã làm cho gia đình Bạc Hy Lai tan nát. Bà Cốc Khai Lai thì bị tử hình nhưng hoãn thi hành, trong khi bản thân Bạc Hy Lai bị tù chung thân và tịch thu toàn bộ tài sản. Tập Cận Bỉnh đã đẩy gia đình Bạc Hy Lai vào tù nhưng không an tâm vì trước đó, khi biểu quyết cách chức ủy viên Bộ chính trị của họ Bạc chỉ có một mình Chu Vĩnh Khang bỏ phiếu chống. Điều này cho thấy là Chu Vĩnh Khang đã ra mặt ủng hộ Bạc Hy Lai chống lại Tập Cận Bình. Mặc dù Chu Vĩnh Khang đã về hưu, không còn nắm bất cứ trách vụ gì kể từ sau năm 2013; nhưng nếu để họ Chu thong dong bên ngoài, liên lạc và điều hướng đàn em trong bộ máy công an thì phe nhóm Bạc Hy Lai sẽ có thể được phục hoạt, đe dọa đến sự tồn vong của Tập Cận Bình. Đó là lý do thầm kín nhất khiến cho Tập Cận Bình phải phát động chiến dịch chống tham những để qua đó công khai triệt hạ uy tín của Chu Vĩnh Khang hầu củng cố quyền lực. Nói tóm lại, trận chiến giữa Tập Cận Bình và Chu Vĩnh Khang là cuộc chiến tranh giành quyền lực của hai phe thái tử đảng: Bạc Hy Lai và Tập Cận Bỉnh.
......

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì? Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.   Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị. Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu? Văn hóa Trung Quốc với Khổng giáo làm chủ đạo thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?   Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ. Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông: "Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ. Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?" Khổng giáo và ý thức nữ quyền   Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:   "Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế." Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông và nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:   "Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái. Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán… Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn." Nô bộc chính trị Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay: "Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước. Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?" Thói quen theo đuôi hữu nghị   Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).   Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của hệ thống cầm quyền Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói: "Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột. Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917… như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!"   Lệ thuộc chính trị kéo theo bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn. Câu hỏi đặt ra trước mắt: Thoát Trung, phải thoát điều gì? Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này: "Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam." Văn hóa quỳ lạy Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản: "Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý. Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất." Chủ nghĩa cộng sản Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất chấp giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch HCM đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?   "Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy. Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch HCM về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn."   Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:   "Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu. Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu." Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:   "Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam. Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go."   Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không? Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam? Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác. Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy. Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiên Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay. Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang. Việc du nhập văn hóa, văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường. Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã. Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một yếu tố cần thiết hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm. Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào để có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:   "Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật." Hãy giải phóng chính mình   Nhà báo Lê Phú Khải chủ trương cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:   "Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả." Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết: “Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước." Những ý kiến, tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nướ quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.   Nguồn: rfa.org
......

Ai sẽ cứu Lục Vân Tiên?

Ngay khi tin tức cho hay ngày 15/8, Bộ Thông tin và Truyền Thông (Bộ TT-TT) ra quyết định thu hồi giấy phép làm báo và phạt tiền tờ báo điện tử Tri Thức Trẻ vì phát hành bài viết xúc phạm phụ nữ, tiếng vỗ tay đã vang lên khắp nơi, từ báo chí Nhà nước cho đến các trang mạng xã hội. Bộ TT-TT bất ngờ trở thành một Lục Vân Tiên giữa đời thường, thấy chuyện bất bình mà ra tay. Thế nhưng câu chuyện hào hiệp này cũng cần được mổ xẻ thêm một chút, cho rõ Lục Vân Tiên ấy, thế nào.   Câu hỏi đầu tiên được đặt ra, là việc nghiêm khắc đóng cửa tờ báo này – nghe qua thì có vẻ rất kỷ cương, nhưng nếu nhìn sâu một chút, bạn có bao giờ tự hỏi vì một người viết bài, một tổng biên tập tạo nên sai lầm đó, tại sao lại bắt cả cơ quan phải nghỉ việc. Trong đó, chắc chắc rằng anh bảo vệ, chị kế toán, những phóng viên khác, biên tập khác… đã không gây nên lỗi lầm gì? Thay vì làm hành động kỷ luật ban biên tập chính hay cách chức tổng biên tập, thì Bộ TT-TT lại hành động một cách hàm hồ là huỷ diệt cả một tờ báo. Huỷ diệt dễ dàng luôn cả một cơ quan báo chí, vô hình trung trở thành một kiểu phô diễn quyền lực của một Nhà nước độc tài truyền thông, và hy sinh cả những người không liên quan để tạo thế trình diễn sự mị dân. Loại trừng phạt kiểu vì một người bệnh, bắt cả đám đông chung quanh phải uống thuốc thay, là một kiểu làm xưa cũ và chỉ cho thấy sự lụn bại của cách thức kiểm soát truyền thông hiện nay. Theo quy cách truyền thống của báo chí, người nào làm sai phải chịu trách nhiệm rõ trước người đọc. Tờ báo đó sẽ phải tiếp tục đăng tải thông tin về việc chịu trách nhiệm, đăng tải thư xin lỗi về sai lầm của mình. Giờ thì mọi thứ không khác gì cho chìm xuồng. Vai trò trách nhiệm phản hồi trước độc giả của một cơ quan báo chí độc lập cũng bị tước bỏ, không khác gì đứa trẻ trong gia đình bị phạt, cắt bữa bú chiều vì tội quấy. Các tờ báo khác phải đăng tải hậu sự của tờ báo Tri Thức Trẻ, dù muốn dù không, cũng bị đặt dưới góc nhìn là bầy kên kên vui vẻ quanh cái chết của đồng nghiệp. Mà khốn nỗi, thật sự không ai biết các thủ phạm chính sẽ về đâu, hay nay mai lại được im lặng bổ nhiệm vào vị trí mới, cho một tờ báo mới? Một câu hỏi khác, là nếu không tỉnh táo, cứ vỗ tay hoan hô “cái đúng” của Bộ TT-TT qua sự kiện này, sự vui mừng hời hợt này có phải là cú hích, giúp cho khuynh hướng xiết chặt tự do báo chí từ Nhà nước Việt Nam hay không? Báo chí – cũng do Nhà nước dựng nên – theo một hành lang được xiết chặt đến nghẹt thở, và rồi kẻ xấu xuất hiện ngay trong hành lang ấy, lại được Bộ TT-TT đóng vai là một Lục Vân Tiên giải cứu. Khán giả vỗ tay cám ơn nhưng bị cảm giác đúng-sai đánh lừa một thực tế quan trọng: Báo chí và Bộ TT-TT trong xã hội Việt Nam có mối quan hệ sâu đậm như cha con. Trong bối cảnh nhiễu nhương của xã hội Việt Nam lúc này, đặc biệt trước loạt đại hội Đảng bộ cấp cơ sở vào tháng 4/2015, hầu như các viên chức lãnh đạo, cơ quan nhà nước… đều đau đáu tìm cách giới thiệu thành tích, hành động như những “người tốt”. Việc hồ đồ hành động mang màu sắc Lục Vân Tiên của Bộ TT-TT, lại cho thấy thêm một cách hành xử hiện rõ vai trò độc tài kiểm soát báo chí, và cũng cho thấy cách hành xử của các vị lãnh đạo truyền thông trong chuyện này hoàn toàn không có chút thông minh nào. Câu chuyện xúc phạm phụ nữ nhằm chỉ để câu view của báo Tri Thức Trẻ, chỉ là chuyện vặt của nền báo chí Việt Nam. Nó cho thấy thói quen được đặt ra lâu nay, từ trên xuống, trong giới báo chí, là miễn đừng nói chuyện chính trị, thì tào lao hay vô giáo dục cỡ nào cũng được phép. Việc vạch rõ lằn ranh này khiến cho chuyện kinh dị, chuyện khiêu dâm, chuyện thách thức đạo đức… xuất hiện ngày càng nhiều trong làng báo, nhưng chuyện viết về biển Đông hay chỉ trích Trung Quốc là các báo phải xếp hàng, ngồi chồm hổm chờ được bật đèn xanh.   Xét cho cùng, bài viết về phụ nữ của tờ Tri Thức Trẻ chỉ là cú sẩy chân tháng Bảy cô hồn, vì so với nhiều đồng nghiệp của mình lâu nay, thì bài viết ấy vẫn chưa là gì.   Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu là một người tự do và chân thành. Hai tư chất đó khó mà soi thấy được trong nền báo chí xã hội chủ nghĩa. Ai sẽ vén màn để nhìn thấy được Lục Vân Tiên đang được Bộ TT-TT đánh tráo, trình diễn trên một sân khấu tự biên tự diễn của mình? Rồi ai sẽ cứu linh hồn Lục Vân Tiên? Nguồn: nhacsituankhanh.wordpress.com ***** Báo điện tử Trí Thức Trẻ bị phạt nặng Bài viết gây tai tiếng đã được rút khỏi trang báo   Báo điện tử Trí Thức Trẻ vừa nhận quyết định đình bản ba tháng và bị phạt 207 triệu đồng vì đăng bài nói về phụ nữ miền Tây "gây bức xúc cho dư luận". Hôm 12/8, báo này đăng bài có tựa đề "Gái miền Tây và 3 chữ “N” nổi danh thiên hạ" của một tác giả ẩn danh. Bài báo bình luận về các cô gái ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: "Về độ “ngon”, độ “ngoan” thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ “ngu” thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái “ngu dốt” vô đối". Khi đăng tải, bài này đã gây phản ứng khá gay gắt trong dư luận. Chiều thứ Năm 14/8, Thứ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Việt Nam Trương Minh Tuấn đã họp khẩn cấp với Thanh tra Bộ, Cục báo chí, và một số cơ quan khác để xem xét vụ này. Ông Tuấn vừa ký quyết định số 1171/QĐ-BTTTT ngày 15/8 đình bản báo điện tử Trí Thức Trẻ ba tháng. Sau thời gian đình chỉ tạm thời nói trên, Bộ Thông tin- Truyền thông sẽ xem xét để quyết định việc tiếp tục hoạt động của báo này. Cùng ngày 15/8, Thanh tra Bộ Thông tin - Truyền thông cũng quyết định phạt báo điện tử Trí Thức Trẻ 207 triệu đồng. Đây là mức phạt cao nhất từ trước tới nay đối với một tờ báo.   Vi phạm nghiêm trọng Kết luận của Bộ Thông tin-Truyền thông đánh giá rằng bài viết đã đăng trên tờ Trí Thức Trẻ là "điển hình của những trò giật gân, câu khách rẻ tiền trên một số tờ báo điện tử hiện nay". "Ngoài việc vi phạm pháp luật nghiệm trọng, thông tin trên báo điện tử Trí Thức Trẻ còn ảnh hưởng đến xã hội, gây bức xúc cho dư luận." Tác giả bài báo, viết từ góc độ một người miền Bắc từng yêu một cô gái miền Tây, đã tỏ thái độ khinh miệt phụ nữ vùng này. "Dù không là người miền Tây, nhưng đã từng tiếp xúc, đã từng yêu gái miền Tây, tôi tiếc và khá thất vọng về họ." Quyết định đình bản đã được áp dụng cho một vài tờ báo ở trong nước trước đây. Năm 2009, báo Du lịch cũng bị đình bản trong ba tháng vì 'sai phạm nghiêm trọng' trong số Tết Kỷ Sửu 2009, khi đăng bài nói về quan hệ Việt-Trung. Báo điện tử Trí Thức Trẻ thuộc Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam và do Công ty cổ phần truyền thông Việt Nam (VC Corporation) vận hành, khai thác. VC Corporation hiện có hơn 20 sản phẩm trong lĩnh vực Truyền thông, Thương mại điện tử và Mạng xã hội. Công ty nhận đầu tư nhiều triệu đôla của Quỹ Intel Capital năm 2012. Trước đó, năm 2007, VC Corporation nhận đầu tư start-up của quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Ventures Việt Nam, công ty gắn liền với tên tuổi ông Henry Nguyễn Bảo Hoàng, con rể Thủ tướng Việt Nam. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese
......

Biết "rưng rưng" thế nào mới khá?

So với loại phát biểu “tham nhũng như ngứa ghẻ” của Nguyễn Phú Trọng, hay “bán vé số có thu nhập cao” của Giàng Seo Phử, thì phải nói các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nằm hẳn ở một tầng cao khác, từ "lòng tin chiến lược", đến "dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm", đến "không đổi lấy hữu nghị viển vông". Nhưng đến nay hầu như ai hiểu chuyện hậu trường đều biết ông Dũng chỉ cầm giấy đọc. Còn chữ nghĩa trong từng tờ giấy đó đều do ông Vũ Đức Đam viết. Ông Đam từng giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (tức Văn phòng Thủ tướng) và nay là Phó Thủ tướng.   Nhưng cũng chính vì nhiều người biết chuyện đó nên họ càng ngạc nhiên với phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại Hội nghị tổng kết niên học 2013-2014. Ông bảo: “Nếu chúng ta không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát Quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh”. Báo chí càng loan tải câu này, người ta càng cười buồn, rồi xoay qua bàn tán. Những phát biểu hoành tráng của ông Nguyễn Tấn Dũng ít ra cũng tạo tác động thán phục được vài tuần rồi mới biến mất khi người ta so với thực tế và so với các động thái của người nói. Còn phát biểu hoành tráng của ông Vũ Đức Đam lại tạo phản ứng khó chịu gần như lập tức. Tại sao thế? Trước hết, ai cũng biết bản quốc ca Việt Nam hiện nay còn ngập đầy máu me, hận thù, giết chóc của thời xa xưa nên khá lạc hậu so với tiêu chuẩn văn minh nhân bản của thế kỷ 21. Nhưng đó vẫn không phải là lý do chính làm bật lên cảm giác cay đắng nơi người nghe. Thật vậy, rất nhiều con người thuộc mấy thế hệ liên tiếp đã từng hát, từng khóc, từng sống dưới bản Tiến Quân Ca và cũng chính họ từ từ nhận ra bài quốc ca này chỉ là một phần trong toàn bộ bài bản tuyên truyền để đánh lừa cả một dân tộc. Cảm giác cay đắng đến từ nhận thức chính mình và biết bao bạn bè cùng thế hệ với mình đã bị lợi dụng không thương tiếc khi Đảng CSVN đánh đồng Đảng với tổ quốc Việt Nam; bắt buộc "yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội; bọc kín ý đồ mở rộng thế giới CS bằng máu người Việt Nam trong lá cờ giải phóng dân tộc; v.v... Từ thời chiến tranh chống thực dân Pháp, đã có biết bao trường hợp trong lúc con đi bộ đội, rưng rưng hát bản quốc ca, sống chết ngoài chiến trường, thì cha mẹ ở nhà cũng rưng rưng bị đấu tố vì "Đội" chưa vét đủ con số địa chủ mà các cố vấn Tàu ấn định cho từng làng từng xã. Ngoài những vụ lớn như bà Cát Thanh Long Nguyễn Thị Năm, địa phương nào cũng còn đầy những câu chuyện phản bội tàn nhẫn. Ngay tại Hà Nội, người ta còn nhắc lại trường hợp một bà mẹ có con trai đang là trung đoàn trưởng Quân đội Nhân dân. Bà trước đó từng hiến cả trăm lạng vàng cho chính quyền cách mạng, nhưng vẫn là địa chủ bị án tử hình để làm "gương" cho kẻ khác. Hay trong số cháu nội của cụ Phan Bội Châu, có một người lúc đó là trung đội trưởng. Nhà ông rất nghèo, chỉ có 3 sào đất để nuôi sống 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ đem ra đấu tố cho đủ chỉ tiêu. Cả xã hội sau 1954 cũng chẳng may mắn gì hơn, bị ném ngay vào các chiến dịch cải tạo với đầy máu, nước mắt, và nhất là sự sợ hãi ngày đêm, từ Nhân Văn Giai Phẩm đến cải tạo công thương nghiệp đến bài trừ văn hóa đồi trụy, .... Ai còn rưng rưng nổi khi hát quốc ca? Rồi thế hệ kế tiếp lại hát Tiến Quân Ca, lại bị ném vào cuộc chiến “Giải phóng Miền Nam, chống Mỹ cứu nước”, để đến khi chiến thắng thì chính lãnh đạo tối cao Lê Duẫn thừa nhận "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc". Và đến phiên nửa nước còn lại đi qua giai đoạn cải tạo con người mới XHCN, bài trừ văn hóa đồi trụy, cải tạo công thương nghiệp, lập vùng Kinh tế mới. Cả nước lao vào nạn đói và sợ ngày đêm. Khi nhìn lại, ai cũng chỉ cảm thấy lợm giọng, buồn nôn chứ không sao rưng rưng hát quốc ca nổi. Và càng gần với hiện tại thì càng khó hát quốc ca. Hát sao nổi khi bia mộ của những bộ đội hy sinh trong 10 năm chống Trung Quốc xâm lược (1979 - 1989) bị đục bỏ? Sử sách, kể cả quân sử, bị tẩy xóa. Các thế hệ tương lai không còn biết ai giết họ, không biết lý do họ hy sinh. Lãnh đạo đảng ở các vùng biên giới chỉ tổ chức các phái đoàn đưa vòng hoa "Đời đời nhớ ơn Liệt sĩ Trung quốc" qua bên kia biên giới hàng năm. Hát sao nổi khi toàn bộ anh hùng dân tộc, mà tuyệt đại đa số là lãnh tụ chống ngoại xâm từ Phương Bắc, theo chỉ thị năm 2014, đã bị hất ra khỏi danh sách những ngày quốc lễ. Ngay cả Quốc Tổ Hùng Vương cũng rớt xuống hàng "tỉnh lễ" mà thôi. Lòng yêu nước chống ngoại xâm truyền thống của dân tộc đang là điều lo lắng cho lãnh đạo và họ đang cố trấn áp bằng mọi giá. Thế thì lấy ai rưng rưng hát quốc ca? Và hát sao nổi khi lãnh đạo vẫn cương quyết không cho dân giữ nước, và cũng nhất định không kiện Trung Cộng, không liên minh phòng thủ Biển Đông, và không bảo vệ ngư dân Việt. Sau mùa biển động năm nay, cảnh giàn khoan mọc như nấm quanh vùng Hoàng Sa gần như là chuyện đương nhiên. Ai còn thực sự yêu nước đều lo tìm cách Thoát Trung chứ chẳng ai muốn đóng kịch đứng hát quốc ca. Đó là chưa kể vừa hé mắt nhìn vào tương lai đã thấy cảnh các con ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Văn Chi, Tô Huy Rứa, Nguyễn Bá Thanh, Lê Thanh Hải, ... đang cùng bước lên ghế lãnh đạo. Nghĩa là tương lai đất nước Việt Nam sẽ tiếp tục con đường hiện tại, tiếp tục lùi xa hơn các nước trong vùng, mà nay đang thua cả Miến lẫn Miên. Rõ ràng không chỉ quốc ca, mà mọi thứ "quốc" lớn, "quốc" nhỏ khác, đặc biệt là Quốc Mạng (vận mạng quốc gia), đều chưa hề là của dân. Thực tế đó chỉ để lại 2 loại rưng rưng thật trên đất nước Việt Nam hôm nay. Một là loại rưng rưng như của TBT Nguyễn Phú Trọng khi đọc diễn văn kết thúc Hội nghị Trung ương 6 vì thất bại quá đau đớn. Với các sát phạt nội bộ kịch liệt trong cuộc chạy đua trước Đại Hội Đảng 2016, cảnh rưng rưng này sẽ còn nhân lên nhiều. Hai là loại rưng rưng của những nạn nhân của chế độ: từ những người đang vào tuổi cuối đời nhớ lại các bạn mình đã bị cướp đi cả cuộc đời; đến những người trung niên cạn nước mắt, thẫn thờ nhìn đoàn công an đến cướp đi phương tiện kiếm sống duy nhất của gia đình; đến những cháu bé nhìn bạn chết trôi trên đường băng sông đi học hàng ngày. Không ai buộc hết trách nhiệm các cảnh rưng rưng đó vào cổ ông Vũ Đức Đam, nhưng cũng không ai quên thực tế ông Đạm là một trong những con ốc chính trong guồng máy đang tiếp tục tạo ra những cảnh rưng rưng này. Nếu thực sự muốn "đất nước giàu mạnh", ông Đạm dư biết cần phải làm gì. Chính các cựu ủy viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách, Nguyễn Văn An đã chỉ con đường ra từ lâu lắm rồi./.
......

Tội chống nhà nước không to bằng tội chống nhân dân!

-Tội gì? -  Tội chống đối nhà nước! -  Chống đối như thế nào? -  Viết bài, tuyên truyền, nói xấu chế độ! -  Ô hay! Không yêu, không đồng tình cũng phải nói rõ ra là không yêu, không đồng tình thì người ta mới biết đường chứ? Thế nhà nước có viết bài, tuyên truyền không? Trong bộ luật hình sự năm 1999, có quy định hẳn chuyện nói xấu thành một cái tội, đó là tội“tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhưng bộ Luật này thiếu một vế cơ bản, đó là tội “tuyên truyền chống nhân dân Việt Nam” Làm gì có chuyện chỉ kết tội một chiều thế được? Làm gì có chuyện chỉ có nhà nước mới được quyền tuyên truyền? Làm gì có chuyện hễ là nhà nước thì không có tội?   Tội chống nhà nước không to bằng tội chống nhân dân! Điều này chắc như đinh đóng cột vậy. Nếu có người bảo, đừng có nhân danh nhân dân! Vậy thì cũng sẽ có người bảo, đừng có nhân danh nhà nước! P/S: Muốn biết tỷ lệ yêu ghét trong dân, hãy bỏ phiếu đi. Và đề nghị Liên hợp quốc giám sát việc bỏ phiếu. Không tin ông cộng sản kiểm phiếu được. Cái gì cũng tốt đẹp cho đến khi nó bị phanh phui, mà thiên hạ đồn là do phe nhóm đánh nhau mới lòi ra, chứ chả ông DÂN nào có công phanh phui ra cả.   Nguồn: chimkiwi.blogspot.de
......

Minh Quân của Việt Nam là ai ?

Nhiều người Việt chúng ta đang trông chờ một nhân vật có khả năng trở thành Lãnh Tụ hay một Minh Quân để lèo lái con thuyền Quốc Gia ra khỏi vũng lầy khủng hoảng triền miên do chế độ độc tài Cộng sản gây ra trong gần 8 thập niên qua. Đương nhiên, ai cũng nghĩ rằng lãnh tụ hay minh quân này phải hội đủ Tài, Đức của các vị lãnh đạo đáng kính đã xuất hiện trong dòng lịch sử của dân tộc, hoặc giống như những vị trên thế giới đã và đang dẫn dắt dân tộc của họ vượt qua những giai đoạn khó khăn, đưa đất nước thăng tiến trở thành các cường quốc, có vị được sự nể trọng của toàn thế giới. Chỉ có những vị có đủ tài đức như vậy, mới thu phục được nhân tâm, lãnh đạo và đưa công cuộc đấu tranh chấm dứt độc tài và dân chủ hóa đất nước sớm đến thành công. Nhìn sang Miến Điện, người Việt ước ao đất nước ta có một Aung San Suu Kyi,  nhìn sang Tây Tạng  ước mơ có một Đức Đạt Lai Lạt Ma,  nhìn sang Singapore ước mơ một Lý Quang Diệu, nhìn sang Nam Phi ước mơ một Mandela … Nhưng đặt những ước mơ đó cùng với sự mong chờ một lãnh tụ hay minh quân xuất hiện ở Việt Nam không phải là điều thực tế, vì những lý do sau đây: 1.                  Minh Quân hay Lãnh Tụ dù có khả năng thiên phú đến đâu cũng cần phải được thực tập/tôi luyện về khả năng lãnh đạo cũng như đạo đức cần có. Ngay cả những người được thừa hưởng vị thế lãnh đạo của cha mẹ hay gia đình cũng cần phải được tôi luyện để mài dũa khả năng (trừ phi họ được đưa lên để làm bình phong cho một cá nhân hay nhóm người nào đó muốn thao túng quyền lực). 2.                  Hình ảnh một người là Minh Quân hay Lãnh Tụ ở thời buổi xã hội mạng (social network) của thế kỷ 21, với trào lưu dân chủ, không chỉ  là một cá nhân siêu việt như trong quá khứ, mà là đại diện của một tập hợp  có thực lực và có khả năng đem ước mơ của số đông biến thành hiện thực. Có thể có trường hợp một cá nhân đa tài và nổi tiếng được tập thể tôn vinh và tôi luyện thêm để trở thành lãnh đạo. Cũng có khi một cá nhân bình thường được tập thể tôi luyện và trở thành một nhà lãnh đạo lỗi lạc. Nhiều vị tổng thống Hoa Kỳ hoặc lãnh đạo của một số  quốc gia dân chủ ngày nay đều được phát triển và tôn vinh lên qua tiến trình này. Điều này giúp ta rút ra một đặc tính của xã hội ngày nay, đó là lãnh đạo bằng trí tuệ của tập thể.  Nó vừa mạnh mẽ hơn trí tuệ của một cá nhân, vừa tránh được hiện tượng một cá nhân thao túng quyền lực và trở nên độc tài, chuyên chế. (Chế độ cộng sản tuy cai trị bằng tập thể nhưng là một tập thể chuyên chế và thống trị bằng bạo lực, sản sinh ra một hệ thống độc tài và tàn bạo để duy trì quyền lực độc tôn). Trong tình hình Việt Nam hiện nay duới sự độc quyền của đảng CSVN, muốn có một Minh Quân hay Lãnh Tụ xứng đáng thì chính đồng bào chúng ta phải:   1.                  Tự đi tìm và đào tạo Minh Quân chứ không ngồi chờ đợi Minh Quân xuất hiện rồi mới tham gia đấu tranh hay xây dựng đất nước. Vị Minh Quân đó có thể là chính chúng ta, con cháu hay bằng hữu của mình, hoặc một vị mà chúng ta chưa bao giờ biết đến rồi gặp nhau trên con đường phục vụ Tổ Quốc. 2.                  Cần củng cố niềm tin vào sự trong sáng của đa số những người đang đồng hành với mình trên con đường phục vụ. Giúp bảo vệ và hỗ trợ cho những cá nhân/tổ chức hay đảng phái có tâm, có tài trước những thị phi, oan trái, đánh phá của kẻ xấu, nhất là của đảng CSVN. Nói tóm lại, Minh Quân là một mẫu người do đào tạo mà ra chứ không phải do trời phái xuống. Không một Minh Quân nào có thể thành hình nếu không có sự hỗ trợ của những người có lòng. Thời đại hôm nay, tập thể chỉ huy chứ không phải cá nhân; do đó, Minh Quân chính là một “tập thể trí tuệ” có Tâm, có Tầm đã được đào tạo/tôi luyện bằng một quá trình phục vụ với tinh thần dân chủ, và tập thể này sẽ đưa ra
......

Sự mỉa mai của lịch sử

Georg Hegel và Friedrich Engels, hai triết gia Đức vĩ đại, thường nhắc đến cụm từ “sự mỉa mai (hay sự trớ trêu) của lịch sử” (irony of history), với ngụ ý rằng mục đích của những cuộc cách mạng xã hội đặt ra ban đầu thường không thực hiện được. Thay vào đó, cuộc cách mạng có thể có “hiệu ứng ngược”, dẫn tới những hậu quả trái ngược với dự tính. Sự mỉa mai của lịch sử cũng có thể gọi là bi hài kịch của “cách mạng”. Bi hài kịch của cách mạng ở nước nào sẽ là bi hài kịch của nước đó. Mấy chục năm qua là giai đoạn bi hài kịch của nước Việt. Những mục tiêu cơ bản được dự tính ban đầu về tương lai dân tộc, được nêu thành những khẩu hiệu kêu xoang xoảng, thành những thứ “lý luận”, “nghị quyết”, “văn kiện”,… đều bị đảo lộn theo cách vừa thê thảm, vừa nực cười, và theo cách nào đó là khá “ngoạn mục”. Kèm theo đó, những tính chất mà ban đầu được coi là “thuộc tính” của cái “hệ thống” vừa được thiếp lập, theo thời gian ngày càng tỏ ra bị ngộ nhận. * Một trong những mục tiêu không thành hiện thực được thể hiện bởi khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Ở miền Bắc, chỉ 2 năm sau khi hoàn thành “cải cách ruộng đất”, mà ban đầu được phổ biến là lấy đất của địa chủ, phú nông chia cho bần-cố nông, những người nông dân đã bị “lùa” vào hợp tác xã (nông nghiệp). Đây là hình thức hợp tác xã bắt buộc. 100% đất canh tác ở miền Bắc, nếu không thuộc sự quản lý của các nông trường quốc doanh, đều là đất của hợp tác xã. Gia đình nào “ngoan cố” không chịu vào hợp tác xã đều bị chính quyền o ép đến sống dở chết dở, con cái không được đi học, ra ngoài không có bạn chơi. Trong nhiều trường hợp, hợp tác xã tự ý cho người đến canh tác trên đất của gia đình “ngoan cố”, nếu nhà kia chống lại thì bị đám đông đánh đập, cuối cùng cũng phải vào hợp tác xã. (Một điều khá khôi hài là mặc dù dùng hình thức cưỡng bức để bắt mọi gia đình vào hợp tác xã, nhưng cấp trên vẫn sản xuất một thứ “thơ” để tuyên truyền rằng vào hợp tác xã sẽ sung sướng tuyệt đỉnh, làm ra vẻ hợp tác xã hình thành là do bà con đọc thứ “thơ” đó và “thấm nhuần”, nên tự nguyện vào hết!) Vì hợp tác xã chỉ dẫn đến đói nghèo, vào cuối những năm 1980, người ta buộc phải để cho “thành phần kinh tế cá thể (hay tư nhân gì đó)” hình thành, và ngay lập tức, tất cả các hợp tác xã nông nghiệp đều tan rã! Tuy nhiên, điều vừa nói không có nghĩa là ước mơ “người cày có ruộng” đã thành hiện thực. Vì quá ít đất, vì không có cách nào để thoát khỏi tình trạng canh tác lạc hậu, lại chịu đủ các thứ thuế khóa, thu nhập từ mảnh ruộng của người nông dân với con cái và cha mẹ già của họ không đủ cho họ có được cuộc sống bình thường. Nhiều gia định buộc phải bán “quyền canh tác” trên mảnh ruộng để đi vào thành phố, đến các khu công nghiệp tìm việc. Mặt khác, không chỉ nông dân, mà ở đất nước này, với luật đất đai quy định đất là “sở hữu toàn dân” bất cứ ai cũng không thể trở thành chủ nhân thực sự của một tấc đất nào. Vì vậy, giấc mơ “người cày có ruộng” hoàn toàn và tuyệt đối là ảo mộng, không có nền tảng pháp lý nào để thành hiện thực. Hơn thế, bất cứ ai, vào bất kỳ giây phút nào, cũng có thể bị tống cổ khỏi ngôi nhà và mảnh đất mình đang ở ra đường, nếu không phải là các nhà hoạch định các dự án xây dựng hoặc có quan hệ mật thiết với những người này theo kiểu nào đó. * Một sự đảo lộn khác xảy ra trong tương quan giữa hai “phe”. Vào những năm 1950-1960, người ta bảo dân rằng nước ta là nước nằm trong “phe dân chủ”, cùng với hai nước đàn anh như Liên Xô, Trung Quốc và các nước bạn khác. Đối kháng với “phe dân chủ” là “phe đế quốc” hay “phe phản động”, gồm những bọn thối tha như Mỹ, Anh, Pháp,… Đến khoảng 1985-1986, “phe dân chủ” tiến hành “dân chủ hóa”, hóa ra lại làm những cái hơi giống như “phe đế quốc”. “Dân chủ hóa” làm ta từ chỗ rất xa với “đế quốc” tự nhiên xích lại gần nó mới hay chứ! (Giống như đang ở miền đất gần xích đạo, bảo nhau ở đây mát lắm, còn trên phía bắc kia nóng lắm, đến khi quyết định di cư cho mát hơn thì lại thấy chỗ ở mới nằm gần đường chí tuyến; bấy giờ mới biết phía bắc thực ra mát hơn nhiều, thậm chí mát lạnh.) Điều người ta nói về ưu thế của CNXH hóa ra cũng là nói xạo. Ưu thế chi mà cái “phe dân chủ” đó mới hình thành hơn 4 thập niên đã sụp đổ tan tành. (Tất nhiên cũng có vị “to như rứa” bảo đó chỉ là tạm thời thôi. Cuối cùng thì CNCS cũng toàn thắng trên trái đất này, he he!) * Thêm một ví dụ về sự đảo lộn trong tiến trình “cách mạng” – cái này thì khía cạnh hài trội hơn. Đó là “tình hữu nghị Việt-Trung-Xô”. Dân ta, theo sự định hướng từ bên trên, đã từng coi Liên Xô, Trung Quốc không chỉ là bạn, là anh em ruột, mà còn coi là bậc thầy luôn luôn và tuyệt đối sáng suốt. Đã có rất nhiều bài viết về sự ngây thơ, ấu trĩ của người Việt ta vào thời kỳ cách hơn đây nửa thế kỷ. Chỉ xin dẫn một vài câu mà một vị bề trên dặn dò hạ cấp: “Các chú các cô không (nên) sợ người ta kêu mình kém tri thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…” hay: “… trung ương (ta) có thể sai, nhưng Mao Chủ Tịch không bao giờ sai.” Riêng về quan hệ Việt-Trung thì có thể nói đến giờ đã thấy một sự đảo lộn 100%. Chỉ còn lại một nhóm người vì lý do “gì đó” còn muốn níu kéo nó. Cùng lúc, quan hệ Việt-Mỹ, bất chấp cản trở “ý thức hệ”, đang ngày một cắm rễ sâu. Về chuyện này, đã có người nói vui rằng chữ “Hoa” trong câu “Mối tình hữu nghị Việt-Hoa – Vừa là đồng chí vừa là anh em” được người nói ra ngầm gán cho một nghĩa đầy “thâm ý”, là nói về Hoa Kỳ (chứ không phải Trung Hoa)!!! Cùng với sự đảo lộn này, Việt Nam ta đang từ vai trò “tiền đồn của phe XHCN” biến dần thành “tiền đồn chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán”. Với những chuyến đi kiểu ngoại giao con thoi, Mỹ, Nhật, Úc, Phi Luật Tân đang cố gắng đưa VN vào quỹ đạo để VN thực hiện sứ mạng này. Hy vọng rằng trong lần làm “tiền đồn” này, VN sẽ không bị Mỹ, Nhật đối xử theo kiểu hai ông anh trước đây, bởi tình thế bây giờ đã khác trước, và Mỹ, Nhật không phải là “đồng chí”, đồng thời VN không phải tiền đồn duy nhất. * Trở lại với “sự mỉa mai của lịch sử”. Vì sao chuyện như vậy thường xảy ra? Không có cách giải thích nào khác, ngoài lý do là vì những người khởi xướng cách mạng thiếu một tầm nhìn vừa xuyên lịch sử, vừa thấu hiểu những quy luật vận động của tâm lý quần chúng và tâm lý cá thể, trong đó có tâm lý của những kẻ cầm quyền. Họ đã ngây thơ cho rằng chỉ cần tổ chức giành được chính quyền, rồi nêu ra những điều giáo huấn, răn dạy đạo đức cho cấp dưới và cho quần chúng, nêu ra những mục tiêu rõ đẹp đẽ bằng các khẩu hiệu, nghị quyết, thì một xã hội tuyệt hảo sẽ hình thành trong một thời gian ngắn và ngày càng phát triển, ngày càng tươi đẹp. Họ đã không nêu ra được một cơ chế để bảo đảm sự phân lập, tránh tập trung quyền lực vào một cá nhân hoặc một nhóm người không có đối lập.   Chính vì muốn tránh đưa ra những mục tiêu và phương pháp cách mạng thiếu thực tế mà F. Engels đã để cho các đại biểu đại hội Quốc Tế Đệ Nhất, do Karl Marx và ông sáng lập, giải tán nó và lập ra Quốc Tế Đệ Nhị với những mục tiêu khác đi mà những người cộng sản sau này không muốn nhắc đến. Tuy nhiên, QT Đệ Nhị cũng đã thất bại. Trong khi đó, ở một số quốc gia mà tiêu biểu là Pháp và Hoa Kỳ, người ta đã nêu ra và hiện thực hóa hệ thống “tam phân” (tripartite system), còn gọi rõ hơn là “tam quyền phân lập”, một cơ chế thực tế để ngăn chặn sự tập trung quyền lực vào một nhóm người. Bên cạnh đó, những bậc thầy về cách mạng cũng không mơ hồ vẽ ra những bức tranh tương lai toàn màu hồng, kiểu như “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Thực tiễn hơn hai thế kỷ qua cho thấy sức sống mãnh liệt và tính cách mạng thực sự của mô hình quyền lực đó. Ở Việt Nam ngày càng thấy rõ rằng chỉ có đi theo con đường mà các nước văn minh đã đi qua mới có cơ hội thoát khỏi tấn bi hài kịch của mấy chục năm qua. Nguồn: bolapquechoa.blogspot.com
......

Phản tỉnh nửa vời

Ðảng viên CS Nguyễn Ðăng Trừng bị khai trừ, một bài học cho những đảng viên CS phản tỉnh nửa vời   Ngày 30-7, ông Trần Văn Nam, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP HCM – đã công bố Quyết định số 3030 – QĐNS/TU về việc thi hành kỷ luật đảng viên Nguyễn Đăng Trừng, Bí thư Đảng đoàn, luật sư Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP HCM. Sau khi đọc bản tin trên mạng internet, chúng tôi không ngạc nhiên mà chỉ tiếc là ông Nguyễn Đăng Trừng đã không hành động như người bạn đồng môn chí thân Lê Hiếu Đằng, cũng là đồng chí hoạt động nằm vùng cho Việt cộng và trở thành một trong những thủ lãnh hàng đầu của cái gọi là “Phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh đấu tranh chống Mỹ-Ngụy” (Sau đây xin gọi tắt “Phong trào”).   Lê Hiếu Đằng đã “phản tỉnh” trước khi qua đời một thời gian ngắn, tuy muộn màng, nhưng dứt khoát bằng hành động tự thú sai lầm và công khai tuyên bố quyết định ra khỏi đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), cùng một số hành động sau đó. Trong khi Nguyễn Đăng Trừng, theo chỗ chúng tôi được biết, cũng đã “phản tỉnh” từ lâu như Lê Hiếu Đằng và hầu hết các đảng viên được kết nạp qua “Phong trào”, nhưng vẫn giấu mặt, để giờ đây bị khai trừ khỏi đảng. Đã thế, điều gây thắc mắc cho mọi người quan tâm, là không biết luật sư Nguyễn Đăng Trừng nghĩ sao, có toan tính gì mà lại gửi văn thư số 135D/ĐLS ngày 1-8-2014 “Về việc yêu cầu thu hồi quyết định kỷ luật”? I/- ĐÔI NÉT VỀ LUẬT SƯ NGUYỄN ĐĂNG TRỪNG Luật sư Nguyễn Đăng Trừng sinh năm 1942 tại Quảng Ngãi, học luật tại Đại học Luật khoa Sài Gòn cùng với người em trai là Nguyễn Đăng Liêm, cả hai đều được Việt cộng móc nối tham gia “Phong trào” và được bí mật kết nạp vào đảng CSVN. Nguyễn ĐăngTrừng, từng là Chủ tịch Ban Đại diện Sinh viên đoàn Luật khoa và Chủ tịch Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn. Trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, Nguyễn Đăng Trừng cùng Lê Hiếu Đằng tham gia “Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình” của Luật sư Trịnh Đình Thảo như một lực lượng chính trị quần chúng hổ trợ cho cái gọi là cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy” trên khắp các thành thị Miền Nam để cướp chính quyền. Vì tham gia Liên minh này, Nguyễn Đăng Trừng và một số cựu sinh viên luật nằm vùng khác cũng như nhiều sinh viên nằm vùng ở các phân khoa khác đã lộ mặt nên phải trốn vào bưng, sau khi làm cuộc “Tổng tiến công” mà không thấy nhân dân nổi dậy (mà chỉ thấy nhân dân bỏ chạy khi VC đến) nên đã bị thảm bại. Sau 30-4-1975 cả hai anh em Trừng và Liêm đều trở thành sĩ quan công an tại Thành phố HCM. Theo một công an là cấp dưới của Nguyễn Đăng Trừng phạm tội tham ô bị nhốt chung phòng với người viết ở Sở Công an Thành phố khoảng năm 1979-1980, thì lúc đó Trừng mang cấp bậc Đại úy công an Đội trưởng KT.2 (Phòng bảo vệ kinh tế). Người công an này cho biết ông Trừng rất thanh liêm, điển hình là tem phiếu cấp mua xăng dùng không hết thì trả lại, không đem bán lại kiếm thêm tiền “cải thiện” (đời sống vốn khó khăn lúc bấy giờ) như phần đông cán bộ công nhân viên khác. Ông Trừng chỉ có tật hay nổi nóng với cấp dưới…. Sau này chúng tôi được biết thêm, Nguyễn Đăng Trừng cùng em trai là Trung úy Công an Nguyễn Đăng Liêm (từng giữ chức Trưởng Công an Cảng Sài Gòn) đều bị thuyên chuyển ra khỏi ngành công an. Nguyễn Đăng Trừng thì thuyên chuyển qua giữ chức Phó Đoàn bào chữa viên nhân dân Thành phố HCM (lúc đó chưa có quy chế luật sư đoàn) mà Trưởng đoàn là Triệu Quốc Mạnh, một Thẩm phán công tố Việt Nam Cộng Hòa, cũng là một đồng môn luật khoa hoạt động nằm vùng cho Việt cộng. Năm 1989 Đoàn Luật sư Thành phố HCM được thành lập, một thời gian sau, Triệu Quốc Mạnh được cử làm Khoa Trưởng trường luật đầu tiên tại Sài Gòn để đáp ứng với chính sách “Mở cửa”, Nguyễn Đăng Trừng lên thay làm Chủ nhiệm đoàn Luật sư Thành phố HCM cho đến ngày bị khai trừ khỏi đảng, trước khi tổ chức Đại hội Đoàn Luật sư TP HCM nhiệm kỳ VI (2013-2018). Lý do Nguyễn Đăng Trừng bị khai trừ khỏi đảng CSVN theo Quyết định khai trừ ngày 30-7-2014 là vì “Theo Kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy TP HCM, từ năm 2012, đảng viên Nguyễn Đăng Trừng - Bí thư Đảng đoàn, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP HCM – trong lãnh đạo, điều hành hoạt động của Đảng đoàn đã có khuyết điểm, vi phạm, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn đối với hoạt động của Đoàn Luật sư TP HCM, không tổ chức cho Đảng đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng đoàn theo Quy chế làm việc đã ban hành. Thực hiện công tác phân công, bổ nhiệm, đề bạt một số cán bộ tại Đoàn Luật sư TP HCM vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, vi phạm Quy chế làm việc của Đảng đoàn. Chỉ đạo chuẩn bị nhân sự Đại hội Đoàn Luật sư TP HCM nhiệm kỳ VI (2013-2018) không đúng quy trình, thiếu công khai, minh bạch, phong cách lãnh đạo thiếu dân chủ, độc đoán…” Như vậy là quá rõ, tóm gọn lý do Nguyễn Đăng Trừng bị khai trừ là vì đã thực hiện nhiệm vụ Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành Phố HCM một cách tùy tiện theo sáng kiến cá nhân, ra ngoài sự lãnh đạo của Đảng. II/- MỘT BÀI HỌC CHO CÁC ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN PHẢN TỈNH NỬA VỜI Ls Nguyễn Đăng Trừng là một đồng môn Luật khoa Sài Gòn, không xa lạ với người viết, song không phải là bạn, càng không phải là “đồng chí” về mặt lý tưởng, vì ngay từ thời tuổi trẻ đến nay người viết vẫn đứng trên lập trường Quốc gia Dân Tộc, kiên trì đấu tranh cho lý tưởng tự do, dân chủ. Trong khi đồng môn Nguyễn Đăng Trừng cho đến lúc này bề ngoài vẫn tỏ ra trung thành với lý tưởng cộng sản, thể hiện qua thực tế vẫn đứng trong hàng ngũ của đảng CSVN, dù bị khai trừ vẫn gửi thư yêu cầu lãnh đạo đảng bộ Thành phố HCM rút lại quyết định khai trừ. Thế nhưng, theo nhận định của chúng tôi, Ls Nguyễn Đăng Trừng cũng như cố Luật gia Lê Hiếu Đằng và hầu hết các đảng viên đảng CSVN nói chung, các đảng viên được kết nạp vào đảng qua “Phong trào” trước năm 1975 nói riêng, nhờ thực tế đều đã lần hồi “phản tỉnh” từ lâu.   Nhưng tất cả chỉ là sự “phản tỉnh nửa vời và còn giấu mặt” vì không dám công khai nói lên sự phản tỉnh của mình và không dám có những hành động cụ thể, tích cực tiếp theo để cải sửa những sai lầm của đảng CSVN, để chứng tỏ một sự phản tỉnh hoàn toàn.Vì vậy, về mặt khách quan, người ta cho rằng họ là những kẻ vì sợ bị bộ máy chuyên chính trấn áp, sợ tù tội, sợ mất đặc quyền, đặc lợi vốn dành cho giai cấp cán bộ đảng viên, nên đã chọn thái độ “mũ ni che tai” hay “ngậm miệng ăn tiền”. Nhưng về mặt chủ quan, để biện minh cho thái độ này thì cho đây là sự chọn lựa khôn ngoan, phù hợp với thực tế khi mà tương quan lực lượng vẫn chưa cân sức giữa đảng và chế độ độc tài toàn trị CS tại Việt Nam với các lực lượng chống đảng và chế độ. Nghĩa là “tình thế cách mạng chưa chín muồi” nên các đảng viên dù phản tỉnh vẫn giấu mặt chờ thời, để có “vỏ bọc đảng viên” thực hiện “đấu tranh nội bộ” chống lại những sai trái của Đảng, dù không đạt hiệu quả cao, nhưng an toàn và ít nhiều góp phần thúc đẩy Đảng lùi dần về phía dân chủ, tạo ra “tình thế cách mạng chín muồi”. Đây là cách biện minh của những đảng viên CS phản tỉnh nửa vời. Phải chăng Nguyễn Đăng Trừng cũng đã và đang thực hiện theo cách biện minh này?   Cách biện minh trên có phải chỉ là ngụy biện để che đậy thực chất hèn nhát của các đảng viên CS dù phản tỉnh vẫn không giám công khai nói lên và chứng tỏ sự phản tỉnh của mình bằng hành động? Để có câu trả lời chính xác, đề nghị các đảng viên CS sản phản tỉnh nửa vời và còn giấu mặt hãy đọc lại lời của cựu đảng viên Lê Hiếu Đằng sau khi phản tỉnh đã Viết trong những ngày nằm bịnh như lời trăn trối với các đồng chí cùng cảnh ngộ trước khi nhắm mắt, rằng “ … Tôi muốn nhắn anh chị em đảng viên trong đảng còn tâm huyết thì không có thời điểm nào thuận lợi bằng thời điểm này để tỏ thái độ để đấu tranh. Nếu bây giờ cứ nói tình hình lúc này chưa chín muồi, hoặc là chưa đúng lúc, thì bao giờ mới đúng lúc, mới chín muồi? Chính mình phải tác động để tình hình chín muồi chứ không lẽ ngồi chờ sung rụng à? Quan điểm ấy rất là tiêu cực, mọi người phải tích cực lên, đấu tranh mạnh mẽ, kể cả không sợ bắt bớ tù đày.. .. Tôi hy vọng nhân sỹ trí thức đừng có đặt vấn đề chưa chín muồi hoặc là chưa đúng lúc. Chín muồi là do tác động của xã hội dân sự. Xã hội dân sự mạnh lên thì sẽ có tác động. Mà muốn xã hội dân sự mạnh thì nhân sỹ trí thức phải làm.Vậy thôi.” Nguồn Bô Xít VN Vậy thì, từ sự kiện đảng viên CS Nguyễn Đăng Trừng bị khai trừ khỏi đảng, những đảng viên CS phản tỉnh nửa vời và còn giấu mặt cần rút ra bài học kinh nghiệm gì? Theo thiển ý, để tránh tình trạng bị “bắn sẻ” như đảng viên Nguyễn Đăng Trừng (khai trừ từng đảng viên phản tỉnh, phản đảng) hay “phản tỉnh lẻ tẻ” chẳng có hiệu quả gì, cần thiết phải có sự liên kết “phản tỉnh tập thể” cùng lúc của tất cả các đảng viên đã và đang “phản tỉnh nửa vời và còn giấu mặt”. Vì chỉ có như thế mới tạo được sức mạnh và sức nặng tổng hợp đủ vô hiệu hóa lực lượng bảo vệ nền chuyên chính vô sản (bảo vệ Đảng), tạo ra được “Tình thế cách mạng chín muồi”, buộc được “bộ não xơ cứng của đảng” phải chuyển đổi theo ý nguyện của nhân nhân và chiều hướng có lợi cho dân cho nước. Nguồn: voatiengviet.com
......

Đừng Quên Anh

Sức khoẻ của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (Nghĩa) đang kiệt quệ sau nhiều năm bị hành hạ trong các nhà tù, do lên tiếng bảo vệ lãnh thổ và đòi Đảng Cộng sản tôn trọng ý nguyện của dân. Ông bị bắt từ ngày 10 tháng 9 năm 2008. Ông nhận hai giải nhân quyền quốc tế, trong đó có giải mang tên Lưu Hiểu Ba. Ông Nghĩa, sinh năm 1949 tại Nghệ An, là tác giả của nhiều bài viết chỉ trích chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam. Là thành viên Hội Nhà Văn Hải Phòng, thành viên ban đại diện của Khối 8406, ông từng tổ chức rải truyền đơn kêu gọi đa nguyên đa đảng cho Việt Nam, tố cáo tham nhũng, tố cáo âm mưu bán nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong phiên tòa diễn ra hai ngày 8 và 9 tháng 10 năm 2008, Tòa Án Hải Phòng tuyên án 6 năm tù với ông Nghĩa vì tội “tuyên truyền chống phá Nhà nước”. Tội danh này cũng được gán cho các đồng đội khác của ông, là những trí thức ít nhiều tên tuổi như Nguyễn Văn Túc - 4 năm tù, Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Mạnh Sơn cùng 3 năm 6 tháng tù, Ngô Quỳnh 3 năm tù và Nguyễn Kim Nhàn 2 năm tù giam. Tất cả 6 bị cáo còn chịu hình phạt bổ sung từ 2 tới 3 năm quản chế sau khi mãn hạn tù. Trong 6 năm ở tù, ông Nghĩa phải chịu nhiều hình thức tra tấn ảnh hưởng đến sức khỏe. Khi ông tuyệt thực đòi được nhổ răng sâu, y sĩ nhà tù đã nhổ những chiếc răng khỏe và người tù đã chỉ được nhổ răng sâu sau một thời gian tiếp tục tranh đấu. Trong tù, ông Nghĩa bị mắc nhiều bệnh nội tiết, nhưng bệnh tình của ông lại tạo cơ hội cho chính quyền hành hạ. Tháng 11 năm 2012, ông từng bị xiềng chân tay ngay trên giường bệnh khi vừa rời khỏi phòng mổ và ông đã phải đấu tranh mạnh mẽ trong khi cơ thể đau yếu để được tháo xiềng sau đó. Ông Nghĩa đã bị chuyển đi nhiều nhà tù từ miền Bắc tới miền Trung, qua các trại Trần Phú tại Hải Phòng, trại B14 ở Hà Nội, trại Nam Hà ở Hà Nam, trại 6 tại Nghệ An và hiện là trại An Điềm ở Đà Nằng. Cán bộ trại giam cũng đã ra lệnh cho tù hình sự theo dõi, đánh đập tàn bạo ông Nghĩa trong tù.   Tù nhân lương tâm, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, đã được trao giải thưởng nhân quyền cao quý Hellman/Hammett năm 2011 của Human Rights Watch. Nhân "Ngày của những nhà văn bị cầm tù", hôm 15 tháng 11 năm 2013, ông Nghĩa đã được trao giải thưởng nhân quyền mang tên „Ngòi Bút Can Đảm Lưu Hiểu Ba” do Văn Bút Trung Hoa Độc Lập ICPC trao tặng.   Nhà văn kiên cường, với cơ thể đang đau yếu bởi bệnh tật và hành hạ trong tù, sẽ trở về nhà tháng 10 năm 2014, nhưng tiếp tục chịu án quản chế tại gia sau đó.   12 tháng 8 năm 2014 Vietnam Human Rights NewsVietnamhumanrightsnews@gmail.com Nguồn: facebook.com/vietnamhumanrightsnews?ref=stream
......

P/v nhà báo Phạm Chí Dũng về chuyến đi thăm VN của Đại Tướng Mỹ

Thưa quý vị, tướng lãnh cao cấp nhất quân lực Hoa Kỳ, Đại Tướng Martin Dempsey, đang có mặt tại Việt Nam trong một chuyến đi thăm lịch sử, được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn cao, và làn sóng phẫn nộ dâng trào trong công chúng Việt Nam sau khi Bắc Kinh kéo giàn khoan 981 của nước này vào hoạt động trong vùng biển Việt Nam vẫn còn, cho dù Bắc Kinh đã rút giàn khoan ra khỏi khu vực tranh chấp trước thời hạn loan báo. Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng Chủ tịch Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, tin rằng chuyến công du của Đại Tướng Dempsey là dấu hiệu tích cực mới nhất trong quan hệ giữa hai nước cựu thù, diễn ra tiếp theo sau chuyến đi thăm Việt Nam của hai nghị sĩ Mỹ, kể cả Thượng nghị sĩ John McCain, một cựu tù nhân chiến tranh từng bị giam cầm tại nhà giam Hỏa Lò ở Hà nội– mà tù binh Mỹ dí dỏm đặt cho cái tên “Hanoi Hilton”. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ-VOA, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng đề cập đến một kịch bản có khả năng diễn ra, kịch bản Miến điện, dù xác suất hãy còn rất thấp, nhưng thể hiện một sự mong mỏi rằng những căng thẳng hiện tại với Trung Quốc có thể chuyển thành một cơ hội để Việt Nam thoát khỏi vòng ảnh hưởng của nước láng giềng khổng lồ từ lâu vẫn không từ bỏ ý đồ xâm chiếm bằng cách dần dần gậm nhấm lãnh thổ Việt Nam. Mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn sau đây với Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, do Hoài Hương thực hiện. VOA: Xin Tiến sĩ một nhận định về ý nghĩa của chuyến đi thăm mà báo chí thế giới mô tả là lịch sử của Đại Tướng Tham mưu trưởng Liên Quân Hoa Kỳ tới Việt Nam?      Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Tôi cho đây là một tín hiệu khả quan, tín hiệu này đã bắt đầu từ hồi tháng Tư năm 2013, về cuộc giao lưu hải quân đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tại Đà Nẵng với 3 tàu quân sự của Hạm Đội 7. Bấm vào để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn nhà báo Phạm Chí Dũng http://www.voatiengviet.com/content/pv-nha-bao-pham-chi-dung-ve-chuyen-d... VOA: Dạ thưa chuyến đi này diễn ra giữa lúc Việt Nam đang cần tới Hoa Kỳ như một lực đối trọng – có thể nói là duy nhất để đối phó với chính sách bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Có dấu hiệu cho rằng Hoa Kỳ sắp sửa tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, thì theo ông có những sự mặc cả nào ở hậu trường trước khi điều đó diễn ra và liệu có nhà bất đồng chính kiến nào sắp được thả ra trong cuộc mặc cả này không ạ?        Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Chắc chắn là đã có một sự mặc cả, và tôi cho trên cả sự mặc cả, đó là một sự thỏa thuận giữa hai nhà nước với nhau. Điều đó đã được tuyên bố một cách rõ ràng bởi ông John McCain trong chuyến đi thăm Hà nội vừa qua. Dân chủ và nhân quyền luôn luôn là điều kiện tiên quyết đi kèm với các hiệp ước về an ninh và kinh tế giữa hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ. Và gần đây cũng có những dư luận, mặc dù chưa chính thức mà là thông tin ngoài lề cho là trường hợp có khả năng được trả tự do trong thời gian tới, nhiều khả năng nhất là Điếu Cày Nguyễn văn Hải; thứ hai là một blogger vừa bị bắt vào tháng Năm vừa qua là ông Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, và một người nữa mà người ta cũng khó hình dung ra là Trần Huỳnh Duy Thức với án như vậy là 16 năm, cũng có thể được ra. Đó là những dư luận không chính thức, ngoài lề thôi, nhưng mà dù sao điều đó phản ánh một sự trông chờ vào Hoa Kỳ và nhà nước Việt Nam đương nhiên phải trả một cái giá nho nhỏ, là thả những nhân vật bất đồng chính kiến và tù nhân lương tâm. Và cho dù nếu không phải là những nhân vật mà tôi vừa nhắc tới thì cũng sẽ có những nhân vật khác thế chỗ vào. Và có thể hy vọng rằng có một chút nhen nhóm nào đó nó giống như là tái lập kịch bản của Miến Điện cách đây 3 năm. VOA: Dạ thưa ông có quá lạc quan hay không khi nghĩ là Việt Nam có thể đi theo kịch bản Miến Điện?    Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Tôi mới chỉ nói là nhen nhóm mà thôi. Xác suất cho sự nhen nhóm đó cho tới nay theo tôi chỉ mới có khoảng từ 2 tới 3%. Nhưng mà dù sao so với trước đây vẫn còn khả quan hơn vì trước đây không có phần trăm nào cả. Mọi chuyện chỉ mới bắt đầu từ sự kiện giàn khoan Hải Dương 981của Trung Quốc đi vào vùng biển của Biển Đông, và sau đó gây ra hàng loạt sự kiện tiếp theo kể cả về mặt đối ngoại và thế đối trọng mà chị vừa nhắc, đề cập tới Mỹ là đối trọng duy nhất đối với Trung Quốc, không chỉ liên quan tới Việt Nam mà cả trên thế giới hiện nay. Điều đó cho thấy có một khả năng nhà nước Việt Nam phải nhìn vào kịch bản Miến Điện như là một tiền lệ đã có sẵn và họ chỉ việc áp dụng mà thôi. VOA: Thưa theo chỗ ông biết thì trong giới lãnh đạo cao cấp hiện nay - trong Bộ Chính Trị ấy, có nhân vật nào đang vận động để Việt Nam nắm lấy cơ hội này để mà thay đổi và hòa nhịp với thế giới không ạ?      Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Chuyến đi của ông Phạm Quang Nghị rõ ràng là đã đạt được một thỏa ước, một thỏa thuận nào đó, cho dù thỏa thuận đó là không công khai. Nhưng mà cuối cùng thì đã dẫn đưa tới chuyến đi của ông John McCain và của ông Sheldon Whitehouse đến Việt Nam. Sự xuất hiện của hai nghị sĩ đó cho thấy phía sau họ là cả một Quốc hội Hoa Kỳ. Mà nhà nước Việt Nam bây giờ lại đang rất cần tới sự vận động của quốc hội Hoa Kỳ, trước mắt là để giảm áp lực chống chế về việc gây sức ép không muốn cho Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối tác Thương mại Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương- TPP . * Thưa quý vị, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng là Chủ tịch Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam (Independent Journalists Association of Vietnam - viết tắt là IAJV). Ban Việt ngữ- VOA xin chân thành cảm tạ Tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Nguồn: voatiengviet.com
......

Nhớ Võ Hoàng

Đáng lẽ, văn học hải ngoại đã có một tác giả độc đáo. Đó là Võ Hoàng. Nhưng, anh không muốn vậy. Và định mệnh lẫn sự hẩm hiu của văn học thời loạn cũng chiều lòng anh. Võ Hoàng trở thành một kháng chiến quân đã hy sinh vào một ngày tháng Tám năm 1987. Tôi viết những giòng này để nhớ tới Võ Hoàng như một nhà văn và một người anh em... Nhà văn Võ Hoàng     Tôi gặp Võ Hoàng trước khi biết đến và gia nhập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, để rồi cùng anh tham gia tổ chức này. Gặp anh, tôi biết mù mờ rằng Võ Hoàng Oanh sinh năm 1952 tại Phú Quốc, gia nhập Hải quân và bị tù cải tạo. Mù mờ vì anh em gặp nhau lúc đó thì có bao giờ hỏi han mấy chi tiết vớ vẩn về cuộc đời? Sau này mới biết rõ hơn và quý trọng nhau hơn. Qua Lý Khánh Hồng, tôi gặp Võ Hoàng khi mình mới từ bên Pháp đến Mỹ. Lúc đó, vào mùa Thu năm 1982, cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lôi Tam và Lý Khánh Hồng, Võ Hoàng thực hiện tạp chí và cơ sở xuất bản Nhân Văn. Thời đó, trong sự đổ vỡ chung của niềm tin lẫn nỗi hoang mang trên cõi tạm dung, Nhân Văn thực sự đã có những đóng góp không nhỏ về cả mặt văn học lẫn lý luận.   Vào năm 1982, chúng tôi gặp nhau ở đó cùng một số văn hữu khác và tôi giật mình ở con người Võ Hoàng. Anh ít nói, thường có cái vẻ miễn cưỡng của người hiện diện ở một nơi không nên. Anh có cái vẻ miễn cưỡng của kẻ đã lỡ sống sót sau một thảm kịch lớn cho những người kia, những người không may đã khuất.   Nói về cái tên Oanh của anh, chúng tôi luận bàn về hai chữ chiến tranh và hòa bình. Tên anh không có cái nghĩa lãng mạn của một giống chim, mà là tiếng chuyển động ầm ầm. Của xe nhà vua như tôi nói đùa, hoặc, nói trong tiếng cười kín đáo của Võ Hoàng, tiếng chiến xa. Võ Hoàng là người kỳ tài trong số những người tôi đã được gặp. Viết ra điều mình đã nghĩ từ bao lâu nay, tôi lại thấy ngậm ngùi. Anh viết Trong lòng cách mạng để ghi lại kỷ niệm ở quê nhà, những điều mắt thấy, tai nghe (và cả tay làm) sau ngày 30 tháng Tư 75. Anh vượt biên năm 1978 đến Úc sau khi đã lao vào hoạt động mệnh danh "Phục quốc" ở quê nhà: tù cải tạo ra, anh đi rải truyền đơn cho tới khi bị truy lùng thì phải chạy. Đọc Trong lòng cách mạng, người ta có thể lờ mờ đoán ra điều đó. Qua Góc bể bên trời, Võ Hoàng viết về chuyến vượt biên ly kỳ của mình thì ít mà về thân phận lưu đày của chúng ta thì nhiều. Đọc tác phẩm, ta càng hiểu đứa con của Phú Quốc là tay đi biển thành thạo, và càng thấy ở Võ Hoàng những dấu hiệu của một tài năng lớn, mà có lẽ anh cũng chẳng biết, hoặc bất cần. Ở anh, chỉ thấy toát ra một sự cô đơn. Hai tập truyện Măng đầu mùa và Đất lạ viết cùng Tưởng Năng Tiến có thể phản ảnh những trăn trở đó của anh khi phải sống đời tỵ nạn. Thân ở đây mà hồn cứ như ở nơi đâu xa lắc. Gia đình anh vượt biên sau anh. Anh mừng vì đoàn tụ với gia đình nhưng vẫn bơ vơ vì chưa đoàn tụ với quê hương. Thấy gia đình tới nơi yên lành rồi thì Võ Hoàng thở ra nhẹ nhõm: đã có thể lại lao vào cuộc khác, để trở về. Võ Hoàng có lối viết của một nhà văn miền Nam, với cái nhìn sắc bén thâm trầm của người miền Trung. Hãy đọc lại cuốn truyện dài Góc bể bên trời, hoặc truyện ngắn Khách thập phương trong tập truyện Đất lạ, cái đoạn mô tả cảnh một vị sư rót ra ba chung trà xếp thành hình chữ "phẩm" để mời khách, thì ta sẽ thấy nét tinh tế đó trong văn Võ Hoàng. Lối viết với đầy đối thoại, cứ tưởng như rời rạc, nhát gừng, mà bên trong đầy ắp những suy tư chỉ chực trào ra ngoài, những cuồng nộ không thể nguôi ngoai và sẽ bùng ra thành hành động.   Võ Hoàng thạo nghề sông nước, rất giỏi võ, khéo tay, có thể làm thợ nề thợ mộc như đã học từ bé. Anh vẽ thần sầu, làm thơ cũng hay mà viết nhạc cũng giỏi. Những anh em làm báo mà có Võ Hoàng bên cạnh là thấy nhẹ người: anh có thể cưa đẽo nhà dưới làm kệ sách rất mỹ thuật, rồi lên nhà trên giúp cho tờ báo về mọi mặt. Nơi này cần cái vignette là anh ngoáy bút ra một cái, nơi kia cần "mi" lại cho chỉnh, thời đó chúng ta chưa dùng chữ lay-out, là cũng có Võ Hoàng. Thời đó nữa, chúng ta còn phải dùng cái máy "Varytyper" nặng như cái cùm, in bài ra giấy còn phải lấy bút bỏ dấu, Võ Hoàng bỏ dấu rất gọn. Anh ít nói, bập bập điếu thuốc sau cặp kính hấp háy, nhưng khi nói là có giọng duyên dáng mà không ác, và làm gì cũng có vẻ như sợ làm phiền người khác. Võ Hoàng là người cực kỳ tài hoa mà lúc nào cũng có vẻ vụng về, nếu ta không để ý thấy đôi mắt rất sáng của anh. Anh nói ít mà hiểu nhiều bên sau cái dáng quê kệch của người mới ra tỉnh. Anh chí tình và tận tụy với trách nhiệm, bất kể lớn nhỏ. Ông Hoàng Cơ Minh sau này trông cậy rất nhiều nơi anh là cũng phải. Chúng tôi kết bạn với nhau như vậy, cho tới ngày Võ Hoàng gia nhập Mặt Trận và thôi gọi nhau là anh em mà là "chiến hữu". Anh đã tìm được con đường muốn đi ngay từ khi bỏ nước ra đi. Đó là con đường về. Võ Hoàng trở thành "kháng chiến quân" khi đi vào chiến khu của Mặt Trận từ tháng Năm, năm 1984. Gặp lại anh sau đó, trong một vài lần hãn hữu và không khí kém vui của một sự rối loạn bên trong, tôi gặp một con người khác.   Bắc Phong có viết một bài thơ tặng Võ Hoàng, trong đó có câu mà chúng tôi nhớ mãi:     Đi, hành trang có niềm tin,     Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con. Sau này, rất lâu sau này, vào tháng Sáu năm 1989, khi đi tới tận cùng của chiến khu để tìm lại tông tích của anh, tôi gặp lại và đi lại con đường anh mô tả trong bài ca Thế kỷ này là thế kỷ của chúng ta mà anh sáng tác trong đó:     Cách mạng, đường dài,     Người đi như con nước miệt mài.     Đổ mồ hôi thành dòng,     Loang theo dấu chân thành những con đường làm nên kháng chiến,     Ta đi, ta đi, ta đi... Con đường đó vô cùng gian nan, nguy hiểm, và đòi hỏi một ý chí sắt thép, mà đổ mồ hôi thành dòng mới chỉ là một phần rất nhỏ của những gian truân. Phần còn lại, trên đoạn đường Mặt Trận gọi là "Đông tiến", mới có những đòi hỏi khắc nghiệt hơn, kể cả đổ máu. Võ Hoàng đã hy sinh như vậy, trong một cuộc quần thảo bi thảm mà hào hùng ít ai có thể mường tượng ra.   Vào chiến khu của Mặt Trận, Võ Hoàng trở thành một người cộng sự thân tín của ông Hoàng Cơ Minh. Anh thoát xác đến anh em Nhân Văn và cả tôi, những anh em chí thiết khi anh chưa gia nhập Mặt Trận, cũng không ngờ nổi. Tinh thần kỷ luật nơi đó biến anh thành con người khác, bình thản, nhẫn nhục và lầm lỳ như một mũi tên chỉ chực bắn ra phía trước. Mũi tên bay đi không nhờ lực đẩy ở đằng sau, mà vì sức hút của mục tiêu ở đàng trước, một mục tiêu mà mọi người chúng ta đều mơ ước. . Phó đề đốc Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Hoàng Cơ Minh. Khi Võ Hoàng viết một lá thư kêu gọi các văn hữu cùng tham gia vào việc đấu tranh, rất nhiều anh em ngoài này không hiểu được tâm tư và ý chí đó của anh, nên có thể thấy ngỡ ngàng, có khi khó chịu. Anh sắt thép quá, trông chờ nhiều quá, chỉ vì đòi hỏi quá nhiều ở chính anh. Và cái đòi hỏi sau cùng, là sự hy sinh tuyệt đối nhất, anh cũng không từ nan. Nếu có đọc lại hoặc nhớ lại lời kêu gọi đó của Võ Hoàng, vào mùa Thu năm 1984, và biết rằng anh sẽ hy sinh đúng ba năm sau, chúng ta sẽ thông cảm với anh hơn, và thương tiếc nhiều hơn. Hình như tôi đang viết những dòng này để kêu gọi sự thông cảm đó. Nếu như Võ Hoàng còn sống, và trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước, chắc chắn anh vẫn tiếp tục đấu tranh, nhưng với những phương tiện mới trong một phương thức mới, một phương thức đòi hỏi sự sáng tạo, linh động và tính kiên nhẫn lẫn bao dung mà anh có thừa. Và văn học hải ngoại chắc chắn vẫn có Võ Hoàng. Nếu đất nước ta thanh bình, điều chưa hề có từ bao lâu nay rồi, một con người tài hoa và lý tưởng như Võ Hoàng có lẽ đã cống hiến rất nhiều cho văn học và nghệ thuật nước nhà. Với sức làm việc kinh hồn và óc nhận xét tinh tế cùng khả năng diễn tả rất đa diện, Võ Hoàng đã có thể là một nhà văn có ảnh hưởng trong chúng ta ở nơi đây. Anh mất quá sớm, khi mới 35 tuổi, vào lúc sung sức nhất, sáng tạo nhất, để lại một sự tiếc thương khó nguôi ngoai trong bằng hữu, và một tiếng thở dài bất tận trong chúng ta, về hai chữ vận nước.   Chúng ta phao phí quá nhiều người tài giỏi như vậy, trong bao nhiêu năm trời, trên cả hai miền đất nước, ra tới bên ngoài này... Nghĩ vậy, làm sao mình không khỏi nghiến răng phẫn hận? Nguyễn Xuân Nghĩa  
......

GỞI THƯ CHO TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM

Vừa qua tôi gặp một lần cả chị Dương Thị Tân vợ của nhà báo Điếu Cày vừa mới đi thăm chồng về và anh Lê Quốc Quyết, em trai luật sư Lê Quốc Quân cũng đã đi thăm anh trai trước đó hai tuần.   Ngay trong ngày 14.8, chị Tân cùng con trai là anh Nguyễn Trí Dũng bay ra Vinh rồi đón xe lên nhà tù số 6 cách đó mấy chục cây số. Đến trước cổng trại giam vào buổi trưa cùng ngày, hai mẹ con chị đã thấy một số anh chị trong Hội Bầu Bí Tương Thân Hà Nội có mặt tại đó để chờ cùng gia đình chị vào thăm anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Thế nhưng trại giam chỉ cho mỗi một mình anh Nguyễn Trí Dũng là con trai của anh Điếu Cày vào thăm. Chị Tân cũng không được vào. Chị Dương Thị Tân cùng với anh Trương Văn Dũng, hội Bầu Bí Tương Thân bị giữ lại bên ngoài trại giam số 6- Ảnh Bạch Hồng Quyền   Theo như lời kể lại của Nguyễn Trí Dũng, anh Điếu Cày có gầy đi rất nhiều, anh cao đến 1,8m nhưng chỉ còn có 50 kg nên nhìn anh rất gày gò. Tuy nhiên, theo Dũng, tinh thần của anh Điếu Cày rất vững vàng. Anh dặn dò Dũng nhiều chuyện, trong đó khuyên gia đình vững tâm, đừng quá lo lắng về việc anh ở tù lâu hay may. Trong tù, qua chương trình thời sự của truyền hình nhà nước, anh cũng sàng lọc và nắm bắt được nhiều thông tin về sự thay đổi của tình hình bên ngoài. Anh cho biết chưa có dấu hiệu gì  từ nhà tù về việc anh được thả ra sớm, tuy nhiên anh hoàn toàn không trông mong vào điều đó. Ngoài quà của gia đình, anh Điếu Cày cũng nhận được quà của các tổ chức xã hội bên ngoài như Hội Bầu Bí Tương Thân...Chị Tân cho biết, anh Điếu Cày hoàn toàn không được phép nhận thư từ của gia đình cũng như của người thân quen, thư gởi đến cho anh đều bị giữ lại, điều nầy sai luật và vi phạm nhân quyền.   Bạch Hồng Quyền: Trong khi quà gởi vào cho anh Điếu Cày rất khó khăn thì gia đình nầy lại được mang cả quạt máy vào cho người thân của mình trong tù. Ảnh chụp tại trại tù số 6 Nghệ an.   Ngược lại với Điếu Cày, LS Lê Quốc Quân đang bị giam ở nhà tù An Điềm Quảng Nam, theo như lời kể của Lê Quốc Quyết, lại được nhận thư từ của tất cả mọi người từ bên ngoài gởi vào. Dĩ nhiên tất cả thư đều bị kiểm duyệt và có thư bị giữ lại nếu bị cho có nội dung "không phù hợp". Tuy nhiên theo anh Quyết, anh Lê Quốc Quân cũng được nhận thông báo về những là thư không đến được tay mình. Theo anh Lê Quốc Quyết, những người tù rất cảm động và sẽ vững tâm hơn khi nhận được những lá thư thăm hỏi của bạn bè từ bên ngoài. Theo luật pháp, người tù được hưởng quyền nầy, quyền được nhận thư và gởi thư ra bên ngoài. Anh Trần Huỳnh Duy Thức đã viết nhiều là thư rất dài gởi ra ngoài cho cha mà blog nầy đã từng đăng lên như các bạn đã biết (xem đây và xem đây). Tuy nhiên hiện nay cũng còn nhiều nhà tù vi phạm điều nầy. Qua gợi ý của chị Dương Thị Tân và anh Lê Quốc Quyết, tôi thấy rằng việc gởi thư vào các nhà tù cho các tù nhân lương tâm là điều rất cần thiết. Thư có thể đến hoặc không đến, nhưng chắc chắn người được gởi thư sẽ biết mình luôn có được sự quan tâm của mọi người. Sau đây là địa chỉ của một số tù nhân lương tâm mà tôi mới tra tìm được qua mạng, xin được đăng lên đây để các bạn quen biết hoặc quan tâm đến ai thì viết thư về địa chỉ đó rồi gởi qua đường bưu điện. Danh sách nầy rất không đầy đủ, nên rất mong các bạn tra tìm và bổ sung thêm. 1  Đinh Nguyên Kha, SN 1988, 4 năm tù giam, Địa chỉ : Nhà tù Xuyên Mộc, tỉnh Bà rịa Vũng Tàu2. Đoàn Huy Chương, SN1985, 7 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuân Lộc, Tỉnh Bình Dương (K2)3.  Dương Thị Tròn, SN 1947, 9 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Thanh Xuân, Hà Nội.4. Lê Quốc Quân, SN 1971, 2,5 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù An Điềm, tỉnh Quảng Nam5. Mai Thị Dung, SN 1969, 11 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuân Thành, Hà Nội6. Ngô Hào, SN 1943 ,15 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuân Phước, tỉnh Phú Yên7. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, SN 1982, 9 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu8. Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), SN 1952, 12 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An9. Nguyễn Văn Lía, SN 1940, 4,5 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuân Lộc, Tỉnh Đồng Nai (K2)10.Linh Mục Nguyễn Văn Lý, 1946, 8 năm tù giam.. Địa chỉ: Nhà tù Nam Hà, tỉnh Hà Nam11.Phạm Viết Đào, 1951, 15 tháng tù giam. Địa chỉ: Hà Nội12. Tạ Phong Tần, 1968 , 10 năm tù giam. Địa chỉ:Nhà tù Yên Định, tỉnh Thanh Hóa13. Trần Huỳnh Duy Thức,1965, 16 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu14. Trần Vũ Anh Bình, 1974, 6 năm tù giam. địa chỉ: Nhà tù An Phước, tỉnh Bình Dương15. Trương Duy Nhất, 1964, 2 năm tù giam. Địa chỉ: Trại giam số 6, huyện Thanh Chương, Nghệ An16. Võ Minh Trí (NS Việt Khang),1978, 4 năm tù giam. Địa chỉ: Nhà tù Xuân Lộc, Tỉnh Đồng Nai (K2) Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.de
......

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh. Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Người Việt phát hành vào hạ tuần tháng 8 này. nhà văn nhà báo Trần Đĩnh Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận. Những phân tích tinh tế   Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản. Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân, tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.   Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc. Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ. Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật. Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết: “Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu”. Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy, do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính. Nhân chứng lịch sử Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật. Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do tác giả cung cấp.   Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”. Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật. Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh. Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể: “Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam? Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức. Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”. Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi. Những con rối không tự biết mình là rối   Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do tác giả cung cấp.   Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này. Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản. Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.   Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam: “Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh”. Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào. Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.   Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”. Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản. Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ cộng sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh. Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.   Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do tác giả cung cấp.   Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại: “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba màu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã. Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng. Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì? Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười”. Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”. Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.   Thất tình Hồ Chí Minh? Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế? Trần Đĩnh: Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi. Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy? Trần Đĩnh: Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc. Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lênin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lênin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi. Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế! Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiển viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông? Trần Đĩnh: Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được. Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay? Trần Đĩnh: Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được. Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không? Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.   Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ? Trần Đĩnh: Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lênin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”. Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.   Anh hùng hay anh hèn? Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này? Trần Đĩnh: Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa. Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không? Trần Đĩnh: Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ, nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ. Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.   Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời trang của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!   Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. M.L.- T.Đ. nguồn: rfa.org Bài liên quan Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam http://www.ttdq.de/node/1678  
......

Khi bàn tay cán bộ nhà nước cũng vấy máu…

Thông tin về việc ông Lê Trung Kiên, Phó trưởng ban Tổ chức Quận uỷ Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bị Công an bắt giữ do có liên quan đến việc môi giới thuê “xã hội đen” giết người trên đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội đang gây xôn xao dư luận. Cơ quan điều tra đã bước đầu đưa kết luận về việc ông Kiên giới thiệu. Nơi xảy ra vụ án mạng liên quan đến việc môi giới thuê “xã hội đen” giết người trên đường Phạm Văn Đồng.   Vụ việc gây ồn ào, không chỉ về mức độ dã man, nghiêm trọng của những kẻ sát nhân, mà ở chỗ một cán bộ có chức sắc trong cơ quan nhà nước lại có thể tham gia vào một tội ác nghiêm trọng như vậy. Nguyên nhân, mức độ phạm tội của ông Lê Trung Kiên đến đâu, cơ quan điều tra sẽ làm rõ. Bước đầu cơ quan công an xác định ông này cung cấp số đt của xã hội đen cho kẻ thuê giết người-việc này đã cho thấy, ông ta có quan hệ mật thiết thế nào đến giới tội phạm. Nhưng từ góc độ người dân, với các thông tin nói trên, có thể thấy mức độ ảnh hưởng, và niềm tin của dân với những người làm việc trong bộ máy, sống bằng ngân sách, tiền thuế của doanh nghiệp, của người dân đóng góp... sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Không chỉ có ông Lê Trung Kiên, gần đây, đã xảy ra không ít vụ việc cho thấy, không ít cán bộ, nhân viên trong bộ máy, ở chỗ này, chỗ khác đã biến chất nghiêm trọng với cùng một hành vi: bắt tay với những kẻ lâu nay vẫn được gọi là “xã hội đen” để mưu lợi cá nhân. Tại một hội nghị về an toàn giao thông hồi đầu tháng này, Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng đã thẳng thắn nói rằng: “Có hiện tượng xã hội đen bảo kê dẫn đường cho xe quá tải, móc nối làm luật, dẫn xe quá tải tránh trạm cân. Trong khi đó một bộ phận cảnh sát giao thông và thanh tra giao thông làm nhiệm vụ có hành vi tiếp tay và móc nối tạo ra tiêu cực”. Mặc dù cũng có ý kiến tranh luận trái chiều từ cơ quan khác, nhưng những bằng chứng bằng hình ảnh, vật chứng…mà người đứng đầu một Bộ lớn của Nhà nước đưa ra rất thuyết phục để khẳng định tình trạng những đoàn xe lớn, quá tải trọng “ung dung đi” trước mặt các cơ quan chính quyền, cảnh sát giao thông…là những hoạt động "nằm ngoài hệ thống pháp luật VN”. Hay trước đó, đầu tháng 6.2014, cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Hồ Chí Minh cũng đã khởi tố, bắt giữ 2 cán bộ hải quan TP Hồ Chí Minh vì có hành vi cấu kết với một nhóm buôn lậu, nhập lậu 10 lô hàng lớn… cho thấy, những vụ cán bộ, nhân viên nhà nước bắt tay với giới tội phạm để ăn, chia không còn là hiếm hoi mà nó có thể xảy ra ở nơi này, nơi khác. Một dấu hiệu rất đáng báo động. Tất cả những vụ việc như vậy ảnh hưởng tới niềm tin của dân vào hiệu quả, sự chính trực trong công việc của cán bộ nhà nước, của bộ máy nhà nước. Mức độ cảnh báo cao hơn, đó là có những cán bộ, công chức, thậm chí cả nhóm… ăn lương ngân sách lại đi bắt tay với những kẻ trực tiếp, thường xuyên phạm tội, thậm chí là tội ác để kiếm tiền bất chính. Gần đây, ở một số nơi, người dân đã có hành động tự xử như thấy kẻ bắt trộm chó thì đánh chết người nghi trộm; bắt được kẻ nghi trộm xe… thì lột trần, đánh “hội đồng”… tuy là những hành động vi phạm pháp luật nhưng phải chăng, nó xuất phát từ sự thiếu tin tưởng của người dân ở những cơ quan công quyền, có những cán bộ thoái hóa, biến chất, không còn đảm bảo cho sự bình yên, an toàn cho cuộc sống của họ ? Cho dù, nói như lời một số lãnh đạo nhà nước, những cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật là những “con sâu”, thậm chí có nơi có cả “bầy sâu”… thì với những cán bộ nhà nước như ông Lê Trung Kiên, những người bắt tay với “xã hội đen” bảo kê cho những đoàn xe vận tải… thì đó thực sự là những “con sâu” đã quá độc, cần sớm sàng lọc, phát hiện để đưa ra khỏi bộ máy. Nếu không, chúng tiếp tục làm hại dân lành   Nguồn: facebook.com/manh.quan
......

Quan nhơ nhỡ mất cắp

Đọc báo, biết tin ông GĐ Sở Tài Nguyên – Môi trường (TN-MT) TP HCM bị mất trộm 1.600.000.000 đồng do ông “đãng trí” để “quên” trong phòng làm việc của cơ quan - không hề bất ngờ, nhưng xót xa nhiều rồi nên lần này buộc phải nói, phải viết... Rất nhiều vụ quan nhơ nhỡ mất cắp từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng  nhưng chưa hề (dù chỉ một lần), thấy “khổ chủ” bị điều tra với những câu hỏi như ‘tiền ở đâu ra nhiều thế’?, ‘nếu tiền “thừa” cơ quan lắm thế thì ở nhà, ở những nơi khác là bao nhiêu’?... Chỉ cần với hai câu hỏi trên, người dân buộc phải tự nghĩ rằng: Có lẽ người ta hô hào chống tham nhũng chỉ là để... lừa dân(!), bởi chỉ cần soi nhẹ từ lương tháng là biết ngay quan GĐ dẫu có nhận lương mỗi tháng 13-14 triệu thì phải mất đúng 10 năm không ăn, không uống mới, không mua xăng, không đưa vợ, cho con..., nói tóm lại là không tuyệt đối mới đủ 1,6 tỷ VNĐ. Không tuyệt đối là điều không thể có trên đời.   Chưa hết một nhiệm kỳ mà quan GĐ đã có 1,6 tỷ tiền...thừa, nếu đủ 2 nhiệm kỳ chắc ít nhất cũng dư dăm bảy tỷ. Người dốt toán đến mấy cũng tính ngay được rằng tổng số tiền quan GĐ nộp vợ, cho bồ, ăn nhậu, bao đỡ cho các quan trên phải nhiều gấp vài lần số tiền 1,6 tỷ đó. Nói chưa hết nhiệm kỳ là có cái lý của nó: Chẳng ai để tiền trong văn phòng vào mấy ngày cuối – lỡ không được o bế để ngồi dai, ngồi gắng nữa thì sao? Chuyện của quan GĐ Sở TN-MT TP HCM chỉ là một trong hàng chục vụ (mà báo chí biết, gần nhất là quan nhơ nhỡ Sở Tài chính Kon Tum mất trộm 3 tỷ đồng) về số tiền khó hình dung nổi mà quan nhơ nhỡ kiếm được. Cả nước có ít nhất 900 ông GĐ sở, có chừng ấy nữa các chức vụ tương đương (như Trưởng Ban Tổ chức, Trưởng Ban Ngoại vụ...); đó là chưa kể đến các chức vụ vừa béo vừa oai vừa có màu, có vị như chủ tịch quận, huyện (cũng thuộc hàng nhơ nhỡ); nếu kê để tính, nhân con số hàng ngàn với 1,6 tỷ đồng thì chuyện đất nước không rách nát tả tơi mới là chuyện lạ. Lập luận này quyết không sai bởi như đã nói ở trên, dư thừa 1,6 tỷ đồng mà không bị coi là tham nhũng cũng có nghĩa là chuyện... bình thường! Bài học đau đớn nhất của 90 triệu người dân Việt là cứ nhìn vào các “tấm gương” dư tiền tiêu không hết, bị mất cắp mà vẫn bình chân như vại thì chẳng khác chi quan lớn, quan cao lớn, quan to lớn, quan lớn đại... bật đèn xanh cho sự vơ vét mặc nhiên(!) Sự thật nhãn tiền bao nhiêu năm nay như một ngầm định rằng, các chú cứ yên tâm, không sao đâu, miễn là giải thích cho có lý có tình, tỷ như nhờ nuôi heo, nuôi gà, có tiền cất ở nhà sợ mất, gửi ngân hàng sợ vỡ nợ nên đem bỏ cơ quan cho chắc... Chuyện tấm gương, ai chưa tin cứ đọc bài mới đây của bác Phạm Nguyên Trường sẽ rõ. Trong bài Ngàn năm bia miệng tuyệt hay, bác Trường kể chuyện cố nhà văn Phùng Quán dạo Nhân văn Giai phẩm bị đàn áp đã khuyên mọi người đừng có xin chúng nó mà uổng công vì chúng nó quyết không tha, chúng nó cần tấm gương để răn đe kẻ khác... Có lẽ phải nhắc lại câu ngạn ngữ chó cứ sủa, người cứ đi, ai nói mược ai, quan tham cứ mặc sức vơ đầy túi. Nghe nói bên Mỹ sẽ cấp ngay thẻ xanh định cư cho bất kỳ ai, miễn là chịu đầu tư vào nước Mỹ 500.000 USD. Hàng ngàn quan chức nước ta dư sức bỏ ra khoản tiền ‘bèo bọt’ đó. Chỉ có điều, luật Mỹ khác luật rừng ở ta: Nếu không giải trình được nguồn tiền đó có từ nguồn hợp pháp nào thì đừng có mơ giấc mơ Mỹ vội vàng. Thử hỏi các quan to hơn quan nhơ nhỡ: Tại sao không áp dụng cách thức đó để chống tham nhũng? Phương pháp giản tiện, dễ dàng, chẳng cần dự án tốn tiền nghiên cứu, hiệu quả có tức thì mà không làm thì chỉ có thể nói là không muốn làm!   Huế, 12.8.2014 nguồn: bolapquechoa.blogspot.com
......

Săn đàn hổ dữ hay cưỡi lưng hổ?

Chu Vĩnh Khang - Tăng Khánh Hồng - Giang Trạch Dân Ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư đảng CS Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đang nổi lên như nhân vật cương quyết nhất trong việc chống tham nhũng trong nước ông - được coi là một thảm họa đe dọa sự tồn vong của chế độ. Ông nhậm chức khi vụ án vợ chồng Bạc Hy Lai - Cốc Khai Lai đang làm dư luận sôi động, Bạc đang nổi lên như một ngôi sao sẽ leo lên tột đỉnh quyền lực do được Giang Trạch Dân bảo trợ. Trước đó Bạc Hy Lai là Ủy viên Bộ Chính trị được cho là đang nắm chắc vị trí Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị bao gồm 9 người có thế lực lớn nhất, để rồi sẽ lên cao hơn nữa. Mức án tử hình cho Cốc Thái Lai và chung thân cho Bạc Hy Lai làm rung động hàng ngũ quan chức cao cấp nhất của đảng CS. Đầu năm 2014, vụ án Chu Vĩnh Khang được mở tiếp ra, gây chấn động gấp nhiều lần vụ án Bạc Hy Lai. Vì Chu là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, lại là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị có thế lực bậc nhất, với chức vụ Trưởng Ban Chính - Pháp của đảng CS, trực tiếp nắm các bộ máy chuyên chính là công an, tình báo, phản gián, tư pháp, tòa án, kiểm sát, thanh tra; có thể nói là trên thực tế có quyền sinh quyền sát không hạn độ. Số cán bộ liên quan đến Chu Vĩnh Khang bị cất chức, bắt giam không ngừng tăng rất nhanh, tháng 4/2014 là 150 người, tháng 6 vừa qua đã lên đến gần 400, theo Thời báo Hoa Nam (25/7). Những người bị bắt đều là các nhân vật tai to mặt lớn, cán bộ cao cấp trong ngành công an và ngành dầu khí là hai ngành Chu Vĩnh Khang từng đứng đầu trên cương vị Bộ trưởng Công an (2002-2007) và Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia (1996-1998). Theo tin trên, gần một trăm nhà kinh doanh lớn, những tỷ phú đô la Đỏ cũng bị sờ gáy, như hai nhà đại tài phiệt Lưu Hán và Ngô Bình lừng danh ở Tứ Xuyên có quan hệ chặt chẽ với con trai của Chu Vĩnh Khang là Chu Bân. Giới quân sự cũng bị chấn động mạnh khi nhiều sỹ quan cấp cao bị thẩm vấn, tiêu biểu nhất là Tướng Từ Tài Hậu, từng là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương đầy thế lực, tưởng như không ai dám động đến. Đến ngày 26 tháng 7/2014 tờ Epoch Times đưa tin chấn động. Một nhân vật nữa từng được coi là bất khả xâm phạm đã bị bắt giữ ở Thiên Tân. Đó là Tăng Khánh Hồng, từng là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch nước, trước đó là Trưởng ban Tổ chức Trung ương đầy thế lực. Ngay trước đó báo này cũng đưa tin ông Giả Khánh Lâm, cựu Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị đảng CS Trung Quốc đã bị bắt giam. Tờ Weibo của Trung Quốc ở Hồng Kông (5/2014) gọi các nhân vật bị bắt vừa qua là những “siêu hổ”, nghĩa là những con hổ rất hung dữ, nanh vuốt nhọn hoắt, rất nguy hiểm. Nếu hoàn tất hồ sơ, phiên tòa để xét xử vụ án khổng lồ này sẽ là sự kiện chính trị chấn động Trung Quốc và không khỏi vang dội ra toàn thế giới. Có một nét đáng chú ý là Pháp Luân Công (PLC), một tổ chức có gần 100 triệu thành viên ở Trung Quốc và hơn 20 triệu ở các nước khác, rất quan tâm đến vụ án cực lớn này. Họ cho rằng có một sự trùng hợp rõ rệt là những bầy "siêu hổ" tham nhũng lớn nhất cũng đồng thời là những bầy sói tàn bạo nhất đối với PLC. Họ lập luận rằng Chu Vĩnh Khang, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm, Bạc Hy Lai… đều là những tên đồ tể chủ trương sát hại PLC một cách điên loạn nhất. Những kẻ này chủ trương dùng lực lượng công an cùng bọn côn đồ xã hội đen để bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu không xét xử các thành viên hoàn toàn lương thiện và có đạo đức của PLC. Tội ác tày trời của họ là đã lợi dụng lời vu khống của lãnh đạo CS coi PLC là "tà đạo" nguy hiểm cho xã hội, đã tổ chức giết rất nhiều thành viên PLC, lấy các bộ phận của nạn nhân đem bán lấy tiền chia nhau. Các bộ phận đó thường là gan, thận, tim, mắt…của các nam nữ thành viên PLC được bán theo giá cao cho các bệnh nhân giàu có để được ghép thay cho các bộ phận đã bị bệnh nặng. Cũng theo Weibo, kẻ cầm đầu đích thực của nhóm tham nhũng đang bị tóm gáy không phải ai khác, chính là nguyên Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, và người từng khai tử PLC cũng không phải ai khác, chính cũng là Giang Trạch Dân, khi Giang công khai tuyên bố vào năm 1999 đặt "tà pháp" PLC ra ngoài vòng pháp luật. Cuộc tàn sát PLC bắt đầu từ đó. Một số thành viên PLC ở Hà Lan và Bồ Đào Nha còn đòi truy tố Giang ra tòa án quốc tế về tội diệt chủng. Công luận Trung Quốc ngày càng nhận ra hầu hết những “siêu hổ” hiện bị giam trong chuồng đều là tay chân tin cẩn nhất của Giang Trạch Dân, do chính Giang lựa chọn và giới thiệu. Chu Vĩnh Khang, Giả Khánh Lâm, Tăng Khánh Hồng, Bạc Hy Lai, Có tin chính Giang đã từng không đồng tình với việc chọn Tập Cận Bình thay cho Hồ Cẩm Đao. Còn có tin tay chân Giang định ám sát Tập Cận Bình. Vụ án siêu nghiêm trọng về bầy "siêu hổ" tham nhũng của Trung Quốc đang ở thời kỳ kết thúc. Tập Cận Bình đang suy nghĩ và tính toán. Đụng đến, bắt giam các nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, rồi bắt giam 2 nguyên Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị là những hành động mạo hiểm chưa từng có. Xã hội Trung Quốc rất hoan ngênh việc kiên quyết nói và làm như thế. Nhưng ông có dám đụng tiếp đến nguyên Tổng Bí thư đảng CS TQ Giang Trạch Dân hiện vẫn còn nhiều ảnh hưởng, nhiều chân tay trong đảng hay không? Cũng nên nhớ rằng Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Chu Vĩnh Khang, Tăng Khánh Hồng, Bạc Hy Lai…cũng là những kẻ sốt sắng nhất trong vụ tàn sát hàng mấy ngàn sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn tháng 6 năm 1989, qua xích hàng trăm xe tăng, theo ý kiến của Đặng Tiểu Bình. Lúc ấy chỉ có Triệu Tử Dương là chống lại. Tập Cận Bình vẫn còn dè dặt khi thời kỳ khởi đầu vụ án sắp kết thúc. Bản cáo trạng chung sẽ được công bố, chuẩn bị cho cuộc xử án. Giang Trạch Dân vẫn còn là con hổ dữ nhiều nanh nhiều vuốt, có tay chân trung thành cài khắp nơi ở mọi cấp. Có thể Giang sẽ ra tay trước. Có thể lắm.   Tập Cận Bình đang săn bầy hổ dữ hay đang cưỡi lưng hổ, một tư thế không dễ chịu, không thoải mái chút nào. Tình hình sẽ có thể rất ly kỳ, sôi động vào cuối năm nay. Và tác động đến Việt Nam chắc sẽ không nhỏ. Bùi Tín
......

Cựa quậy và dấn thân cho tự do báo chí

Đối với tôi, nền báo chí chính thống ở Việt Nam hiện nay- nền báo chí lề phải, là một nền báo chí ngờ nghệch và hèn nhát.   Ngờ nghệch và hèn nhát   Hàng triệu người ở đất nước này, hàng trăm triệu người trên trái đất này cảm nhận được điều này. Nhưng tôi là người trong cuộc, tôi cảm nhận được điều này một cách rõ ràng hơn, cụ thể hơn những người ngoài cuộc. Rất nhiều chuyện cụ thể cười ra nước mắt chứng minh cho sự hèn nhát và ngờ nghệch. Quá nhiều. Kể ra chỉ thêm xát muối vào lòng tự trọng, chỉ thêm xót xa và cay đắng.   Ngay bản thân đội ngũ những người làm báo Việt Nam từ lâu cũng đã nhận thức được sự hèn nhát của chính mình, sự áp đặt phi lý của nhà cầm quyền đối với nền báo chí lệ thuộc vào ngân sách bao cấp và nhân sự bao cấp. Nhiều tổng biên tập đã thú nhận với phóng viên: "Chúng ta ăn cơm của họ (Đảng và Nhà nước), uống nước của họ thì phải làm theo họ thôi. Đã làm người thì không thể chặt đứt ngón tay đã giúp mình đưa bánh mì vào miệng, hay nói theo ông cha mình, ăn cây nào phải rào cây ấy". Lời tâm sự này đã nói lên tất cả đặc trưng của nền báo chí Việt Nam: Nô dịch, đớn hèn và đau khổ.   Nhiều nhà báo có lương tri đã nhận thức được điều này. Thời nhạc sĩ Trần Hoàn đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ văn hóa- thông tin (một trong những chức năng của bộ này là quản lý nền báo chí quốc doanh), báo chí bị o ép trăm bề. Những người làm báo đã chế lời mới cho ca khúc LỜI NGƯỜI RA ĐI của chính Trần Hoàn để oán thán Trần Hoàn, để ai điếu cho một nền báo chí: "Nền báo chí còn Trần Hoàn thì còn gian khổ em ơi! Bút còn đây, giấy còn đây, nghị quyết này ta chép ra thôi....". Nhưng than vãn chỉ để mà than vãn, không có một nhà báo nào đủ dũng khí để hành động phản kháng.   Cựa quậy… Không phản kháng không có nghĩa là không có nhà báo nào cựa quậy. Có rất nhiều nhà báo đã cựa quậy.   Từ năm 1967, một số nhà báo ở Hà Nội đã cựa quậy, và, họ đã bị tù đày, quản thúc. Năm 1990, nhà báo Bùi Tín đã cựa quậy, và, sự đào thoát của ông đã cung cấp cho nhân loại những thông tin cay đắng về một hành tinh cô đơn.   Thập niên 90 của thế kỷ 20, báo Tuổi Trẻ đã cựa quậy, và hậu quả là Tổng biên tập Kim Hạnh mất chức, nhiều phóng viên và biên tập viên mất việc. Nhiều phóng viên phải chịu cảnh tù đày do những bản án mang tính dằn mặt và bỏ túi của nhà cầm quyền.   Nhà báo Huy Đức không chỉ cựa quậy với tác phẩm BÊN THẮNG CUỘC vào năm 2012 mà trước đó đã cựa quậy với BỨC TƯỜNG BERLIN vào năm 2008. Nhà báo Trương Duy Nhất cũng đã cựa quậy bằng cách bỏ việc trong một cơ quan báo chí quốc doanh để tự do hơn, để có MỘT GÓC NHÌN KHÁC, dù biết rằng sẽ đối diện với lao tù. Khi Internet trở nên phổ biến ở Việt Nam, làng báo Việt Nam cựa quậy và thức tỉnh nhiều hơn. Nhiều nhà báo đã viết nhiều bài báo đúng nghĩa bằng chính danh hay ẩn danh. Trong thế giới mạng ngày càng phát triển, họ đã góp phần làm nên những trang web lừng danh như BASAM, BOXITVN mà theo đánh giá của tôi là hiện tượng, là đột phá của cả một nền báo chí trong buổi giao thời đầy giông bão. Dấn thân thầm lặng   Tôi chơi thân và kính trọng nhà báo lão thành Phan Duy Thảo. Đối với tôi, ông là một người bạn, người anh và là một người thầy. Ông thông minh, trung thực, tốt bụng và gàn dở như chính các ông đồ xứ Nghệ quê ông. Có thể Phan Duy Thảo không nhận thức được rằng, chủ nghĩa cộng sản là một “quái thai ghê tởm” của nhân loại, Đảng cộng sản Việt Nam là nguyên nhân dẫn đến sự đói nghèo của đất nước, nhưng Phan Duy Thảo nhận thức được rằng, ông và gia đình ông cũng như hàng triệu người khác trên đất nước này đang phải sống trong một xã hội dối trá và bất an. Vào năm 1991, khi mọi người đang hồ hởi với sự đổi mới, Phan Duy Thảo đã viết bài thơ CHUYỆN TẾU ĐÊM NAY CÃI CHÀY VỚI VỢ nhân dịp Ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21-6. Ông đã khổ sở nhiều với bài thơ này. Chỉ thị miệng đã được ban ra: sẽ không cho in trên báo, sẽ không cho đọc trong đêm thơ của các nhà báo nếu không thay tựa của bài thơ và sửa bỏ một số câu trong bài. Phan Duy Thảo đã phải ngậm ngùi gọt giũa đứa con tinh thần của mình để được đọc trong đêm thơ, để bài thơ được in ấn. Nhưng với những kẻ tâm giao, ông vẫn đọc bản gốc. Tôi mạn phép trích dẫn một phần bản gốc bài thơ của ông mà tôi nhớ được:   “Em lại trách: Anh chỉ nghề viết lách! -Thì em xem cũng chưa thật là nghề Viết đã khó mà lách thì chưa nổi Hứng lên rồi còn bia bọt cà phê Nghề anh chọn nơi dòng đời xiết mạnh Làm thân cò lặn lội với bờ sông. Nói thật với em đời nay có nhiều loại báo Báo cáo- báo tường- báo ân- báo oán Riêng với em, anh nhận nghiệp báo cô”   23 năm trước, Phan Duy Thảo đã thức tỉnh, đã cựa quậy khi nhận thức được rằng "đời nay có nhiều loại báo: báo cáo- báo tường- báo ân-báo oán". Thật đáng để nghiêng mình thi lễ.   Lão báo đại sư yêu mến ơi, hiện đang có nhiều nhà báo trong một nền báo chí hèn nhát và ngờ nghệch cựa quậy và dấn thân lắm đấy, họ cựa quậy và dấn thân thầm lặng trong bối cảnh rất nhiều nhà báo đang gào lên như lang sói khi phải sống quá lâu giữa bầy lang sói. Tâm Don   Nguồn: Việt Nam Thời Báo
......

Đồng minh với Mỹ

Quốc gia duy nhất có thể giúp đỡ Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc không ai khác hơn là Mỹ.   Các sự kiện dồn dập xảy ra giữa Việt Nam với Mỹ thời gian vừa qua, từ chuyến thăm Mỹ của Phạm Quang Nghị, ủy viên Bộ chính trị đến chuyến thăm Việt Nam của hai thượng nghị sĩ Mỹ, John McCain và Sheldon Whitehouse, cho thấy triển vọng nâng cấp quan hệ giữa hai nước từ hợp tác toàn diện đến đối tác chiến lược có vẻ như gần kề. Ba sự kiện chính có thể sẽ xảy ra như là hệ quả của việc nâng cấp này là: Một, hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể sẽ được ký kết sớm; hai, Việt Nam có thể sẽ được phép mua các loại vũ khí sát thương của Mỹ; và ba, quan trọng nhất, Mỹ sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong việc giúp đỡ Việt Nam đối phó với những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Nếu tất cả các điều trên được diễn ra một cách suôn sẻ thì quả là một việc đáng mừng cho Việt Nam. Lý do đơn giản là Việt Nam không thể chống cự lại Trung Quốc một cách có hiệu quả nếu không có, một, vũ khí tối tân, và hai, sự giúp đỡ từ Mỹ. Về vũ khí, lâu nay Việt Nam chủ yếu mua từ Nga, nhưng ở đây lại có vấn đề: Nga không phải chỉ bán vũ khí cho Việt Nam mà còn bán cho cả Trung Quốc nữa. Hậu quả là những gì Việt Nam có, Trung Quốc cũng đều có. Hơn nữa, nhờ giàu hơn, Trung Quốc có thể mua vũ khí từ Nga với số lượng lớn hơn hẳn Việt Nam. Đó là chưa kể, sau mấy chục năm tập trung vào việc phát triển kỹ thuật quân sự, vũ khí do Trung Quốc tự chế tạo cũng có trình độ kỹ thuật rất cao. Đứng về khía cạnh vũ khí, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc mua từ Mỹ. Tuy nhiên, việc mua ấy sẽ không thể thành hiện thực được nếu chính phủ Mỹ vẫn bị ràng buộc bởi lệnh hạn chế bán các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam vốn kéo dài từ mấy chục năm nay.   Về đồng minh, lâu nay có vẻ như Việt Nam cố gắng ve vãn nhiều quốc gia nhưng thành thực mà nói, một, không có nước nào sẵn sàng đứng bên cạnh Việt Nam và chia lửa với Việt Nam trong trận đối đầu với Trung Quốc; và, hai, nếu muốn, họ cũng không đủ sức. Ngay trong khối ASEAN, những nước có thể đứng về phía Việt Nam cũng rất ít ỏi. Việt Nam chỉ có thể đi với những quốc gia có quyền lợi xung đột với Trung Quốc như Philippines, Malaysia và Brunei. Nhưng cả bốn nước hợp lại vẫn không phải là đối thủ với Trung Quốc. Đó là chưa kể giữa bốn nước này, mâu thuẫn về chủ quyền trên biển và đảo vẫn khá gay gắt. Ở châu Á, chỉ có hai quốc gia thực sự mạnh về cả kinh tế lẫn quân sự là Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng do những ràng buộc về pháp lý, Nhật Bản không thể đưa quân sang giúp Việt Nam trong trường hợp có chiến tranh. Trong khi đó, Hàn Quốc ở cái thế cũng rất bấp bênh: Trung Quốc có thể sử dụng Bắc Hàn để ngăn chận mọi nỗ lực quân sự của Hàn Quốc trong việc chống cự lại Trung Quốc. Bởi vậy, dù thích hay không thích, Việt Nam cũng nên thừa nhận một điều: quốc gia duy nhất có thể giúp đỡ Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc không ai khác hơn là Mỹ. Quan hệ đồng minh với Mỹ là con đường duy nhất để tự vệ của Việt Nam. Lấn cấn duy nhất của mối quan hệ ấy là quá khứ chiến tranh giữa hai nước. Đối với chính phủ Mỹ, thật ra, đó không phải là vấn đề. Tất cả các chính khách Mỹ đều theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) và thực tế (realism). Câu châm ngôn cửa miệng của họ là: không có bạn vĩnh viễn cũng không có kẻ thù vĩnh viễn; chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh viễn. Do đó, chính phủ Mỹ sẵn sàng bắt tay với Việt Nam, kẻ thù cũ của họ, để bảo vệ Biển Đông. Họ không bảo vệ Việt Nam. Họ chỉ bảo vệ Biển Đông. Và vì Biển Đông, họ sẵn sàng xem Việt Nam là một đồng minh chiến  lược. Nhưng trên thế giới, quan hệ đồng minh nào cũng dựa trên hai hoặc một trong hai nền tảng: quyền lợi và sự tin cậy. Giữa Việt Nam và Mỹ hiện nay có rất nhiều điểm chung về quyền lợi: Cả hai đều cần Biển Đông. Với Việt Nam, đó là vùng biển của Việt Nam, là một trong những nguồn lợi tức lớn của Việt Nam về phương diện kinh tế đồng thời cũng là danh dự và lòng tự hào dân tộc của Việt Nam về phương diện tinh thần. Với Mỹ, đó là con đường hàng hải quan trọng vừa có ý nghĩa về kinh tế vừa có ý nghĩa về quân sự. Mỹ cần bảo vệ Biển Đông, nhưng việc bảo vệ đó trở thành khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả nếu Việt Nam chấp nhận nhượng bộ hoặc đầu hàng Trung Quốc.   Tuy nhiên, một thứ quan hệ dựa trên quyền lợi không thể kéo dài và cũng không đủ mạnh để lôi kéo Mỹ. Nền tảng thứ hai của quan hệ đồng minh bao giờ cũng là sự tin cậy. Sự tin cậy trong chính trị khác với sự tin cậy giữa hai cá nhân vốn chỉ dựa vào tính cách. Trong chính trị, sự tin cậy chỉ được xây dựng trên nền tảng của những bảng giá trị chung cả hai quốc gia đều chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên mà các quan hệ đồng minh sâu sắc và bền vững chỉ có thể tìm thấy giữa các quốc gia gần gũi với nhau về văn hóa, như giữa Mỹ và Anh, Úc, Tân Tây Lan, hoặc nhạt hơn một chút, giữa Mỹ và các quốc gia khác ở Âu châu. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ lâu nay, Mỹ luôn luôn đưa vấn đề nhân quyền ra như một điều kiện. Không phải Mỹ muốn cứu một số cá nhân đang bị giam giữ trong nhà tù. Với chính phủ Mỹ, những cá nhân ấy hoàn toàn vô nghĩa. Điều quan trọng nhất là Mỹ muốn thấy ở Việt Nam những sự chia sẻ chung về các bảng giá trị văn hóa: tôn trọng quyền con người. Hơn nữa, chính phủ Mỹ cũng muốn dân chúng Mỹ nhận thấy điều đó. Có thể nói trở ngại chính trong việc nâng cấp quan hệ đồng minh giữa Việt Nam và Mỹ không phải ở Trung Quốc hay bất cứ nước nào khác mà chính là dân chúng Mỹ. Không nên quên vết thương của nhiều người Mỹ trong chiến tranh Việt Nam với 58.000 người chết vẫn chưa lành hẳn. Cái gọi là hội chứng Việt Nam trong một số thành phần dân chúng Mỹ vẫn còn sâu đậm. Những người ấy không dễ dàng để mặc cho chính phủ Mỹ muốn làm gì thì làm. Họ có những yêu sách của họ. Một trong những yêu sách ấy là: Việt Nam xứng đáng để làm bạn và để được bảo vệ. Việc tôn trọng nhân quyền là một thước đo chính. Không có một chính trị gia nào ở Mỹ dám bất chấp yêu sách chính đáng ấy của dân chúng Mỹ. Chắc chắn Việt Nam sẽ đáp ứng một số yêu sách về nhân quyền của chính phủ và dân chúng Mỹ bằng cách thả một số tù nhân chính trị hiện đang bị họ giam giữ. Tuy nhiên, vấn đề là họ có thực tâm hay không. Cho đến nay, về vấn đề này, Việt Nam vẫn chơi một trò rất lưu manh: Trước sức ép của Mỹ, họ thả một số người nhưng lại bắt một số người khác. Đó là điều họ từng làm. Tôi chỉ hy vọng, hiện nay, trước những thử thách sinh tử của đất nước, họ sẽ không chơi cái trò lưu manh vặt ấy nữa. Nếu không, cơ hội để cứu Việt Nam ra khỏi ách Bắc thuộc rất dễ biến thành mây khói.   Nguồn: voatiengviet.com
......

Đánh giá lại vai trò của đảng.

Hậu giàn khoan và những việc phải làm của tổ quốc Việt Nam hôm nay   Kể từ sau khi Trung Quốc rút giàn khoan khổng lồ khỏi thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đến nay, chưa thấy có bất cứ phân tích đánh giá nào về vai trò của đảng cộng sản VN với tư cách là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam có công trạng đến đâu trong vấn đề này.   Cứ theo cách hành xử của lãnh đạo đảng trong hơn hai tháng giàn khoan ấy cắm ở biển Đông của Việt Nam thì ĐCS VN hoàn toàn bất lực trước ông bạn vàng bốn tốt của đảng, nên ông bạn vàng đã ngang nhiên bất chấp công pháp quốc tế, bất chấp dư luận tiến bộ thế giới, bất chấp cả thói xu nịnh bợ đỡ của chính đảng anh em, cắm cho bằng được bộ mặt gian giảo, xảo quyệt nhất mọi thời đại là bành trướng bá quyền nước lớn lên tấm thân gầy dằng dặc đau thương của dân tộc Việt Nam. Và với cách hành xử như thế thì rõ ràng việc giàn khoan của TQ rút đi khỏi VN không có tý công trạng nào của đảng cả.   Hiện nay đảng đang dùng các nguồn từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thuế của dân và từ tiền bán rẻ công thổ quốc gia cho những tập đoàn nước ngoài để xây dựng lộ trình cho một nhiệm kỳ đại hội mới của đảng. Vấn đề là ở đại hội này, họ có quan tâm đến những lợi ích nguyện vọng chính đáng của dân tộc, mà đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết thảy mọi quyền lợi khác của họ hay không? Đã từ rất nhiều nhiệm kỳ đại hội đảng, dân tộc ta dường như đã buông xuôi cho họ muốn làm gì thì làm, đã chấp nhận họ lãnh đạo một cách tuyệt đối dù biết rất rõ trong đảng của họ còn đầy rẫy suy thoái, biến chất. Thực tế họ đã là những con sâu dân, mọt nước, nên đất nước mới kiệt quệ về kinh tế, phân hóa về nội bộ, lòng dân bất an, thế lực nước ngoài nhòm ngó xâm lấn như hiện nay! Để đất nước sớm có con đường phát triển, đoàn kết dân tộc cùng nhau một lòng xây dựng đất nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì công việc trước tiên của tổ quốc cần là phải định vị lại vị trí vai trò của ĐCS VN trong tiền đồ dân tộc, để có cách nhìn nhận đúng đắn về đảng này, xem xét xem họ có còn phù hợp với lợi ích chính đáng của dân tộc VN nữa hay không. Nếu họ không còn phù hợp nữa thì cần tạo đà để cho các lực tiến bộ khác phát triển cùng nhau gánh vác công việc của non sông đất nước. Ai, lực lượng nào phù hợp với lợi ích của dân tộc nhất người đó sẽ là lực lượng dẫn dắt dân tộc. Cung cách đảng đang lựa chọn nhân sự cho đại hội nhiệm kỳ tới là theo tiêu chí bó đũa chọn cột cờ, có nghĩa là đảng vẫn cam tâm chỉ chọn một nhúm người trong đảng, trong đó có cả một bộ phận thoái hóa biến chất đứng ra gánh vác công việc đất nước của một dân tộc có đến hơn 90 triệu dân. Với cách lựa chọn như thế thì làm sao cho dân tộc ta phát triển?   Thế nào là phù hợp với lợi ích của dân tộc? Đương nhiên con đường phát triển của dân tộc là đường đi của một dân tộc phải đến được hùng cường giàu mạnh, ở đó không thể có điểm dừng để lực lượng dẫn dắt dân tộc tự mãn theo kiểu sau mỗi chặng đường do mình vẽ ra lại bắt dân tộc phải suy tôn mình, ghi nhận công lao của mình như đảng đang làm và mặc cả với dân tộc trong giai đoạn vừa qua và cho đến tận hôm nay. Nguyện vọng chung nhất của bất cứ dân tộc nào trên thế giới là bình đẳng bình quyền cùng nhau quản lý lãnh đạo đất nước mình, phát huy cao độ mọi sức mạnh của toàn dân trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc mình, hòa đồng với thế giới văn minh tiến bộ. Một nguyện vọng như thế mà đảng không dám nêu cao, không dám phát huy cổ súy cho nó hình thành thì đảng đó sẽ sớm trở thành tội đồ của dân tộc. Trước sau gì thì dân tộc ấy cũng nhận ra và sẽ có phán xét kịp thời về nó. Vấn đề ở đây là: Với dân tộc, đã để cho ai thay mặt mình lãnh đạo gánh vác đất nước thì cũng cần phải tỉnh táo, cân nhắc giao cho lộ trình cần làm, đúc rút kinh nghiệm trong một hai nhiệm kỳ để mà chỉnh sửa, hoặc thay thế bằng lực lượng khác có uy tín hơn. Không thể nhắm mắt làm ngơ khi họ đã công khai những thối nát nhất, suy thoái nhất, mục nát nhất không có cách gì và lộ trình nào khắc phục để tài sản công sức của dân tộc sau bấy nhiêu năm có cơ hồ mất trắng bởi “nền hòa bình độc lập của Việt Nam đang bị đe dọa” - như phát biểu của chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Còn với với riêng đảng, cũng cần nhận thức trong đợt phân tích đánh giá của dân tộc đối với đảng mình thì cần phải nghiêm túc soi sét mình đã làm được gì cho dân tộc này, nguyên nhân nào đảng bị đánh giá lại, sách lược, chính cương, nghị quyết của mình có còn phù hợp với lợi ích của dân tộc mình hay không để mà điều chỉnh phù hợp đối với nguyện vọng của dân tộc này. Sự soi xét này yêu cầu đảng phải làm hết sức nghiêm túc mới tìm ra được những cái lệch lạc, sai lầm. Thậm chí đảng sẽ nhận ra cả những đòi hỏi phi lý của mình trong điều 4 hiến pháp mà đảng mà đảng cố tình lái cho bằng được trong đợt xây dựng hiến pháp vừa qua. Để có tiêu chí đánh giá chung nhất nhưng cũng rất khách quan công bằng khoa học cho một công cuộc đánh giá lại vai trò của đảng CS VN, cần nhận thức theo các hướng sau đây:   1. Đảng ra đời và dẫn dắt dân tộc trong lúc khủng hoảng xã hội Việt Nam sâu sắc nhất, khi nhà nước phong kiến thì ươn hèn, còn tư bản thì tận dụng tối đa cơ hội này khai thác bóc lột đến thậm tệ dân tộc Việt Nam. Thời kỳ này đảng đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ bình quyền và chính sách hợp lòng dân là người cày có ruộng. Đây là một công lao cần ghi nhận. 2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Thời kỳ này do không vượt thoát bởi ý thức hệ phe phái giữa các nước lớn đại diện cho hai phe TBCN và XHCN, đảng đã nhắm mắt làm ngơ tiến hành một cuộc chiến tranh được gọi là giải phóng dân tộc nhằm vào chính đồng bào mình, mà hệ quả là đất nước bị dìm trong bể máu chiến tranh, suốt 30 năm huynh đệ tương tàn dẫn đến suy yếu thậm tệ khối đại đoàn kết của dân tộc, khiến kẻ thù của dân tộc hiện đang ngư ông đắc lợi trên biển Đông. Đây là điểm yếu hạn chế nhất của đảng trong giai đoạn này. 3. Cần nhận thức rõ, nhận thức lại rằng cuộc chiến tranh 30 năm 1945-1975 tại Việt Nam chính là cuộc chiến tranh phe phái TBCN và XHCN để Trung Quốc không còn cớ cậy công rằng đã giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng Pháp và Mỹ. Việt Nam trong cuộc chiến tranh này chỉ là nạn nhân, do đó bất luận trong trong hoàn cảnh nào không được nói thắng thua trong lòng một dân tộc. Làm được như thế tự nhiên chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc đã được giải quyết. 4. Phải làm cho dân hiểu rõ Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam là sai lầm. Sai lầm do nôn nóng, chủ quan duy ý chí hoặc sức ép từ bên ngoài trong điều kiện hoàn cảnh bị nước ngoài lợi dụng chứ không phải ý chí cuối cùng tối thượng của đảng để được nhân dân thông cảm. 5. Về cuộc chiến tranh biên giới 1979: Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc, qua đó đòi lại những phần đất đã bị TQ lấy mất tại ải Nam Quan, Thác Bản Giốc… theo nguyên tắc của hiệp định Pháp - Thanh. Phần nào đã bị lấn chiếm mất bao nhiêu diện tích so với hiệp định Pháp - Thanh cần có bảng chỉ dẫn lập bia để hậu thế biết được. Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Đảng ngay tức khắc phải có mọi biện pháp đòi lại chủ quyền không thể tẩm ngẩm tầm ngầm mãi như thời gian vừa qua được nữa. 6. Trong bang giao đối ngoại dù với nước nào cần phải triệt để nguyên tắc có đi có lại, bình đẳng hữu nghị cùng có lợi. Tuyệt nhiên không được đem vận mệnh dân tộc làm vật tế thần mặc cả với những thế lực ngoại bang. Là người hiểu rõ dã tâm của Trung Quốc hơn bao giờ hết cần phải cho thế giới thấy hết dã tâm này của Trung Quốc. Qua đó họ sẽ có đối sách phù hợp với chính TQ và thông cảm giúp đỡ nhân dân Việt Nam hơn. 7. Với nhân dân trong nước cần mở rộng lộ trình dân chủ bình đẳng bình quyền đến mọi tầng lớp trong xã hội, khuyến khích những thành phần ưu tú tham gia quản lý, cùng gánh vác các công việc quốc gia đại sự. 8. Cần triệt để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong chương trình phát triển kinh tế biển, hợp tác phát triển lĩnh vực kinh tế biển. Mạnh dạn đầu tư tàu dịch vụ hậu cần nghề cá hiện đại làm nơi tập trung thu mua khai thác cá của nhân dân, góp phần nâng cao giá trị phẩm chất và năng suất cá. Đầu tư cho lực lượng này đủ lớn để cung ứng hậu cần bằng máy bay cho ngư dân cũng như xuất thẳng sang những nước có tỷ giá cao. 9. Với xu thế bất lợi hiện nay trên biển Đông và biển Hoa Đông đã manh nha một hiệp ước phòng thủ, phòng vệ tập thể nhằm ngăn ngừa những kẻ cậy lớn cắn trộm. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ loại hình hợp tác này trên nguyên tắc phòng ngừa xung đột xảy ra.   Vài tiêu chí viết vội trên đây chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót, nhưng chỉ cần căn cứ những tiêu chí này sẽ đánh giá về đảng, cách nghĩ của đảng hiện nay một cách chính xác nhất. Các tiêu chí này đảng có thể tự nhìn nhận để đúc rút cho mình, hòng đáp ứng hơn đối với đòi hỏi của dân tộc, từ đó mà lấy lại lòng tin từ dân tộc mình. Còn với dân tộc Việt có tấm lòng vị tha bao dung sẵn sàng giao phó cho những chính đảng dám đáp ứng và phục vụ lợi ích tối đa của dân tộc. Mong rằng qua bài viết này, toàn thể dân tộc, và mỗi con người Việt Nam chúng ta dù trong nước hay hải ngoại luôn nặng nòng với non sông đất nước đánh giá lại vị trí vai trò của đảng hiện nay có còn đủ uy tín lãnh đạo đất nước nữa hay không. Đ.T.   Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

THƯ CHUNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỘC LẬP VIỆT NAM

Dân quyền: tại buổi gặp 4 đại diện của các tổ chức xã hội dân sự ở Hà Nội, ông Nguyễn Quang A đã trân trọng trao bức thư dưới đây của 10 tổ chức xã hội dân sự độc lập cho 2 thượng nghị sĩ John McCain (Cộng hòa) và Sheldon Whitehouse (Dân chủ). Dưới đây Dân quyền xin giới thiệu bản dịch và nguyên bản tiếng Anh.   Thượng nghị sĩ McCain và thượng nghị sĩ bang Rhode Island rời buổi họp báo tại Trung tâm Hoa Kỳ ở Hà Nội, 8/8/2014. Photo Reuters     THƯ CHUNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỘC LẬP VIỆT NAM Gửi: Thượng nghị sĩ John McCain Thượng nghị sĩ Sheldon Whitehouse Ngày 08 tháng Tám năm 2014 Kính thưa Thượng nghị sĩ  John McCain và Thượng nghị sĩ Sheldon Whitehouse: Về: Hậu quả tiêu cực gián tiếp của việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam Trước tiên, chúng tôi xin gửi lời chào mừng chân thành tới hai ông trong chuyến thăm lần này tới Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tên của hai ông luôn ở tuyến đầu của tất cả những nỗ lực thúc đẩy và củng cố sự hợp tác giữa hai đất nước. Dĩ nhiên với mối quan hệ đối tác gần gũi với Hoa Kỳ, Việt Nam đã và đang được hưởng lợi trên cả phương diện kinh tế và xã hội. Bởi vậy, chúng tôi muốn bày tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với sự cống hiến của hai ông nhằm thúc đẩy mối quan hệ  Hoa Kỳ-Việt Nam.   Chúng tôi được biết rằng trong những tháng vừa qua Quốc hội Hoa Kỳ đã tăng cường xem xét việc nới lỏng và bãi bỏ lệnh cấm bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho chính phủ Việt Nam. Trong khi động thái mới này hứa hẹn sẽ mang lại mối quan hệ quân sự tốt đẹp giữa hai quốc gia, đóng góp vào việc tăng cường sức mạng quốc phòng của Việt Nam trong điều kiện khiêu khích gia tăng ở vùng biển Hoa Nam (tên quốc tế: South China Sea, tên Việt Nam: Biển Đông), chúng tôi cho rằng cần thiết phải nêu ra các quan ngại của chúng tôi về những rủi ro liên quan đến việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí này. Mặc dù chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh những nỗ lực trên trường quốc tế nhằm thể hiện sự tán dương của họ đối với các quyền con người bằng cách tham gia Công ước Liên hợp quốc về Chống tra tấn và giành được một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, thành tích nhân quyền của Việt Nam vẫn nghèo nàn, nếu không muốn nói là còn tệ hơn. Trong 12 tháng qua, chính phủ Việt Nam đã tiếp tục thi hành những đạo luật an ninh quốc gia mơ hồ, chẳng hạn như Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự, để bắt bớ và cầm tù nhiều hơn những blogger, nhà báo, nhà vận động pháp lý, các nhà hoạt động nhân quyền và quyền của người dân tộc thiểu số. Cùng với việc bịt miệng các tiếng nói bất đồng, con số người chết vì những hành động hung bạo của cảnh sát cũng gia tăng,  thường xuyên có cac vụ đàn áp các tổ chức tôn giáo phi nhà nước và tiếp tục có những sự sách nhiễu và đe dọa đối với các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền. Một điều rõ ràng là Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn giữa những lời hứa long trọng về nhân quyền trên trường quốc tế và việc thực thi chúng ở cấp quốc gia. Mặc dù gần đây đã có một số tù nhân chính trị được trả tự do, điều mà chúng tôi cũng mong đợi và trân trọng sự bày tỏ thiện chí của chính phủ trong việc cải thiện nhân quyền, tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải lưu ý rằng sự cải thiện đang diễn ra, nếu có,  có thể bị đảo ngược khi chính phủ vẫn tỏ ra mơ hồ, không rõ ràng trong kế hoạch giải quyết những vấn đề nhân quyền đang tồn tại. Vì vậy, một bước thụt lùi về nhân quyền là hoàn toàn có thể xảy ra một khi chính phủ đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Trong một kịch bản như vậy, chúng tôi tin rằng họ sẽ đi ngược lại thiện chí của Quốc hội Hoa Kỳ nhằm có được vũ khí sát thương để chống lại công dân Việt Nam. Với những quan ngại chúng tôi đã nêu ra, chúng tôi muốn thúc giục Quốc hội Hoa Kỳ, trước khi bán bất cứ vũ khí nào cho Việt Nam, yêu cầu Việt Nam đặt ra một lộ trình rõ ràng với những hành động cụ thể và đo lường được trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách về nhân quyền. Những hành động đó phải bao gồm, trước tiên và trên hết, là bãi bỏ các quy định mơ hồ về an ninh quốc gia, tôn trọng các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền và trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện cho tất cả các tù nhân lương tâm ở Việt Nam hiện nay, trong đó bao gồm cả 25 người trong danh sách kèm theo thư này. Xin cảm ơn sự quan tâm của hai ông đối với vấn đề này. Trân trọng, Các tổ chức cùng ký tên: 1.      Diễn đàn Xã hội Dân sự 2.      Hội đoàn kết công nông Việt Nam 3.      Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam 4.      Hội Anh em Dân chủ 5.      Hội Bầu Bí Tương Thân 6.      No-U FC Hà Nội 7.      No-U FC Sài Gòn 8.      Một nhóm các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo miền Tây 9.      Phong trào Con đường Việt Nam 10.  Tổ chức Sáng kiến Thể hiện Lương tâm Người Việt Hải ngoại (VOICE) --------------- Nguyên bản thư và danh sách 25 người đính kèm thư -------------- JOINT LETTER BY VIETNAM’S INDEPENDENT CIVIL SOCIETY ORGANIZATIONS To:          Senator John McCain Senator Sheldon Whitehouse August 8, 2014 Dear Senators John McCain and Sheldon Whitehouse: Re:         Negative Repercussions of a Lift of the Lethal Weapons Ban in Vietnam First of all, we would like to extend a heartfelt welcome to you upon your visit to Vietnam. Since Vietnam and the US formally normalized diplomatic relations, your names have always been at the forefront of every effort to promote and strengthen cooperation between the two countries. It is with certainty that due to the close partnership with the US, Vietnam has been benefitting both economically and socially.  Therefore, we would like to express our gratitude for your dedication towards the advancement of the US – Vietnam relations. It comes to our knowledge that in recent months there has been increased consideration among the US Congress towards easing and lifting the ban on the sale and transfer of lethal weapons to the Vietnam Government. While this new development would promise much-appreciated military cooperation between the two nations, which would contribute to the strengthening of Vietnam’s defense force amid growing aggressiveness in the South China Sea, we deem it necessary to put forward our concerns in terms of the risks related to the removal of the arms sales ban. Although Vietnam has stepped up efforts on the international stage to demonstrate its celebration for human rights by joining the UN Convention against Torture and winning a seat on the UN Human Rights Council, its human rights record at home remains poor, if not deteriorating. In the last 12 months, the Vietnamese government has continued to employ vague national security laws, such as Article 79, 88 and 258 of its Penal Code, to arrest and imprison more bloggers, journalists, legal advocates, human rights and ethnic minority rights activists. Along with silencing dissident voices, there are increasing numbers of deaths resulting from police brutality, frequent crackdowns on non-state religious associations, and continued harassment and intimidation of human rights defenders. It is clear that Vietnam still maintains a big gap between its ceremonious pledges of human rights commitment in the international arena and its implementation at the national level. Although there have been recent releases of some political prisoners, which we welcome and appreciate this demonstration of the government’s intention to improve on human rights, however, we must note that the ongoing improvement, if any, could be inconsistent as the government remains largely ambiguous and elusive in its plan to address perpetuating human rights issues. Thus, a backward step in human rights could be possible once the government achieves its political goals. In such a scenario, we believe it would be against the US Congress’s goodwill to have the lethal weapons turned against the Vietnamese citizens. With regard to our aforementioned concerns, we would urge the US Congress, ahead of any possible arms sales, to request Vietnam to put forth a clear agenda of concrete and measurable actions in addressing urgent human rights issues. Those actions must include, first and foremost, repeal of vague national security laws, respect for human rights defenders and the immediate and unconditional release of all the Vietnamese prisoners of consciences, including these 25 people as listed in the attached document. Thank you for your time and attention to this matter. Yours sincerely, We the undersigned:1.      Civil Society Forum 2.      The United Workers-Farmers Organization of Vietnam 3.      The Association of Political & Religious Prisoners of Vietnam 4.      The Brotherhood for Democracy 5.      Bau Bi Tuong Than Association 6.      No-U FC of Hanoi 7.      No-U FC of Saigon 8.      A group of followers of Hoa Hao Buddhist Church West branch 9.      The Vietnam Path Movement 10.  Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment (VOICE) LIST OF 25 PRISONERS OF CONSCIENCE 1. Bui Thi Minh Hang ·         DOB: 1964 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison         ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Bui Thi Minh Hang is an outspoken advocate on behalf of peasants whose lands were confiscated to make room for development projects. She was among a group of 21 people on mopeds that were attacked by Dong Thap police on 12 Feb 2014, about 140 km of Ho Chi Minh City. The group was on their way to visit Nguyen Bac Truyen, a lawyer and former political prisoner in Dong Thap. ·         Compelling Reason for Release: Health deteriorating due to hunger strike in May 2014 which lasted 2 weeks2. Dinh Nguyen Kha             ·         DOB: 1988 ·         Years Sentenced: 4 years imprisonment; 3 years house-arrest ·         Location: Xuyen Moc Prison, Ba Ria Vung Tau Province       ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Dinh Nguyen Kha was arrested in 2012 for handing out leaflets that “distort the Party and the State’s policies related to religion and land, and exhibit a twisted viewpoint regarding the Spratly and Paracel islands and the border land between Vietnam and China.” The state media accused him of “calling and agitating people to protest against the Communist Party of Vietnam and the Socialist Republic of Vietnam.”3. Do Nam Trung                                                      ·         DOB: 1981 ·         Years Sentenced:  Pending ·         Location: Dong Nai Prison, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Do Nam Trung is a member of the Brotherhood for Democracy. He has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Le Thi Phuong Anh and Pham Minh Vu.4. Doan Huy Chuong                                    ·         DOB: 1985 ·         Years Sentenced: 7 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Disrupting security (§89 VCC). ·         Details: Doan Huy Chuong is a labor activist who organized a strike in a shoe factory in Tra Vinh Province and distributed anti- government leaflets. Arrested on 11 February 2010, tried on 26 June 2010 in Tra Vinh Province; sentence upheld at appellate trial in Tra Vinh Province on 18 March 2011. As President of the United Workers and Farmers Association (UWFA), Doan Huy Chuong was previously arrested in Nov. 2006 and later sentenced to 18 months imprisonment. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from internal injuries as a result of being tortured in prison5. Duong Thi Tron                                                     ·         DOB: 1947 ·         Years Sentenced: 9 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K5) ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§245 VCC) and resisting officers performing their duties (§ 257 VCC) ·         Details: Hoa Hao Buddhist Church-Original Branch (HHBC-O) is independent to the state-controlled Hoa Hao Buddhist Commission and does not accept any interference by the Vietnamese authorities. Tron is an active member of HHBC-O (Dong Thap) and í the wife of its chairman, Nguyen Van Tho. ·         Compelling Reason for Release: She is suffering from low blood pressure and old age. She does not have access to medication.6. Le Quoc Quan                                                                   ·         DOB: 1971 ·         Years Sentenced: 2.5 years imprisonment ·         Location: An Diem Prison, Quang Nam Province ·         Criminal Charge(s): Tax evasion (§161 VCC) ·         Details: Le Quoc Quan is a human rights lawyer, democracy activist and prominent Catholic blogger. He was arrested by the Vietnamese government on charges of tax evasion on 27 December 2012, convicted on 2 October 2013, and sentenced to 30 months in prison and fined 100,000 USD. The arrest was condemned by international human rights organizations and the US government. ·         Compelling Reason for Release: Deteriorating health as a result of three hunger strikes7. Le Thi Phuong Anh                                                           ·         DOB: 1984 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Dong Nai Prison, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Le Thi Phuong Anh is a human rights and democracy activist. She has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Do Nam Trung and Pham Minh Vu      8. Mai Thi Dung                    ·         DOB: 1969 ·         Years Sentenced: 11 years imprisonment ·         Location: Thanh Xuan Prison, Hanoi ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§245 VCC)     ·         Details: Mai Thi Dung is a religious worker of the Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. She was arrested and charged under Article 245 for resisting and defending a religious gathering that was being interrupted by the authorities. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from internal injuries as a result of being tortured in prison and is currently undergoing medical complications due to kidney stones9. Ngo Hao ·         DOB: 1943 ·         Years Sentenced: 15 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Xuan Phuoc Prison, Phu Yen Province ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: Ngo Hao is a democracy activist. He was arrested for writing and spreading articles criticizing the government's policies. ·         Compelling Reason for Release: Suffering from old age; forced to work in prison and currently does not have strength to stand on his own.10. Nguyen Hoang Quoc Hung                                                        ·         DOB: 1982 ·         Years Sentenced: 9 years imprisonment ·         Location: Xuyen Moc Prison, Ba Ria Vung Tau Province ·         Criminal Charge(s): Disrupting security (§89 VCC). ·         Details: Nguyen Hoang Quoc Hung is a member of “Victims of Injustice”—a group that advocates on behalf of victims of land confiscation.         11. Nguyen Huu Vinh (Ba Sam)       ·         DOB: 1956 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Huu Vinh – a liberal blogger – is well known for his regular posts which have opposing opinions. He is also known for delivering news about China’s hostile and provocative moves against Vietnam’s territorial sovereignty, a topic the government of Vietnam deemed sensitive to the relations between the two countries and therefore, often ignored.  12. Nguyen Thi Minh Thuy  ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Thi Minh Thuy is an employee of Nguyen Huu Vinh's business. She was accused of helping Vinh “publish online articles with bad contents and misleading information to lower the prestige and create public distrust of government offices, social organizations and citizens”   13. Nguyen Thi Thuy Quynh                                    ·         DOB: 1986 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Nguyen Thi Thuy Quynh is a religious worker in the  Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. She was arrested along with Bui Thi Minh Hang on their way to visit Nguyen Bac Truyen.14. Nguyen Van Hai (Dieu Cay)                                            .          ·         DOB: 1952 ·         Years Sentenced: 12 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Prison No.6, Nghe An Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Nguyen Van Hai, also known as Nguyen Hoang Hai, better known by his pen name Dieu Cay, is a Vietnamese blogger who has been prosecuted by the government of Vietnam for tax evasion and "disseminating anti-state information and materials". His imprisonment was protested by several international human rights organizations, and Amnesty International considers him a prisoner of conscience. ·         Compelling Reason for Release: Imprisoned in solitary confinement.15. Nguyen Van Lia                                                              ·         DOB: 1940 ·         Years Sentenced: 4.5 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Van Lia is a longtime adherent of Hoa Hao Buddhism, a religious group often suppressed by the government, and the co-author of several Hoa Hao Buddhist religious instruction texts and books. He was charged with violating Article 258 of the penal code for “abusing democratic freedoms to infringe upon the interests of the state,” a vague crime that could result in a sentence of up to seven years. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from old age; high blood pressure and does not have access to medication. His family is not permitted to send medication.16. Nguyen Van Ly                                                   ·         DOB: 1946 ·         Years Sentenced: 8 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Nam Ha Prison, Ha Nam Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Father Thadeus Nguyen Van Ly  is a Vietnamese Roman Catholic priest and dissident involved in many pro-democracy movements for which he was imprisoned for a total of almost 15 years. For his ongoing imprisonment and continuous non-violent protest, Amnesty International adopted Father Lý in December 1983 as a prisoner of conscience. Most recently, his support for the Bloc 8406 manifesto has led to his sentence on 30 March 2007, for an additional eight years in prison.17. Nguyen Van Minh                                                          ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison ·         Criminal Charge(s): Resisting persons in the performance of their official duties. (§275 VCC). ·         Details: Nguyen Van Minh is a religious worker of the Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. He was arrested along with Bui Thi Minh Hang on their way to visit Nguyen Bac Truyen. 18. Pham Minh Vu                                        ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Dong Nai Prison ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Pham Minh Vu is a member of the Brotherhood for Democracy. He has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Le Thi Phuong Anh and Do Nam Trung.19. Pham Viet Dao                                        ·         DOB: 1951      ·         Years Sentenced: 15 months imprisonment ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Pham Viet Dao is a former Vietnamese Communist Party member and government official. He was convicted under Article 258 of Vietnam’s penal code for allegedly “abusing democratic freedoms to infringe on the interests of the State.”20. Phan Van Thu                                                     ·         DOB: 1948 ·         Years Sentenced: Life imprisonment ·         Location: Unknown ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: Phan Van Thu was arrested on 05 February 2012 in Phu Yen Province. He was allegedly the leader of Public Law Council of Bia Son, which the Vietnamese police newspaper has accused of “conducting activities to overthrow the people's government.”21. Ta Phong Tan                                                      ·         DOB: 1968 ·         Years Sentenced: 10 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Yen Dinh Prison, Thanh Hoa Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Ta Phong Tan is a Vietnamese dissident blogger, a former policewoman and member of the Communist Party of Vietnam. She was arrested in September 2011 under anti-state propaganda charges for her blog posts alleging government corruption. ·         Compelling Reason for Release: Under psychological pressure because of civil disobedience within prison.22. Tran Huynh Duy Thuc                                                                ·         DOB: 1965 ·         Years Sentenced: 16 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Xuyen Moc Prinson, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: According to the indictment, along with Nguyen Tien Trung, Le Cong Dinh and Le Thang Long, Tran Huynh Duy Thuc had sought to build a multiparty system and written 53 articles, amongst them "The Vietnam’s Roadmap", and posted them on the internet. Thuc was director general of the OCI telecommunication company. Initially at his arrest on 24 May 2009, he had been accused of “theft of telecom fees”. Later the charge was turned to “spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam” (§88 VCC) and finally to subversive activities (§79 VCC). He was tried on 20 January 2010 in Ho Chi Minh City. His sentence was upheld at the appellate trial on 11 May 2010. ·         Compelling Reason for Release: Was forced into solitary confinement as a disciplinary punishment.23. Tran Vu Anh Binh                                               ·         DOB: 1974      ·         Years Sentenced: 6 years imprisonment; 2 years house-arrest ·         Location: An Phuoc Prison, Binh Duong Province ·         Criminal Charge(s): Tran Vu Anh Binh is a Catholic songwriter and member of the Patriotic Youth Group (PYG) who participated in anti-China demonstrations in Ho Chi Minh City. Along with 4 members of PYG, he was arrested on 19 September 2011 in HCM City.24. Truong Duy Nhat                                    ·         DOB: 1964 ·         Years Sentenced: 2 years imprisonment       ·         Location: Hoa Son Prison, Da Nang ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Truong Duy Nhat was sentenced to 2 years imprisonment for allegedly "abusing the rights of freedom" in writing his blog "Another Point of View". The charges were based on 12 specific entries on his blog in which he criticized the performances of top government and Party officials, including the General Secretary and the Prime Minister.25. Vo Minh Tri (Viet Khang)                                                           ·         DOB: 1978 ·         Years Sentenced: 4 years imprisonment; 2 years house-arrest ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Vo Minh Tri has composed 2 patriotic songs: “Who are you?” and “Where is my Vietnam?”. He personally performed them and posted them on the internet to support anti-China demonstrations in Vietnam. He was arrested on 23 December 2011 in HCM City. Total years of imprisonment: 121.25 Total years of house-arrest: 32 Total cases of life imprisonment: 1 Total cases still pending: 8 Nguồn: danquyenvn.blogspot.dk
......

Nhà cầm quyền ngăn cấm TNLT Chu Mạnh Sơn gặp các Phái đoàn Quốc tế

“Cũng trong khoảng thời gian này, tôi nhận được lời mời từ phía đoàn Thượng Nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ muốn gặp tôi, để trình bày những sự thật mà tôi đã chứng kiến, trải qua trong suốt thời gian trước khi, trong khi bị bắt lao tù và sau khi được tự do. Tôi đã sắp xếp thời gian gặp họ nhưng từ ngày 04.08.2014 cho đến hôm nay, họ luôn theo dõi nhà tôi, theo dõi mọi hành động của bản thân tôi. Tôi đi ra khỏi nhà là có mấy công an viên cứ đi theo đằng sau để bảo vệ và tuyệt đối không cho tôi bắt xe lên Hà Nội. Tôi thiết nghĩ rằng, những việc tôi làm không sai trái sao họ cứ ngăn cản, chỉ có những người làm sai thì mới sợ người khác biết đến. Vì vậy mà họ luôn tìm mọi cách để ngăn cấm cũng như cản trở cuộc sống đời thường của bản thân tôi.” Cựu tù nhân lương tâm Chu Mạnh Sơn, sống ở Nghệ An, cho biết.   Trước đó, công an xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã mời TNLT Chu Mạnh Sơn lên làm việc. Tại đây, họ cho rằng, việc anh Sơn đi gặp các phái đoàn quốc tế về nhân quyền là việc làm sai trái và vi phạm pháp luật VN. Các công an ở đây khẳng định, pháp luật VN hơn hẳn các Công ước quốc tế về Nhân quyền mà VN đã tham gia ký, cũng như “đất nước này là nhờ có Đảng, nhờ chính quyền mà [mới] được ấm no, được nhiều khoản ưu đãi đặc biệt.” Sau đây xin mời quý vị theo dõi bản tường trình của TNLT Chu Mạnh Sơn thuật lại về buổi làm việc với công an xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, hồi ngày 04.08.2014. “Vào lúc 14 giờ 30, ngày 4 tháng 8 năm 2014, tôi có giấy mời phải có mặt tại phòng làm việc của công An xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, để làm việc với công an viên tên Trần Văn Công, phó công an xã Phúc Thành. Đúng giờ, tôi có mặt tại đồn công an.   Đầu tiên, công an Công đưa tôi bản tự nhận xét, để tôi đánh giá trong tháng 7 vừa qua. Đang lúc làm việc, công an Công bỏ tôi lại một mình, đi làm gì ở đâu không rõ. Tôi làm xong bản tự nhận xét và ngồi chờ một mình trong phòng làm việc. Tôi ngồi chờ mãi mà không thấy công an Công quay trở lại làm việc nên tôi đi ra ngoài. Ngay lúc đó, công an viên tên Nguyễn Văn Trung, Trưởng công an xã, gọi tôi vào phòng làm việc của ông ấy. Vào phòng làm việc, công an Trung giới thiệu có đồng chí Hưng, thuộc Đội Công an hình sự Huyện, sẽ làm việc với tôi. Trong quá trình làm việc, công an Trung không ghi biên bản làm việc mà chỉ nói bằng miệng. Công an Trung hỏi tôi: “trong thời gian qua, anh đã tự ý rời khỏi địa phương khi không được phép của chính quyền. Anh thấy quan điểm của mình như thế nào?” Tôi đáp: “Tôi đã trình bày trong 3 biên bản lần trước mà chắc chắn các ông đã đọc trước khi mời tôi lên.” Sau đó, công an Trung nói: “Chúng tôi nhận được thông tin rằng, trong khoảng thời gian từ ngày 4 – 10/08/2014 này sẽ có rất nhiều phái đoàn, tổ chức phi chính phủ tới Việt Nam. Anh đã nhận được thông tin này chưa?”. Tôi đáp: “Tôi chưa nhận được. Các ông lấy thông tin này từ đâu vậy?”. Công an viên Trung đáp: “Trước hết là về tình cảm, tôi khuyên anh không nên đi ra khỏi địa phương để gặp họ, sau là vì luật định, anh đang bị quản chế cấm đi khỏi địa phương.” Tôi đáp: “Chẳng hạn như trong ngày 22/07/2014 vừa qua, tôi có đi ra Hà Nội để gặp phái đoàn LHQ, để trình bày với họ những điều mà tôi đã chứng kiến trong chốn lao tù. Tôi khẳng định việc làm của tôi không sai trái với lương tâm, với Công ước Quốc tế mà VN đã tham gia ký kết.” Lúc này, người được giới thiệu tên Hưng liền lên tiếng nói: “nhưng anh đang sống trên đất nước VN này, anh cần phải tuân thủ pháp luật VN. Anh nói không sai trái với đạo đức lương tâm và với công ước quốc tế, nhưng tôi khẳng định là anh đã sai trái với pháp luật VN.” Tôi liền nói: “VN đã ký kết công ước quốc tế và cam kết thực hiện thì phải làm cho đúng, không thể nói một đàng làm một nẻo như vậy được.” Công an Hưng liền nói: “Anh coi Công Ước LHQ hơn pháp luật VN hay sao? Anh đang sống trên đất nước này là nhờ có Đảng, nhờ chính quyền mà anh được ấm no, được nhiều khoản ưu đãi đặc biệt.” Tôi nói: “VN đã trải qua không biết bao nhiêu hình thái xã hội từ khi lập Nước cho đến nay, từ Xã Hội Nguyên Thủy đến Phong Kiến, từ Phong Kiến đến Nô Lệ cho ngoại bang, rồi bây giờ là Xã Hội Chủ Nghĩa. Thử hỏi, trước 1975, VN là một nước như thế nào? Trước đây, VN vượt xa Thái Lan, Myanmar nhưng bây giờ thì ra sao? Kể từ sau 1975, VN đứng áp chót và tụt bậc rất xa so với các nước trong khu vực. Thử hỏi nguyên do từ đâu? Do ai lãnh đạo? Và bây giờ đang bị Trung Quốc chiếm đảo, chiếm biển. Những nước Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản dù không lớn hơn chúng ta, nghèo tài nguyên thiên nhiên mà họ còn bảo vệ được Đất Nước không để mất Biển. Còn chúng ta thì sao?…” Ngay sau đó, công an Nguyễn Văn Trung, trưởng công an xã liền nói: “bay làm việc này vì cái gì? Có phải mấy đồng đôla từ nước ngoài hay không?”. Tôi liền đáp: “Nếu ai có yêu quê hương đất nước, lo lắng đến vận mệnh của dân tộc thì đều sẽ lên tiếng. Các ông, tôi và mọi người có lẽ ai cũng yêu nước VN, nhưng điều đó không có nghĩa là phải yêu đảng cộng sản, yêu chế độ này. Riêng mấy ông đừng có lấy mấy đồng đôla hay mấy đồng bạc VN ra mà xúc phạm. Tôi làm việc này vì mong muốn VN giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Riêng bản thân tôi chưa bao giờ ăn bám chế độ này một đồng xu, tôi làm những việc vừa qua cũng không phải vì tiền. Còn các ông thì sao? Các ông ngồi đây trong khi đang ăn bám vào đồng tiền xương máu của người dân và trong đó có sự đóng góp của gia đình tôi, bố mẹ và những người thân của tôi. Vì vậy cần phải làm cho xứng và đừng phát ngôn bừa bãi như vậy!”. Công an Trung phản ứng gay gắt: “bay cũng chỉ là đồ phản động, có tư tưởng như vậy thì mới bị như ngày hôm nay.” Tôi nói: “Ông định nghĩa như thế nào về hai từ “phản động? Cũng chính vì muốn nói lên sự thật, nói lên chính kiến mà tôi mới bị giam cầm một cách trái phép. Nếu chỉ biết tuân thủ mọi thứ như một con gà đẻ trứng thì giờ này ông đâu có cơ hội làm việc với tôi.” Sau khi đôi co một hồi, công an viên Trung nói: “chuyện này coi như tạm dừng ở đây, tư tưởng của anh thì do anh suy nghĩ, miễn sao đừng vi phạm pháp luật VN là được. Trong thời gian tới, anh không được vắng mặt khỏi địa phương. Còn nếu có phái đoàn nào về thì anh phải trình báo cho phía chính quyền biết.” Cuối cùng họ bắt tôi ký vào bản cam kết không được vắng mặt khỏi địa phương hay gặp phái đoàn quốc tế nào. Cũng trong khoảng thời gian này, tôi nhận được lời mời từ phía đoàn Thượng Nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ muốn gặp tôi, để trình bày những sự thật mà tôi đã chứng kiến, trải qua trong suốt thời gian trước khi, trong khi bị bắt lao tù và sau khi được tự do. Tôi đã sắp xếp thời gian gặp họ nhưng từ ngày 04.08.2014 cho đến hôm nay, họ luôn theo dõi nhà tôi, theo dõi mọi hành động của bản thân tôi. Tôi đi ra khỏi nhà là có mấy chú công an cứ đi theo đằng sau để bảo vệ và tuyệt đối họ cho tôi bắt xe lên Hà Nội. Tôi thiết nghĩ rằng, những việc tôi làm không sai trái sao họ cứ ngăn cản, chỉ có những người làm sai thì mới sợ người khác biết đến. Vì vậy mà họ luôn tìm mọi cách để ngăn cấm cũng như cản trở cuộc sống đời thường của bản thân tôi.” Pv.VRNs Nguồn: chuacuuthe.com  
......

“Đặc xá Điếu Cày” có ý nghĩa gì?

Nếu không có gì bất thường thuộc về tính cách thường xô lệch của các cơ quan thi hành pháp luật Việt Nam, một tù nhân lương tâm là Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải sẽ được trả tự do trong thời gian không lâu nữa, thậm chí có thể ngay trong tháng Tám này. Blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải năm 2007. Ảnh: CLB NBTD    “Đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá” Ngày 6/8/2014, trùng với thời điểm Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain và đồng viện dân chủ Sheldon Whitehouse đến Hà Nội, gia đình của Điếu Cày bất ngờ nhận giấy mời của Chi cục thi hành án dân sự quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu thay mặt cho ông Hải đóng tiền án phí sơ thẩm và phúc thẩm hình sự để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”. Trang tin Truyền thông Chúa Cứu Thế - địa chỉ đầu tiên phát ra thông tin về giấy mời đặc biệt đến mức hoàn toàn bất thường trên - đặt câu hỏi: “Điều đầu tiên gây ngạc nhiên cho chúng tôi là án phí của một bản án hình sự tại sao lại do CCTHA dân sự gởi thư mời (tương tự giấy đòi nợ) để thu tiền? Điều thứ hai là tại sao việc nộp án phí lại là “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”?”. Xét về “nhân thân” và “quá trình công tác”, Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải chính là một trong những tù nhân lương tâm kỳ cựu và có tiếng nhất ở Việt Nam, bị bắt và bị xử án đến hàng chục năm tù giam chỉ vì đấu tranh phản kháng Trung Quốc.     “Bắt ông Hải để ngoại giao với Trung Quốc” Vụ án Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do được đưa ra xét xử sơ thẩm ngày 24/9/2012 và phúc thẩm ngày 28/12/2012, xét xử 3 thành viên là Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải. Ông Nguyễn Văn Hải bị tuyên án 12 năm tù giam và 5 năm quản chế. Bị biệt giam không lý do trong các trại ông đi qua, chưa bao giờ được nhận bản án phúc thẩm và quyết định thi hành án, và bị ngăn chặn tuyệt đối các đơn thư khiếu nại và kháng cáo từ buồng giam. Đỉnh điểm là vụ tuyệt thực hơn 30 ngày của ông vào tháng 6 - 7 năm 2013 để được trả lời khiếu nại. Nhưng sau khi Viện kiểm sát nhân dân Nghệ An đến hứa hẹn, vẫn chưa một khiếu nại nào được giải quyết. Những người tù chính trị đã giúp đỡ ông trong thời gian tuyệt thực đó bao gồm ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã bị đánh đập và chuyển đi những trại khác cách xa hàng ngàn cây số.   Anh Nguyễn Trí Dũng, con trai của Điếu Cày, chia sẻ: “Về phía gia đình, chúng tôi luôn khẳng định là ông Nguyễn Văn Hải vô tội vì những việc làm của ông là đúng với hiến pháp và pháp luật không cấm. Ngoài ra đã rất nhiều lần cán bộ An ninh điều tra chia sẻ rằng phải bắt ông Hải để ngoại giao với Trung Quốc. Sau rất nhiều đơn thư khiếu nại đến tất cả các cấp không được trả lời. Chúng tôi chỉ còn mong ước rằng công lý được thực thi, những gì các cơ quan hành pháp đã vi phạm phải được nhìn nhận và khắc phục, hoặc đơn giản hơn là dám trả lời những đơn thư khiếu nại của chúng tôi. Ngoài việc đó ra cơ quan chức năng còn có thể tùy tiện thả tự do cho ông Nguyễn Văn Hải không cần lý do (hoặc dàn dựng lên vài lý do), cũng giống như lúc đã bắt ông Hải, để thể hiện rõ bản chất của chế độ. Xin nhắc lại câu nói của cha tôi trong những lần gặp trước đây, “bố có thể ở tù đến chết để cho tất cả mọi người được biết đến thực trạng của người tù chính trị ở Việt Nam””.   Blogger Tạ Phong Tần  đi biểu tình năm 2007. Ảnh CLB NBTD.   “Tùy thuộc vào tiến bộ của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền” Điếu Cày cũng là người luôn nằm trong danh sách ưu tiên mà Chính phủ Mỹ thường trao cho phía Việt Nam để đòi hỏi trả tự do. Tại cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền (UPR) đối với Nhà nước Việt Nam ở Geneva, Thụy Sỹ vào tháng 2/2014, đoàn Mỹ đã đặt thẳng yêu sách là Việt Nam phải phóng thích vô điều kiện các tù nhân lương tâm, trong đó có Điếu Cày. Dù chỉ là động tác hết sức “vi mô”, nhưng động thái giấy mời “đóng tiền án phí” mới diễn ra đã khiến rộ lên dự đoán về khả năng Điếu Cày có thể được trả tự do trong không bao lâu nữa. Nếu có thể so sánh, cần nhắc lại là ngay trước và sau chuyến công du Hà Nội của nữ Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị Wendy Sherman của Hoa Kỳ đến Hà Nội vào đầu tháng 3/2014, Nhà nước Việt Nam đã phóng thích một loạt 5 tù nhân lương tâm, kể cả một người bị coi là “rất cứng đầu” như ông Cù Huy Hà Vũ. Tín hiệu “đóng tiền án phí” như trên cũng dẫn tới một giả thiết là trong hoặc sau chuyến đi Mỹ của ông Phạm Quang Nghị, phía Việt Nam đã chấp nhận thông báo cho phía Mỹ những nhượng bộ về nhân quyền, cụ thể là thả nhiều hơn và “chất lượng hơn” tù nhân lương tâm. Giả thiết trên đã có thể được lý giải phần nào tại cuộc họp báo của Thượng nghị sĩ John McCain: “Những gì Mỹ có thể làm được tùy thuộc vào tiến bộ của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền. Mỹ đánh giá cao các tiến bộ của Việt Nam trong các tiến bộ này trong đó có tham gia ký kết công ước quốc tế chống tra tấn cũng như lĩnh vực tôn giáo. Phía Việt Nam công nhận những việc này nhiều hơn nữa, sẽ tốt cho ổn định, thịnh vượng và thành công của Việt Nam” - John McCain vừa nhắc nhở vừa khuyến khích. Hội Nhà báo độc lập Việt Nam xin chân thành cám ơn Thượng nghị sĩ John McCain, và trên hết gửi đến gia đình Điếu Cày niềm vui thật lớn mà những người viết báo độc lập ở Việt Nam đang mong đợi.   Trường Sơn Nguồn: ijavn.org
......

Đả hổ…về vườn

Mấy ngày nay báo giấy, báo mạng, báo lề trái, báo lề phải đua nhau đưa tin về chiến dịch “đả hổ” bên Tàu. Chủ soái chiến dịch là “hổ” đầu đàn và chưa về hưu! Người ta không biết chiến dịch này thực chất nhằm mục đích gì, muốn làm trong sạch bộ máy đảng, nhà nước, hay chỉ đơn thuần là sự đấu đá giữa các phe nhóm? Nếu chỉ vì mục đích thứ hai, thì đương nhiên tỷ rưỡi người xứ Trung Hoa chẳng được lợi lộc gì; Còn nếu vì mục đích thứ nhất, thoạt nghe tưởng nhân dân Trung Quốc được hưởng lợi, nhưng chưa chắc gì; vì xét đến cùng, đó là bài thuốc cắt cơn, kéo dài sự sống cho con bệnh là đảng cs TQ với cái thể chế độc tài của nó mà thôi!... Chu Vĩnh Khang là cái tên xuất hiện nhan nhản trên mặt báo. Nhiều người không biết Khang là ai, (dù biết không phải là Khang Hy)…; thì đây, báo chí cho biết rõ Khang họ Chu là Cựu bộ trưởng bộ công an, hơn nữa còn là Cựu UVBCT. Không cần điều tra làm rõ, thiên hạ cũng quá biết Khang và những  kẻ mang “hàm” tương đương trong cái thể chế độc tài cộng sản phải giàu tới cỡ nào. Những kẻ “buộc phải giàu” như Khang , dù đã “hạ cánh” hay còn đang tại vị thì cũng giàu sang cỡ vua chúa. Hổ Chu Vĩnh Khang đã rời nơi rừng rú Bắc Kinh, về với khu vườn thựơng uyển Thượng Hải…mới bị “săn”, mới bị “đánh”!... Một kẻ khác, mà chắc nhiều người biết đến hơn Khang, cũng đang bị điều tra. Đó là ông Giang Trạch Dân, thượng cấp của Khang. Tuy nhiên, cũng giống Khang, ông này cũng đã “hạ cánh”. Từng là chủ tịch của mọi loại chủ tịch, ông ta quả thật là hoàng đế, là thiên tử. Nhưng ông ta cũng chỉ bị điều tra khi đã trở thành Cựu hoàng! Người ta chỉ dám “săn” những “hổ”, những “rồng” khi đã hết thời liệt oanh, và khi không còn móng vuốt!? Đấy là xứ Tàu, hay “tề”, theo cách gọi trong Đại Vệ chí dị của Người Buôn Gió. Nhìn vào xứ mình, xứ “Vệ”, cái chiến dịch “đả hổ” dường như cũng đang được khởi động; mà cái tên được lên mặt báo nhiều nhất ở sứ Vệ những ngày này là một “cá thể”, tuy chưa phải là rồng hay hổ, cũng cỡ cầy cáo trong rừng rú độc tài; và cũng đã rời khỏi “cánh rừng thâm u”, trở về với miệt vườn, sống trong “túp lều lý tưởng” tọa lạc trên mảnh đất rộng chỉ chừng… 16 ngàn mét vuông! Cái “túp lều” cỡ dinh thự của Toàn quyền Đông Dương được chủ nhân của nó, ông Truyền, Cựu (lại Cựu) tổng thanh tra CP tạm cắt nghĩa về nguồn gốc do đâu mà có. Ông ta bảo có cô em kết nghĩa giúp tiền. Rồi còn nhiều người khác trong bạn bè giúp người thì thứ nọ, người thứ kia, mới nên được cái dinh thự cỡ Toàn quyền Đông Dương này. Có người bĩu môi nghi ngờ. Có người bực tức chửi đổng, bảo đúng là miệng quan trôn trẻ, nói ngược nói xuôi là bản chất của họ…   Nhưng ông Truyền không phải không có lý. Nhiều cán bộ “đảng ta”, hay cán bộ chính quyền của dân, do dân, cỡ phó chủ tịch tỉnh, hoặc giám đốc các sở, các viện, như sở CA,  viện KS, khi xây nhà, có biết bao nhiêu “bạn bè”, “chiến hữu”, bao nhiêu “cô em nhận”, ông anh kết nghĩa muốn đổ vật liệu, “tập kết” xi măng sắt thép… Vậy là, lúc đầu cho dù vị cán bộ đầy tớ dân này có muốn xây căn nhà cấp 4, cũng buộc phải xây thành villa, biệt thự… Và cái dinh thự của ông Truyền chắc cũng không thể là cá biệt, cũng nằm trong cái tình trạng chung mà người ta từng thấy, vẫn thấy xảy ra trong xứ Vệ ngày nay. Đồng chí Truyền dẫu có bị “điều tra”, khó mà “làm rõ” cho được. Thanh tra một tổng thanh tra quả là một việc khó thay. Nhưng cho dù kết quả điều tra tới đâu, Nhân Dân cũng biết tỏng rồi, khỏi cần số liệu…Những kẻ được đảng trao cho cây gậy độc tài như ông Truyền, kẻ dùng chữ ký ra tiền, thì cái dinh thự hay những dinh thự chỉ là phần nổi của tảng băng chìm… Với “quyết tâm cao” trong phòng chống (hay tuyên chiến) với tham nhũng đang xảy ra ở xứ Tề hay trong xứ Vệ, nếu vẫn tiếp tục được duy trì mãi về sau, thì người ta cũng chỉ có thể được thấy vào một ngày nào đó, trên khắp mặt báo lại nở rộ tin “ Ông Tập Cận Bình, cựu chủ tịch TQ đang bị điều tra…? Nếu quả thực “với quyết tâm cao” như họ tuyên bố, thì sao không “đánh” thẳng vào những kẻ đang tại vị, quyền lực đầy mình, lại chỉ dám đánh vào những kẻ giờ đã là “thảo dân”? Thiên hạ vừa lạ, lại vừa quen với các chuyện “thâm cung bí sử” trong chốn cung đình chế độ phong kiến trước đây, hay chốn cung đình độc tài cs ngày nay. Những “tuyên chiến với tham nhũng”, thực chất là những trò bẩn “cho nhau ăn bùn”, là sự đấu đá trong canh bạc tranh giành quyền lực và củng cố vây cánh- chuyện không dứt mà thiên hạ nghe phát nhàm ở chốn tập quyền. Rất có thể ông Tập đang khởi động một chiến dịch với thiện ý thực tâm chống tham nhũng; nhưng không biết liệu ông ta có lường được những khó khăn trong cái công việc lớn lao hơn cả vai trò chủ tịch nước của ông, nhất là liệu ông ta có tin tưởng vào kết quả của chiến dịch? Rất có thể ông Tập là người trong sạch, tay không nhúng chàm, nhưng đó chưa phải là yếu tố để ông đảm bảo vào thắng lợi của chiến dịch chống tham nhũng nơi xứ Tề…; Bởi vì, cái mà ông đang bảo vệ, khẳng định sự tồn tại của nó, chính là tác nhân làm nảy sinh những “Hòa thân” của thời nay. Chống tham nhũng trong khi đóng bảo hiểm cho độc tài, khác nào dùng tay phải đánh vào tay trái. Điệu những kẻ đã hết thời ra tòa, có khi phải dìu, phải cáng bị cáo đứng vào vành móng ngựa, là việc làm chẳng mấy hiệu quả… Trò mị dân! Aug/8th/2014 Nguồn: bolapquechoa.blogspot.com
......

Phơi Trần Mặt Trơ Bằng Những Ngọn Gió Đầu

Hệ thống chính trị VN đương đại là một xưởng đẻ danh ngôn. Sòn sòn từng tập, người ta mót được hàng giạ danh ngôn ở mỗi kỳ hội nghị. Hội nghị càng rôm rả, phong bì càng dày cộp, thực đơn càng ngậy bùi, bia bọt càng vung vãi… thì danh ngôn càng rậm rật ngáng chân giật chỏ dẫm đạp nhau nhung nhúc. Đặc biệt là những kỳ hội nghị râu ria (lòng thòng tên gọi) là dịp trồi mặt rặn lời của các thứ nguyên lão lãnh đạo, như Hội nghị Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam lần VIII mới đây, chẳng hạn. Ở đó, dù đã mấy đận lọt sàng ngu ngơ xuống nia ngờ nghệch, người ta vẫn nhặt nhạnh được đó đây cả bồ mã tấu chặt bùn như chém gió. Ở đó, cựu lãnh đạo gốc mỏ quê cạnh vùng Dung Quất đã kêu gọi đảng và nhà nước này “Phải thực hiện tốt hơn nữa vấn đề dân chủ xã hội thông qua hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội bằng cách phải tổ chức thực hiện tốt hơn việc giám sát xã hội và phản biện xã hội”. Mới nghe thoáng cứ ngỡ tay này hành nghề bện thừng làm dây neo cho dàn khoan 981: Vế 1 – Dân chủ xã hội (tốt hay xấu) tùy thuộc vào hoạt động của MTTQ; Vế 2 - Cần cải thiện ngay việc giám sát xã hội và phản biện xã hội của MTTQ; Vế 3 (tam đoạn luận) – MTTQ giám sát xã hội tốt hơn và phản biện xã hội tốt hơn thì dân chủ xã hội mới …tốt hơn. Rồi tự đóng khằn nắp hũ bằng một câu chốt hồn nhiên: “Phản biện cực khó!”. Âu cũng là một kinh nghiệm bản thân trước hàng ngàn phản biện dân sự đối với dự án Dung Quất quê nhà, so với các dự thảo Nghi Sơn, thành Tuy Hạ, Long Sơn, Đầm Môn, Hòn La… từ đầu thập niên cuối của thế kỷ 20. Nhìn góc khác, “Phản biện cực khó!” cũng có nghĩa là chức năng Giám Sát Xã Hội vẫn còn thực thi được. Cạnh đó, một cựu lãnh đạo khác (là người nữ duy nhất ký tên vào hiệp định Paris 1973) giải thích rõ hơn vì sao phản biện cực khó: Yêu cầu là phản biện phải “phản ánh một cách trung thành để các lãnh đạo có quyết sách phù hợp”. Tức, vừa phải nói ra điều sai quấy của trên, lại vừa phải chứng tỏ lòng trung thành với trên, rõ là cái khó nó bó chỗ đặt cái mông! Thế là toi một ngọn gió đứt đầu.   Tới phiên một cựu lãnh đạo từng chèo lái cái MTTQ ngoan hiền nhưng đầy nhiêu khê này (từ đận Thái Bình khói lửa hồi cuối thế kỷ trước). Mới cách đây không lâu, tay này từng gióng tiếng kêu đòi thống nhất hai dân tộc ở hai bên thác Bản Giốc. Nay, lại đòi đảng và nhà nước phải giữ lấy uy tín. Bằng cách nào? “Chỉ có dân chủ mới tạo được đồng thuận, chỉ có đồng thuận mới có được hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Trong điều kiện hiện nay phải giữ bằng được uy tín của Đảng”. Đọc ngược, để hiểu thấu đáo lời nhận định chân tình và đầy tính “lịch sử” này, người ta thấy ngay: Đảng hoàn toàn tuột tay: Uy tín đã bị chính lãnh đạo giật nước cuốn trôi. Vì sao? Chính yếu là vì lãnh đạo thiếu sự đồng thuận (cho dù là biểu kiến để) tạo hình ảnh đoàn kết gắn bó, với nhau, và với đảng viên các cấp. Nói cho vuông là bởi …keo khô hồ rã. Điều này không có gì mới, tính từ thời những ngọn roi “giáo trừng” quật ngược tới giờ. Nhất là, gần đây, khi BCT không dám bạch hóa sự kiện Thành Đô như nhân dân đòi hỏi ngay sau vụ dàn khoan 981, cũng chẳng hề dám bạch hóa 5 phiếu chống kiện tàu và 2 phiếu trắng kia là của ai. Chẳng lẽ lại tự mình cầm đèn chạy trước ô tô mà chính thức công bố cái danh sách lãnh đạo đảng khóa tới, ngay trên cái kết quả thiếu đồng thuận giữa nhiệm kỳ này? Như vậy, cái mới, nếu có, chính là mức độ nâng cấp tình trạng giành giật chiếc míc trên bục chủ tọa đoàn để nhao nhao lên tiếng, vừa tỏ ra quan tâm đến vận mệnh đảng, vừa biểu lộ lòng trung thành nhất mực, lại vừa cố chuyển tải ra ngoài một thứ “chỉ dấu” bâng quơ có đội mũ bảo hiểm “vì dân”. Còn, cái động cơ (rã bèng) bên trong thì bàn dân thiên hạ có ai mà chẳng rõ: Tham nhũng chia chác không đều thì làm sao tập thể lãnh đạo nghiến răng đồng thuận? Trừ phi bị thằng WikiLeaks từ Nam bán cầu nó chơi xỏ thốc ngược lên đến tận Ba Đình! Ơi, thương biết bao những ngọn gió… Đến lúc cụt đầu vẫn chưa kịp nhìn mặt chủ nhân các đường đao tuyệt kỷ kia thuộc đám nguyên lão nhơn nhơn cao giọng “Ta vẫn còn đây” hay “Ta vẫn còn ngu”. 08/08/2014 – Tròn 6 năm ngày khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh, và 6 năm 4 tháng tù của Blogger Điếu Cày. Blogger Đinh Tấn Lực
......

Đi tìm công lý cho mẹ

Bo Trung trên truyền hình Hoa Kỳ. Khi tôi gặp em lần đầu tiên là lúc em vừa bước ra khỏi xe, người cao lêu nghêu, trên cổ lòng thòng cái máy ảnh bé tí, rụt rè câu “chào chị”. Vài tiếng sau, tôi đã thấy em tung tăng trong khuôn viên đầy màu sắc và âm thanh của Universal Studio trong một ngày tháng 8 nắng chói chang ở Los Angeles. Trông thấy cái gì em cũng reo “đẹp thế, đẹp quá”, rồi lao đến tạo dáng, chụp ảnh, rồi xem lại ảnh, ngắm nghía và thích thú. Những lúc đó, nhìn em, chắc chẳng ai nghĩ trên vai em là cả một gánh nặng: Cha em đã mất, mẹ em đang ngồi tù và là một trong những tù nhân lương tâm nổi tiếng ở Việt Nam hiện nay, còn em đã đi từ Nam ra Bắc, và rồi sang cả trời Tây, để hy vọng đòi công lý cho mẹ. Em là Bo Trung, tức Trần Bùi Trung, con trai của Bùi Thị Minh Hằng. Trong văn học cũng như trong điện ảnh, mô-típ những đứa trẻ đi tìm cha/mẹ trong thời loạn, thời chiến luôn làm người ta xúc động. Từ thế kỷ 19 đã có Rémi lang thang cùng gánh hát rong trong “Không gia đình” của Hector Malot, rồi em bé mồ côi Mario, chấp nhận nhường chỗ của mình cho cô bạn Julietta để chết trong một vụ đắm tàu, được thuật lại trong “Những tấm lòng cao cả” (tác giả Edmondo De Amicis). Khán giả Việt Nam các thế hệ trước hẳn có người vẫn còn nhớ bộ phim “Em bé tìm cha” (đạo diễn Lev Golub) nổi tiếng của điện ảnh Liên Xô năm 1959, v.v. So với những nhân vật tưởng tượng đó, câu chuyện của Bo Trung có điểm khác là mẹ em, bà Bùi Thị Minh Hằng, không phải là bị biến mất không tung tích. Bà bị bắt vào ngày 11/2/2014, bị truy tố với tội danh “gây rối trật tự công cộng” và hiện đang bị giam (ở trại An Bình, Đồng Tháp) chờ xét xử; phiên tòa dự kiến tổ chức ngày 26/8/2014. Nhưng so với “Không gia đình”, “Những tấm lòng cao cả”, “Em bé tìm cha”, chuyện của Bo Trung mới hơn nhiều, sống động hơn nhiều, khốc liệt hơn nhiều. Nó đang diễn ra ngay tại Việt Nam, với nhiều tình tiết có thật mà chúng ta không thể hình dung nổi: Vì sao đến tận bây giờ, những chuyện như thế vẫn còn xảy ra ở đất nước của chúng ta? Đêm nay mẹ không về Trước ngày bà Hằng bị bắt, hai mẹ con bà sống ở Vũng Tàu. Cuộc sống có lẽ cũng không mấy ổn định: Tuổi thơ của Bo Trung luôn xáo động bởi sự di chuyển liên tục, khi thì ở với mẹ, khi thì ở với bố. 12 năm học, em chuyển qua 7 tỉnh thành khác nhau. Tuy nhiên, giai đoạn bất an nhất hẳn phải là từ sau năm 2011 khi mẹ em trở thành một gương mặt nổi bật trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam. Tháng 11/2011, bà Bùi Thị Minh Hằng bị công an bắt, đưa vào “cơ sở giáo dục” Thanh Hà (Vĩnh Phúc) theo lệnh của Chủ tịch TP.Hà Nội Nguyễn Thế Thảo. Căn cứ vào lệnh đó của ông tỉnh trưởng thì bà Hằng phải bị giam tới hai năm, tuy nhiên, tháng 4 năm sau, bà đã được “tha” sớm. Bà trở lại Vũng Tàu và kể từ đó, các biện pháp mà chính quyền áp dụng đối với bà – một công dân ngang bướng – đã có sự điều chỉnh theo hướng… bẩn thỉu hơn: Có những kẻ lạ mặt thường xuyên nhắn tin điện thoại hoặc gửi thư trên FB chửi rủa, lăng mạ bà, lời lẽ cực kỳ thô tục. Đêm đêm, chúng ném mắm tôm trộn dầu nhớt, chuột chết, rác rưởi… vào sân nhà bà. Với bản tính dữ dội, quyết liệt của mình, bà Hằng thẳng cánh chửi lại và cũng chẳng tiếc lời rủa xả chúng. Quan điểm của bà rất rõ ràng: Với bọn mất dạy, không việc gì phải nhẹ nhàng, ôn hòa. Kết quả là, theo lời Bo Trung: “Mẹ em thì cứ chửi, còn em thì cứ nai lưng ra quét dọn sân. Mắm tôm đã kinh rồi, mắm tôm pha nhớt còn kinh nữa. Hôi khủng khiếp. Mẹ em chửi còn em đi dọn chứ ai”. Em nói và cười hi hi. Em không giận mẹ, cũng không đòi mẹ phải thôi đi, chấm dứt đối đầu với chính quyền cho gia đình được yên ổn. “Em chỉ nói với mẹ là, mẹ làm gì con cũng ủng hộ hết, vì mẹ là mẹ của con. Thế thôi”. “Thế mày hoạt động cùng mẹ nhé? Ví dụ mẹ đi gặp gỡ, giúp đỡ bà con dân oan đấu tranh đòi đất, thì con đi chụp ảnh, quay phim, viết bài, đưa tin?” – không ít lần bà Hằng rủ con trai. Tuy nhiên, Trung đều từ chối tham gia sâu hơn, không hẳn vì sợ mà vì tính em còn ham vui, không coi đấu tranh nhân quyền như một công việc, một sự nghiệp, đòi hỏi sự nghiêm túc và nhất là tinh thần dấn thân. Sinh năm 1991, Trung không phải là con nít mới lớn, nhưng cũng chẳng già dặn gì hơn đại đa số thanh niên cùng trang lứa ở Việt Nam. Thông minh và học khá, có năm làm lớp phó học tập, nhưng em nghịch trổ trời và cũng không thiết tha gì với việc học, nên bỏ ngang ĐH Kinh tế Quốc dân. “Bầy hầy”, đấy là từ em mô tả về bản thân, một cách rất dân dã và “xì tin”, như cách giới trẻ dùng từ: “Ối giời, em bầy hầy lắm. Ăn ở bừa bộn, dậy muộn, hút thuốc… Phòng em như cái quán trọ ấy, mù mịt khói là khói”. Mọi sự “bầy hầy”, “xì tin” dường như đã kết thúc vào cái ngày mẹ em bị bắt, 11/2/2014, hai tuần sau Tết Nguyên đán. Bà Bùi Hằng biết trước sẽ có ngày này (chỉ không biết đích xác là khi nào), nên đã chuẩn bị kỹ, kể cả việc ký hợp đồng từ trước với luật sư bảo vệ. Khi hai mẹ con sống cùng nhau ở Vũng Tàu, bà cũng nhiều lần đi suốt ngày đêm, nên bữa ấy khi mẹ không về, Bo Trung cũng không quá hoảng sợ. Nhưng rất nhanh chóng, em hiểu ra rằng: Thời kỳ thơ ngây phải chấm dứt rồi.   Giữa muôn trùng vây   Người ta nói, những đứa trẻ sinh ra trong chiến tranh phải lớn nhanh gấp đôi trẻ con thời bình. Riêng tôi thì nghĩ: Những đứa trẻ sinh ra trong các gia đình nghèo khó và/hoặc gia đình của những người bất đồng chính kiến, trong thời loạn, phải lớn nhanh gấp đôi, gấp ba trẻ con thường. Những ngày sau đó, suy nghĩ của Bo Trung già đi hàng chục tuổi. Tin tức về vụ bắt mẹ em đã lan khắp mạng xã hội FB, nhưng thông tin cụ thể là mẹ đang ở đâu, ai bắt, vì sao bị bắt, sức khỏe mẹ ra sao, thì tuyệt nhiên không có. Công an không thông báo gì, cứ như thể họ đang ráo riết bàn tính xem nên khép tội gì cho hợp lý vậy. Cũng giống như hồi TS. luật Cù Huy Hà Vũ bị bắt: Chỉ trong một ngày, lý do bắt thay đổi liên tục: từ vi phạm hành chính, đến mua bán dâm, thậm chí có lúc là buôn bán ma túy, cuối cùng mới dừng lại ở tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 BLHS (!). Hãy thử tưởng tượng: Một đứa trẻ, bố mất, mẹ bị công an bắt đột ngột vì điều ai cũng thấy rất rõ ràng là một mưu đồ chính trị; đứa trẻ ấy sẽ phải làm gì? Biết tin ai, nghe ai và dựa được vào ai trong số hàng chục, hàng trăm người xung quanh nó, cả trên mạng và ngoài đời, với đủ loại ý kiến: từ thông cảm, sẻ chia, đến huấn thị, răn dạy, xoa đầu; từ dọa dẫm, răn đe, đến lăng mạ, sỉ nhục? Điều đáng nói là, nhiều người trong số họ có cái tâm lý tự cho mình là đúng, mình mới là người tốt và thật lòng khuyên nhủ thằng bé vì muốn điều tốt cho nó và mẹ nó, còn thằng kia/ con kia, lão đó/ con mụ đó đều là loại cơ hội, lưu manh, chỉ lợi dụng chuyện nhà thằng bé mà thôi, v.v. Có những người có vẻ như tuổi cũng không còn trẻ, thuộc hàng cha chú của Bo Trung, nhưng cũng không ngần ngại làm cái việc mà Trung gọi là “thấy người ta ngã xuống hố thì đạp thêm một cái cho chết hẳn”. Một vị như vậy đã chụp ảnh màn hình Facebook Bo Trung, mang về Facebook mình kèm lời bình: “… Tiếc cho BH, bạn bè và con cái không được sắc bén lắm…”. Một rừng những lời răn dạy, chê trách, đổ ụp vào đầu Bo Trung, bủa vây em bốn phía suốt nửa năm nay. Đó là chưa kể lực lượng dư luận viên thả sức chửi rủa Bo Trung bằng những lời lẽ bẩn thỉu nhất chúng có thể nghĩ ra. Thật là không có gì sung sướng bằng việc chửi bọn phản động thoải mái mà chúng không làm gì được, vì luật pháp và các chú công an sẽ luôn đứng về phía ta – hẳn là các dư luận viên quá biết điều đó. 23 tuổi, không nghề nghiệp, không bằng cấp, không quan hệ xã hội, càng không có cái mà người ta gọi là “kinh nghiệm chính trị”, Bo Trung như chiếc lá chơi vơi giữa dòng nước lũ. Nỗi lo đầu tiên là chuyện ăn ở. Như mọi thanh niên nghèo, độc thân ở thành thị, em vạ vật cơm hàng cháo chợ cho xong bữa, còn lại, lên mạng cả ngày tìm kiếm thông tin và kết nối, hy vọng kiếm được người giúp mình cứu mẹ ra. Trong cái rủi cũng có cái may, giữa muôn ngàn cái ác cũng có điều tốt: Rất nhiều người giấu tên tuổi, giấu mặt, đã bí mật gửi tiền cho em, nuôi em và hỗ trợ bà Bùi Hằng. Họ là ai thì chúng ta không thể biết được và cũng không nên biết, khi mà ở Việt Nam, việc “nhận tiền để đi hoạt động” vẫn bị an ninh coi là tội lỗi; và đám an ninh vẫn cố gán ý nghĩ ấy vào đầu người dân Việt Nam, trong một nỗ lực nhằm không ngừng phá hoại xã hội dân sự đang nhen nhóm trong nước. “Em đi đấu tranh” Bo Trung đủ bản lĩnh để hiểu rằng mẹ em bị bắt đơn giản vì mẹ em đã tham gia hoạt động nhân quyền, và đó là điều mà chính quyền căm ghét. Mẹ em vô tội, mà kể cả có tội như cáo trạng nêu thật, thì “gây rối trật tự công cộng” chỉ có thể bị xử lý cùng lắm bằng hình thức phạt hành chính, không thể nào bị bắt đi tù tới hàng tháng. Luật pháp toàn thế giới là như vậy, chỉ có luật pháp của công an Việt Nam là không thế. Bo Trung cũng nhanh chóng ý thức được rằng em là con trai của một tù nhân lương tâm, và em phải hành xử sao cho xứng đáng với điều đó, xứng đáng với mẹ em. Từ một thằng bé ham chơi, nghịch trổ trời, em trở thành một thanh niên cư xử chững chạc và khiêm nhường, một điều dạ hai điều thưa “Dạ, con cảm ơn các cô các bác”, “mong mọi người quan tâm giúp đỡ”. Từ những thông tin thu được trên mạng, Bo Trung bắt đầu nghĩ tới việc phải ra nước ngoài, vận động quốc tế lưu tâm đến tù nhân lương tâm ở Việt Nam, trong đó có trường hợp của mẹ em. Việc một thanh niên 9x lần đầu tiên bước chân ra thế giới, bập bẹ những câu tiếng Anh “thank you, I will try”, cho thấy một nỗ lực vươn lên rất lớn của em. Chưa kể, chỉ riêng những cố gắng của Bo Trung nhằm thoát ra khỏi hàng tiểu đội an ninh kèm chặt suốt ngày đêm để ra khỏi Việt Nam và sang được Mỹ cũng đã là cả một câu chuyện ly kỳ mà sau này, đến lúc nào đó khi Việt Nam đã thay đổi, có thể được dựng thành phim. Tôi nghĩ tên bộ phim ấy có thể là “Adventure for Justice”, hành trình tìm công lý. Hoặc đơn giản là “My Mother Is Innocent”, mẹ tôi vô tội. Nhưng Việt Nam chưa thay đổi, và những chuyện ta nghe kể ngày hôm nay từ Bo Trung, Nguyễn Trí Dũng (con trai Điếu Cày), hay từ bạn bè, người thân của Anh Ba Sàm, v.v. đều vẫn còn rất nhiều chi tiết phải giữ kín, chứ đừng nói là có thể viết thành sách hay đưa lên phim. Nên chúng ta sẽ phải đấu tranh để Việt Nam sớm tới ngày đó. Riêng tôi, tôi mong sẽ lại có dịp thấy Bo Trung chạy tung tăng bên hồ nước long lanh nắng, chụp ảnh dưới hình nộm con King Kong to đùng, ôm vai “xác ướp Ai Cập”, dạo chơi trong vườn khủng long và xuýt xoa: “Bao giờ Việt Nam mình được như thế này”. Tôi mong chúng tôi sẽ có dịp đi chơi như thế, trong một xứ sở thần tiên đẹp như thế… ở Việt Nam.   Nguồn: phamdoantrang.com  
......

Chế độ chính trị xã hội nào, con người nấy.

"Nền văn minh đã thua chế độ man rợ" (Câu nói bất hủ của nhà văn Dương Thu Hương 30/04/1975). Có những thói quen lạc hậu, thiếu lịch sự, không sạch, ..., sẽ mất đi khi xã hội phát triển dân chủ, văn minh. Và tất nhiên, một chế độ chính trị lạc hậu phi dân chủ, quan chức chỉ ngày đêm lo tước đoạt tài sản, của cải của nhân dân, lo bảo vệ chế độ thì những cái xấu, cái lạc hậu ngày càng phát triển. Hàng triệu người Việt Nam đang sinh sống khắp nơi trên thế giới. Và hàng năm, có hàng trăm ngàn đi du lịch, học tập ở nước ngoài. Tất cả họ đều chấp hành rất tốt pháp luật và hành xử rất văn minh như người bản xứ. Vậy thì tại sao người Việt ở trong nước lại thụt lùi với thế giới về mức độ văn minh và chấp hành luật pháp? http://motthegioi.vn/phat-ngon/vi-sao-nguoi-viet-ra-nuoc-ngoai-lich-su-v... "Thế nhưng cũng rất lạ, chỉ sau 3 giờ bay, đáp xuống Nội Bài, tất cả những gì thuộc về lịch sự, văn minh mà họ đã thể hiện ở Singapore bỗng dưng biến sạch. Có cảm giác như mọi hành vi thiếu ý thức chưa bộc lộ ở bên kia chẳng qua là nén lại, tích tụ lại để về đến Việt Nam là xổ ra, bung ra cho bằng hết, cho đã. Rồi có ông Tây, mắt xanh mũi lõ ở xứ văn minh hẳn hoi, thế nhưng phóng xe ầm ầm ở Hà Nội mà chẳng thấy đội mũ bảo hiểm; có ông đi bộ trên phố nhổ phì phì, phát gớm! Tất nhiên số này rất ít. Tại sao lại có hiện tượng lạ như thế? Phải chăng pháp luật (hay môi trường thực thi pháp luật) đã chi phối, đã can thiệp mạnh mẽ tới ý thức (với nghĩa phổ thông của từ này)?" Cổ học tinh hoa: có lẽ thuỷ thổ khác nhau mà sinh ra thế chăng? Vua nước Sở muốn làm nhục vua nước Tề mới cho đem một người dân nước Tề ăn trộm tại nước Sở ra trước mặt Án Tử để làm bẽ mặt sứ giả nước Tề, nhưng Án Tử đã nói về thổ nghi một cách lý thú, khiến vua nước Sở không những không hạ nhục vua nước Tề mà còn bị một phen xấu mặt. Lời luận đó như sau: “ Chúng tôi trộm nghe, quýt trồng ở phía nam sông Hoài, quýt ngọt, đem sang trồng ở phía bắc sông Hoài, quýt hoá chua. Cành lá giống nhau mà quả chua ngọt khác nhau là tại làm sao? Là vì thổ nghi khác nhau vậy. Nay người dân sinh ra ở nước Tề không ăn trộm, nhưng sang nước Sở thành ra trộm cắp, có lẽ thuỷ thổ khác nhau mà sinh ra thế chăng?” Kết luận: tất cả tại chế độ cộng sản phi dân chủ và thối nát. Nguồn: facebook NguyenVanDai  
......

GDP - lật tẩy bởi ’lề trái’?

Lần đầu tiên chính phủ thừa nhận bị bịp! Trong cuộc họp Hội đồng chính phủ do TV1 phát hình tối 7/8/2014, lần đầu tiên, vui như Tết, hết ông Bộ Trưởng Bộ KHĐT Bùi quang Vinh đến ông thủ tướng 3 Dũng, tung hê ra những con số khống kê... bịp toàn diện,bịp toàn dân, bịp toàn thế giới rằng thì là: 14%+12%+13%+15%=...5% !!!!   Một điều bịp cơ bản của mọi sự bịp về con số Dê-Đê-Pê hoặc Gi-Đi-Pi mà khối kẻ đọc lên mà chẳng hiểu nó là cái gì đang nắm quyền tùy tiện tung ra hoặc báo cáo thẳng với ông thủ tướng khi ông tới kiểm tra từng tỉnh. Té ra...toàn là con số ma, con số mượn, con số ảo mà thủ tướng cứ dựa vào đó mà báo cáo "Gì-đĩ-Bị...tăng trưởng không ngừng, đời sống nhân dân được nâng cao một bước!" Sáng hôm sau (8/8) thì báo chí lại được thể chạy tít lớn nét đậm: CHẤM DỨT THỐNG KÊ TRÙNG, TĂNG TRƯỞNG ẢO" kèm theo là đủ loại... "chuyển ra" "tiền sỹ","ngợi sỹ"...lên tiếng "tố cáo ăn theo" cứ như chuyện bây giờ mới "À ra thế!" Còn lề trái (trong đó có tớ), đã gọi thẳng những con số tăng trưởng là "số ma","số phịa", "số bịp" và đặt tên bọn thống kê ở mọi cấp là "Kê Khống" từ khuya rồi,,,nhưng đều bị các ông xếp vào loại.. "lợi dụng dân chủ để nói xấu đảng và chính phủ"! Phải chăng việc lần đầu tiên, dám công khai cái chuyện "lừa bịp vĩ đại" này có tí chút công lao của bọn lề trái chúng tớ, đã phải trả giá bằng trù dập, đàn áp, tù đầy.. do đã dám sớm "nói thật" cái mà toàn bộ "cơ chế" do chính các ông dựng nên để.. chuyên nói dối, chuyên...lừa bịp ngay chính giữa các ông với nhau mà cứ tưởng qua mặt được rất nhiều cái đầu tỉnh táo thông minh gấp cả 1000 lần các ông mà các ông luôn rất...sợ nên quy cho họ là "bọn suy thoái", bọn "tự diễn biến", thậm chí "bọn phản động"! Vậy bây giờ các ông đã thấy nên cảm ơn các con người "tự diễn biến" này chưa? Nguồn: FB Tô Hải
......

Phạm Chí Dũng: Người Mỹ bắt tay giới bảo thủ Hà Nội?

Sự kiện hai Thượng nghị sĩ Mỹ là John McCain (đảng Cộng hòa, bang Arizona) và Sheldon Whitehouse (đảng Dân chủ, bang Rhode Island) đến thăm Việt Nam một cách khá bất ngờ, trong ba ngày kể từ 08/08/2014 đã gây chú ý trong dư luận.   Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain và Sheldon Whitehouse đến American Center ở Hà Nội dự cuộc họp báo ngày 08/08/2014. REUTERS/Kham RFI Việt ngữ đã trao đổi với tiến sĩ Phạm Chí Dũng, nhà bình luận chính trị ở Saigon về vấn đề này. RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Là người theo dõi sát thời sự trong nước, anh có chú ý đến những chi tiết nào trong chuyến đi thăm Việt Nam của hai Thượng nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là một chính khách tên tuổi như ông John McCain ? Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain là người phụ trách Ủy ban quân vụ - một cơ quan được xem là quan trọng trong Quốc hội Hoa Kỳ, đương nhiên có vai trò xung yếu đối với việc “quyết định” cơ chế bỏ cấm vận vũ khí đối với một quốc gia quá nhạy cảm chính trị như Việt Nam. Bất ngờ là chỉ một tuần sau chuyến đi không tuyên bố trước tới Hoa Kỳ của Phạm Quang Nghị - người cho tới thời điểm này đang được xem là có thể kế vị cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại đại hội Đảng lần thứ 12 vào năm 2016, vào ngày 07/08/2014 ông John McCain và đồng viện Dân chủ Sheldon Whitehouse đã đột ngột đến Hà Nội. Thông tin ban đầu của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết, ba hồ sơ quan trọng là an ninh khu vực, nhân quyền và thương mại sẽ được phái đoàn nghị sĩ Mỹ thảo luận với cấp lãnh đạo Việt Nam. Một chi tiết đáng chú ý không kém là ngay trước chuyến đến Việt Nam đột ngột trên, Thượng nghị sĩ Bob Coker của Hoa Kỳ cũng vừa kết thúc một chuyến thăm viếng tại Hà Nội, với cuộc gặp hầu hết những người được xem là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam. Chưa đầy một tuần sau khi Thượng nghị viện Mỹ “nhất trí” về Thỏa thuận hạt nhân dân sự với Việt Nam, đến lượt Hạ nghị viện Hoa Kỳ ghé mắt một nghị quyết cho phép Mỹ bán vũ khí sát thương cho quốc gia cựu thù nhưng vẫn chưa thể “hòa giải”. Dự thảo nghị quyết này nêu về an ninh hàng hải tại Châu Á - Thái Bình Dương, đã được hai dân biểu Forbes và Hanabusa đệ trình để Hạ viện thông qua. Điểm ấn tượng nhất liên quan đến “khách thể” Việt Nam trong dự thảo là trong các khuyến cáo về mặt chính sách đối với chính quyền Mỹ, khuyến nghị thứ 13 liên quan đến quan hệ Mỹ - Việt đã bật đèn xanh cho việc bán vũ khí cho Hà Nội. RFI : Như vậy gần đây có vẻ Quốc hội Mỹ lại quan tâm hơn đến Việt Nam, trong khi trước đây các hoạt động trao đổi chủ yếu từ phía chính quyền ? Khác hẳn với thời gian nửa cuối năm 2013 và đầu năm 2014 với vai trò chủ đạo thuộc về Chính phủ Mỹ, những tuần lễ gần đây lại chứng kiến hình ảnh “lên ngôi” của giới nghị sĩ Hoa Kỳ. Những dữ liệu gần đây cũng cho thấy thật khó hoài nghi rằng đã không diễn ra một chuỗi logic đàm luận và móc ráp giữa các động thái mới đây của Ủy viên Bộ chính trị Phạm Quang Nghị, sự chuẩn thuận nhanh chóng của lưỡng viện Hoa Kỳ cùng những chuyến công du Việt Nam của các nghị sĩ Mỹ. Móc xích có vẻ lộ diện nhất là chuyến thăm “đáp lễ” của John McCain đã diễn ra ngay sau cuộc “diện kiến” chính khách Mỹ của ông Phạm Quang Nghị. Một thông tin bên lề nhưng cũng rất đáng lưu tâm khác là gia đình blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) vừa nhận giấy mời của Chi cục thi hành án dân sự quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu thay mặt cho ông Hải đóng tiền án phí sơ thẩm và phúc thẩm hình sự để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”. RFI : Thông tin bên lề này có liên quan gì, theo anh ? Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) chính là một trong những tù nhân lương tâm kỳ cựu và có tiếng nhất ở Việt Nam, bị bắt và bị xử án đến hàng chục năm tù giam chỉ vì đấu tranh phản kháng Trung Quốc. Ông cũng nằm trong danh sách ưu tiên mà Chính phủ Mỹ thường trao cho phía Việt Nam để đòi hỏi trả tự do. Động thái giấy mời này đã khiến rộ lên dự đoán về khả năng Điếu Cày có thể được trả tự do trong không bao lâu nữa. Ngày gửi giấy mời lại trùng với ngày mà Thượng nghị sĩ John McCain đến Việt Nam. Nếu có thể so sánh, cần nhắc lại là ngay trước và sau chuyến công du Hà Nội của nữ Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị Wendy Sherman của Hoa Kỳ đến Hà Nội vào đầu tháng 3/2014, Nhà nước Việt Nam đã phóng thích một loạt 5 tù nhân lương tâm, kể cả một người bị coi là “rất cứng đầu” như ông Cù Huy Hà Vũ. Sự việc trên cũng dẫn tới một giả thiết là trong hoặc sau chuyến đi Mỹ của ông Phạm Quang Nghị, phía Việt Nam đã chấp nhận thông báo cho phía Mỹ những nhượng bộ về nhân quyền, cụ thể là thả nhiều hơn và “chất lượng hơn” tù nhân lương tâm. RFI : Có vẻ như quan hệ Việt – Mỹ đang có những bước chuyển khá ngoạn mục, đặc biệt là từ sau vụ giàn khoan Trung Quốc ? Bây giờ, phương trình chính trị Việt - Mỹ đã trở nên phức hợp nhưng cũng thú vị hơn. Những chủ đề an ninh, thương mại và nhân quyền mà ông John McCain, chứ không phải một quan chức cấp cao nào của Chính phủ Mỹ, mang trách nhiệm bàn thảo với giới lãnh đạo Việt Nam, dường như phát lộ dấu hiệu Quốc hội Mỹ đang đóng vai trò khá then chốt đối với tương lai quan hệ Mỹ - Việt. Rất có thể, chuyến làm việc này của John McCain sẽ mang tính “tiền trạm” để Quốc hội Mỹ quyết định về một vấn đề còn hệ trọng hơn hẳn giữa hai quốc gia: đối tác chiến lược. Dự đoán này là có thể có cơ sở khi tại cuộc chào từ biệt với ông Trương Tấn Sang, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là David Shear đã nói bóng gió về triển vọng “đối tác chiến lược Việt - Mỹ” trong tương lai. Khác với khái niệm “đối tác toàn diện” được thỏa thuận giữa ông Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vào tháng 7/2013, từ sau vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 của Trung Quốc mà đã khiến đảo lộn không khí chính trị ngoài Biển Đông, nhu cầu về đối tác chiến lược được chính tư lệnh quân đội Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương gợi mở, còn giới lãnh đạo Việt Nam thì tất nhiên không bỏ ngoài tai lời gợi ý hấp dẫn này. Nếu chuyến đi của John McCain tùy thuộc vào lời mời của Phạm Quang Nghị, điều có vẻ đáng ngạc nhiên là người Mỹ đang như chú tâm đến mối quan hệ với giới lãnh đạo bảo thủ bên Đảng ở Hà Nội, thay cho những đồn đoán trước đây về vai trò nổi bật của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước phương Tây. Và nếu khả năng này xảy ra, Quốc hội Mỹ và sau lưng là Chính phủ Mỹ đang muốn chứng nhận việc Đảng và Nhà nước Việt Nam sẽ dành cho họ vai trò gì trong bầu không khí chính trị ở Việt Nam, và lẽ dĩ nhiên bao hàm cả vị trí của Hoa Kỳ ở khu vực Biển Đông. RFI : Nếu thực sự là phía Mỹ đang quan tâm hơn đến phe bảo thủ ở Việt Nam, thì sẽ có những thay đổi gì, theo anh ? Logic tiếp theo là nếu chuyến công du của John McCain “thành công tốt đẹp” với những người bên đảng Cộng sản Việt Nam, thời gian tới sẽ chứng kiến những thay đổi không nhỏ về chính trị đối ngoại của Việt Nam, mối tương quan chính trị đối nội và cả về một không khí cởi mở hơn mà Nhà nước Việt Nam “đặc cách” dành cho giới hoạt động dân chủ và nhân quyền tại quốc gia này. Nếu kịch bản phóng thích tù nhân lương tâm được lặp lại như đầu năm 2014, sắp tới sẽ có một số những cái tên đáng chú ý có thể được trả tự do như Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Nguyễn Văn Lý… Và nếu một số tù nhân lương tâm được trả tự do trong tháng 8/2014, đây chính là một tín hiệu khá rõ ràng về khả năng sắp tới Nhà nước Việt Nam nhận được một số “đặc cách” về mua vũ khí sát thương, tham gia vào TPP và có thể cả hứa hẹn cho “đối tác chiến lược” với người Mỹ trong những năm tới. Nhưng làm gì thì làm, giới lãnh đạo Việt Nam phải nhanh nhanh lên mới được. Vì thời gian cho họ chỉ còn đúng một quý nữa, tức nếu đến tháng 11/2014 khi Quốc hội Mỹ bước vào cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ mà phía Việt Nam vẫn chưa hoàn tất thủ tục vào TPP, thì coi như sau đó sẽ chẳng còn mấy nghị sĩ Mỹ quan tâm đến những vấn đề riêng tư của lãnh đạo Việt Nam nữa. RFI : RFI Việt ngữ xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Nguồn: viet.rfi.fr/viet-nam
......

Vét cú chót trước khi thả Điếu Cày?

MỜI ĐÓNG ÁN PHÍ ĐỂ .... ĐẶC XÁ ?! Hôm nay ngày 8 tháng 8, chúng tôi đã nhận được giấy mời từ Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự Quận 3" với nội dung "mời đại diện gia đình ông Nguyễn Văn Hải" (Blogger Điếu Cày) đóng án phí bốn trăm ngàn đồng trong vụ án hình sự Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do (CLBNBTD) với gợi ý là để "đủ điều kiện được xem xét giảm án-đặc xá." Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải Đây là động tác mới nhất của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đối với vụ án xử kín các thành viên CLBNBTD mà ông Hải Điếu Cày cho đến bây giờ còn chưa nhận được Quyết định thi hành án và Bản án phúc thẩm. Nó diễn ra trong bối cảnh ngay sau khi Đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo Heiner Bielefeldt chấm dứt sớm cuộc tham sát ở Việt Nam và có những nhận xét mạnh mẽ, thẳn thắn về Việt Nam. Việc gửi 1 "giấy mời... đóng án phí" với gợi ý về việc trả tự do cho ông Hải rất có thể đến từ một nhu cầu cải thiện hình ảnh khẩn cấp của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.   Về phía gia đình, chúng tôi luôn khẳng định là ông Nguyễn Văn Hải vô tội vì những việc làm của ông là đúng với hiến pháp và pháp luật không cấm. Ngoài ra đã rất nhiều lần cán bộ An ninh điều tra chia sẻ rằng phải bắt ông Hải để ngoại giao với Trung Quốc. Sau rất nhiều đơn thư khiếu nại đến tất cả các cấp không được trả lời. Chúng tôi chỉ còn mong ước rằng công lý được thực thi, những gì các cơ quan hành pháp đã vi phạm phải được nhìn nhận và khắc phục, hoặc đơn giản hơn là dám trả lời những đơn thư khiếu nại của chúng tôi. Ngoài việc đó ra cơ quan chức năng còn có thể tùy tiện thả tự do cho ông Nguyễn Văn Hải không cần lý do (hoặc dàn dựng lên vài lý do), cũng giống như lúc đã bắt ông Hải, để thể hiện rõ bản chất của chế độ. Xin nhắc lại câu nói của cha tôi trong những lần gặp trước đây, "bố có thể ở tù đến chết để cho tất cả mọi người được biết đến thực trạng của người tù chính trị ở Việt Nam". Vụ án Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do được đưa ra xét xử sơ thẩm ngày 24 tháng 9 năm 2012 và phúc thẩm ngày 28 tháng 12 năm 2012, xét xử 3 thành Viên là Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải. Ông Hải bị tuyên án 12 năm tù giam và 5 năm quản chế. Bị biệt giam không lý do trong các trại ông đi qua, chưa bao giờ được nhận bản án phúc thẩm và quyết định thi hành án, và bị ngăn chặn tuyệt đối các đơn thư khiếu nại và kháng cáo từ buồng giam. Đỉnh điểm là vụ tuyệt thực hơn 30 ngày của ông vào tháng 6 - 7 năm 2013 để đòi hỏi được trả lời khiếu nại. Nhưng sau khi Viện kiểm sát nhân dân Nghệ An đến hứa hẹn vào cuối tháng 7 năm 2013, thì chưa một khiếu nại nào được giải quyết cho đến nay. Những người tù chính trị đã giúp đỡ ông trong thời gian tuyệt thực đó bao gồm ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã bị đánh đập và chuyển đi những trại khác cách xa hàng ngàn cây số   nguồn: facebook Nguyễn Trí Dũng
......

"Cam kết Thành Đô" quá thơ & ngây

Từ Hội nghị Thành Đô 1990, mối quan hệ hữu nghị giữa đảng CS Việt Nam và đảng CS Trung Quốc trở nên đặc biệt một cách bất thường, đến nỗi cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gọi đây là khởi đầu của một thời kỳ Bắc thuộc lần nữa:“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm bắt đầu” "...Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù" Đến nay, sau 24 năm nó vẫn còn là một bí mật – toàn dân chưa ai biết, kể cả Quốc Hội, cả ủy viên Trung Ương đảng chưa chắc đã biết. Chỉ có một vài tiết lộ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ về cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt vào thời tiền hội nghị, qua hồi ký để lại của ông, nay thì ông đã qua đời. Hiện cái “kỷ yếu hội đàm Thành Đô, mang nhiều ý nghĩa lịch sử” vẫn còn là một bí mật, nhưng không còn nguyên vẹn vì bị sứt mẻ dần qua thời gian, nên chưa thể “biệt tăm” như cái hộp đen của chiếc máy bay MH370 của Malaysia mất tích đâu đó ở đáy đại dương. Ngoài vài điểm đã tiết lộ trong hồi ký của Trần Quang Cơ, hồi ký của đại sứ Trung Quốc, sự tiết lộ của báo Hoàn Cầu TQ, và một ít từ Wikileaks, nhưng đều không thể xem là chính thức hay chính xác, dù có rõ mười mươi đi nữa, trừ phi Đảng CSVN công bố chính thức để minh bạch công và tội. Nhưng lãnh đạo đảng CSVN vẫn để mặc cho dư luận đồn đoán. Vậy, trong khi chờ đợi sự bạch hóa đó, chúng ta có thể góp phần giải mã bí mật Thành Đô qua phương diện “thơ” xuất phát từ hội nghị. Những dòng thơ nầy thì không có gì để phải hoài nghi. Theo hồi ký được đăng tải của vị Đại sứ TQ (1), người đã có mặt với vai trò xuyên suốt hội nghị, đã mô tả: ban đầu trên chiếc chuyên cơ bí mật của đoàn cao cấp Việt nam sang Thành Đô là nặng trĩu không khí lo âu căng thẳng, nhưng khi kết thúc hội nghị là sự hoan hĩ tràn ngập của hai bên. Sau khi 2 bên ký kết vào văn kiện, Giang Trạch Dân đã đọc tặng hai câu thơ (của Giang Vĩnh-đời nhà Thanh):   “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” (Trải qua cơn sóng gió, tình anh em vẫn còn. Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù) Thủ tướng Đỗ Mười rất đắc ý, trên đường về cùng chuyến bay, đã yêu cầu ông Đại sứ nầy dịch và viết lại âm Hán-Việt và chữ Việt 2 câu nầy, ông càng đắc ý hơn. Sau khi về Việt Nam, ông TBT Nguyễn Văn Linh ngẫm nghĩ càng sảng khoái, bèn sáng tác :   “ Huynh đệ chi giao sổ đại truyền Oán hận khuynh khắc hóa vân yên Tái tương phùng thời tiếu nhan triển, Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến” (Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ. Oán hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây khói. Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ. Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại )   Niềm vui thơ phú trong chốc lát của 2 vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ngang giá hàng triệu sinh linh Việt Nam đã ngã xuống vì cuộc chiến đấu 74-79- 84-88. Bao nhiêu thanh niên 18-20, đã hy sinh trong rừng sâu, trong làng mạc, ngoài biển cả… và nổi đau của cha mẹ , bao nhiêu gia đình mất cửa nhà, tài sản, tất cả hóa thành không, bởi vì “anh em ‘chơi’ với nhau, gặp nhau cười rạng rỡ”. “Oán hận ‘trong khoảnh khắc’ đã thành mây khói”…Với ảo tưởng điên rồ, bốc đồng “tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại” Giờ đây chúng ta không còn gì để thắc mắc, vì sao bia kỷ niệm chiến sĩ bị đục bỏ, không được nhắc tới, không làm kỷ niệm những ngày lễ, và đàn áp thẳng tay, đánh dã man, bỏ tù những người biểu tình yêu nước, thanh trừng, triệt hạ, loại trừ những “đồng chí” khác ý kiến…!  Ông Nguyễn Trung đã nhận định rằng (2): “Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước  XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp  của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi  đưa ra những quyết định rất sai lầm”.   Nhưng cho dù sự hạn chế tầm nhìn thế nào đi nữa, cũng không thể đắm đuối với niềm tin quá dễ dàng về cái nhìn lịch sử của hằng ngàn năm từng va chạm cho cuộc sống còn. Vậy nó xuất phát từ đâu ? Về cá nhân, người ta thường gọi đó là tính “kiêu ngạo cộng sản”. Về xã hội, là thể chế độc tài mà quyền lực nằm gọn trong tay một nhóm người, --lãnh đạo chủ chốt-, bộ máy đảng-nhà nước chỉ còn là hệ thống kèn trống tồn tại để ăn theo, không hơn không kém. Niềm sảng khoái văn thơ nầy, có thể gọi là thơ ngây, ngây ngất, và ngây ngô mà đầy tai họa. Nhưng chưa hết. Loại thơ độc hại nầy còn phát tiết, chảy dài theo 2 thập niên sau, kéo theo “anh em chơi với nhau nhiều thế hệ” Đó là 2 bài thơ, mang tính chất phương châm, có nghĩa là cương lĩnh, mỗi bài 4 câu, 16 chữ dùng cho mỗi thập niên. (theo tiết lộ của Wikileaks là thời gian thực hiện trọn vẹn “Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mà Ông Đại sứ TQ gọi là mang nhiều ý nghĩa lịch sử, được quy định là 3 thập niên). Theo âm Hán-Việt, đó là “Thập lục tự phương châm” (phương châm 16 chữ), được đảng CSVN công khai, đón nhận như một món quà vô giá từ sản phẩm Thành Đô. - Phương châm 1 định hình tư tưởng, có giá trị như một slogan, một tuyên ngôn của văn kiện, do Giang Trạch Dân sang Hà nội triển khai, vào tháng 11-1991:             “Sơn thủy tương liên.                          Lý tưởng tương thông           Văn hóa tương đồng           Sinh mệnh tương quan” -  Phương châm 2 chỉ đạo hành động cụ thể, sau 10 năm thành tựu bước 1 căn bản , để tiến hành 10 năm bước 2, do Giang Trạch Dân chính thức công bố cùng Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, vào tháng 2-1999 :           Mục lân hữu hảo           (láng giềng tốt)           Toàn diện hợp tác          (hợp tác tốt )           Trường kỳ ổn định         (ổn đinh tốt)            Diện hướng tương lai   (tương lai tốt) Phía Việt Nam đã đồng thuận triệt để, tích cực thực hiện và Việt-hóa một cách tài tình với sự trân trọng,  phương châm  tư tưởng thành “16 chữ vàng”, phương châm hành động, thành “4 tốt”. Và đã triển khai giáo dục cho toàn quân tòan dân. Chỉ cần suy ngẫm từ hai phương châm nầy, so với thực tế diễn ra trong 24 năm qua, thì mọi sự khớp nhau, sáng tỏ như trăng rằm. Quả thực, hai phương châm cực kỳ thâm hiểm do Trung Quốc đặt ra, trong chiến lược xâm lăng văn hóa bằng “sức mạnh mềm” của họ, tầm quan trọng hơn cả tuyên bố “hải phận Trung Quốc” của Trung Nam Hải trong chiến lược xâm lăng pháp lý và ngoại giao. Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã “tán thành” và “chỉ thị cho các cấp thi hành”, đã gây nên nổi nhức nhối ngày nay về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, dẫn đến giàn khoan HD 981. Đó là mặt cụ thể. Về sức mạnh mềm,“mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” thì được tiếp nhận hồ hởi và triển khai triệt để tận tình, đã đập thẳng vào mặt nhân dân, đâm thẳng vào trái tim của lịch sử, có sức công phá tận nền tảng tư tưởng - văn hóa của dân tộc, mà trên cơ sở đó, Việt Nam đã tồn tại mấy ngàn năm như một quốc gia riêng biệt. Điều đáng kinh ngạc cho toàn bộ dân tộc Việt Nam, hai phương châm nầy đã thong dong xuyên thủng và băng qua từng tập thể lãnh đạo của các thời kỳ Bộ Chính Trị và Trung ương đảng, xuyên thấu các cấp đảng đến tận cơ sở, và ngự trị trên diễn đàn tư tưởng cả nước trong suốt thời gian hơn 2 thập kỷ qua. Không có một phản ứng nào đáng kể, từ những nhà văn hóa, sử gia, giáo sư và hằng đống tiến sĩ, (kể cả nhân sĩ trí thức ?), và báo chí. Là tại sao ? (...) Mười sáu chữ VÀNG và bốn TỐT đã đi ngược lại, đến mức phủ định một cách đau xót “nền tảng tinh thần” của Quốc gia mà Nguyễn Trãi đã khắc họa qua 4 câu,  cả dân tộc kiêu hãnh và không ai dám quên, khi khẳng định mình là người Việt Nam. “Như Nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Nước non bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Khẳng định tính độc lập của một quốc gia mới là ngàn năm, chứ không phải hữu nghị là “ngàn năm” (tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại) như thơ của TBT Nguyễn Văn Linh. Càng nghĩ, càng đau về phương châm nầy, nó ngang nhiên hơn cả chiếc giàn khoan HD 981 . Nó đối chọi trực diện với 4 câu cô đọng, nén chứa toàn bộ tinh thần và sức mạnh của một dân tộc. Cái đau nằm ở tính thâm độc của đối phương đã đành, càng làm nhói tim mọi người, khi mà nó được sự đồng tình đến mức triệt để, nâng lên thành vàng của chính đảng CSVN ! Một  đảng vốn ra đời và tồn tại với sứ mạng là để cứu nước, giữ độc lập chứ không phải để làm điều gì khác. Bình tâm  mà so sánh, xem xét lại kỷ, 4 câu xuất phát từ gan ruột, trí tuệ của Tiền nhân ta, và 4 câu mà Đảng mang về. Ai là kẻ đã Việt- hóa thành phương châm  “16 chữ vàng” và “4 tốt” ? Rất dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ lan truyền trong nhân dân- (như lời “chỉ đạo” viết văn kiện của TBT Nguyễn Phú Trọng mới đây, cho hội nghị Trung ương sắp tới ). Mỗi câu trong 4 câu của phương châm vừa bóng bẫy nhẹ nhàng, lại hàm súc, phủ định một cách trọn vẹn tính độc lập của quốc gia, cả về phương diện vật thể cũng như phi vật thể, tạo nên một tiến trình đồng hóa ngọt ngào, êm ả.  Ý thơ của nó thâm và êm như lưởi dao phẫu thuật, cắt thẳng vào mạch nguồn tồn tại của dân tộc, mà nạn nhân không một chút phản ứng. - Sơn thủy tương liên. Núi sông trùng điệp nối liền nhau, là cái vui và thuận lợi của kẻ mạnh, sao kẻ yếu không lo, lại mừng như được vàng, lại vô tâm cứ như xem một bức tranh đẹp ? Chẳng phải đời Tần của Trung Quốc đã từng không tiếc máu xương sinh mạng của dân mà xây Vạn Lý Trường Thành, ngăn sông chắn núi để ngăn quân ngoại xâm từ phương bắc tràn vào ? Bởi cái tương liên nông nổi đó mà ngày nay, sau 24 năm đường xe, đường tàu thông thống chạy qua, hàng độc hại, xe tăng có thể lao qua như nước từ trên cao ào ào đổ xuống. Đóng cửa, mở cửa là do họ chứ không phải ta.   Ai có mưu đồ sâu độc muốn xóa tan bờ cõi của ta ? Ai là kẻ mơ màng mịt mù hữu hảo? Vì cái gì che mắt, để không nhìn thấy cạm bẫy của "tương liên" vốn có một chiều và thảm hại.? Còn đâu sự tự tin và khẳng định đầy cương quyết : “Như nước Đại Việt ta từ trước !” “Nước non bờ cõi đã chia”- Và “Sách Trời đã định” (Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư-  Lý Thường Kiệt). - Lý tưởng tương thông. Đó là gì ? Là cùng nhau một ý thức hệ chủ nghĩa Mác-Lê, Mao, Đặng, Giang, Hồ,Tập..? Là xóa bỏ Tổ Quốc, Lịch sử, Dân tộc, như bài ca: “Chờ ngày xóa tan biên cương, loài người sống thân yêu..”, “Vô sản thế giới hãy đoàn kết lại”…Nhân loại có ai còn tin vào những lời nầy có thể là hiện thực, bằng con đường bạo lực mông muội của ý thức hệ Cộng sản, vừa thô thiển vừa viễn mơ ? Và còn ai trong đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay thật sự tin điều nầy ? Và kể cả đảng Cộng sản Trung Quốc ? Chắc chắn là không một ai ! “Lý tưởng” nầy đã trở thành một sự “dối trá hoàn hảo” của cả hai bên :dối mình, dối người, dối cả nhân dân hai nước, trong khi nhân loại thấy rõ đó là một vở kịch bi hài dai dẳng, đáng tiếc cho một kẻ khờ. Một bên thì dối mà được cả, còn một bên dối kia, chỉ để tự nguyện đánh mất mình ! Sao lại tự xóa bỏ “Một nền văn hiến đã lâu” để thay vào một thứ hư ảo không có thật ? - Văn hóa tương đồng. Văn hóa “cùng giống như nhau”, thì từ lâu đã bị đồng hóa, làm gì còn đất nước này,  mà đảng Công Sản Việt Nam “nhân danh” để đi cứu nước? Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nhân sinh quan, giống loài đều khác. Nguyễn Trãi đã khẳng định cái riêng biệt để tồn tại : “phong tục Bắc, Nam cũng khác”. Chính đảng CSVN cũng đã nêu “hòa nhập chứ không hòa tan” khi mở đầu cuộc đổi mới kinh tế theo hướng thị trường trước đây. Thì ra, chỉ lo đối phó với phương Tây mà ôm phương Bắc theo phương châm đã được chỉ đạo, cùng với định hướng đi kèm “thế lực thù địch”, nhằm vào những ai không ôm chân phương Bắc. - Sinh mệnh tương quan, là một kết thúc ngọt ngào, cùng “sống chết có nhau”. Thế mà nó lại tương khắc, lại chẳng bao giờ do ta gây ra!                                                                            Sự cố kết nầy được triển khai, thực hiện theo bốn tốt, qua từng thông cáo chung của mỗi triều Bộ Chính Trị, cái mới nhất là do TBT Nguyễn Phú Trọng ký với Hồ Cẩm Đào “hợp tác toàn diện và chiến lược”. Quả chín chỉ còn chờ ngày rơi rụng, Tập Cận Bình lại muốn nhanh hơn, cố đóng vai người hùng trong “Giấc mơ Trung Hoa” để kết thúc thập niên thứ 3 trong kế hoạch 30 năm Thành Đô. Thế là giàn khoan HD 981 rất oai hùng xuất hiện ngang nhiên, hoành tráng ở thềm lục địa Việt Nam. Ngọn gió xoay chiều Sự hiện diện của HD 981 từ ngày 1-5, là bất ngờ đầy kinh ngạc làm BCT Việt Nam á khẩu, nín thở suốt 10 ngày. Nhân dân sục sôi và nổ ra cuộc biểu tình ngày 11-12/5 như chưa từng có trong 40 năm qua. Ngày 18 lại hứa hẹn một cuộc biểu tình tự phát trên khắp nước, thì bị ngăn chận và trấn áp trong trứng nước. Thông tin đã bùng phát khắp trong nước và thế giới. Bộ mặt bành trướng không thể nào che đậy được nữa. Vì liên quan đến biển đảo nên xuất hiện Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, làm vấn đề càng trở thành gai góc, bộc lộ mối quan hệ không lành mạnh giữa Việt Nam- Trung Quốc, kéo theo “bí mật Thành đô” được “hoài nghi” ngày càng lớn, về mối quan hệ bất chính tập thể của đảng cộng sản Việt Nam đối với đảng Cộng sản Trung Quốc. Nó ngày càng trở nên trầm trọng hơn, hầu như “khó nói” của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nếu đem những thông tin đã được tiết lộ, cùng với “16 chữ vàng” và “4 tốt”, so sánh với thực tế diễn ra trên khắp đất nước của 24 năm qua, từ khi ký kết Thành Đô, thì lại vô cùng ăn khớp. Nó là một tiến trình logique từ lý thuyết sang hành động, thể hiện thật sự là “hợp tác chiến lược và toàn diện” theo cách “hòa tan”, đang rất cần sự “biện hộ” chân thành của Đảng. Đang có yêu cầu bức bối trong nhân dân, tiêu biểu qua tiếng nói của 61 cựu đảng viên, của Thiếu tướng Lê Duy Mật, của Đại tá Nguyễn Đăng Quang bằng thư chính thức đòi Trung Ương phải “bạch hóa” hồ sơ Thành Đô ngay trong kỳ hội nghị TƯ lần nầy. Gió xoay chiều chính là sự thức tỉnh của toàn dân, và cả thế giới đều thấy, một liên minh quốc tế chống bành trướng là vấn đề của thời đại, không thể đảo ngược. Nói đúng hơn, nay chỉ là chờ đợi sự công bố chính thức, bạch hóa nó trước nhân dân, trước lịch sử, cũng đồng thời là đòi hỏi thái độ công khai chính thức về sự thật và cách ứng xử của đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự kiện nầy.                                                                Trong hội nghị Trung Ương lần thứ 10 tới đây, nếu tổng kết 30 năm được và mất, mà không đề cập đến vấn đề nầy, thì giá trị của tổng kết ấy khá vô nghĩa. Để kết luận, xin mượn lời của Đại tá Nguyễn Đăng Quang (3): “Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua, trong đó có vấn để Thành Đô năm 1990, kèm theo một lời (nên là mộthành động- người viết) tạ lỗi chân thành ! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Nên là một hành động xin lỗi theo cách mà người Nhật đã làm, xin lỗi thay cho tiền nhân đã có hành động sai trái với dân tộc khác,  từ đó đứng thẳng lên để nâng cao phẩm chất của mình và xây dựng lại sức mạnh nội lực của dân tộc./. HĐN 10-8-2014 DienDanCTM .............................. - Hình ảnh xin lỗi của người Nhật Link hình :http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/07/khi-quan-chuc-xin-loi-nguoi-da... - Bài viết tham khảo từ các tài liệu và bài liên quan (1) Hồi ký của Đại sứ Trung Quốc- Hồi ký Trần Quang Cơ – “Trước và sau cuộc gặp cấp cao Trung –Việt ở Thành Đô” link:http://vietsuky.wordpress.com/hoi-ky-tran-quang-co/ (bị chặn khó vào >>>) http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/08/tu-lieu-truoc-sau-cuoc-gap-cap..... (2) “Phải chận đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990”- Nguyễn Trung (http://bongbvt.blogspot.com/2014/08/phai-chan-ung-nguy-co-tai-dien-kich-...) (3) “Phải công bố thỏa thuận ở Thành đô” – Đại tá Đặng Văn Quang. Link http://saigondiemtin.blogspot.com.tr/2014/08/phai-cong-bo-cac-thoa-thuan... (4) Bài liên quan “Hiểm họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa” – Trần Trung Đạo. http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/08/hiem-hoa-trung-cong-va-bai-hoc...
......

Lao Động Việt công khai ra tuyên cáo tại Việt Nam

Cùng với việc ra tù trước thời hạn của Đỗ Thị Minh Hạnh, buổi họp mặt của các tổ chức xã hội dân sự độc lập hôm 5/8/2014 đã chứng kiến sự công khai hóa các hoạt động của Phong trào Lao Động Việt tại Việt Nam sau 6 năm hoạt động bí mật. Phong trào Lao Động Việt được thành lập ngày 29/10/2008 tại Việt Nam. Sau khi 3 sáng lập viên là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương bị chế độ cộng sản bỏ tù, PT Lao Động Việt đã buộc phải lui vào hoạt động bí mật để tiếp tục các công việc hỗ trợ công nhân và bảo toàn lực lượng. Tại bàn tròn xã hội dân sự do Mạng Lưới Blogger Việt Nam tổ chức vào hôm 5/8/2014 tại Sài Gòn, lần đầu tiên sau 6 năm thành lập, đại diện PT Lao Động Việt là cô Đỗ Thị Minh Hạnh đã chính thức công khai ra tuyên cáo khẳng định tiếp tục các hoạt động xây dựng, phát triển Nghiệp đoàn Độc lập tại Việt Nam; đòi trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và tất cả các tù nhân lương tâm khác. Phong Trào Lao Động Việt là thành viên của Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do. Ngày 17/1/2014, một đại hội được tổ chức tại Thái Lan đã công khai tuyên bố thành lập Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt. Đây là một liên minh với sự tham gia của 4 tổ chức, gồm: Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, Phong Trào Lao Động Việt và Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam. Dưới đây là toàn văn bản tuyên cáo của Phong trào Lao Động Việt do Đỗ Thị Minh Hạnh đọc hôm 5/8/2014 tại Sài Gòn: *   Tuyên cáo của Phong trào Lao Động Việt Tại Việt Nam, lương bổng, quyền lợi và điều kiện làm việc của công nhân không được đáp ứng đúng mức. Tình trạng bóc lột, ức hiếp, xúc phạm nhân phẩm, tai nạn nghề nghiệp, môi trường làm việc tồi tệ, tai nạn và ngộ độc xảy ra thường xuyên và kéo dài nhiều năm trên phạm vi cả nước.   Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trên danh nghĩa là tổ chức đại diện cho quyền lợi của công nhân. Trong thực tế, cán bộ công đoàn được giới chủ trả lương và tổ chức này đã kiềm tỏa, giám sát mọi sinh hoạt của công nhân, hoạt động nhắm vào mục tiêu bảo vệ quyền lợi của giới chủ nhân. Từ năm 1995 đến nay trên đã có trên 5 ngàn cuộc đình công, nhiều cuộc đình công có trên 20 ngàn công nhân. Tuy nhiên, mọi cuộc đình công đều bị nhà nước xem là bất hợp pháp và sử dụng lực lượng an ninh để can thiệp, đàn áp và dập tắt. Tổng liên đoàn Lao Động Việt Nam hoàn toàn đứng về phía chủ nhân, nhà nước và lực lượng an ninh trong hơn 5 ngàn cuộc đình công này.   Từ năm 2006 đến nay, đã có những nỗ lực tranh đấu bênh vực và bảo vệ quyền lợi của công nhân và người lao động Việt Nam. Một trong những nỗ lực đó là sự ra đời của Phong trào Lao Động Việt vào ngày 29 tháng 10 năm 2008.   Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam đã sử dụng Điều 79, 89 Bộ Luật hình sự để bắt giam, xét xử và bỏ tù những người vận động thành lập và phát triển "Nghiệp Đoàn Độc Lập". Vào tháng 10 năm 2010, ba thành viên sáng lập Phong Trào Lao Động Việt là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng đã bị kết án 9 năm tù, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương mỗi người 7 năm tù vì đã hướng dẫn và giúp đỡ cuộc đình công của hơn 10 ngàn công nhân nhà máy giày Mỹ Phong đòi quyền lợi khi bị giới chủ không trả lương nhiều tháng.   Cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ đòi trả tự do cho ba nhà hoạt động nghiệp đoàn này bởi các tổ chức người Việt trong và ngoài nước, các tổ chức nhân đạo quốc tế, chính phủ các nước dân chủ, các cơ quan truyền thông và nhiều cá nhân đã tạo sức ép đối với nhà nước Việt Nam, buộc họ phải trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh. Việc trả tự do trước thời hạn và vô điều kiện cho Đỗ Thị Minh Hạnh vào ngày 26 tháng 6 năm 2014 - 2 năm 8 tháng trước thời hạn - chứng tỏ nhà nước Việt Nam đã công nhận Đỗ Thị Minh Hạnh vô tội, bản án tù dành cho Đỗ Thị Minh Hạnh là phi lý, phi pháp. Điều này phải được áp dụng với Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương là hai người có cùng hoạt động và bị kết án giống như Đỗ Thị Minh Hạnh.   Từ nhu cầu thực tế của công nhân Việt Nam và quyền được tự do hoạt động độc lập trong lãnh vực công đoàn, Phong trào Lao Động Việt với sự đồng tình hỗ trợ của các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập tại Việt Nam tuyên bố: - Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển Nghiệp Đoàn Độc Lập tại nhằm tranh đấu cho quyền lợi của công nhân và người lao động tại Việt Nam;   - Cùng nhau tranh đấu và kêu gọi sự hỗ trợ của chính phủ các quốc gia đối tác với Việt Nam, các tổ chức công đoàn thế giới, các tổ chức nhân quyền quốc tế yêu cầu nhà nước Việt Nam trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương như đã trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh.   Việt Nam, ngày 5 Tháng 8 Năm 2014   Lao Động Việt  
......

Sao chưa vinh danh Hội Nghị Thành Đô?

Vinh danh Hội Nghị Thành Đô   Ảnh những người tham dự hội nghị Thành Đô được phía nhà cầm quyền Bắc Kinh công bố Vào cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước, đảng Cộng sản Việt nam và nước CHXHCN Việt Nam như nghìn cân treo trên đầu sợi tóc. Nhà nước cộng sản được cho là thành trì Liên Xô và các nhà nước cộng sản Đông Âu hoàn toàn tan rã và sụp đổ. Đảng CSVN và nhà nước VN không những bị cô lập với thế giới mà còn phải đối đầu trực diện với một kẻ thù cực kỳ nguy hiểm và hùng mạnh ngay sát biên giới đang liên tục gây hấn trên đất liền cũng như trên biển để lăm le thôn tính VN. Trong tình thế cực kỳ nguy hiểm như vậy, những người lãnh đạo tối cao của đảng CSVN đã tìm ra con đường cứu nguy để kéo dài sự tồn tại của đảng và nhà nước XHCN. Đó là bí mật tiếp xúc với chính kẻ thù và thành công đi đến một hội nghị lịch sử vô tiền khoáng hậu: Hội Nghị Thành Đô năm 1990. Theo tài liệu từ cựu đại sứ Trung cộng tại VN thời đó, ông Lê Đức Anh là người có công thiết kế các cuộc tiếp xúc bí mật, và theo tài liệu công khai từ phía Bắc Kinh, đoàn lãnh đạo cấp cao VN tham dự và đưa đến sự thành công của hội nghị gồm có các ông Nguyễn Văn Linh- tổng bí thư, Đổ Mười- Thủ Tướng, Phạm Văn Đồng- cố vấn BCT. Cho rằng Hội nghị Thành Đô là một bước ngoặc lịch sử vĩ đại mở ra đường thoát và duy trì sự tồn tại của đảng CSVN và nhà nước CHXHCN Việt Nam cho đến tận bây giờ. Cho rằng HN Thành Đô đã biến kẻ thù nguy hiểm không đội trời chung là Trung cộng thành đồng minh hợp tác toàn diện mang lại lợi ích cho cả hai nước. Cho rằng HN Thành Đô giúp bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ VN đồng thời giữ vững được hòa bình và ổn định trong khu vực. Cho rằng HN Thành Đô giúp đảng và nhà nước VN chống lại âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực dân chủ "thù địch" trong và ngoài nước đang gây ra sự bất an cho đảng và nhà nước. Thế thì: - Tại sao từ 24 năm qua, đảng CSVN và nhà nước CHXHCN VN không hề công khai nhắc đến hội nghị Thành Đô? Đến ngay thời điểm nầy đảng viên CS và nhân dân VN chỉ biết về sự tồn tại của hội nghị qua công bố từ phía nhà cầm quyền Bắc Kinh. - Tại sao không vinh danh hội nghị nầy trước toàn đảng, toàn dân và ghi danh hội nghị vào các văn kiện lịch sử? - Tại sao không tuyên dương công trạng và ghi danh vào lịch sử những người có công lớn đưa đến sự thành công của hội nghị là các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng? Nhất là sau khi các ông Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng chết đi, trong tiểu sử và điếu văn đọc trước mộ của hai ông không hề nhắc một lời đến công trạng to lớn nầy? - Tại sao, đã qua 24 năm kể từ ngày ký kết, nội dung hội nghị và những gì ký kết trong hội nghị giữa hai đảng và hai nhà nước không được công khai minh bạch ra cho toàn đảng và tòan dân được biết? Có gì khuất tất mờ ám phải che giấu? Với tư cách một công dân, tôi cho rằng hội nghị Thành Đô là một trong những hội nghị lịch sử quyết định đến vận mệnh của đất nước và toàn thể dân tộc Việt Nam, trong đó có cá nhân tôi. Do vậy tôi yêu cầu đảng CSVN và nhà nước CHXHCN VN phải công khai mọi nội dung về hội nghị Thành đô, nếu đảng CSVN và nhà nước vẫn còn tự nhận mình là đảng từ nhân dân mà ra và là nhà nước của dân, do dân, vì dân.                                                                      7.08.2014  Công dân Huỳnh Ngọc Chênh Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.de
......

GIA ĐÌNH ÔNG NGUYỄN HỮU VINH (BA SAM) GỬI THƯ CẢM ƠN NƯỚC MỸ

Bà Jenifer Neidhart de Ortiz, Tham tán chính trị, ĐSQ Hoa Kỳ và Bà Lê Thị Minh Hà   Hà Nội, ngày 06/08/2014   Thư cảm ơn Kính gửi: Nhà nước Mỹ, Nhân dân Mỹ và Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam Tôi là Lê Thị Minh Hà, địa chỉ 5/2 – ngõ 4D, Đặng Văn Ngữ, Đống Đa, Hà Nội, là vợ ông Nguyễn Hữu Vinh (mọi người thường gọi là Ba Sàm) bị cơ quan an ninh điều tra khởi tố bắt giam về hành vi “Đăng tải các bài viết có nội dung không đúng sự thật trên mạng Internet, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, quy định tại điều 258 bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam B14 Bộ Công An, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.   Vụ việc này đã được báo chí đăng công khai. Cá nhân tôi và gia đình đã có đơn kêu oan lên các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam nhưng chưa được trả lời. Ngày 10/07/2014, tôi vô cùng xúc động được bà Jenifer Neidhart de Ortiz  tham tán chính trị gặp và chia sẻ với tôi và gia đình. Tục ngữ Việt Nam có câu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “Rằng qua cơn hoạn nạn mới hiểu lòng nhau”. Đại gia đình tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm của nhà nước Mỹ, nhân dân Mỹ và Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam. Xin trân trọng cảm ơn! Trân trọng, Lê Thị Minh Hà Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.de
......

YÊN TĨNH TẠM THỜI VÀ NGUY CƠ THÌ CÀNG NẶNG NỀ HƠN

Khi giàn khoan HD-981 còn đang sừng sững cắm sâu trong vùng biển thuộc lãnh hải của VN, nhà văn lão thành Nguyên Ngọc có nói một câu đại ý: Sợ nhất là giàn khoan lẳng lặng rút đi và mọi chuyện chìm, lại rơi trở lại trạng thái cũ. Và bây giờ, quả thật, khi giàn khoan của Tàu Cộng tạm thời rút đi, từ nhà cầm quyền cho đến báo chí, người dân… “xẹp” hẳn xuống, tưởng như không hề có sự cố Trung Cộng công khai xâm phạm chủ quyền VN nghiêm trọng vừa qua, tưởng như “biển Đông lại trở vể yên tĩnh, không có gì mới”. Và tất nhiên, chuyện của ta mà ta còn cố quên đi thì thế giới, với bao nhiêu sự kiện nóng hơn đang xảy ra, lại càng quên.   Trong khi đó thì Trung Cộng vẫn tiếp tục lẳng lặng thực hiện chiến lược của họ, tiếp tục xây cất các công trình dân sự và quân sự trên những quần đảo đã chiếm được của VN, đặc biệt là Hoàng Sa, theo chủ thuyết “chủ quyền thực tế”, đặt các bên liên quan trước “sự đã rồi”, tiếp tục xua hàng ngàn hàng vạn tàu cá ra chiếm lấy biển Đông, đầu tư càng ngày càng lớn vào quốc phòng, nhất là hải quân, đóng thêm các giàn khoan khủng khác… Mặt khác, tiếp tục mua chuộc lẫn khống chế nhà cầm quyền VN bằng kinh tế và những đe dọa về quân sự để VN không dám thoát ra khỏi quỹ đạo của họ và hướng về phương Tây… Chưa bao giở và sẽ không bao giờ từ bỏ giấc mộng chiếm hữu biển Đông, bành trướng sức mạnh ra bên ngoài, việc rút giàn khoan vừa rồi của Trung Cộng chỉ là tạm lùi một bước để rồi sẽ quay trở lại bất cứ khi nào có thể. Còn VN, nếu vẫn không tự cải cách thể chế, không thể hùng mạnh hơn về kinh tế, không thể so sánh với Trung Cộng về sức mạnh quốc phòng, cũng vẫn không có những thay đổi trong đường lối ngoại giao để có thêm đồng minh thì sự yên tĩnh trên biển chỉ là tạm thời, mối nguy cơ mất biển, mất nước vẫn còn nguyên. Và khi Trung Cộng trở lại với những giàn khoan khủng mới, những chiến lược mới, nhà cầm quyền VN chỉ còn nước bó tay đầu hàng. Mà thực tế qua vụ HD-981 vừa rồi thì họ đã đầu hàng rồi đó thôi! Nguồn: Facebook Song Chi
......

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu cũng như tướng lãnh quân đội Nhân dân Việt Nam.   Bí ẩn vẫn bao trùm Hội nghị Thành Đô Trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên quy tụ lãnh đạo cao cấp của hai nước Việt Nam-Trung Quốc cho đến nay vẫn còn để lại trong lòng người dân nhiều câu hỏi về những gì mà hai bên bàn luận. Những khuôn mặt phía Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên kia là Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc. Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô như một vùng cấm của người cộng sản mặc dù nội dung của nó liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc. Lịch sử cho thấy bất cứ sự thỏa hiệp mờ ám nào dù tinh vi tới đâu cũng bị lật tẩy. Không ai có thể buộc kẻ thù không được công bố những gì mà trong quá khứ đã trót bằng lòng với chúng. Câu chuyện công hàm Phạm Văn Đồng là một thí dụ lớn nhất mà nhà nước có thể lấy làm bài học vì thời gian dù có bao lâu vẫn không mài mất được chữ ký của một Thủ tướng.   Hội nghị Thành đô 1990 Công hàm Phạm Văn Đồng do Hà Nội quá lâu không lên tiếng giải bày khiến Trung Quốc có lợi thế như một yếu tố phân hóa quần chúng không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền khi xảy ra vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tương tự như vậy, Trung Quốc đã dùng sự mập mờ của Hội Nghị Thành Đô để bịt miệng lãnh đạo Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử khiến tay họ trót nhúng chàm vì quá tin vào người bạn xã hội chủ nghĩa. Năm 2004 tập hồi ký của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho thấy phần nào sự bí ẩn phía sau khi ông bị Trung Quốc gạt ra khỏi Hội Nghị vì quan điểm chống Trung Quốc công khai của ông. Yếu tố này một lần nữa chứng minh sự gượng ép của những người đại diện Việt Nam tham gia hội nghị và mãi một phần tư thế kỷ sau đó bí mật vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô. Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cho biết: Trung quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch, đó là điều anh ấy nói riêng với tôi và sau này tôi được biết anh ấy nói công khai trong Bộ Ngoại giao. Còn nhiều việc anh ấy nói với tôi nữa nhưng tôi chưa dám công bố bởi vì có thể những việc đó anh ấy sẽ viết trong cuốn hồi ký của anh ấy. Anh ấy là người rất hiểu Trung Quốc và hiểu tận tim gan của họ. Ví dụ như Trung Quốc nói rằng đảo Hoàng Sa có xương của người Trung Quốc thì ảnh đập lại anh ấy nói nếu như thế thì ngay thủ đô Hà Nội cũng sẽ là đất của Trung Quốc bởi vì gò Đống Đa có rất nhiều xương của Trung Quốc vì người Hán bị vua Quang Trung tiêu diệt chất thành cả một cái gò như thế. Nếu nói đâu có xương của người Hán người Trung Quốc thì nơi đó là dất của Trung Quốc thì phi khoa học. Việt Nam một tỉnh tự trị của Trung Quốc? Tài liệu về hội nghị này hết sức ít ỏi khiến bao nhiêu học giả muốn nghiên cứu về nó phải chịu thua vì sự trung thành của người trong cuộc. Bí mật càng giữ, sự xuyên tạc sự thật về nó càng khiến người ta tin hơn, đặc biệt nếu sự xuyên tạc ấy đến công khai từ phía Trung Quốc khi hai nước chạm trán với nhau trên vấn đề biên cương lãnh thổ. Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã vừa cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau: Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên , và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.” Với những từ ngữ tuyên giáo như thế không ai có thể tin rằng lãnh đạo Việt Nam đã mù quáng đến nỗi đi tới quyết định như vậy mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô đã khiến đảng Cộng sản Việt Nam phải tìm cách dựa vào Trung Quốc để sống còn. Dù sao thì Chủ nghĩa Xã hội cũng không thể biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc vì ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cộng với Phạm Văn Đồng không đủ chính danh để ký một văn tự vô giá trị như thế. Tuy nhiên vì Hà Nội tiếp tục im lặng nên câu hỏi đã dần dần biến thành sự thật cho dù chỉ phân nửa sự thật đến từ Hoàn Cầu Thời Báo. Phản ứng của nhân sĩ trí thức và tướng lãnh Việt Nam rõ ràng là phẫn nộ và họ đòi hỏi nhà nước phải bạch hóa sự kiện Thành Đô. Trước tiên là Thiếu tướng Lê Duy Mật sau đó là Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang cùng nhiều người khác đã công khai kiến nghị lãnh đạo phải giải thích minh bạch những điều mà Trung Quốc đưa ra như đã từng đưa sự việc công hàm Phạm Văn Đồng khiến Hà Nội phải ngậm bù hòn làm ngọt không thể tiến tới một vụ kiện phản đối Trung Quốc. Nói với chúng tôi Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết:   Vấn đề Thành Đô quan hệ như thế nào nó ảnh hưởng ra sao và hậu họa của nó thế nào thì giờ mình cũng chưa thật rõ cho nên tôi nêu ra vấn để để các đồng chí lãnh đạo xem xét và đồng thời có ý kiến với toàn bộ đảng toàn nhân dân thế thôi. Bây giờ thì cứ chờ họ xem quan điểm, thái độ và cách giải quyết như thế nào. Còn bây giờ mình hãy nêu vấn đề, một vài ví dụ thế thôi. Nó là vấn đề bang giao chiến lược và của tập thể chứ không phải của một cá nhân nào. Đại tá Nguyễn Đăng Quang không tin vào những thông tin này tuy nhiên theo ông nếu nhà nước vẫn chủ trương im lặng thì không khác gì trao vũ khí tuyên truyền cho giặc, ông chia sẻ: Cái thông tin này thì bản thân tôi nghĩ rằng không phải là thật. Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa trong người dân Việt Nam với nhau. Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của đảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó. Còn chuyện có công bố cho dân biết về Hội nghị Thành Đô hay không thì tôi nghĩ rằng không phải là chuyện dễ làm nhưng phần nào ít nhiều gì cũng phải cho người dân biết. Hội Nghị Thành Đô như một giọt nước tràn ly, đây là cơ hội để nhà nước bạch hóa một sự thật được giữ kín trong suốt 24 năm. Tuy nhiên bí mật khi đã trở thành gai nhọn thì cách hay nhất vẫn phải chịu đau mà lấy gai lể nó. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Hãy nhìn sang Miến Điện!

Trung Quốc đại Hán luôn tự coi mình là con Trời, tha hồ có tham vọng lớn, vì ý muốn của mình được Trời phù hộ, bao giờ cũng được toại nguyện, dù cho đó là cuồng vọng. Gần đây ý muốn của Bắc Kinh là bành trướng xuống phương Nam, vừa để khai thác những tài nguyên dồi dào, vừa nhằm mở đường cho giao thông vận tải tỏa rộng ra khắp thế giới. Vụ đưa giàn khoan cực lớn HD-981 xuống vùng biển Việt Nam là biểu hiện của tham vọng kép ấy. Nó vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, của khu vực, và của toàn thế giới.   Mặt khác, cũng theo hướng bành trướng xuống phương Nam, Bắc Kinh từng cố nài ép Miến Điện thực hiện một kế hoạch xây dựng đường sắt quy mô lớn nối liền Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, với thị trấn Kyaukpyu thuộc bang Rakkhine của Miến Điện. Con đường sắt dự định dài 1.200 kilômet, dọc theo ống dẫn dầu và ống khí đốt đã có cũng do Trung Quốc đầu tư từ cuối thế kỷ trước. Thỏa thuận đầu tiên giữa 2 bên được ký từ tháng 4 năm 2011, với vốn đầu tư là 20 tỷ đôla. Đây là đường sắt chiến lược trọng điểm sẽ mở đường giao thông vận tải xuống phương Nam, đến vùng biển Andaman trong vịnh Bengal của Ấn Độ Dương. Khi mở được con đường này hàng hóa của Trung Quốc từ Trung Đông và phương Tây chuyên chở về sẽ được rút ngắn rất nhiều, không phải đi vòng xuống eo biển Malacca rồi hướng lên phía Bắc đi qua vùng biển của các nước Đông Nam Á, của Việt Nam để cập các bến cảng Trung Quốc. Ngày 22/7 vừa qua báo Myanmar Times đưa tin chính quyền Miến Điện đã quyết định từ bỏ hẳn kế hoạch hợp tác với Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt lớn Kyaukpyu - Côn Minh, với lý do là bảo vệ môi trường và tôn trọng nguyện vọng của nhân dân địa phương kiên quyết phản đối kế hoạch này vì nó sẽ đảo lộn cuộc sống của họ. Dư luận còn nhớ cuối năm 2013 Miến Điện đã hủy bỏ kế hoạch đã ký với Trung Quốc cùng hợp tác xây dựng một con đập lớn và một nhà máy thủy điện ở Myitsone trên sông Irawaddy có giá trị 3,6 tỷ đôla, với điều kiện sẽ bán điện với giá rẻ cho Trung Quốc trong 20 năm. Việc hủy bỏ việc xây dựng đập và nhà máy thủy điện lớn Myitsone là một thất bại lớn về chính trị - kinh tế - đầu tư của TQ. Nay việc hủy bỏ việc xây dựng đường sắt chiến lược lớn xuống vịnh Bengal ra Ấn Độ Dương là thêm một thất bại lớn nữa về chính trị - kinh tế- đầu tư của Trung Quốc. Nguyên nhân của thất bại chiến lược kép liên tiếp trên đây của TQ là sự thay đổi hệ thống chính trị- kinh tế ở Miến Điện, từ chế độ quân phiệt độc đoán của nhóm tướng lãnh thân TQ chuyển sang hệ thống dân chủ đa đảng, tôn trọng lá phiếu tự do của cử tri, đẩy mạnh quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện với các nước dân chủ phương Tây, trong khi vẫn giữ quan hệ láng giềng bình thường, bình đẳng với ông bạn cũ TQ. Do sự bẻ lái chính trị ngoạn mục trên đây của nhóm lãnh đạo chính quyền cao nhất của Miến Điện, thông hiểu nguyện vọng của đông đảo nhân dân và am hiểu thời đại mới của thế giới, Miến Điện bước vào thời kỳ phát triển và hội nhập hoàn toàn mới mẻ. Đây là một trong những chuyển biến tiến bộ có ý nghĩa đột phá của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI. Thế là bao nhiêu mưu đồ, tiền của, gạ gẫm, răn đe của Trung Nam Hải từ thời Mao - Chu đến thời Đặng Tiểu Bình bị tiêu tan. Giấc mộng tràn xuống phương Nam mở đường xuống Ấn Độ Dương của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình đang trở thành ảo ảnh. Báo Myanmar Times ra cuối tháng 7/2014 cho biết năm 2010 vốn đầu tư của Trung Quốc đổ vào Miến Điện còn là 8,6 tỷ đôla, đứng đầu các nước bỏ vốn vào nước này, từ năm 2011 số vốn này bị rơi tõm theo chiều thẳng đứng, đến năm 2013 chỉ còn vẻn vẹn có 200 triệu đôla. Các nước hiện dẫn đầu trong đầu tư vào nước này là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Ấn Độ. Quỹ viện trợ để phát triển ODA của Miến Điện cũng tăng nhanh, chủ yếu từ Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu, Úc, Canada và từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế. Một sự xoay chuyển hoành tráng, đồng bộ, toàn diện: chính trị- kinh tế- tài chính đầu tư - ngoại giao. Đài VOA ngày 1/8/2014 cho biết một tòa án Miến Điện đã tuyên án 8 công dân TQ mỗi người hơn 10 năm tù giam vì đã nhập vũ khí trái phép vào Miến Điện. Đây không phải chỉ là việc buôn lậu vũ khí kiếm lời, mà còn là âm mưu của nhóm lãnh đạo đảng CS TQ trang bị cho một số nhóm tàn dư Maoist thuộc dân tộc thiểu số, nhằm gây bất ổn chính trị, phá hoại quá trình dân chủ hóa ở vùng giáp giới với TQ. Rõ ràng Miến Điện không còn là «sân sau» của Trung Nam Hải như các ông con Trời mong muốn lâu nay. Lúc này, hơn lúc nào hết, giới lãnh đạo CS ở Việt Nam, Bộ Chính trị, Quốc hội VN, nhân dân Việt Nam hãy theo dõi kỹ những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện của Miến Điện để khám phá ra những cảm hứng chính trị quý giá rất cần thiết khi chính lãnh đạo đảng CS đặt ra việc tổng kết sự nghiệp đổi mới gần 50 năm qua, từ 1965 đến nay. Cái yếu kém, có thể nói thẳng ra là thất bại trong đổi mới ở Việt Nam là đã đổi mới nửa vời, không toàn diện, không đồng bộ, không nhất quán, đổi mới kinh tế mà không đổi mới về chính trị, đổi mới về hành chính mà không đổi mới về thi hành pháp luật, về quyền sở hữu tư nhân, về quản trị ngành ngân hàng, rồi «bỏ quên» hẳn đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại để kết bạn, kết liên minh với các bạn bè tốt đáng tin cậy, do trót dại, nhẹ dạ, bí hiểm chui vào cái «cũi Thành Đô» từ tháng 9/1990 đến nay. Không tỉnh táo và dũng cảm về chính trị, không dám nhìn thẳng vào sự thật thì sẽ không rút ra được bài học nào bổ ích, sự nghiệp đổi mới vẫn nửa vời, què quặt, đất nước vẫn chìm đắm trong bất công, tham nhũng và lạc hậu, ngày càng tụt hậu thêm, có nguy cơ trở thành nước độc đoán chậm tiến toàn diện cuối cùng của thế giới hiện đại. Bùi Tín
......

Máu và nước mắt đến từ lời bài "Tiến Quân Ca"

Khi cất lời ca ai cũng muốn cất lên lời yêu thương, lời ngọt ngào, tiếng gọi của tình người. Êm dịu như lời mẹ ru con ngủ ầu ơ, tươi đẹp như quê hương là chùm khế ngọt, nhân ái như bầu ơi thương lấy bí cùng,... những điều đó mới đại diện cho người Việt Nam hiền hòa, chất phát, hiếu nghĩa và mến khách.   Qua phát biểu của ông Vũ Đức Đam cho rằng "nếu chúng ta không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát Quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh". Với người dân đủ trưởng thành khi tới đoạn "đường vinh quang xây xác quân thù" ai cũng phải nghẹn ngào khó cất lên thành lời. Bởi vì ai cũng hiểu chiến tranh là tội ác, là đau thương, là mất mát, là phải trả giá bằng máu và nước mắt. Xưa kia dù cho bất kỳ bên nào thắng cuộc nếu cảm thấy vinh quang khi dẫm đạp lên xác quân thù đều có thể bỏ qua vì trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc. Bởi vì "xây xác quân thù" cũng chính là xây xác người Việt Nam ta, chính là người cùng dân tộc ruột thịt, là đồng bào cùng máu mủ nòi giống Âu Cơ - Lạc Long Quân. Nhưng hôm nay, thế hệ trẻ đa phần đã hiểu rõ về lịch sử của dân tộc, của đất nước, đâu còn ai muốn đổi lấy sự giàu mạnh của đất nước bằng chiến tranh, bằng cướp bóc, bằng giết người. Nếu ông Vũ Đức Đam là người dân bình thường có lẽ cũng chẳng ai màng tới lời phát biểu đó, vì cho rằng câu nói "nếu chúng ta không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát Quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh" được cất ra từ miệng của kẻ vô giáo dục, vô đạo đức, vô lương tâm, vô nhân đạo, vô trách nhiệm. Ở xã hội có hơn 90 triệu dân thì có 1 kẻ như vậy cũng không gây nguy hại cho giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách của thế hệ măng non, thế hệ trẻ Việt Nam. Nhưng với cương vị là Phó Thủ tướng Chính phủ mà ông Vũ Đức Đam khi cất ra những lời phát biểu như kiểu "chó dại sủa ma" thì đại đa số người dân khẳng định rằng ông không hiểu một cách đầy đủ hoặc ông không biết gì về tính nhân đạo, tính nhăn văn, nét văn hóa, tinh thần truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Hiện nay, ở đất nước Việt Nam này nếu có quân thù, thì quân thù đó chính là lực lượng quan chức tham, dốt, hèn với giặc mà ác với dân trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước ta. Chưa kể là trong đợt góp ý cho Hiến Pháp 2013 đã có rất nhiều ý kiến, kiến nghị nên thay đổi, nên sửa lại lời bài hát Tiến quân ca của Văn Cao để thể hiện, để đề cao tính nhân ái của người Việt Nam trước quốc dân đồng bào, trước nhân dân thế giới. Có chăng ông Vũ Đức Đam không hề tham gia góp ý cho Hiến Pháp 2013? Có chăng ông Vũ Đức Đam không hề biết được nguyện vọng của đại đa số người dân Việt Nam ta? Có chăng ông Vũ Đức Đam muốn dạy thế hệ măng non theo kiểu của Trung Quốc đang áp dụng với người Việt Nam: Trung Quốc muốn giàu mạnh thì phải cướp Hoàng Sa - Trường Sa, cướp biển, đảo của Việt Nam. Mà để cướp được biển, đảo của Việt Nam thì phải sát hại, xây xác ngư dân, kiểm ngư, cảnh sát biển, hải quân của Việt Nam. Cá nhân tôi rất thất vọng về con người của ông thể hiện hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa của từ “Đức Đam” mà bậc tiền bối đã tặng cho ông. Vận Mệnh Nguồn: Trí Nhân Media
......

Phim ’Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát’ của một dân tộc

Tôi được xem phim "Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát" được chiếu chính thức tại cung văn hóa Việt-Pháp, Sài Gòn André Menras – Hồ Cương Quyết & Gs.Nguyễn Đăng Hưng Thắm thoát đã 3 năm. Cuối năm 2011 tôi tiếp biên tập viên tập san Nature David Cyranoski tại nhà nhân việc các nhà khoa học Việt Nam ở hải ngoại phản đối đăng tải các bài báo vẽ bản đồ có đường lưởi bò phi pháp của Trung Cộng. Sau hai giờ đàm đạo chúng tôi quyết định đi viếng khu du lịch Văn Thánh tham dự buổi chiếu phim do André Menras – Hồ Cương Quyết thực hiện. (Xem bài của Cao Lập, người tổ chức cũng trên trang này). Nhưng bữa ấy chúng tô đi xem hụt. Chủ quán Ami cho hay là có lệnh không được chiếu. Nay cám ơn giàn khoa khốn khiếp của Trung Cộng, nhờ mày mà có thay đổi chính kiến lãnh đạo! Khán giả Sài Gòn được xem thoải mái và sau đó còn có giao lưu qua câu hỏi viết tay nhờ bàn chủ toạ chuyển cho tác giả cuốn phim. Đây là một phim hiện thực chân chất, không kỹ thuật điện ảnh màu mè, không có lời giới thiệu hoa mỹ… Nhưng là một phim đầy ắp tình người. Và thú thực tôi đã không cầm được nước mắt! Nỗi đau của ngư dân như tràn vào ngực, lòng công phẫn như dâng trào, nỗi mất mát quá lớn: Ngư dân mất chồng mất con, mất tàu, mất thu hoạch. Người dân đánh cá Việt Nam tại vùng biển quen thuộc ngàn năm của mình đã bị bắt, bị chiếm đoạt, bị đánh đập và giết chết… Những trẻ em côi cúc, những bà mẹ lam lũ chịu đựng kiếm sống, những ngôi mộ gió… Ơi nỗi đau mất mát quá xót xa vì họ không được bảo vệ, binh vực! Quả là nỗi đau chung của cả một dân tộc nay gần như bất lực trước quân cướp biển, trước bọn xâm lược mới, gian ác, thâm hiểm và tàn bạo ngàn lần hơn những thế lực ngoại bang trước đây…   Một bộ phim đầy tính nhân văn đích thực! Tôi kiến nghị nên chiếu phim này trên đài tuyền hình quốc gia ở những thời điểm được người xem đông đảo nhất! Có kẻ nói bộ phim này không có tính đảng, phải ngăn chặn? Có thể nào chấp nhận có tính người là không có tính đảng ư? Sài Gòn ngày 6/8/2014 Nguồn: Blog Gs Nguyễn Đăng Hưng
......

Thông báo số 4 của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam

                                                                     (VNTB)-Thông báo số 4 của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam: Về hoạt động trong tháng đầu tiên của Hội Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (IJAVN) ra đời vào ngày 4/7/2014, đến nay đã hoạt động được tròn một tháng. Ngày 4/8/2014, IJAVN đã tổ chức sinh hoạt định kỳ buổi đầu tiên tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, dành cho hội viên khu vực miền Nam và một số ở miền Trung. Cuộc họp này vắng mặt hai thành viên là Phạm Chí Dũng - chủ tịch Hội, và Phạm Bá Hải – hội viên, đều do bị cơ quan an ninh tìm cách ngăn chặn. Tuy nhiên, với sự chủ trì của Phó chủ tịch thường trực IJAVN – Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh, cuộc họp đã diễn ra sôi nổi với nhiều ý kiến sâu sắc về hoạt động kết nạp hội viên, Việt Nam Thời Báo, hoạt động đào tạo và một số nội dung khác Dưới đây là một số hoạt động trong tháng đầu tiên của IJAVN: 1- Tuyên bố: Đã ra Tuyên bố và vận động lấy chữ ký phản đối Trung Quốc bắt giữ 13 ngư dân Việt Nam. 2- Ra đời trang Việt Nam Thời Báo trên Facebook và Website: Cơ quan ngôn luận chính thức là trang web VNTB. Tuy nhiên trang web này đã bị đánh phá chỉ sau 10 ngày ra đời. BBT đã khắc phục trang web và đến nay tình hình đã ổn định. Lượng truy cập trung bình hàng ngày tại trang Web VNTB là 25.000 – 30.000. 3- Phát triển hội viên: Có 3 trường hợp hội viên xin rút tên vì lý do cá nhân. Có thêm 7 hội viên mới là:   - Nguyễn Ngọc Bích (Hoa Kỳ) - Võ Long Triều (Hoa Kỳ) - Nguyễn Ngọc Linh (Hoa Kỳ) - Nguyễn Trung Chính (Hoa Kỳ) - Huỳnh Bá Hải (Na Uy) - Lương Văn Điền (Sài Gòn) - Trần Ngọc Thành (Áo) Như vậy đến nay IJAVN có 80 hội viên, trong đó 17 hội viên hải ngoại, chiếm 21% tổng số hội viên. 4- Quy trình công nhận hội viên mới:   - Trong bối cảnh Nhà nước Việt Nam còn chưa thực sự công nhận sự tồn tại và phát triển của xã hội dân sự và các hội đoàn độc lập, những người muốn tham gia vào IJAVN nên xác định và cân nhắc trước rằng nếu vào IJAVN, họ có thể sẽ phải chịu áp lực từ phía an ninh, cơ quan, đồng nghiệp và ngay trong gia đình. - Những người chuẩn bị được trở thành hội viên cần thông báo trước cho các hội viên cũ biết trước để có ý kiến - Mỗi người muốn vào hội phải có hai hội viên giới thiệu và bảo đảm. - Ban lãnh đạo Hội sẽ quyết định cuối cùng về việc gia nhập Hội. 5- Hội thảo: Tham dự Hội thảo “Truyền thông phi nhà nước” do ĐSQ Úc tổ chức tại Hà Nội. 6- Hỗ trợ tài chính: Mọi hỗ trợ tài chính của cá nhân trong và ngoài nước cho IJAVN được gửi về địa chỉ: - Trao trực tiếp cho Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, 38 Kỳ Đồng, quận 3, TP. Hồ Chí Minh. - Hoặc gửi cho ông Phạm Chí Dũng, tài khoản: 091 407221 041 (VND) 091 407221 101 (USD) Ngân hàng HSBC Vietnam IJAVN xin bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc đến những người cảm tình và các nhà hảo tâm đã ủng hộ, hỗ trợ cho IJAVN trong thời gian qua. Rất mong các tác giả và bạn đọc trong và ngoài nước tiếp tục theo dõi và viết bài cộng tác với Việt Nam Thời Báo (http://www.ijavn.org/ ). Xin chân thành cám ơn và cầu chúc độc giả cùng báo giới Việt Nam niềm tin về Tự do báo chí trong những tháng năm không xa.   Ngày 6 tháng 8 năm 2014Ban lãnh đạo Hội Nhà báo độc lập Việt Nam http: ijavn.org
......

Pages